Đặt vấn đề
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Dân số đóng vai trò hai mặt trong quá trình phát triển. Một mặt dân số là lực lượng tạo ra của cải vật chất và các dịch vụ cho xã hội. Mặt khác, dân số là lực lượng tiêu thụ sản phẩm. Bởi vậy, quy mô, cơ cấu dân số có ảnh hưởng lớn đến quy mô, cơ cấu sản xuất, tiêu dùng và tích luỹ xã hội.
Ở những nơi tài nguyên và nguồn vốn sẵn có, dân số và lao động khan hiếm, việc tăng dân số và lao động có vai trò thúc đẩy sản xuất và phát triển kin
61 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1638 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng công tác dân số - KHHGĐ huyện Bảo Yên - tỉnh Lào Cao đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế. Ngược lại, ở những nơi kém phát triển, dân số đông, trong khi đất đai, tài nguyên và nguồn vốn hạn hẹp thì khó có khả năng sử dụng lao động một cách đầy đủ và có hiệu qủa. Tăng dân số ở những vùng như vậy chỉ làm tăng thêm số người tiêu thụ, hạn chế tích luỹ và do đó tất yếu sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội và khó có khả năng nâng cao mức sống cho dân cư.
Bảo Yên là huyện miền núi, với khoảng 90% dân số sống ở vùng nông thôn, nhiều phong tục tập quán lạc hậu còn tồn tại. Tỷ lệ sinh hàng năm còn ở mức cao so với mặt bằng chung của tỉnh và cả nước. Tài nguyên thiên nhiên đặc biệt khan hiếm. Đất có khả năng đưa vào sản xuất(cả đất nông nghiệp, lâm nghiệp) bình quân đầu người thấp. Các nguồn vốn đầu tư hàng năm đều trông chờ vào nhà nước thông qua các chương trình dự án; Vì vậy thực hiện chính sách Dân số - KHHGĐ(Dân số - kế hoạch hoá gia đình), hạn chế mức sinh, giảm áp lực gia tăng dân số tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao mức sống cho dân cư trong giai đoạn này đối với huyện là hết sức cần thiết. Để góp phần vào sự thành công công tác Dân số - KHHGĐ ở địa phương, em xin chọn đề tài “ Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác Dân số - KHHGĐ huyện Bảo Yên- tỉnh Lào Cai đến năm 2010” làm đề tài nghiên cứu.
2.Nhiệm vụ của đề tài:
Trên cở sở nắm vững quan điểm chủ nghĩa Mac-Lê Nin, của Đảng và Nhà nước ta về công tác Dân số - KHHGĐ, từ đó làm rõ thực trạng công tác DS-KHHGD ở huyện Bảo Yên, chỉ ra được những việc đã làm được, việc chưa làm được; Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thành công và hạn chế trong quá trình triển khai các hoạt động của chương trình. Đề ra những giải pháp phù hợp triển khai có hiệu qủa chương trình Mục tiêu quốc gia Dân số - KHHGĐ ở địa phương.
3.Mục đích – Yêu cầu:
Đề tài phải đảm bảo tính lý luận và thực tiễn cao, đánh giá đứng thực trạng công tác Dân số - KHHGĐ ở huyện và đề ra được những giải pháp phù hợp có thể áp dụng vào trong điều kiện của huyện trong giai đoạn hiện nay.
4.Phương pháp nghiên cứu:
* Phương pháp luận chung: Vận dụng những nguyên lý, quan điểm phương pháp luận của chủ nghĩa Mac-Lê Nin của đảng ta vào qúa trình phân tích, đánh giá các mặt hoạt động cụ thể của công tác Dân số -KHHGĐ ở địa phương.
* Phương pháp cụ thể: Sử dụng phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp quan sát, phương pháp thống kê số liệu; Đặc biệt là phương pháp tổng hợp- phân tích so sánh để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
5.Kết cấu chuyên đề:
Ngoài phần đặt vấn đề và kết luận, đề tài gồm 3 chương.
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung.
Chương II: Thực trạng công tác DS-KHHGĐ.
Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác DS-KHHGĐ huyện Bảo Yên đến năm 2010.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
I. Dân số và kế hoạch hoá gia đình(DS&KHHGĐ):
1. Khái niệm Dân số và KHHGĐ:
* Dân số: Là dân cư được xem xét dưới đặc tính quy mô, cơ cấu thì đây chính là dân số.(1)
* Kế hoạch hoá gia đình: (KHHGĐ) theo định nghĩa của tổ chức y tế thế giới(WHO): Bao gồm những thực hành giúp cho những cá nhân hay các cặp vợ chồng để đạt được những mục tiêu: Tránh những trường hợp sinh không mong muốn; Đạt được những trường hợp sinh theo ý muốn; Điều hoà khoảng cách giữa các lần sinh; Chủ động thời điểm sinh con cho phù hợp với tuổi của bố, mẹ. (2)
2.Vai trò của công tác dân số-KHHGĐ đối với sự phát triển của xã hội:
Vai trò chủ yếu và quan trọng của công tác Dân số-KHHGĐ là thực hiện
1 Giáo trình Dân số và phát triển- NXB Nông Nghiệp 2003.
2 Tập bài giảng về công tác DS-KHHGĐ của TTDS-TĐHKTQD.
công tác quản lý dân số thực chất là điều tiết mức sinh thông qua các hoạt động chương trình KHHGĐ để tạo ra quy mô, cơ cấu dân số ổn định phù hợp với điều kiện điạ lý, kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ; Là cở sở quan trọng nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ nhu cầu phát triển của đất nước. Đồng thời thực hiện tốt công tác Dân số -KHHGĐ còn là cơ sở thực hiện các chính sách xã hội như thực hiện công bằng xã hội, giải quyết các tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường, giảm được chi phí do hạn chế được mức sinh, tăng tích luỹ cho xã hội, là nguồn lực đáng kể để đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho dân cư.
3. Quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lê Nin, các hội nghị quốc tế và của Đảng, Nhà nứơc ta về công tác Dân số-KHHGĐ:
3.1.Quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lê Nin:
Khi bàn về quá trình dân số, quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lê Nin hoàn toàn đối lập với luận điểm của học thuyết MalThus. Ông cho rằng dân số không đơn thuần chỉ là số dân, mà còn bao hàm cả chất lượng dân cư, hàm chữa những nhân tố nội sinh, có mối quan hệ và chịu tác động đa chiều của các điều kiện tự nhiên và xã hội. Dân số phát triển cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và tồn tại trong mọi hình thái kinh tế - xã hội. Dân số và tái sản xuất dân số là một trong những hoạt động cơ bản của con người. Bản chất của quá trình dân số, như( sinh, tử, di dân) trước hết mang tính kinh tế-xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội chỉ phù hợp với một lượng dân cư nhất định và ông cho rằng: “ Các điều kiện của một xã hội hay nói cách khác là các hình thái kính tế-xã hội chỉ có thể phù hợp với một lượng dân số nhất định. Trong một hình thái kinh tế-xã hội các điều kiện sản xuất, trình độ của lực lượng sản xuất sẽ xác định số lượng tối ưu và tương ứng” (1).
Tán thành với quan điểm của chủ nghĩa Mac, Ph Ăng Ghen cho rằng: “ theo quan điểm duy vật nhân tố quyết định trong lịch sử, suy cho cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp, nhưng bản thân sự sản xuất có hai loại. Một mặt sản xuất ra tư liệu trong sinh hoạt, ra thức ăn, quần áo, nhà ở và những dụng cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó. Mặt khác là sản xuất ra chính bản thân con người; là sự truyền giống nòi. Những thiết chế xã hội trong đó những
con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống là do hai loại sản xuất đó quyết định. Một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình” (2).
1,2 C.Mác-Ph Ănghen tuyển tập, tập 6
Theo Lê Nin thì “ lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”(1)
Như vậy theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lê Nin, dân số phát triển có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Sự phát triển của mỗi quốc gia phụ thuộc vào rất nhiều vào chính qúa trình dân số của quốc gia ấy. Các hành vi dân số của mọi cộng đồng dân cư lại tương hợp với một trình độ phát triển kinh tế - xã hội( cả về kinh tế, văn hoá- xã hội, giáo dục y tế, tâm lý, phong tục tập quán lối sống ….) của chính cộng đồng dân cư ấy.Ph Ăng Ghen chỉ rõ: Xã hội nào làm được việc điều chỉnh sự sinh sản ra con người như đã điều chỉnh kinh tế thì mới có thể lãnh đạo chủ động xã hội.(2)
3.2.Quan điểm của các hôị nghị quốc tế:
Cho đến nay, thế giới đã trải qua 5 kỳ hội nghị quốc tế về vấn đề dân số. Trong đó hai kỳ họp vào năm 1954 tại RoMa(ItaLia) và năm 1965 tại Beôgrat(Nam Tư cũ) mang tính trất chao đổi khoa học chuyên nghành. Ba kỳ họp tiếp theo được Liên Hiệp Quốc tổ chức vào các năm 1974 tại BCucaret(Rumani), năm 1984 tại Mêhicô CiTy(Mêhicô) và năm 1994 tại Cairo(Ai Cập), các hội nghị này đã chuyển hướng từ việc trao đổi thông tin khoa học sang thiết lập các chính sách và chương trình nhằm giải quyết vần đề gia tăng dân số quá nhanh và coi sự bùng nổ dân số như hiện tượng toàn cầu. Quan điểm của các hội nghị này được thể hiện rõ như sau:
Hội nghị quốc tế Bcucarét có 136 nước tham gia: Quan điểm nổi bật của nhiều nước đang phát triển tại hội nghị này là: Phát triển là việc tránh thai tốt nhất các nước đang phát triển đã nhận thấy những tác động tiêu cực của sự gia tăng dân số nhanh ngay ở tại quốc gia mình. Đồng thời các quốc gia đang phát triển cũng nhẫn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo sự phân phối công bằng hơn các nguồn lực kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới.
Hội nghị quốc tế Mêhicô CiTy năm 1984, có 146 nước tham gia. Hôị nghị này tiến hành trong giai đoạn khi các chương trình KHHGĐ đã đạt được những thành tựu khá quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình giảm sinh và thực hiện quy mô gia đình ít con trên thế giới.
Vấn đề trọng tâm tại hội nghị này là tìm kiếm các mô hình thích hợp cho
các nỗ lực phát triển kinh tế và KHHGĐ, nhằm đạt đến các mục tiêu dân số của
các quốc gia.
Hội nghị quốc tế Cai rô năm 1994, có 180 nước tham gia. Hội nghị đề ra
1,2, C.Mac-Ph Ăng ghen tuyển tập, tập 6.
chương trình hành động cho 20 năm, vấn đề trọng tâm của chương trình hành động là đề ra chiến lược mới; Trong đó nhấn mạnh đến mới liên hệ tổng thể giữa dân số và phát triển; Đặt ra các mục tiêu đáp ứng các nhu cầu cá nhân của cả phụ nữ và nam giới, chứ không giới hạn bởi các mục tiêu nhân khẩu học thuần tuý, như giảm mức sinh hay thúc đẩy quy mô gia đình ít con.
Nguyên tắc của chương trình hành động khẳng định con người là trung tâm của những mối quan tâm đối với phát triển bền vững; Vì con người là nguồn lực quan trọng nhất, có giá trị nhất của mọi dân tộc. Quyền phát triển phải được thực hiện để đáp ứng được các mục tiêu phát triển bền vững của mỗi quốc gia ngay hiện tại và trong tương lai. Loại trừ những hình mẫu sản xuất, tiêu dùng thiếu bền vững;
đồng thời tăng cường các chính sách thích hợp, kể cả các chính sách liên quan đến dân số. Thực hiện công bằng và bình đẳng giới, nâng cao quyền năng cho phụ nữ, loại bỏ tình trạng bạo lực chống lại phụ nữ. Đảm bảo cho phự nữ có khả năng kiểm soát vấn đề sinh đẻ của mình, đây chính là hòn đá tảng của chương trình dân số và phát triển. Các nước cần tiến hành các biện pháp thích hợp để đảm bảo tiếp cận rộng rãi với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ nói chung, trong đó có sức khoẻ sinh sản-KHHGĐ và sức khoẻ tình dục dựa trên cơ sở bình đẳng nam, nữ. Các nguyên tắc cũng khẳng định lại quyền của các cặp vợ chồng và cá nhân được quyền tự quyết định số lần sinh và khoảng cách giữa các lần sinh, đồng thời có quyền được yêu cầu cung cấp các thông tin và các phương tiện KHHGĐ để họ thực hiện điều này. Các nguyên tắc cũng nhấn mạnh gia đình là đơn vị cơ bản của xã hội, nên cần thường xuyên được củng cố, đồng thời công nhận các hình thức khác nhau, tuỳ thuộc theo các nền văn hoá, kinh tế, chế độ chính trị - xã hội khác nhau.
3.3.Quan điểm của đảng và nhà nước ta:
Nghị quyết IV, ban chấp hành TW Đảng khoá VII chỉ rõ “ sự gia tăng dân số qúa nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt chí tuệ, văn hoá và thể lực của giống nòi. Nếu xu hướng này cứ tiếp tục cứ diễn ra thì trong tương lai không xa đất nước ta sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí những nguy cơ về nhiều mặt”.
Vì vậy làm tốt công tác Dân số-KHHGĐ, thực hiện gia đình ít con giảm nhanh tỷ lệ phát triển dân số, tiến tới ổn định quy mô dân số là vấn đề rất quan trọng và bức xúc đối với nước ta. Đảng và Nhà nước ta thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo như sau.
Công tác dân số- KHHGĐ là bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế-xã hội hàng đầu của nước ta, là một yếu tố cơ bản để nâng cao nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội.
Giải pháp cơ bản thực hiện công tác Dân số-KHHGĐ là vận động, tuyên truyền và giáo dục gắn liền với đưa dịch vụ KHHGĐ đến tận người dân; Có chính sách mang lại lợi ích trực tiếp cho người chấp nhận gia đình ít con, tạo động lực thúc đẩy phong trào quần chúng thực hiện KHHGĐ.
Đầu tư cho công tác Dân số-KHHGĐ là đầu tư mang lại hiệu qủa trực tiếp rất cao. Nhà nước cần tăng mức chi ngân sách cho công tác Dân số-KHHGĐ, đồng thời động viên sự đóng góp của cộng đồng và tranh thủ sự viện trợ của quốc tế.
Huy động lực lượng toàn xã hội tham gia công tác Dân số-KHHGĐ, đồng thời phải có bộ máy chuyên trách đủ mạnh để quản lý theo chương trình mục tiêu, đảm bảo cho các nguồn lực nói trên được sử dụng có hiệu qủa đến tận người dân.
Để đạt được mục tiêu trong thời gian tương đối ngắn, điều có ý nghĩa quyết định là Đảng và chính quyền các cấp phải lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác Dân số-KHHGĐ theo chương trình
4. Khái quát về hệ thống chính sách dân số Việt Nam trong thời gian qua.
Theo thời gian, dựa vào đặc điểm tình hình phát triển, có thể chia quá trình hình thành và phát triển chính sách dân số thành 3 thời kỳ:
Thời kỳ từ năm 1961 đến năm 1975
Thời kỳ này đất nước tạm bị chia cắt thành hai miền, chương trình dân số và KHHGĐ mới chỉ triển khai ở miền Bắc với những nội dung chủ yếu được Chính phủ ban hành trong ba văn bản quan trọng:
- Quyết định số 216/CP ngày 26-12-1961 của Hội đồng Chính phủ về việc sinh đẻ có hướng dẫn.
- Chỉ thị số 99/TTg ngày 13-05-1970 của Hội đồng Chính phủ về cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch.
- Ngay từ đầu các văn bản đã chú ý tới số lượng, chất lượng dân số và sức khoẻ của nhân dân, hạnh phúc của gia đình: “Vì sức khoẻ của bà mẹ, vì hạnh phúc và hoà thuận trong gia đình và để nuôi dậy con cái chú đáo”.
Thời kỳ từ năm 1975 đến năm 1984
Sau ngày thống nhất đất nước, số dân cả nước đã xấp xỉ 48 triệu người, gần gấp đôi số dân năm 1955. Trong thời kỳ này, công tác dân số và KHHGĐ được triển khai trong phạm vi cả nước, với xu hướng đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch thông qua hai chỉ thị của Chính phủ.
- Chỉ thị số 265/CP ngày 12-8-1981 của Hội đồng Chính phủ về đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch trong phạm vi cả nước.
- Chỉ thị số 29/HĐBT ngày 12-8-1-1981 của Hội đồng Bộ trưởng về đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch trong 5 năm (1981-1985).
Sau một thời gian tạm lắng, cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch lại được phát động sôi nổi và được triển khai rộng khắp trên toàn quốc để chuẩn bị cho sự phục hưng nền kinh tế thông qua Đại hội lần thứ IV và thứ V của Đảng.
Thời kỳ từ năm 1984 đến nay.
Trong thời kỳ này, đặc biệt là năm 1993 đến nay, công tác DS-KHHGĐ có bước phát triển vượt bậc và đạt đến đỉnh cao về nội dung, cách làm, kinh phí và tổ chức bộ máy thực hiện. Nhiều văn bản quan trọng về công tác DS-KHHGĐ đã được ban hành, trong đó có các văn bản chủ yếu sau:
- Quyết định số 162/HĐBT ngày 18-10-1988 của Hội đồng Bộ trưởng về chính sách DS-KHHGĐ.
- Nghị định số 193/HĐBT ngày 19-6-1991 của Hội đồng Bộ trưởng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và chế độ làm việc của Uỷ ban quốc gia Dân số-KHHGĐ.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII tháng 1-1993 về chính sách DS-KHHGĐ.
-Quyết định số 270/TTg ngày 3-6-1993 của Thủ tướng Chính phủ về về phê duyệt chiến lược DS-KHHGĐ đến năm 2000.
-Nghị định 42/CP ngày 21-6-1993 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và lề nối làm việc của Uỷ ban quốc gia DS-KHHGĐ.
Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 6-3-1995 của Ban bí thư Trung ương Đảng về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về chính sách DS-KHHGĐ.
- Chỉ thị số 37/TTg ngày 17-1-1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy nhanh thực hiện chiến lược DS-KHHGĐ đến năm 2000.
Nghị quyết lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương (khoá VII) về chính sách dân số, chiến lược dân số và kế hoạch gia đình đến năm 2000; Chiến lược dân số Việt Nam 2001-2010 đã đánh dấu một bước phát triển mới, cao hơn, hệ thống hơn, sấu sắc hơn về tư tưởng của Đảng đối với vấn đề dân số. Để tỏ rõ sự quyết tâm trong việc thực hiện mục tiêu về phát triển dân số; Ngày 09-01-2003 Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua pháp lệnh dân số; Ngày 22-03-2005 Bộ chính trị ban hành Nghị quyết số 47-NQ/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; Ngày 10-01-2006 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 09/2006/QĐ-TTg ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW cuả Bộ chính trị; Ngày 03-10-2006 Chính phủ ban hành nghị định số 114/2006/NĐ-CP quy định hành vi vi phạm sử phạt hành chính về Dân số, gia đình và Trẻ em. Các văn bản này là mốc quan trọng trên con đường tiến tới mục tiêu ổn định dân số. Các văn bản này phản ánh một cách toàn diện chính sách Dân số Việt Nam, nêu rõ mục tiêu, quam điểm, trách nhiệm của nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện chính sách DS-KHHGĐ.
II: Công tác DS-KHHGĐ.
1: Những nhóm nhân tố ảnh hưởng tới công tác DS-KHHGĐ
Công tác Dân số-KHHGĐ thực chất là quản lý các quá trình dân số, như sinh, chết, di cư, do vậy các nhân tố tác động tới mức sinh, chết, di cư đều ảnh hưởng sâu sắc tới công tác Dân số-KHHGĐ. Để công tác Dân số-KHHGĐ đạt hiệu qủa mong muốn, ta cần hiểu đúng và đầy đủ các nhân tố ảnh hưởng để có biện pháp tác động phù hợp.
1.1.Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới mức sinh:
Mức sinh không chỉ phụ thuộc vào khả năng sinh sản của các cặp vợ chồng, mà còn chịu ảnh hưởng lớn bởi một loạt yếu tố khác như tuổi kết hôn, khoảng cách giữa các lần sinh, thời gian chung sống của các cặp vợ chồng, ý muốn và số con của các cặp vợ chồng, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, địa vị của người phụ nữ trong gia đình và xã hội, việc sử dụng các biện pháp tránh thai…
1.2. Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới mức chết:
Chết là hiện tượng tự nhiên, là điều không thể tránh khỏi đối với mỗi cơ thể sống. Tuy nhiên mức chết phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội; đặc biệt là trình độ đạt được về mặt y học.
Trong lĩnh vực dân số, sinh và chết là hai yếu tố chủ yếu của quá trình tái sản xuất dân số. Sinh và chết có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau; thông thường đối với các nước chậm phát triển, giai đoạn đầu tỷ lệ chết tỷ lệ thuận với tỷ lệ sinh ( mức sinh cao và mức chết cũng cao). Mức chết có ảnh hưởng rất lớn tới quy mô, cơ cấu dân số/
1.3. Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới di dân:
Cùng với sinh và chết, di dân cũng ảnh hưởng đến quy mô, tốc độ phát triển dân số và những đặc trưng về cấu trúc của dân số. Di dân là hiện tượng rất phức tạp, chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố, như văn hoá, kinh tế, chính trị - xã hội.
1.4. Nhóm chính sách dân số:
Trong bốn nhóm nhân tố ảnh hưởng tới công tác dân số - KHH GĐ thì nhóm chính sách có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó có tác động trực tiếp đến tất cả các nhân tố của ba nhóm trên nhằm quản lý dân số, điều tiết mức sinh, giảm nhanh mức chết và ổn định dân cư.
+ Chính sách tác động tới mức sinh: chính sách này được chia thành hai loại: khuyến khích và hạn chế sinh.
Chính sách khuyến khích sinh: Trong thời xa xưa, khi mức chết còn quá cao, hầu hết các nước đều khuyến khích sinh. Coi dân số đông là sức mạnh của quốc gia, kích thích sản xuất phát triển, tăng của cải vật chất cho xã hội. Hiện nay, những nước phát triển dân số tăng chậm, khả năng phát triển sản xuất lớn nên thường khuyến khích sinh.
Việt Nam là nước có nhiều tộc người, trong đó có những tộc người chỉ có vài trăm người, do vậy nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích những tộc người này tăng mức sinh để đảm bảo duy trì và bảo tồn nòi giống.
Chính sách hạn chế sinh: đa số các nước đang phát triển hiện nay do dân số tăng quá nhanh, khả năng phát triển sản xuất có hạn, đời sống nhân dân còn thấp đều tìm cách để hạn chế mức sinh trong đó có Việt Nam.
+ Chính sách tác động tới giảm tỷ lệ tử vong: Đây là mục tiêu phấn đấu của mọi quốc gia. Trong chương trình hành động toàn thế giới về lĩnh vực dân số đã coi nâng cao tuổi thọ bình quân của người dân trên cơ sở giảm tỷ lệ tử vong, đặc biệt là tỷ lệ tử vong ở trẻ em là mục tiêu hàng đầu. Nó không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị xã hội và nhân văn. Để giảm tỷ lệ tử vong các nước quan tâm phát triển thành tựu y học, mở rộng mạng lưới dịch vụ y tế, phòng trừ dịch bệnh, cải thiện và nâng cao đời sống cho người dân, cải thiện điều kiện làm việc.
+ Các chính sách tác động tới di dân: Tuỳ từng thời kỳ, từng quốc gia khác nhau, Nhà nước phải có chính sách cụ thể để điều tiết dòng di dân. Khuyến khích người dân di chuyển đến những nơi có khả năng mở rộng và phát triển sản xuất, nhưng thiếu sức lao động, mật độ dân số thấp. Hạn chế di chuyến đến những nơi mật độ dân số quá cao, vượt quá nhu cầu khả năng sản xuất và đời sống. Các biện pháp của chính sách di dân có thể là những biện pháp trực tiếp thông qua những đạo luật và các quy chế về nơi ở, các thủ tục di chuyển… Các biện pháp gián tiếp như khuyến khích vật chất thông qua các loại thuế khác nhau ở các vùng lãnh thổ khác nhau.
Ngoài ra còn có các chính sách liên quan đến chất lượng dân số, như chính sách phát triển y tế, giáo dục, nhà ở, nhà ở và phúc lợi công cộng.
2. Nội dung công tác Dân số- KHHGĐ.
Căn cứ vào vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các hướng dẫn của ngành dọc cấp trên, công tác Dân số-KHHGĐ huyện Bảo Yên được triển khai với các nội dung như sau:
2.1. Công tác tham mưu:
- Phối hợp với các cơ quan, ban, ngành xây dựng và trình Huyện Uỷ, HĐND,UBND ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị, Quyết định nhằm chỉ đạo thống nhất và triển khai đồng bộ các nội dung công tác Dân số-KHHGĐ trên địa bàn; Đồng thời huy động được đông đảo lực lượng xã hội tham gia vào các hoạt động Dân số-KHHGĐ.
2.2. Về tổ chức thực hiện:
- Căn cứ vào hướng dẫn của nghành dọc cấp trên, UBDS,GĐ&TE huyện tổ chức xây dựng kế hoạch 5 năm, hàng năm, kế hoạch phối hợp hoạt động với các ban, ngành, đoàn thể trình UBND huyện và tổ chức thực hiện sau khi đã được phê duyệt.
- Đề xuất ý kiến với UBDS,GĐ&TE tỉnh, UBND huyện củng cố, kiện toàn bộ máy làm công tác Dân số-KHHGĐ từ huyện đến cơ sở, đảm bảo đủ biên chế và từng bước nâng cao chất lượng để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ công tác.
- Chủ động phối hợp với các ngành, các cấp hướng dẫn chỉ đạo các cơ sở thường xuyên làm tốt các nhiệm vụ sau:
+ Thường xuyên làm tốt công tác quản lý về biến động dân số:
Định kỳ tháng, quý thu thập các thông tin về sinh, tử, chuyển đi chuyển đến, các biến động về tình hình sử dụng các biện pháp tránh thai của các đối tượng để cập nhật đầy đủ vào sổ hộ gia đình; Đồng thời nhập thông tin vào phiếu thu tin gửi cho huyện, để huyện cập nhật thông tin vào kho dữ liệu điện tử của huyện.
+ Xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai các hoạt động tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện KHHGĐ. Sau tuyên truyền tổ chức cho các đối tượng đang ký và lập danh sách những đối tượng đăng ký thực hiện các biện pháp KHHGĐ để phối hợp với ngành y tế tổ chức cung ứng các dịch vụ KHHGĐ cho đối tượng.
+ Định kỳ giao ban hàng tháng để đánh giá công tác tháng, đề ra phương hướng nhiệm vụ cho tháng sau và cùng nhau hoàn thiện hệ thống báo cáo gửi cho huyện theo đúng thời gian định.
+ Các cộng tác viên hàng tháng phải đến thăm các hộ gia đình đển nắm thêm thông tin và cấp phát phương tiện tránh thai phi lâm sàng cho đối tượng sử dụng, theo phương châm quản lý đến từng hộ gia đình, từng thôn bản, tổ dân phố.
- Tổ chức kiểm tra, giám sát và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân về thực hiện chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước có liên quan tới công tác Dân số-KHHGĐ trên điạ bàn theo quy định của pháp luật.
- Quản lý tốt các nguồn lực, thực hiện phân bổ công khai và hướng dẫn các đơn vị thực hiện có hiệu quả, chống lãng phí, tham nhũng.
- Phối hợp với các ngành, các cấp làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện KHHGĐ và cung cấp đầy đủ kịp thời cho các đối tượng. Thực hiện nghiêm chế độ báo cáo theo quy định. Tổ chức thu thập thập thông tin để triển khai kho dữ liệu điện tử về dân số của huyện.
- Thực hiện một số nhiệm vụ khác do UBND huyện phân công.
III. Một số tiêu thức đánh chất lượng công tác DS-KHHGĐ.
1. Tiêu thức:
Công tác DS-KHHGĐ là lĩnh vực hết sức rộng lớn, các tiêu thức đánh giá thường là tiêu thức mang tính tổng hợp, do vậy việc thu thập thông tin, dữ liệu tính toán gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là với tuyến huyện. Để có căn cứ đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ hàng năm, UBDS,GĐ&TE tỉnh giao bốn chỉ tiêu cơ bản sau:
- Giảm tỷ suất sinh thô;
- Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên;
- Giảm tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên;
- Chỉ tiêu về số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ sử dụng các biện pháp tránh thai.
2. Mức độ thực hiện so với mục tiêu chính sách.
Trong bốn chỉ tiêu trên, duy nhất chỉ có chỉ tiêu thứ tư hàng năm đều đạt so với chỉ tiêu kế hoạch giao, ba chỉ tiêu còn lai có năm đạt hoặc vượt, có năm không đạt, nhưng nếu tính theo giai đoạn thì tất cả các chỉ tiêu đều đạt so với kế hoạch giao.
Tuy nhiên để đạt được so với mực tiêu chính sách dân số đề ra là một việc hết sức khó khăn, bởi vì xuất phát điểm thực hiện chương trình DS-KHHGĐ, các chỉ tiêu này đểu ở mức rất cao. Đến năm 2006 tỷ suất sinh vẫn còn ở mức 16,63‰; Tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên là 14,14%; Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên là 1,3%. Để đạt được mực tiêu theo chính sách đề ra, công tác DS-KHHGĐ huyện Bảo Yên cần có nhiều cố gắng và tìm ra được các giải pháp phù hợp, đồng thời phải đảm bảo được các điều kiện cần thiết để triển khai tốt các giải pháp đề ra.
CHƯƠNG II
Thực trạng công tác Dân số-KHHGĐ
huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai.
I.Tình hình thực hiện chiến lược DS-KHHGĐ ở Việt Nam.(*)
1. Tình hình thực hiện chiến lược DS-KHHGĐ đến năm 2000
1.1 Kết quả đạt được
Chiến lược DS-KHHGĐ đến năm 2000, được Thủ tướng chính phủ phê duyệt ngày 03 tháng 6 năm 1993, đã được triển khai có hiệu qủa. Đảng và Nhà nước cũng như cộng đồng quốc tế đánh giá cao những thành tựu mà chương trình Dân số Việt Nam đã đạt được trong những năm qua. Uỷ ban quốc gia Dân số-KHHGĐ được Chủ tịch Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tặng huân chương lao động hạng nhất. Tổ chức Liên Hiệp Quốc trao giải thưởng dân số 1999 cho Việt Nam. Thành tích nổi bật nhất sau 7 năm thực hiện chiến lược là:
1.1.1. Kết quả giảm sinh đã đạt được sớm hơn so với mục tiêu đề ra:
Mục tiêu chiến lược Dân số-KHHGĐ đến năm 2000 là “ giảm cho được tổng tỷ suất sinh xuống 2,9 con hoặc thấp hơn, quy mô dân số dưới mức 82 triệu người vào giữa năm 2000 để đạt mức sinh thay thế chậm nhất vào năm 2015”. Thực tế cho thấy trong giai đoạn từ 1989 đến 1992, tỷ lệ không giảm, nhưng từ khi thực hiện chiến lược Dân số - KHHGĐ đến năm 2000, tức là từ năm 1993 đến nay, tổng tỷ suất sinh đã giảm khá nhanh, từ 3,8 con năm 1989 xuống còn 2,67 con trong thời kỳ 1992-1996 và còn khoảng 2,3 con vào năm 1999. Quy mô Dân số ở mức khoảng 78 triệu người vào năm 2000. Kết quả
* Tham khảo và trích dẫn chiến lược dân số VN 2001-2010.
này đã tạo điều kiện để đạt mức sinh thay thế vào năm 2015, sớm hơn 10 năm so với mục tiêu mà nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành TW Đảng khoá VII đề ra. Tốc độ gia tăng dân số quá nhanh về cơ bản đã được khống chế, nhờ đó mà áp lực của quy mô dân số đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đã bắt đầu được giảm nhẹ. Do giảm tốc độ gia tăng dân số, chúng ta đã tiết kiệm được một khối lượng các nguồn lực mà lẽ ra phải chi cho ăn, mặc, ở, đi lại, giáo dục, chữa bệnh và việc làm.
1.1.2 Nhận thức hành động của toàn xã hội về DS-KHHGĐ được nâng lên rỡ rệt.
Các cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể từ trung ương đến địa phương đã coi trọng công tác DS-KHHGĐ là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và xã hội.
Quan điểm về hôn nhân và sinh đẻ của nhân dân đã chuyển biến tích cực theo hướng ngày càng có nhiều người chấp nhận kết hôn muộn, đẻ muộn, đẻ thưa, đẻ ít để nuôi dậy con khoẻ và dậy con ngoan. Đông đảo phụ nữ đã hiểu rằng thực hiện KHHGĐ sẽ giúp họ có cơ hội giữ gìn sức khoẻ, phát triển tài năng và có cơ hội tham gia vào các hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội, nhằm nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Nhờ có sự chuyển biến về nhận thức, đã có sự thay đổi lớn về hành vi thực hiện KHHGĐ trong dân. Tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ sử dụng biện pháp tránh thai tăng nhanh, từ 53,75% năm 1993 lên 75,31% năm 1997, bình quân mỗi năm tăng 5,4%, vượt kế hoạch đề ra là 2% mỗi năm. Các biện pháp tránh thai có hiệu qủa cao, có thời gian tác dụng lâu dài, như đình sản, đặt vòng, thuốc tiêm, thuốc cấy dưới da… ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu các biện pháp tránh thai hiện đang được sử dụng.
1.1.3 Hệ thống tổ chức làm công tác Dân số-KHHGĐ bước đầu được kiện toàn.
Tổ chức bộ máy làm công tác Dân số-KHHGĐ được hình thành từ trung ương đến cơ sở và từng bước được hoàn thiện về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức hoạt động. Cơ quan DS-KHHGĐ các cấp đã thực sự trở thành một tổ chức tham mưu tích cực cho lãnh đạo Đảng và chính quyền các cấp về công tác Dân số-KHHGĐ. Đội ngũ cán bộ chuyên trách Dân số-KHHGĐ trong toàn hệ thống được tăng cường về cả số lượng và chất lượng. Mạng lưới cộng tác viên dân số được bố trí đến tận thôn, bản, tổ dân phố theo phương thức quản lý tới tận hộ gia đình.
1.1.4 Công tác thông tin, giáo dục, truyền thông được mở rộng và đẩy mạnh.
Huy động được đông đảo lực lượng xã hội và các cá nhân tham gia vào tuyên truyền, vận động thực hiện Dân số-KHHGĐ dưới nhiều hình thức, như truyền thông đại chúng, truyền thông trực tiếp của đội ngũ tuyên truyền viên, các chức sắc tôn giáo, già làng, trưởng bản, đội ngũ cán bộ chuyên trách, cộng tác viên dân số, cán bộ y tế…..Các mô hình truyền thông đã được xây dựng và từng bước tiếp cận được với các nhóm đối tượng. Các sản phẩm truyền thông đã đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung. Giáo dục dân số được đưa vào các cấp học phổ thông, các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, trường dậy nghề, trường chính trị và các trường của lực lượng vũ trang.
1.1.5 Vịêc cung cấp các dịch vụ KHHGĐ đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng.
Hệ thống cung cấp các dịch vụ KHHGĐ công cộng được củng có và phát triển từ trung ương đến cơ sở. Các nhu cầu cơ bản về dịch vụ KHHGĐ đã được đáp ứng; Có 100% cơ sở dịch vụ KHHGĐ cấp tỉnh và 93% cở sở y tế cấp huyện làm được thủ thuật đình sản; 100% cơ sở dịch vụ y tế cấp huyện và 68,7% trạm y tế xã đặt được vòng tránh thai. Hệ thống y tế tư nhân và các tổ chức phi chính phủ được huy động và tạo điều kiện tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ KHHGĐ. Các mô hình cung cấp dịch vụ tránh thai lâm sàng dựa vào cộng đồng tiếp thị xã hôị, đội dịch vụ lưu động …. được triển khai với mục đích đưa dịch vụ KHHGĐ đến tận người sử d._.ụng.
1.1.6 Một số chính sách đã được ban hành và được thực hiện có hiệu qủa:
Chính sách khuyến khích lợi ích trực tiếp cho những người tự nguyện chấp nhận KHHGĐ và người cung cấp dịch vụ KHHGĐ đã thúc đẩy sự tham gia của cán bộ và nhân dân vào chương trình kế hoạch hoá gia đình. Nhiều chính sách kinh tế-xã hội được ban hành phục vụ sự nghiệp đổi mới đã tạo môi trường thuận lợi và tác động mạnh mẽ tới việc thực hiện mục tiêu Dân số-KHHGĐ.
1.2. Hạn chế tồn tại:
1.2.1 Chương trình Dân số-KHHGĐ còn có sự mất cân đối:
Do quá bức súc về sự gia tăng dân số quá nhanh ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế-xã hội và cải thiện đời sống của nhân dân, chương trình Dân số-KHHGĐ trong thời gian này mới chỉ tập chung vào giảm mức sinh thông qua KHHGĐ nhằm hạn chế tốc độ gia tăng quy mô dân số, chưa chú trọng đến nhiều khía cạnh khác của vấn đề dân số, như chất lượng, cơ cấu và phân bố dân cư. Các nội dung của việc chăm sóc sức khoẻ sinh sản chưa được chú trọng.
1.2.2 Tổ chức bộ máy nhiều bất cập.
Tổ chức bộ máy ra đời muộn và chưa ổn định. Đội ngũ cán bộ xuất phát từ nhiều ngành, chưa được đào tạo một cách có hệ thống về chuyên môn nghiệp vụ, lại mới tham gia làm công tác Dân số-KHHGĐ nên chưa có nhiều kinh nghiệm trong thực hiện nhiệm vụ. Số lượng cán bộ còn thiếu so với nhu cầu của công việc, đặc biệt là ở cấp huyện, thành phố. Mức trợ cấp cho cán bộ chuyên trách và cộng tác viên cơ sở còn quá thấp, chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội chưa được thực hiện. Tình trạng trên gây nên tâm lý thiếu an tâm cho nhiều cán bộ. Trung bình mỗi năm có khoảng 25-30% cán bộ chuyên trách xã bỏ việc hoặc chuyển sang công tác khác. Cho đến nay nhà nước vẫn chưa có chính sách cụ thể đối với cán bộ làm công tác Dân số-KHHGĐ. Tổ chức bộ máy còn nhiều bất cập, đặc biệt là ở tuyến quận, huyện.
1.2.3 Việc phối hợp trong xây dựng chính sách chưa được chú trọng.
Việc lồng ghép các chính sách dân số vào qúa trình lập kế hoạch và xây dựng chính sách kinh tế-xã hội chưa được chú trọng và thực hiện có hiệu quả. Đầu tư cho chương trình Dân số-KHHGĐ chưa đáp ứng nhu cầu kinh phí cho mở rộng nội dung hoạt động.
1.3. Những nguyên nhân dấn đến thành công của chương trình.
* Nghị quyết Ban chấp hành TW lần thứ 4 (khoá VII) về chính sách Dân số-KHHGĐ phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, thực sự đem lại lợi ích kinh tế, tinh thần và sức khoẻ cho mỗi cá nhân, gia đình và xã hội, nên được đông đảo các gia đình, xã hội và các tầng lớp nhân dân đồng tình hưởng ứng và tích cực thực hiện. Đảng và chính quyền các cấp đã trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư nguồn lực và kiện toàn bộ máy làm công tác Dân số-KHHGĐ các cấp, nhất là đội ngũ cộng tác viên dân số cơ sở. Chính phủ đã cam kết mạnh mẽ đối với chương trình Dân số-KHHGĐ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các chính sách và nghị quyết về Dân số-KHHGĐ xuống tận cơ sở.
* Chiến lược Dân số-KHHGĐ được triển khai trong bối cảnh đất nước đang phát triển mạnh mẽ nhờ công cuộc đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước đang thực hiện. Sự tăng trưởng kinh tế phát triển xã hội trong những năm qua đã tạo tiền đề cơ bản cho việc cải thiện đời sống, chăm sóc sức khoẻ và nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân ở hầu hết các khu vực trong cả nước, đặc biệt là những vùng khó khăn. Đây là tiền đề khách quan cho việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu của chương trình Dân số-KHHGĐ.
* Mục tiêu và các giải pháp đề ra trong chiến lược Dân số-KHHGĐ đến năm 2000 phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. Cơ cấu quản lý thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia về nâng cao năng lực quản lý, thông tin – giáo dục - truyền thông và cung cấp dịch vụ kế hoạch hoá gia đình đã tỏ ra có hiệu qủa, tạo được sự tập trung nguồn lực cho cơ sở và đảm bảo sự phối hợp, ủng hộ của các ngành, các cấp. Công tác Dân số-KHHGĐ bước đầu được xã hội hoá với sự tham gia của nhiều ngành, đoàn thể và đông đảo tổ chức xã hội và các tổ chức phi chính phủ.
1.4. Những nguyên nhân chính làm hạn chế kết quả chương trình.
* Phong tục tập quán và những yếu tố tâm lý về quy mô gia đình lớn và giới tính của con cái còn nặng nề. Tư tưởng (phải có con trai) vẫn còn tồn tại ở nhiều người và nhiều vùng, đặc biệt là ở vùng sâu vùng xa, vùng nghèo.
* Chưa có cơ chế chính sách toàn diện về dân số và phát triển. Việc chuyển hướng mở rộng nội dung của chương trình và việc xây dựng hệ thống chính sách thích hợp chưa được tiến hành kịp thời, chưa có chính sách và các giải pháp phù hợp để để giải quyết hài hoà các nội dung về quy mô dân số, chất lượng dân số và phân bổ dân cư. Một số chính sách kinh tế xã hội còn chưa đồng bộ và tạo sự đồng thuận với chính sách dân số.
* Đầu tư nguồn lực chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Cơ chế quản lý nguồn lực còn một số nội dung chưa phù hợp.
2. Tình hình thực hiện chiến lược Dân số Việt Nam 2001-2010(giai đoạn 2001-2005).
2.1.Tình hình thực hiện
Từ sau năm 2000 đến nay, kết qủa thực hiện chính sách DS-KHHGĐ chững lại và giảm sút. Trong hai năm 2003 và 2004, tỷ lệ phát triển dân số, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên tăng mạnh trở lại. Đặc biệt là tình trạng cán bộ, đảng viên sinh con thứ 3 trở lên tăng nhiều ở hầu hết các địa phương gây tác động tiêu cực đến phong trào nhân dân thực hiện KHHGĐ. Tình hình này đã làm chậm thời gian mức sinh h thay thế( trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có hai con).
2.2. Nguyên nhân chính làm hạn chế kết qủa chương trình:
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do chúng ta chưa nhận thức đầy đủ tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của công tác này, chúng ta đã vội chủ quan và tự thoả mãn với những kết quả ban đầu, dẫn đến buông lỏng sự lãnh đạo, chỉ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách DS-KHHGĐ. Tổ chức bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ ít được quan tâm, cơ chế quản lý kém hiệu quả; Tổ chức điều hành chương trình còn nhiều lúng túng, chậm đổi mới việc ban hành pháp lệnh dân số thiếu chặt chẽ.
II.Thực trạng công tác DS-KHHGĐ ở huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai.
1. Sơ đồ tổ chức UBDS,GĐ&TE huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai
Chủ nhịêm
-Phục trách chung.
- Tham mư u cho cấp uỷ Đảng, CQ địa phương;
-Tổng hợp chung, xây dựng KH và tổ chức triển khai;
-Định kỳ BC cấp trên theo Q Đ
quy định.
- Một cán bộ phụ trách c ông tác DS-KHHGĐ;
- Tổng hợp báo cáo;
- Hướng dẫn đôn đốc cơ sở;
- Định kỳ báo cáo, kiêm thủ quỹ cơ quan……
Một cán bộ phụ trách công tác gia đình và sự nghiệp bảo vệ chăm sóc trẻ em;
- Tổng hợp báo cáo
- Hướng dẫn đôn đốc cơ sỏ;
- Định kỳ báo cáo, kiêm kế toán cơ quan…
2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện.
2.1. Điều kiện tự nhiên:
Bảo Yên là huyện miền núi thấp của tỉnh Lào Cai. Cách trung tâm tỉnh lỵ Lào Cai 75 Km về phía đông nam. Điạ hình bị chia cắt phức tạp do có nhiều núi cao hiểm trở và hệ thống sông suối dầy đặc.
- Phía Bắc giáp với huyện Bảo Thắng; Bắc Hà - tỉnh Lào Cai;
- Phía Nam giáp với huyện Lục Yên; Văn Yên - tỉnh Yên Bái;
- Phía Đông giáp với huyện Quang Bình - tỉnh Hà Giang;
- Phía Tây giáp với huyện Văn Bàn - tỉnh Lào Cai.
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là: 82.483 ha:
Trong đó - Đất có khả năng sản xuất nông nghiệp là: 11.950,3 ha;
- Đất có khả năng sản xuất lâm nghiệp là: 62.879 ha;
- Đất phi nông nghiệp: 4.449,2 ha;
- Sông, suối, núi đá không có rừng cây: 3.204,5 ha.
Huyện được chia thành 18 đơn vị hành chính ( 17 xã, 1 thị trấn), xã xa trung tâm huyện nhất là 42 km . Độ cao trung bình so với mặt nước biển 300 -400m, với đặc điểm khí hậu nhiệt đới, độ ẩm cao rất thuận lợi cho cây trồng phát triển.
Bảo Yên có hai con sông lớn chảy qua, đó là sông Hồng và sông Chảy. Hệ thống sông suối đã tạo nên những bãi bằng nằm hai bên lưu vực, đất đai màu mỡ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển cây lúa và cây hoa màu.
2.2. Tình hình kinh tế - xã hội.
2.2.1 Tình hình kinh tế:
Sản xuất nông, lâm nghiệp:
- Về trồng trọt: Bảo Yên với gần 90% dân số sống ở vùng nông thôn, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Trong khi đó đất có khả năng đưa vào sản xuất nông nghiệp thấp có khoảng 11.950,3 ha, chiếm 14,5% diện tích đất tự nhiên. Nếu tính bình quân đầu người chỉ đạt 0,16 ha/ người. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học -kỹ thuật vào thâm canh còn chậm. Hệ thống thủy lợi trong những năm qua đã được đầu tư xây dựng tương đối tốt cơ bản chủ động được tưới tiêu cho đồng ruộng. Tuy nhiên việc quản lý khai thác chưa được chú trọng, dẫn đến nhiều công trình đã xuống cấp và hư hỏng nặng. Ngoài ra, thời tiết, dịch bệnh cũng gây ảnh hưởng lớn tới năng suất cây trồng. Năm 2005 năng suất lúa trung bình chỉ đạt khoảng 48 tạ/ ha. Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 29.058 tấn (1); Tính bình quân đầu người đạt xấp xỉ 400 kg/người/năm.
- Về chăn nuôi: Với điều kiện khí hậu tự nhiên và diện tích rừng, ao, hồ, sông, suối khá lớn, chăn nuôi cũng được coi là một thế mạnh của huyện Bảo Yên. Chăn nuôi gia xúc, gia cầm và thuỷ sản được nhân dân coi trọng và phát triển, các loại giống có chất lượng, có giá trị kinh tế được đưa vào nuôi trồng và bước đầu mang lại hiệu quả, đặc biệt là chăn nuôi đại gia xúc. Hàng năm tổng đàn tăng từ 5-8 %, đến năm 2005, tổng đàn trâu, bò, đạt trên 22.000 con (2) và xuất bán hàng nghìn con ra các tỉnh bạn.
- Về lâm nghiệp: Tổ chức trồng mới và khoanh nuôi rừng tái sinh đến nay tỷ lệ chee phủ rừng đạt trên 44,6%. Tổ chức tốt việc quản lý và khai thác để phục vụ cho việc chế biến,cung cấp nguyên liệu cho 2 nhà máy giấy doanh thu đạt trên 8 tỷ đồng và nộp ngân sách trên 400 triệu đồng (3).
- Trong lĩnh vực công nghiệp: Chủ yếu là sản xuất tiểu thủ công nghiệp như sản xuất đồ mộc dân dụng, vật liệu xây dựng, may mặc …. Ngoài ra trên
1,2: Số liệu Phòng thống kê huyện
3: Số liệu Phòng tài chính -KH huyện..
địa bàn huyện chỉ có ba nhà máy; Trong đó có hai nhà máy chế biến bột giấy, tổng công xuất trên 13 nghìn tấn/năm và một nhà máy chè mới đi vào hoạt động.
- Trong lĩnh vực tài chính: Tổng thu ngân sách trên địa bàn huyện đạt thấp. Năm 2005 tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 7.644 triệu đồng. Tổng thu ngân sách huyện đạt 54.854 triệu đồng. Tổng chi ngân sách huyện: 54.854 triệu đồng (1) như vậy tổng thu ngân sách trên điạ bàn chỉ đạt 13,94% tổng chi ngân sách huyện
- Tình hình lao động và việc làm:
Năm 2005, số lao động trong độ tuổi của huyện Bảo Yên chiếm tỷ trọng cao 35.667 người, chiếm 47,4% tổng dân số trong toàn huyện (2). Trong đó số lao động có việc làm ổn định là: 18.000 người. Số người có việc làm không ổn định là 2.991 người, số người thiếu việc làm là 8.000 người. Đáng quan tâm là tình trạng thất nghiệp theo mùa vụ ngày càng cao, đặc biệt là ở khu vực nông thôn.
Tóm lại tình hình kinh tế huyện Bảo Yên tuy có những lợi thế nhất định, như khí hậu, thời tiết, đất đai màu mỡ, hệ thống đường giao thông tương đối phát triển vẫn còn gặp nhiều khó khăn, như diện tích đất canh tác bình quân đầu người đạt thấp. Các ngành nghề chưa phát triển; Đặc biệt là ngành công nghiệp Tỷ lệ thất nghiệp cao, người dân vẫn còn mang nặng thói quen tự cung tự cấp; Một số mặt hàng sản xuất ra chưa tìm được thị trường tiêu thụ.
2.2.2 Tình hình về dân số:
Năm 2005, Bảo Yên có 15.046 hộ với 75.220(3) khẩu, mật độ dân số là 91 người/km2, gồm 16 dân tộc, sống đan xen trong cộng đồng dân cư. Trong đó dân số sống ở nông thôn chiếm 87,7 %; dân tộc thiểu số chiếm 71,3%. Để thấy
rõ sự biến động dân số của huyện, ta so sánh tình hình dân số 3 năm từ 2003-2005 ở bảng 1.
1 Phòng Tài Chính Kế Hoạch huyện;
2 Phòng Nội Vụ Lao Động- TBXH
3 Phòng Thống Kê huyện
Bảng số 1.
STT
Nội dung chỉ tiêu
Đơn vị tính
2003
2004
2005
Ghi chú
1
Dân số (31/12)
Người
72.137
73.818
75.520
2004-2005 quy hoạch thêm 2 thị tứ
(5)
2
Tổng số nữ
Người
36.934
37.868
38.354
3
Nữ từ 15 -49
Người
19.412
19.871
20.249
4
Nữ 15 -49 có chồng
Người
17.240
17.494
17.827
5
Trẻ em <14 tuổi
Người
26.041
26.722
27.154
6
Dân số nông thôn
Người
64.923
66.288
65.967
7
Tỷ lệ dân số tăng TB năm
%
1,84
2,3
1,88
8
Số trẻ sinh thêm hàng năm
Người
1.185
1.524
1.281
9
Tỷ suất sinh thêm
‰
16,6
20,8
17,2
10
Tỷ lệ sinh con thứ 3+
%
16,7
20,1
15,8
Qua bảng số liệu trên, ta thấy dân số huyện Bảo Yên giai đoạn 2003 -2005 có những đắc điểm như sau:
- Tỷ suất sinh thô và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên hàng năm vẫn còn ở mức cao so với cả nước và của tỉnh; Đặc biệt là năm 2005 tỷ suất sinh thô là 20,88‰
tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên là 20,1% tương đương với 1.524 trẻ. Như vậy năm 2005 số trẻ sinh trong toàn huyện tương đương với dân số của xã Tân Tiến.
- Số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ( 15-49 tuổi) có chồng còn chiếm tỷ lệ cao 23,7% so với tổng dân số và chiếm 88,03% so với số nữ 15 – 49 tuổi và vẫn còn tiếp tục tăng cao trong những năm tới.
- Tỷ lệ tăng dân số trung bình hàng năm có xu hướng giảm, nhưng vẫn còn ở mức cao. Nếu tính trung bình cho cả 3 năm thì tỷ lệ này vẫn còn 2% mỗi năm.
- Số trẻ em dưới 14 tuổi chiếm tỷ lệ cao trên 36% so với tổng số dân, đây sẽ là lực lượng hùng hậu bổ sung cho lứa tuổi sinh đẻ ở những năm tiếp theo.
Tóm lại qua các số liệu trên, thấy công tác DS-KHHGĐ huyện trong những năm qua đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên một số chỉ tiêu, như số phự nữ 15-49 tuổi có chồng, số trẻ em dưới 14 tuổi, dân số sống ở vùng nông thôn vẫn còn rất cao, do vậy nó vẫn tiềm ẩn mức sinh cao trong những năm tới.
Bảng 1: Bao gồm số liệu: Phòng Thống Kê Huyện, Phòng Nội Vụ -LĐTB&XH huyện.
2.2.3 Công tác y tế chăm sóc sức khoẻ nhân dân:
Với khí hậu vùng nhiệt đới, nóng, độ ẩm cao rất thuận lợi cho cây trồng
phát triển; Tuy nhiên đây cũng là điều thuận lợi cho các dịch bệnh phát triển, như bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, viêm đường hô hấp, sốt phát ban, viên não… làm ảnh hưởng lớn tới sức khoẻ lao động sản xuất, phát triển kinh tế của người dân.
Để thực hiện tốt công tác chăm sóc bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân; Trong những năm qua, ngành y tế đã có bước phát triển mới, thể hiện trên các mặt cụ thể sau:
- Xây dựng mạng lưới y tế: Hiện nay trên địa bàn huyện có 1 bệnh viện đa khoa huyện, 4 phòng khám đa khoa khu vực, 18 trạm y tế cơ sở. Bệnh viện đa khoa huyện được xây dựng và đưa vào sử dụng năm 2002, tổng diện tích xây dựng 2.000 m2, với quy mô 100 giường bệnh, được bố trí thành 10 khoa, phòng chức năng. Bốn phòng khám đa khoa khu vực, quy mô 10 giường bệnh/phòng khám trong đó có 02 phòng khám mới hình thành năm 2005. Các phòng khám chưa được xây dựng hiện đang làm việc chung với trạm y tế, còn lại 18 trạm y tế đã được xây dựng từ nhiều năm, bằng những nguồn vốn khác nhau, nay đã xuống cấp và hư hỏng.
-Về trang thiết bị phục vụ cho khám và chữa bệnh:
Tại bệnh viện đa khoa huyện: Các phương tiện làm việc, phương tiện phục vụ cho cấp cứu, phục vụ cho chuẩn đoán và điều trị được trang bị tương đối đầy đủ và đồng bộ, như máy siêu âm, máy điện quang, máy điện tim, máy xét nghiệm 18 thông số, bàn mổ đa năng…..Ngoài ra các trang thiết bị phục vụ cho bệnh nhân, như giương tủ, chăn màn và các đồ dùng khác đã được trang bị thường xuyên, đảm bảo được nhu cầu cần thiết cho công tác khám và điều trị bệnh cho nhân dân.
Tại 04 phòng khám đa khoa khu vực: các trang thiết bị phục vụ cho khám và điều trị còn nhiều thiếu thốn, do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến là các phòng khám này còn hoạt động chung với các trạm y tế, nhà cửa chật hẹp không bố trí đủ phòng làm việc cho các khoa, phòng chức năng, do vậy việc trang bị các phương tiện làm việc và các phương tiện phục vụ cho khám, chữa bệnh chưa được kịp thời.
Tại các trạm y tế xã, thị trấn: Có 18/18 xã có đủ trang thiết bị cần thiết phục vụ cho khám và chữa các bệnh thông thường theo phân tuyến kỹ thuật. Có 02/18 trạm có điện thoại, 15/18 xã có điện lưới quốc gia và có 6/18 xã có nguồn nước đảm bảo cho sinh hoạt.
- Về nhân lực:
Bảng 2: Số liệu cán bộ tại Trung Tâm Y Tế huyện BảoYên ( năm 2003-2005)
STT
Nội dung
Đv tính
2003
2004
2005
ghi chú
Tổng số
Người
105
101
102
1
Bác Sỹ
Người
11
12
09
2
Chuyên khoa I
Người
01
01
02
3
Y sỹ đa khoa
Người
23
24
23
4
Nữ hộ sinh TH
Người
15
13
13
5
Y tá TH
Người
15
14
15
6
Cán bộ khác
Người
40
37
40
Qua bảng số liệu trên ta thấy biên chế cán bộ tại trung tâm y tế huyện vừa thiếu lại vừa yếu, nếu tính tỷ lệ bác sĩ trên nghìn dân, thì năm 2005 tỷ lệ này là 1/8.357 người dân. cả huyện mới có 02 cán bộ có trình độ chuyên khoa 1, trong đó 01 là chuyên ngoại sản, còn 01 là chuyên khoa nội. Cán bộ có trình độ trung học chiếm tỷ lệ cao, năm 2005 là 50% trong tổng số biên chế tại trung tâm. Đặc biệt là số cán bộ nữ hộ sinh thấp, giao động từ 13-15 người. Đây là khó khăn lớn trong việc triển khai các hoạt động chăm sóc sức khoẻ và KHHGĐ.
Bảng 3: Số liệu cán bộ y tế xã, thị trấn ( năm 2003-2005) ( Số liệu TT Y Tế huyện)
STT
Nội dung
ĐV tính
2003
2004
2005
Ghi chú
I. Y Tế xã
Tổng số:
Người
64
68
66
Trong đó:
1
Bác sỹ
Người
1
1
3
2
Y sỹ đa khoa
Người
12
15
14
3
Y tá TH
Người
4
4
4
4
Y tá sơ học
Người
18
18
13
5
Nữ hộ sinh TH
Người
11
12
15
6
Nữ hộ sinh SH
Người
03
03
02
7
Khác
Người
15
15
15
II. Y tế thôn bản
Tổng số
Người
278
278
275
3 Bỏ HĐ
Trong đó:
1
Y tá sơ học
Người
277
277
275
ĐT 3 tháng
2
Dược tá SH
Người
1
1
0
Bộ máy y tế cơ sở còn gặp nhiều khó khăn, biên chế vừa thiếu lại vừa yếu. Toàn huyện có 03/18 trạm có bác sĩ hoạt động. Cán bộ có trình độ sơ học còn chiếm tỷ lệ cao, năm 2005 tỷ lệ này là 22,7%. Đặc biệt là biên chế nữ hộ sinh quá thấp, mới có 15/18 trạm có nữ hộ sinh. Số cơ sở có thể tự đặt vòng tránh thai được có ít 6/18 xã, chiếm 33,3% đến nay huyện Bảo Yên chưa có trạm y tế nào đạt chuẩn quốc gia về y tế.
2.2.4 Giáo dục và đào tạo:
Bảng 4: Số liệu về công tác giáo dục năm (2003 -2005).
STT
Nội dung chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Năm học
Ghi chú
2003
2004
2005
A. Bậc tiểu học và trung học cơ sở
I: Tổng số giáo viên trực tiếp giảng dậy
Người
934
971
996
1
Đại học
Người
25
37
54
2
Trung học
Người
719
769
839
II: Tổng số lớp/ Trường
Lớp/T
881/48
918/55
952/63
1
Bậc tiểu học
Lớp/T
525/14
514/23
522/27
2
Bậc trung học cơ sở
Lớp/T
220/27
259/25
274/24
3
Mầm non
Lớp/T
136/7
145/7
156/12
III: Tổng số học sinh
Người
20.851
20.317
20.555
1
Mầm non
Người
2.533
2.058
2.943
2
Bậc tiểu học
Người
11.517
10.601
9.915
3
Bậc THCS
Người
6.801
7.658
7.697
B. Bậc trung học PT
I: Tổng số giáo viên trực
tiếp giảng dậy
Người
61
70
97
II: Tổng số lớp/trường
Lớp/T
38/2
52/3
62/3
III:Tổng số học sinh
Người
1.558
2.172
2.651
Công tác giáo dục trong những năm gần đây đã có bước phát triển tốt, phấn đấu hoàn thành tốt chỉ tiêu kế hoạch đề rà. Kết quả nổi bật thể hiện trên các mặt sau:
Bảng 4 số liệu Phòng Giáo Dục huyện.
Đối với bậc tiểu học, THCS, lớp học mầm non.
* Về phát triển hệ thống giáo dục:
Trong những năm gần dây, đặc biệt là năm 2005, huyện Bảo Yên đã làm tốt công tác tuyên truyền vận động, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường đạt 98,6% bằng 100,82% (1) kế hoạch. Số trường và lớp học đều tăng so với những năm trước, năm 2003 có 881 lớp, 48 trường; Năm 2005 tăng lên 952 lớp 63 trường (2). Toàn huyện có 820 (3) phòng học, trong đó phòng được kiên cố hoá là 284; phòng bán kiên cố là 198, số phòng tạm bợ là 338 và hiện nay huyện đã cơ bản xoá được tình trạng học ca 2, ca 3.
* Về nhân lực:
Để đáp ứng nhu cầu học cho số học sinh liên tục tăng trong những năm qua, biên chế giáo viên cũng tăng từ 934 người năm 2003 lên 996 người năm 2005( chưa tính cán bộ quản lý và hoạt động khác) tăng 6,22%. Trình độ của giáo viên bước đầu được quan tâm, hàng năm ngành giáo dục đều có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại, nhằm nâng cao trình độ cho giáo viên. Tuy công tác này thực hiện còn kém hiệu quả, năm 2005 mới có 54 cán bộ có trình độ đại học trên tổng số 996 biên chế, chiếm 5,42%.
* Về trang thiết bị phục vụ cho công tác dậy và học.
Các trang thiết bị phục vụ cho công tác dậy và học còn nhiều thiếu thốn, hầu hết các trường, đặc biệt là các trường ở các xã vùng sâu, vùng cao thiếu các
phòng chức năng, như phòng thực hành, phòng thí nghiệm ….Tỷ lệ lên lớp hàng năm đạt 99,6%; Thi tốt nghiệp cấp học đạt: 99,7%.
Đối với bậc trung học phổ thông:
Năm 2005 Bảo Yên có 03 trường với 62 lớp học: Trong đó trường PTTH số III mới thành lập năm 2004, số học sinh liên tục tăng theo năm học. Năm 2003 có 1.558 em, năm 2005 tăng lên 2.651(4) em, tăng 41,2%. Với quy mô như hiện nay, các trường các trường THPT mới đáp ứng được khoảng trên 82% số học sinh tốt nghiệp THCS hàng năm. Cả 03 trường được xây dựng kiên cố hoá; Các trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dậy và học tương đối đầy đủ, đáp ứng được nhu cầu dậy và học của giáo viên và học sinh.
Tỷ lệ lên lớp hàng năm đạt khoảng 95-98% (5); Tỷ lệ thi tốt nghiệp đạt 95%; Tỷ lệ học sinh thi vào được các trường
cao đẳng, đại học đạt khoảng 28 -30% năm (6).
1,2,3 số liệu Phòng Giáo Dục huyện.
4,5,6 Số liệu TTHPT 1,2,3.
Tóm lại công tác giáo dục huyện Bảo Yên trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cơ sở vật chất từng bước được đầu tư xây dựng. Đặc biệt là được đầu tư xây dựng theo chương trình kiên cố hoá trường lớp của chính phủ. Chất lượng việc dậy và học từng bước được nâng cao, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi đạt 17/18 xã, thị trấn; Phổ cập giáo dục THCS đạt 11/18 xã, thị trấn; Xoá mù chữ đạt 18/18 xã, thị trấn. Tỷ lệ chuyển lớp, thi tốt nghiệp cao từ 95-98% năm. Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đạt được vẫn còn những mặt hạn chế, đó là: Việc xây dựng cơ sở vật chất, kiên cố hoá trường lớp học còn chậm, tỷ lệ phòng học tạm bợ còn cao, chiếm 41,2%. Số giáo viên có trình độ cao đẳng trở xuống chiếm tỷ lệ cao, năm 2005 là 94,6%. Tỷ lệ học sinh thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng có tăng so với những năm trước, song vẫn còn ở mức quá thấp(30% năm 2005).
2.5 Văn hoá thông tin- truyền thanh truyền hình:
Phòng văn hoá và trung tâm văn hoá huyện, trong những năm qua đã có nhiều cố gắng làm tốt công tác quản lý và triển khai các hoạt động của mình, như tổ chức đội chiếu bóng lưu động, tổ chức các buổi văn hoá văn nghệ tại trung tâm huyện và tại các cụm xã, thị trấn tổ chức đại hội thể dục, thể thao toàn huyện nhằm làm tốt công tác đưa thông tin về cơ sở. Làm tốt công tác bảo tồn và khai thác phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc, đẩy mạnh các hoạt động, phong trào thể dục thể thao tại các cơ quan, các xã, thị trấn, tại các cơ quan, tổ dân cư. Phối hợp với các cơ quan, ban, ngành tổ chức phát động phong trào thi đua “ xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở” và hàng năm tổ chức tốt việc bình xét
gia đình, làng xã đạt chuẩn văn hoá theo hướng dẫn của ban chỉ đạo huyện. Tuy nhiên bên cạnh những kết qủa đạt được, công tác văn hoá còn có những hạn chế sau:
- Đội thông tin lưu động huyện chưa thực sự cố gắng trong việc tuyên truyền tại các cơ sở, nội dung, hình thức tuyên truyền còn nghèo nàn chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, do vậy việc giáo dục pháp luật chưa được kịp thời, chủ trương chính sách của đảng chưa thực sự đi vào cuộc sống của nhân dân.
- Phong trào văn hoá, văn nghệ trong quần chúng nhân dân chưa thực sự được chú trọng; Công tác quản lý, khai thác và bảo tồn phát huy bản sắc văn hoá dân tộc mới được đặt ra, vẫn chưa có giải pháp cụ thể về vấn đề này.
- Việc tuyên truyền vận động nhân dân xoá bỏ các tập tục lạc hậu trong đời sống, như thách cưới, người chết còn để dài ngày, tệ mê tín dị đoan.. chưa có sự chuyển biến tích cực.
Nhằm tăng cường công tác tuyên truyền vận động phục vụ cho công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, đồng thời phục vụ nhu cầu giải trí của người dân. Trong những năm qua, sự nghiệp truyền thanh- truyền hình của huyện được quan tâm đầu tư xây dựng. Năm 2005 toàn huyện có 07 trạm truyền thanh, 10 trạm tiếp sóng đài truyền hình, nâng tỷ lệ số hộ được nghe đài tiếng nói Việt Nam lên khoảng 90% và xem truyền hình là 80% (1). Tổng thời lượng phát sóng, đối với truyền thanh là 7.440 h/năm, đài truyền hình 7068 h/năm (2).
2.2.6. Tình hình tôn giáo:
Bảo Yên hiện có hai đạo giáo đó là đạo Thiên chúa giáo và Đạo tin lành.
Đạo thiên chúa giáo có 147 hộ với 658 khẩu (3) sống ở bốn xã: Việt Tiến, Lương Sơn, thị trấn Phố Ràng, Long Khánh. Đây là các hộ có nguồn gốc đi đạo từ xa xưa, được nhà nước công nhận các hoạt động tương đối ổn định.
Quan niệm về vấn đề KHHGĐ tuy có khác nhau, nhưng qua công tác tuyên truyền vận động , đến nay các giáo dân không còn mặc cảm với công tác DS-KHHGĐ. Tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ chấp nhận thực hiện các biện pháp tránh thai cao(70,2% năm 2005).
Đạo tin lành mới được truyền bá vào địa bàn huyện trong vài năm nay, nhưng phát triển khá nhanh, hoạt động rất phức tạp. Hiện nay toàn huyện có 376 hộ với 2.323(4) khẩu, sống ở 27 thôn bản thuộc 7 xã. Đáng lưu ý nhất là số người theo đạo tin lành chủ yếu hiện nay là người dân tộc Mông. Đạo tin lành ở huyện Bảo Yên hiện nay chưa được chính quyền công nhận. Các trùm đạo thường lén lút tuyên truyền trái phát luật làm cho an ninh- trật tự trên địa bàn mất ổn định.
Công tác tuyên truyền vận động đối tượng này thực hiện KHHGĐ gặp rất nhiều khó khăn, họ ít hợp tác và không chịu thực hiện các biện pháp KHHGĐ, thậm chí nếu ta tuyên truyền mạnh họ sẵn sàng bỏ quê hương đi nơi khác.
2.2.7 Tình hình di dịch cư:
Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền vận động nhân dân ổn định, định canh định cư, đi đôi với việc sắp xếp dân cư, tạo việc làm cho nhân dân đã được cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương quan tâm triển khai thực hiện. Tuy nhiên đến nay tình hình dịch cư tự do vẫn tiếp tục tiếp diễn biến phức tạp. Năm 2005 có 57 hộ với 308 khẩu(1) so với năm 2004 tăng 4 hộ; 8 khẩu. Trong đó di cư đi 45 hộ, 245 khẩu; di cư đến 12 hộ, 66 khẩu. Tương đương tỷ suất xuất cư là
3,3 ‰, tỷ xuất nhập cư là 0,9‰.
1,2 số liệu phòng văn hoá, Đài truyền thanh-truyền hình.
3,4 Số liệu ban tôn giáo, dân tộc Huyện uỷ.
3. Thực trạng công tác Dân số-KHHGĐ huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai.
3.1 Chương trình nâng cao năng lực của bộ máy quản lý DS-KHHGĐ(VDS01).
3.1.1: Quá trình hình thành và đặc thù của cơ cấu tổ chức quản lý DS-KHHGĐ.
Theo thời gian lịch sử hình thành, chương trình DS-KHHGĐ huyện Bảo Yên được chia thành các giai đoạn sau:
Giai đoạn từ năm 1961 đến 1990: Trong giai đoạn này chưa hình thành bộ phận chuyên trách để trực tiếp quản lý và triển khai chương trình DS-KHHGĐ mà nó được gắn liền với khoa sản của bệnh viện huyện, công việc chủ yếu là đặt vòng tránh thai. Chương trình mới được triển khai ở khối cán bộ công chức nhà nước. Các hoạt động của chương trình chưa được triển khai thường xuyên, nên tỷ lệ sinh thời kỳ này( kể cả cán bộ và nhân dân) đều cao.
Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1995 ở huyện Bảo Yên giai đoạn này công tác tổ chức bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ đã bước đầu được thành lập và được chia thành hai thời kỳ:
- Thời kỳ 1991 đến tháng 4 năm 1993: Trung tâm y tế huyện đã cho một biên chế để trực tiếp theo dõi các hoạt động của chương trình và cũng trong thời gian này, theo chỉ đạo của sở y tế, Trung tâm y tế huyện thành lập đội sinh đẻ có kế hoạch. Nhiệm vụ của Đội sinh đẻ có kế hoạch là tổ chức đáp ứng đầy đủ, kịp thời các dịch vụ KHHGĐ cho các đối tượng. Làm tốt công tác tư vấn giúp đối tượng lựa chọn biện pháp tránh thai phù hợp với điều kiện về sức khoẻ, điều kiện về môi trường sống và với số con hiện có, đẻ điều tiết mức sinh theo kế hoạch.
- Thời kỳ tháng 4-1993 đến năm 1995: Giai đoạn này ban DS-KHHGĐ huyện được thành lập, gồm 15 thành viên, do phó Chủ tịch UBND huyện làm trưởng ban. Các thành viên của ban là trưởng, phó các ban, ngành, đoàn thể, hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm. Bộ phận chuyên trách có một biên chế để giúp việc cho trưởng ban. Đáng chú ý là trong thời kỳ này cán bộ chuyên trách ban DS-KHHGĐ huyện vẫn thuộc biên chế của Trung tâm y tế huyện, các họat động vẫn chưa chịu sự chi phối của Trung tâm y tế. Trách nhiệm chính của cán bộ chuyên trách trong thời kỳ này là phối hợp với Đội sinh đẻ có kế hoạch để cung ứng phương tiện tránh thai cho các đối tượng có nhu cầu. Các phương tiện tránh thai ờ thời kỳ này đã phong phú hơn, ngoài phương tiện vòng tránh thai ra, các phương tiện tránh thai khác cũng được triển khai, như bao cao su tránh thai, thuốc uống tránh thai, đình sản nam, nữ. Phạm vi đối tượng cũng như địa bàn triển khai không chỉ bó hẹp ở khối cán bộ công chức, mà được triển khai xuống cả vùng nông thôn. Số đối tượng tự nguyện chấp nhận các biện pháp tránh thai có tăng hơn những năm trước, song còn ở mức thấp.
Đối với cơ sở: Thời kỳ này có 04 xã đã được chọn làm điểm là xã: Lương Sơn, Bảo Hà, Kim Sơn và thị trấn Phố Ràng. Các cơ sở này được thành lập Ban dân số, gồm mỗi ban 10 thành viên; Cơ cấu giống như Ban dân số huyện; Cán bộ chuyên trách do chủ tịch hội phụ nữ xã hoặc trưởng trạm y tế kiêm nhiệm. Ở thời kỳ này tất cả các trạm y tế xã chưa có cơ sở nào tự đặt vòng tránh thai ở tại trạm, việc cung ứng các phương tiện tránh thai đều do đội sinh đẻ có kế hoạch và Trung tâm y tế huyện đảm nhiệm.
Giai đoạn 1995 đến tháng 4 năm 2002.
Ở cấp huyện trước sức ép ngày càng gia tăng dân số quá nhanh trên các mặt kinh tế-xã hội của huyện, cũng như để đảm bảo sự thống nhất trong việc tổ chức triển khai các hoạt động của chương trình trên phạm vi tỉnh và cả nước. Tháng 01 năm 1995 theo sự chỉ đạo của UBND tỉnh và ngành dọc cấp trên, UBDS-KHHGĐ được thành lập và trở thành cơ quan độc lập trực thuộc UBND huyện, do phó Chủ tịch UBND huyện trực tiếp làm Chủ nhiệm. Bộ phận chuyên trách gồm 04 biên chế, trong đó có 01 biên chế chính thức, trực tiếp làm phó chủ nhiệm thường trực để giúp việc cho Chủ nhiệm và có 03 biên chế hợp đồng. Đây là lần đầu tiên UBDS-KHHGĐ được xác định về vị trí, chức năng nhiệm vụ của mình, đó là: UBDS-KHHGĐ là cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, chịu sự lãnh đạo toàn diện của UBND huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của UBDS-KHHGĐ tỉnh. Giúp UBND huyện quản lý nhà nước về lĩnh vực DS-KHHGĐ. Chủ trì phối hợp với các cơ quan, ban, ngành, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội triển khai thực hiện chính sách, chương trình, dự án về dân số-KHHGĐ trên địa bàn huyện.
Chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch 10 năm, 5 năm, hàng năm và cá._.h hoá gia đình.
1.1.3. Đầu tư cho công tác DS-KHHGĐ là đầu tư mang lại hiệu quản kinh tế trực tiếp rất cao. Nhà nước cần tăng mức chị ngân sách cho công tác DS-KHHGĐ, đồng thời động viên sự đóng góp của cộng đồng và tranh thủ sự viện chợ của quốc tế.
1.1.4. Huy động lực lượng toàn xã hội tham gia công tác DS-KHHGĐ, đồng thời phải có bộ máy chuyên trách tập chung cao để quản lý theo chương trình mục tiêu, bảo đảm các nguồn lực nói trên được sử dụng có hiệu quả và đến tận tay người dân.
1.1.5. Để đạt được mục tiêu trong thời gian tương đối ngắn, điều có ý nghĩa quyết định là Đảng và chính quyền các cấp lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác DS-KHHGĐ theo chương trình.
1.2 Mục tiêu:
1.2.1. Mục tiêu tổng quát: Thực hiện gia đình ít con, khoẻ mạnh, tạo điều kiện để có cuộc sống ấm no hạnh phúc.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể: Mỗi gia đình chỉ có 1 hoạc 2 con để đến năm 2015 bình quan trong toàn xã hội mỗi gia đình( mỗi cặp vợ chồng) có 2 con, tiến tới ổn định quy mô dân số từ giữa thế kỷ XXI. Tập chung mọi nỗ lực nhằm tạo chuyển biến rõ rệt ngay trong thập kỷ 90 này.
2. Chiến lược dân số Việt Nam 2001-2010.
2.1 Quan điểm:
2.1.1 Công tác dân số là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển đát nước, là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội, góp phần quyết định để thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
2.1.2 Thực hiện đồng bộ từng bước và có trọng điểm việc điều hoà quan hệ giữa số lượng với chất lượng dân số, giữa phát triển dân số với phát triển nguồn nhân lực, giữa phân bố và di chuyển dân cư với phát triển kinh tế-xã hội là nhiệm vụ trọng tâm của công tác dân số; tậ trung ưu tiên cho các vùng có mức sinh cao, vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa để giải quyết các vấn đề dân số và nâng cao mức sống nhân dân.
2.1.3 Đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho sự phát triển bền vững và mang lại hiệu quả kinh tế -xã hội trực tiếp và rõ rệt. Nhà nước đảm bảo đủ nguồn lực cho công tác dân số, đồng thời vận động sự đóng góp của cộng đồng và tranh thủ sự viện chợ của quốc tế.
2.1.4 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền- giáo dục về dân số và phát triển, kết hợp với việc thực hiện đầy đủ , có hiệu quả chưong trình chăm sóc SKSS/KHHGĐ, tăng cường vai trò của gia đình và thực hiện bình đăng giới trong lĩnh vực chăm sóc SKSS/KHHGĐ là các giải pháp cơ bản để đảm bảo tính bền vững của chương trình dân số và phát triển.
2.1.5. Tăng cường sự lãnh đạo chỉ đạo của Đảng và chính quyền các cấp đối với công tác dân số, đẩy mạnh xã hội hoá là yếu tố quyết định đảm bảo sự thành công của chương trình dân số phát triển.
2.2. Mục tiêu:
2.2.1 Mục tiêu tổng quát:
Thực hiện gia đình ít con, khoẻ mạnh, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nâng cao chất lượng dân số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
2.2.2 Các mục tiêu cụ thể.
Mục tiêu 1: Duy trì vững chắc xu thế giảm sinh để đạt mức sinh thay thế bình quân trong toàn quốc chậm nhất vào năm 2005, ở vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo chậm nhất vào năm 2010 để quy mô, cơ cấu dân số và phân bổ dân cư phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội vào năm 2010.
Mục tiêu 2: Nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh thần. Phấn đấu đạt chỉ số phát triển con người(HDI) ở mức trung bình tiên tiến của thế giới vào năm 2010.
2.3. Các chỉ tiêu cần đạt đạt được vào năm 2010.
Tổng tỷ suất sinh đạt mức sinh thay thế( năm 1998 là 2,5 con); Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống 1,1% (TĐTDS 1/4/199 là 1,43%); Dân số cả nước không quá 88 triệu người (TĐTDS 1/4/1999 là 76,6 triệu người; Tăng tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại lên khoảng 70% ( năm 1997 là 55,8%); Hạ tỷ suất chết sơ sinh xuống còn 25‰ (TĐTDS 1/4/1999 là 36,7‰); Hạ tỷ suất chết mẹ xuống còn 70/100.000 ca đẻ sống ( năm 1998 là 100/100.000 ca đẻ sống); giảm tỷ lệ nạo phá thai xuống bằng 50% hiện nay ( năm 1998 là khoảng 935 ca ).
Phấn đấu nâng chỉ số phát triển con người(HDI) từ 0,664 điểm năm 19987 lên mức trung bình tiên tiến của thế giới, khoảng 0,700-0,750 điểm. Trong đố nâng tuổi thọ trung bình của dân số 66,4 tuổi của năm 1998 lên 9 năm trên cơ sở phổ cập phổ thông trung học cơ sơ; Tăng GDP đầu người lên gấp đôi so với hiện nay. Nâng chỉ số phát triển liên quan đến giới (GDI) từ 0,668 điểm năm 1998 lên 0,700 điểm. Hạ tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi từ 36,7% năm 1995 xuống còn 25%. Ha tỷ lệ nhiễm mới HIV/AIDS. Phấn đấu giảm tỷ lệ sinh ra bị dị tật do di truyền và ảnh hưởng của chất độc màu da cam…. Đến năm 2005, cơ bản xoá hộ đói và giảm tỷ lệ hộ nghèo ( theo tiêu chuẩn hiện nay của Việt Nam) từ 10% năm 2000 xuống còn 5%; Đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo, tỷ lệ thất nghiệp thành thị không vượt quá 5% ( hiện nay là 7%). Tăng thời gian lao động ở nông thôn từ 70% hiện nay lên 80%-85% . Tỷ lệ người lao động đã qua đào tạo tăng lên khoảng 40%( hiện nay là 20%).
Phần lớn dân cư được đăn ký theo các chỉ tiêu của hệ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Đáp ứng nhu cầu sử dụng các thông tin dữ liệu dân cư trong việc hoạch định chính sách và lập kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội. Tỷ lệ dân số thành thị chiếm từ 35-40%. Đảm bảo 75% số người di dân tự do có đăng ký.
II. Mục tiêu công tác DS-KHHGĐ huyện Bảo Yên đến năm 2010.
1. Mục tiêu chung:
Nhằm cụ thể hoá quan điểm, mục tiêu, giải pháp chiến lược dân số Việt Nam 2001-2010 vào điều kiện thực tế ở điạ phương, để triển khai có hiệu qủa công tác Ds-KHHGĐ trên địa bàn. Duy trì vững chắc xu thế giảm sinh, nhằm đạt mức sinh thay thế( trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ chỉ có hai con) chậm nhất vào năm 2010, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý, từng bước nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh thần. Đảm bảo thực hiện tốt mối quan hệ giữa số lượng dân số với chất lượng dân số, giữa phát triển dân số với phát triển nguồn nhân lực, tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở địa phương và của cả nước.
2. Mục tiêu cụ thể:
2.1 Xây dựng và triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm đạt được mục tiêu mỗi cặp vợ chồng chỉ có một hoặc hai con tước năm 2010 và quy mô dân số khoảng dưới 82 nghìn người. Tiếp tục duy trì vững trắc mức giảm sinh trong những năm tiếp theo, để cùng với cả nước tiến tới ổn định quy mô dân số vào giữa thế kỷ XXI.
2.2 Tổ chức triển khai tốt dự án đăng ký dân số và xây dựng hệ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, hình thành hệ thống quản lý dân số thống nhất vào năm 2010, bảo đảm cung cấp thông tin, dữ liệu dân số kịp thời, chính xác phục vụ cho công tác quản lý điều hành của các cấp lãnh đạo
III. Một số giải pháp cụ thể:
1. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền đối với công tác DS-KHHGĐ:
1.1. Nhằm thống nhất trong công việc tổ chức thực hiện và huy động đông đảo lực lượng xã hội tham gia thực hiện công tác DS-KHHGĐ, cấp uỷ Đảng chính quyền phải tăng cường công tác lãnh đạo chỉ đạo, thông qua việc ban hành các nghị quyết, chỉ thị, các chương trình hành động và các văn bản khác để chỉ đạo các ngành, các cấp triển khai công tác dân số với các mục tiêu và cách làm cụ thể phù hợp với đặc điểm của từng địa phương và của mỗi ngành. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện và phân công cán bộ chủ chốt trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động dân số thông qua việc phụ trách theo các địa bàn cụ thể.
1.2 Chỉ đạo các ngành, các cấp trong khi xây dựng kế hoạch hoạt động của ngành mình, cấp mình phải lồng ghép với các nội dung công tác Ds-KHHGĐ và tổ chức quán triệt, triển khai nghiêm túc tới các thành viên, hội viên của ngành mình, cấp mình.
1.3 Định kỳ hàng năm, năm năm tổ chức sơ kết, tổng kết đánh giá tình hình thực hiện chính sách và thực hiện các chỉ tiêu DS-KHHGĐ theo từng giai đoạn đối với tất cả các ngành, các cấp, các đơn vị trên cơ sở, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể nhằm khắc phục những yếu kém, đề ra mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể và có các giải pháp thực hiện cho các năm tiếp theo.
1.4. Nhằm tăng cường công tác quản lý và khuyến khích, các cấp, các ngành, tổ chức xã hội và cá nhân tham gia tích cực vào công tác này ta cần đưa việc thực hiện các chỉ tiêu DS-KHHGĐ vào trong công tác thi đua, khen thưởng đối với tập thể và cá nhân. Cán bộ, Đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu thực hiện và tích cực vận động gia đình và nhân dân thực hiện. Kiên quyết xử lý nghiêm những cán bộ, Đảng viên, công chức, viên chức vi phạm chính sách dân số-KHHGĐ; Không kết nạp đảng, không đề cử, đề bạt và xem xét đưa ra khởi các chức vụ lãnh đạo Đảng, chính quyền, các đoàn thể đối với cán bộ, công chức viên chức vi phạm chính sách này. Định kỳ kiểm tra, đánh giá việc tổ chức triển khai chính sách DS-KHHGĐ và mức độ hoàn thành các chỉ tiêu của các cơ quan, đơn vị, địa phương.
1.5 Các cơ quan, đơn vị, địa phương phải thực hiện nghiêm chế độ báo cáo việc tổ chức triển khai và thực hiện chính sách DS-KHHGĐ tại cơ quan đơn vị và địa phương theo quy định.
2. Kiện toàn, củng cố bộ máy làm việc:
2.1 Đối với UBDS,GĐ&TE huyện.
Tham mưu và đề xuất với UBND huyện tăng thêm biên chế cho UBDS,GD&TE huyện, để đảm bảo có đủ cán bộ triển khai đầy đủ kịp thời các hoạt động theo chương trình. Tạo điều kiện và động viên cán bộ tích cực tham gia học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt là các lớp tập huấn chuyên môn về công tác DS-KHHGĐ do tỉnh và TW tổ chức, nhằm từng bước nâng cao năng lực quản lý và điều hành các hoạt động của chương trình cho đội ngũ cán bộ này.
Thực hiện nghiêm các chế độ chính sách đối với người lao động, đồng thời thực hành tiết kiệm chi để tăng thêm thu nhập cho các cán bộ viên chức, ngoài ra phải thường xuyên thăm hởi động viên về mặt tinh thần và thực hiện tốt quy chế dân chủ trong cơ quan để tạo cho cán bộ nhân viên khí thế làm việc hăng say, nhiệt tình và yêu công việc, phấn đấu hoàn thành tốt công việc được giao.
Xây dựng tốt quy chế hoạt động của cơ quan, trong đó có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng người với các công việc cụ thể, để các thành viên có trách nhiệm hơn và chủ động triển khai tốt công việc được giao. Thực hiện tốt chế độ giao ban tháng, quý để kịp thời động viên những người, những công việc tốt và kịp thời nhắc nhở, uốn nắn những người chưa hoàn thành nhiệm vụ hoặc có những vấn đề sai sót, để cho các hoạt động của cơ quan được thông suốt và theo đúng chỉ đạo.
Thực hiện tốt công tác thi đua khen thưởng trong toàn cơ quan để tạo ra không khí sôi nổi trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao đối với từng cán bộ và của tập thể.
2.2 Đối với Ban dân số các xã, thị trấn.
Để đội ngũ cán bộ dân số các xã, thị trấn hoạt động tốt, đáp ưng được yêu cầu công việc và ổn định yên tâm công tác lâu dài trong ngành dân số, UBDS,GĐ&TE huyện phối hợp với UBND các xã, thị trấn lựa chọn những đối tượng có trình độ, nhiệt tình, có sức khoẻ và gia đình phải có điều kiện về kinh tế để đưa vào làm cán bộ Chuyên trách và cộng tác viên, đồng thời có kế hoạch phối hợp với các phòng ban chuyên môn của UBDS,GĐ&TE tỉnh tổ chức tập huấn nâng cao năng lực quản lý và những kỹ năng chuyên môn để đáp ứng được yêu cầu đề ra. Thực hiện tốt việc chi trả chế độ và phối hợp với các cơ sở làm tốt công tác thi đua khen thưởng hàng năm nhằm động viên kịp thời những cán bộ hoàn thành suất sắc nhiệm vụ được giao. Tiếp tục đề nghị tỉnh, trung ương có chính sách chế độ cụ thể cho đội ngũ cán bộ này.
3. Tăng cường và đổi mới công tác thông tin giáo dục truyền thông.
Với gần 90% dân số sống ở vùng nộng thôn, trình độ dân trí còn rất thấp, thâm trí có người còn không biết nói tiếng phổ thông, do vậy huyện xác định công tác tuyên truyền vận động là hết sức khó khăn và phức tạp, để đảm bảo thực hiện được các mục tiêu đề ra, trong thời gian tới huyện sẽ tổ chức tốt các công việc sau:
3.1. Tăng cường nâng cao chất lượng thông tin cho các cấp lãnh đạo để tạo sự cam kết và ủng hộ mạnh mẽ hơn nữa của lãnh đạo Đảng và chính quyền trong việc thực hiện chương trình DS-KHHGĐ, cần phải thường xuyên cung cấp thông tin với nội dung hình thức phù hợp cho lãnh đạo Đảng và chính quyền. Tăng cường các cuộc tiếp xúc đối thoại giữa lãnh đạo với nhân dân trên các phương tiện thông tin đại chúng và thông qua các cuộc gặp mặt, trao đổi trực tiếp nhằm đảm bảo thông tin hai chiều thông suốt và hiệu quả, tạo điều kiện cho các cấp thực sự tham gia vào cuộc, đảm bảo mọi chủ chương chính sách của Đảng, Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống của người dân và tạo sự tin tưởng trong nhân dân đối với công tác DS-KHHGĐ.
3.2. Nâng cao năng lực và kỹ năng truyền thông cho đội ngũ cán bộ làm công tác truyền thông:
Nâng cao năng lực và kỹ năng truyền thông cho đội ngũ cán bộ làm công tác truyền thông là việc làm có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện thành công chương trình DS-KHHGĐ. Nghị quyết TW ương 4 ( khoá VII) cũng chỉ rõ trong thực hiện chính sách DS-KHHGĐ lấy tuyên truyền vận động là chính, như vậy để làm tốt công tác này, đội ngũ tuyên truyền viên từ huyện đến cơ sở phải được bố trí đầy đủ và lựa chọn những người có năng lực để bố trí thực hiện công tác này, đồng thời phải có kế hoạch đào tạo hàng năm để nâng cao năng lực nghiệp vụ và kỹ năng tuyên truyền cho đội ngũ cán bộ. Thường xuyên cung cấp đầy đủ các thông tin về công tác DS-KHHGĐ và các thông tin khác có liên quan, kịp thời bổ sung các trang thiết bị, các sản phẩm truyền thông phục vụ cho công tác truyền thông được tốt nhất . Đồng thời phải có biện pháp cụ thể để thu hút đối tượng tham gia. Thực hiện tốt chế độ chính sách và có những chính sách khuyến khích để đôị ngũ này yên tâm công tác lâu dài để họ phát huy được những kinh nghiệm trong công tác tuyên truyền vận động.
3.3. Nâng cao chất lượng trong công tác truyền thông:
Trên cơ sở làm tốt công tác quản lý về dân số, quản lý đối tượng của chương trình, tiến hành phân nhóm theo những đặc điểm cụ thể để xây dựng nội dung, hình thức, kênh truyền thông cho phù hợp để tiếp cận được với các nhóm đối tượng nhằm nâng cao nhận thức và tăng nhanh số người thay đổi hành vi về SKSS/KHHGĐ một cách bền vững. Tiếp tực vận động các đối tượng đã và đang thực hiện thay đổi hành vi SKSS/KHHGĐ để họ duy trì hành vi và vận động họ tuyên truyền vận động người khác cùng thực hiện. Tăng cường tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời chú trọng phát huy hiệu quả của các hoạt động truyền thông trực tiếp, trong đó chú ý làm tốt công tác tư vấn về các dịch vụ KHHGĐ cho các đối tượng. Thực hiện có hiệu quả các hoạt động phối hợp truyền thông lồng ghép với các chương trình và với các ngành, tạo sự đồng bộ và phát huyết tối đa hiệu quả truyền thông.
3.4. Mở rộng các hình thức thức truyền thông.
Ngoài các hình thức tuyên truyền thường được sử dụng, như thông qua phương tiện thông tin đại chúng( báo, đài truyền thanh, truyền hình); tuyên truyền trực tiếp thông qua các hội nghị của tổ chức đoàn thể, hội nghị của các thôn bản, tổ dân phố, qua các câu lạc bộ cán bộ y tế, tuyên truyền tại các hộ gia đình của đội ngũ cộng tác viên, chúng ta phải chú ý tới đội ngũ già làng, trưởng các dòng họ, những người có uy tín trong cộng đồng, các cha đạo ở địa phương; Đặc biệt là quan tâm hơn nữa công tác giáo dục tuyên truyền trong nhà trường. Ngành giáo dục trước hết phải làm tốt công tác giáo dục để nâng cao dân trí cho người dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, đồng thời làm tốt công tác giáo dục dân số trong nhà trường với các nội dung, hình thức phù hợp với từng cấp học, nhằm nâng cao ý thức về dân số, gia đình & trẻ em cho các em khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
3.5. Đổi mới nội dung và mở rộng phạm vi tuyên truyền.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm, trình độ nhận thức của từng nhóm đối tượng cụ thể, cán bộ tuyên truyền phải cụ thể hoá các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thành những nội dung tuyên truyền cho từng nhóm đối tượng cụ thể, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo tính hệ thống của hệ thống chính sách. Các chủ trương chính sách của Đảng, phát luật của nhà nước, các văn bản hướng dẫn chỉ đạo của cấp trên phải được triển khai đồng bộ và rộng rãi tới toàn thể cán bộ và nhân dân, kể cả vùng sâu, vùng xa. Phải có kế hoạch và chọn địa điểm tổ chức truyền thông phù hợp để thu hút được đông đảo lực lượng tham gia. Ngoài ra cán bộ truyền thông ở cấp tỉnh, cấp huyện phải thường xuyên nắm bắt thông tin để xây dựng các nội dung và sản phẩm truyền thông chuyển giao cho cấp cơ sở tổ chức tuyên truyền kịp thời. Trong khi tuyên truyền phải chú ý lắng nghe ý kiến phản hồi từ các đối tượng và của nhân dân, nhằm giải quyết tốt các vấn đề mà nhân dân chưa rõ hay những khó khăn mà người dân đang gặp phải; Đồng thời cũng cần chú ý tới các phong tục, tập quán, bản sắc, lối sống của từng dân tộc, từng vùng để có cách tiếp cận cũng như đưa lượng thông tin phù hợp để người nghe không bị nhàm chán. Khi xây dựng kế hoạch tuyên truyền cần đặc biệt chú ý tới nhóm tuổi có mức sinh cao( tính theo nữ từ 24-29 tuổi và nhóm có nguy cơ sinh con thứ ba trở lên cao, đó là những cặp vợ chồng sinh con một bề toàn là con gái sống ở vùng nông thôn, vùng cao, vùng sâu. Tăng cường tuyên truyền với nhóm đối tượng là nam giới, chủ hộ gia đình, để họ có trách nhiệm chia sẻ cùng với người vợ trong thực hiện các biện pháp KHHGĐ và trong việc quyết định số lần sinh.
3.6. Định kỳ hàng năm, năm năm hoặc giữa kỳ tổ chức kiểm điểm đánh giá tình hình triển khai thực hiện công tác tuyên truyền vận động trên phạm vi địa bàn huyện. Đánh giá việc đã làm được viêc chưa làm được, nguyên nhân dẫn đến hạn chế trên, để từ đó đề ra các giải pháp khắc phục. Đồng thời để đánh giá chính xác mức độ hoàn thành nhiệm vụ cần phải xây dựng được các chỉ tiêu cụ thể và tổ chức giao chỉ tiêu cho các cơ quan, đơn vị, các cơ sở để so sánh và phấn đấu. Đặc biệt là phải xây dựng được hệ thống tiêu chí mẫu biểu để tổ chức điều tra khảo sát về tình hình nhận thức của cán bộ, Đảng viên và nhân dân về công tác DS-KHHGĐ, kịp thời điều chỉnh bổ sung các hoạt động tuyên truyền phù hợp hơn, nhằm tăng nhanh số người chuyển đổi hành vi về DS-KHHGĐ bền vững. Gắn hoạt động truyền thông với việc cung cấp đầy đủ kịp thời các dịch vụ KHHGĐ.
4. Nâng cao chất lượng và mở rộng dịch vụ SKSS/KHHGĐ:
Việc chấp nhận thực hiện các biện pháp tránh thai giúp cho người sử dụng tránh có thai ngoài ý muốn,chủ động được số lần sinh và khoảng cách giữa các lấn sinh cho phù hợp với điều kiện sức khoẻ, tuổi tác, điểu kiện kinh tế; đặc biệt là giúp cho nhà nước điều tiết được mức sinh chung, để xây dựng quy mô,cơ cấu dân số hợp lý với điều kiện kinh tế-xã hội tuỳ theo từng giai đoạn phát triển của đất nứơc. Như vậy việc nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ là nhiệm vụ hết sức quan trọng; nếu chất lượng dịch vụ tốt, được cung cấp kịp thời và thuận tiện sẽ tăng nhanh số người sử dụng; ngược lại số người sử dụng sẽ giảm và có thể ảnh hưởng tới sức khoẻ của người sử dụng, như vậy việc điều tiết mức sinh sẽ không đạt được các mục tiêu đề ra. Để nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ trong thời gian tới cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau;
4.1 Nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ:
Chủ động phối hợp với ngành y tế quan tâm kiện toàn, củng cố hệ thống y tế cơ sở, tổ chức rà soát lại đội ngũ cán bộ, các trang thiết bị phục vụcho việc khám, chữa bệnh và chăm sóc SKSS/KHHGĐ để kịp thời điều chỉnh bổ sung, đặc biệt là bố trí đủ cán bộ nữ hộ sinh cho tất cả các trạm y tế, đảm bảo trước năm 2010 tất cả các trạm đều tự làm thủ thuật đặt vòng tránh thai, cấy thuốc tránh thai, thuốc ti êm tránh thai cho các đối tượng ngay tại trạm.
Tăng cường công tác đào tạo, tập huấn cho cán bộ trực tiếp làm dịch vụ KHHGĐ tại các cơ sở y tế từ huyện xuống cơ sở, nhằm mục đích nâng cao tay nghề, kỹ năng thực hành, đảm bảo an toàn cho người sử dụng.
Ngoài các dịch vụ cung cấp qua hệ thống y tế, cần cung cấp thêm mạng lưới dịch vụ phi lâm sàng( thuốc uống tránh thai, bao cao su tránh thai) qua hệ thống cộng tác viên dân số, theo phương thức cung cấp tới tận hộ các gia đình, tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng. Để đảm bảo việc cung cấp dịch vụ được an toàn, hàng năm cần phải tập huấn về bảng kiểm thuốc tránh thai cho đội ngũ cộng tác viên.
Thực hiện tốt chế độ chính sách và chính sách khuyến khích đối với người cung cấp dịch vụ KHHGĐ và người tự nguyện chấp nhận thực hiện KHHGĐ, đồng thời, kịp thời khen thưởng cho những người có tinh thân trách nhiệm phấn đấu hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, tạo phong trào thị đua sôi nổi trong công tác này.
Làm tốt công tác tư vần về các biện pháp tránh thai( kể cả ưu, nhược điểm của từng biện pháp) để giúp các đối tượng lựa chọn được biện pháp tránh thai phù hợp với điều kiện sức khoẻ, tuổi tác và với số con hiện có, giảm tối đa tỷ lệ thất bại trong thực hiện KHHGĐ. Đồng thời làm tốt công tác chăm sóc cho những người sau sử dụng các biện pháp tránh thai, thông qua việc hàng tháng đi thăm hộ gia đình của các cộng tác viên.
4.2. Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các biện pháp tránh thai.
Để đảm bảo an toàn cho người sử dụng và đạt được hiệu quả cao trong việc cung cấp các dịch vụ KHHGĐ, trước tiên biện pháp tránh thai phải đảm bảo về mặt chất lượng, và kho bảo quản phải đảm bảo để tránh hư hỏng. Trước khi cung cấp cho đối tượng phải kiểm tra kỹ, nếu không dễ gây tai biến hoặc ảnh hưởng tới sức khoẻ của người sử dụng đặc biệt là gây mất niềm tin trong nhân dân. Ví dụ như vòng tránh thai phải được bảo quản tốt, không bị han dỉ; thuôc uống phải còn hạn sử dụng, mới được cấp cho người sử dụng. Trong khi làm tốt các thủ thuật đình sản, đặt vòng… phải tuân thủ quy trình kỹ thuật và phải thận trọng trong từng động tác, hạn chế tối đa những sai sót xẩy ra.
Biện pháp tránh thai là loại hình dịch vụ cung cấp cho nhiều người với các đặc điểm tâm lý, điều kiện khác nhau, do vậy cần phải đa dạng hoá các biện pháp tránh thai để người sử dụng lựa chọn biện pháp phù hợp; đồng thời phải xây dựng lượng dự trữ đảm bảo cung cấp thường xuyên cho đối tượng, tránh tình trạng đối tượng có nhu cầu sử dụng nhưng lại không có các phương tiện tránh thai để cung cấp.
4.3. Thực hiện tốt chính sách khuyến khích:
Cùng với việc làm tốt công tác tuyên truyền vận động gắn với dịch vụ KHHGĐ và tạo sự thuận lợi trong việc cung cấp các dịch vụ cho người sử dụng, cần làm tốt chính sách khuyến khích trực tiếp đối với đối tượng chấp nhận thực hiện các biện pháp tránh thai, như chế độ bồi dưỡng, cấp thẻ bảo hiểm cho những đối tượng sau thực hiện biện pháp đình sản; mục đích là khuyến khích người sử dụng, đồng thời để giúp cho đối tượng có khoản thu nhập nhất định để bồi dưỡng trong thời gian nghỉ thực hiện KHHGĐ.
5. Nhóm giải pháp hỗ trợ:
5.1. Ngành giáo dục cần có kế hoạch đào tạo nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của công tác giáo dục. Làm tốt công tác huy động trẻ em trong độ tuổi đến trường, duy trì được việc giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và từng bước phổ cập giáo dục THCS trong toàn huyện, làm tốt công tác xoá mù và chống tái mù chữ để nhằm nâng cao dân trí, tạo điều kiện cho mọi người tham gia học tập nâng cao kiến thức về mọi mặt, cũng như hiểu biết về chính sách pháp luật, thực hiện tốt các chủ trương chính sách đề ra.
5.2. Ngành tư pháp: Cần kiện toàn, củng cố ban phối hợp tuyên truyền giáo dục pháp luật của huyện, đảm bảo mọi chủ trương chính sách của đảng, pháp luật của Nhà nước đều được tuyên truyền sâu rộng tới tất cả quần chúng nhân dân. Đồng thời xây dựng và bổ sung kịp thời tủ sách pháp luật ở dưới cơ sở. Làm tốt công tác tư vấn pháp luật cho người dân.
5.3. Ngành y tế: Ngoài việc làm tốt các hoạt động cung cấp đầy đủ, kịp thời các dịch vụ kế hoạc hoáh gia đình cho các đối tượng, cần chú trọng làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân và làm tốt công tác khám, chữa bệnh cho trẻ em, các chương trình y tế quốc gia như chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em dưới năm tuổi, chương trình tiêm chủng mở rộng….Đồng thời làm tốt công tác tư vấn cho các bà mẹ vệ sinh thai nghén, nuôi con bằng sữa mẹ…. Mục đích là giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em, để loại bỏ tâm lý sinh dự phòng, sinh bù trong nhân dân. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm tăng tỷ lệ sinh con thứ ba hiện này.
6. Tăng cường vai trò của cộng đồng;
Hướng dẫn và khuyến khích cộng đồng dân cư xây dựng hương ước, quy ước của thôn, bản, xã nhằm tạo thành dư luận xã hội ủng hộ việc thực hiện mực tiêu DS-KHHGĐ, nâng cao chất lượng dân số và quản lý tốt công tác dân cư. Khuyến khích mọi các nhân, gia đình, cộng đồng và mọi tổ chức tham gia các hoạt động DS-KHHGĐ, tạo nên phong trào thi đua sôi nổi phấn đấu đạt mục tiêu đề ra.
7.Tài chính và hậu cần:
Các nguồn kinh phí được phân bổ từ đầu năm và được quản lý thống nhất theo luật ngân sách và các văn bản hướng dẫn của Bộ tài chính, Kinh phí được phân bổ chi tiết đến từng vịêc cụ thể, đặc biệt là kinh phí cho các cơ sở được cấp đầy đủ, kịp thời và có hướng dẫn sử dụng có hiệu quả. Thường xuyên tăng cường giám sát nhằm sử dụng nguồn kinh phí đúng mục đích, tiết kiệm, xử lý kịp thời các sai phạm. Đồng thời có kế hoạch đề nghị huyện bổ sung kinh phí cho hoạt động truyền thông. Xây dựng kho bảo quản và dự trữ các phương tiện tránh thai theo quy định; hàng tháng, hàng quý xây dựng kế hoạch dự trù đảm bảo cơ số để cung cấp cho các cơ sở theo nhu cầu người sử dụng.
8. Làm tốt công tác quản lý dân cư:
Làm tốt công tác quản lý biến động về dân số, bao gồm cả biến động tự nhiên và cơ học. Tổ chức thu thập thông tin phục vụ cho việc xây dựng hệ cơ sở dữ liệu về dân cư. Trên cơ sở nắm chắc các xu hướng biến động về dân số có các giải pháp tác động phù hợp để đạt mục tiêu dân số như chiến lược Việt Nam 2001-2010 đề ra.
9. Đào tạo nghiên cứu:
Trên cơ sở cán bộ hiện có, tiếp tục động viên và tạo điều kiện cho cán bộ đi học về chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là về nghiệp vụ quản lý chương trình DS-KHHGĐ để đảm đương tốt được yêu cầu công việc cụ thể, từng bước nâng cao năng xuất và chất lượng công tác.
Phối hợp với các xã, thị trấn kiện toàn, củng cố lại đội ngũ cán bộ dân số cơ sở và có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại, để đội ngũ này làm tốt công tác quản lý biến động về dân số, công tác tuyên truyền, cấp được các phương tiện tránh thai phi lâm sàng cho các đối tượng và các hoạt động khác theo chương trình.
IV. Một số kiên nghị:
Nhằm hỗ trợ các giải pháp thực hiện thành công công tác DS-KHHGĐ, sớm đạt được các mục tiêu đã đề ra, UBDS,GĐ&TE huyện xin có một kiến nghị như sau:
1. Về chế độ chính sách:
Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách DS-KHHGĐ cho phù hợp với xu hướng phát triển dân số và kinh tế-xã hội. Trong khi xây dựng các chính sách cần có sự phối hợp giữa các chính sách để tạo ra sự đồng thuận và thống nhất trong hệ thống chính sách, đồng thời chính sách nên cụ thể hoá theo vùng, miền tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội của các vùng, miền và có chính sách khuyến khích giúp đỡ với các vùng, miền còn gặp nhiều khó khăn, để các địa phương dễ vận động trong tổ chức thực hiện và xây dựng các phong trào.
Có chính sách khuyến khích trực tiếp về vật chất và tinh thần đối với các cơ quan, đơn vị, các cơ sở, đặc biệt là các thôn bản và cá nhân tự giác thực hiện tốt chính sách DS-KHHGĐ và với những người làm công tác DS-KHHGĐ.
2. Về tổ chức bộ máy làm việc.
Trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy tổ chức các cấp để lựa chọn cán bộ và xác định biên chế tương xứng đảm bả tổ chức triển khai có hiệu quả các hoạt động của chương trình. Đồng thời cần có quy hoạch đào tạo cán bộ chuyên ngành về công tác dân số, đảm bảo bố trí cán bộ đúng ngành đúng nghề tạo điều kiện thuận lợi trong triển khai nhiệm vụ.
Xác định công tác DS-KHHGĐ là một công việc khó khăn, phức tạp và cần phải thực hiện trong thời gian dài; Vì vậy Ban dân số-KHHGĐ xã phải xác định là một ngành trực thuộc UBND xã; Cán bộ Chuyên trách được hưởng chế độ như trưởng của các ban ngành khác, đồng thời điều chỉnh chế độ thù lao cho Cộng tác viên cho phù hợp để đội ngũ này ổn định yên tâm công tác.
3. Về quản lý và lãnh đạo.
Cần tăng cường hơn nữa công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyển đối với công tác DS-KHHGĐ, nhằm triển khai mạnh mẽ các hoạt động chương trình của đảng và tạo sự thống nhất trong tổ chức thực hiện, đồng thời huy động được cả hệ thống chính trị và cá nhân tham gia, tạo thành phong trào rộng lớn trong nhân dân.
4. Về kinh phí và hậu cần:
Cần tăng cường thêm kinh phí trong công tác DS-KHHGĐ, đặc biệt là trong các hoạt động truyền thông và quản lý về dân cư. Kinh phí phải cấp kịp thời đảm bảo cho các hoạt động triển khai đúng kế hoạch.
Kết Luận
Qua phân tích thực trạng trên ta thấy công tác DS-KHHGĐ huyện Bảo Yên còn gặp nhiều khó khăn, như tỷ suất sinh, tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên còn cao. Địa hình phức tạp, hệ thống đường giao thông, đặc biệt là đường giao thông liên xã, liên thôn đi lại còn khó khăn. Trình độ dân trí còn thấp, công tác y tế, giáo dục còn nhiều hạn chế. Một số cấp uỷ Đảng, chính quyền cơ sở chưa thực sự quan tâm và có tư tưởng trông chờ ỷ lại, do vậy các hoạt động ở những địa phương này triển khai chưa đạt yêu cầu, chuyển đổi hành vi về thực hiện KHHGĐ chưa bền vững. Số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ chiếm tỷ lệ cao, luôn tiềm ẩn nguy cơ tăng mức sinh trở lại. Biên chế bộ máy tổ chức làm công tác ở cấp huyện còn quá thấp, trình độ còn bất cập do vậy chưa đáp ứng yêu cầu thực tế của công việc đề ra.
Tuy nhiên bên cạnh những khó khăn trên cũng có những thuận lợi cơ bản sau:
Nhận thức của lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp và của nhân dân về công tác DS-KHHGĐ ngày càng được nâng cao. Công tác phối hợp lồng ghép hoạt động chương trình Ds-KHHGĐ với các chương trình khác ngày càng được các ngành các cấp quan tâm và đã đưa thành một chỉ tiêu trong việc xét thi đua khen thưởng của các ngành các cấp. Tỷ suất sinh và tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên hàng năm có xu thế giảm mạnh. Các chỉ tiêu về KHHGĐ hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch giao. Nhưng mặt thuận lợi trên là tiền đề cho việc hoàn thành mục tiêu DS-KHHGĐ đến năm 2010.
Xác nhận của UBND huyện Bảo Yên
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5353.doc