Nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng của Phòng Giao Dịch Thành Công – Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội Việt Nam

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Có thể nói năm 2006 là năm đánh dấu nhiều sự kiện quan trọng đối với Việt Nam và cũng là bước đệm để nền kinh tế Việt Nam trong năm 2007 đạt mức tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua. Dưới sự quản lý của nhà nước, nền kinh tế đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về “chất và lượng”. Vai trò to lớn của hệ thống Ngân hàng, đặc biệt là các Ngân hàng thương mại ngày càng được khẳng định. Trong khi nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình ngày càng lớn, tín dụng tiêu dùng là m

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng của Phòng Giao Dịch Thành Công – Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột trong những giải pháp luôn được các cá nhân, hộ gia đình lựa chọn.Trên bước đường toàn cầu hoá, ngân hàng thương mại nói chung cũng như Ngân hàng TMCP Quân Đội nói riêng phải không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh, phát triển các loại hình tín dụng, đặc biệt là cho vay tiêu dùng bởi đây là một trong các loại hình cho vay đem lại những khoản lợi nhuận cao cho ngân hàng . Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy rằng hoạt động cho vay tiêu dùng của PGD Thành Công -Ngân hàng TMCP Quân Đội chưa thực sự được chú trọng. Nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng vẫn là một bài toán lớn không chỉ với bản thân Ngân hàng mà còn của các cấp, ngành khác. Trong bối cảnh đó, đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng của Phòng Giao Dịch Thành Công – Ngân hàng TMCP Quân Đội Việt Nam” được lựa chọn nghiên cứu. Khóa luận được trình bày theo kết cấu 3 chương: Chương 1: Các vấn đề lý thuyết về chất lượng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay tiêu dùng của PGD Thành Công – Ngân hàng TMCP Quân Đội Việt Nam Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng của PGD Thành Công – Ngân hàng TMCP Quân Đội Việt Nam Chương 1 CÁC VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Lịch sử ra đời của các ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá và lịch sử phát triển của tiền tệ. Hoạt động của ngân hàng ban đầu có nguồn gốc từ hoạt động lưu giữ hộ, thanh toán chi trả hộ và tiếp đến là sự phát triển hoạt động cho vay và các hoạt động khác. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Lãi suất tiền gửi là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với doanh nghiệp, cá nhân , hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước ( thành phố, tỉnh...). Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Ngân hàng cũng là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế. Tóm lại, Ngân hàng là một tổ chức tài chính quan trọng đối với nền kinh tế, là chìa khoá cho sự phát triển kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò của chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Vì vậy, cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động thuộc lĩnh vực ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Một NHTM có những hoạt động cơ bản sau: Hoạt động huy động vốn Huy động vốn – hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Huy động vốn nhàn rỗi của xã hội là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu của NHTM. Việc huy động vốn đóng vai trò ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động của các ngân hàng. Ngân hàng có thể huy động từ các nguồn sau: Nhận tiền gửi Tiền gửi là đầu vào sống còn trong hoạt động của ngân hàng. Đây là nguồn vốn cơ bản dùng để cho vay, đầu tư tạo lợi nhuận để đảm bảo sự phát triển vững mạnh của ngân hàng. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Tiền gửi của khách hàng là luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng có thể với nhiều mục đích: để sinh lời, để bảo quản, để thanh toán. Ngân hàng mở dịch vụ nhằm huy động từ người đem gửi với cam kết bảo quản hộ người có tiền, hoàn trả đúng hạn đồng thời trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng được sử dụng tạm thời để kinh doanh. Ngày nay có thể thu hút được nhiều khách hàng đến gửi tiền các ngân hàng cần phải có chiến lược cụ thể, bên cạnh chính sách về lãi suất hợp lý các ngân hàng còn phải cung cấp thêm các tiện ích khác nhau cho khách hàng, nhằm phù hợp với yêu cầu và mục đích của khách hàng. Huy động vốn Vốn chủ sở hữu là vốn ban đầu khi ngân hàng đi vào kinh doanh và có thể được bổ sung trong quá trình hoạt động bằng cách trích từ lợi nhuận hoặc tăng mức đóng góp của chủ sở hữu. Bên cạnh đó, các NHTM còn lập ra các quỹ như: quỹ dự phòng tổn thất, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng…Thông thường các ngân hàng không sử dụng món này để cho vay mà có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, trụ sở ngân hàng. Đối với mỗi hệ thống ngân hàng ở các quốc gia, vốn chủ sở hữu ngân hàng có thể là điều kiện được huy động, cho vay theo những tỷ lệ nhất định. NHTM còn thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác giải ngân...Ngân hàng thực hiện các giao dịch trên thường là các ngân hàng uy tín, chất lượng, có công nghệ hiện đại. Ngoài ra các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nên nguồn trong thanh toán (tiền ký quỹ để mở L/C, séc trong quá trình chi trả...), các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả ...Phần lớn các nguồn vốn khác ngân hàng không phải trả lãi. Tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể. Nguồn này thường xuyên, không phổ biến và chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn ngân hàng. Tại nhiều nước, NHNN thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn chủ. Do vậy, nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế, bao gồm các nguồn sau: Vay NHNN, vay các tổ chức tín dụng, vay trên thị trường vốn. Tỷ trọng của các loại nguồn này trong tổng nguồn thường thấp hơn nguồn tiền gửi. Các khoản đi vay thường là với thời hạn và quy mô xác định trước, do vậy tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Hoạt động sử dụng nguồn vốn NHTM thực hiện hoạt động sử dụng vốn nhằm mục đích thu lợi nhuận, tạo nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng. Ngân quỹ Ngân quỹ của một ngân hàng thường bao gồm : tiền mặt trong két, tiền gửi tại các ngân hàng khác ( gồm tiền gửi tại NHNN, tại các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác). Ngân hàng với vai trò thủ quỹ cho nền kinh tế, có trách nhiệm chi trả kịp thời mọi nhu cầu của người gửi tiền dưới hình thức chuyển khoản và cả bằng tiền mặt. Ngân hàng luôn phải giữ một lượng tiền mặt trong két, tiền gửi tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác. Lượng tiền mặt trong két nhiều hay ít phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu và khả năng thu hút tiền mặt mỗi thời kỳ, khoảng cách giữa NHTM và kho tiền của NHNN. Nhìn chung ngân quỹ trong ngân hàng là tài sản không sinh lời (hoặc sinh lời rất thấp trong trường hợp tiền gửi tại NHNN và các ngân hàng khác được hưởng lãi) song lại là tài khoản có tính thanh khoản – tính lỏng – cao nhất, đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên. Do vậy mỗi ngân hàng đều cố gắng giữ ngân quỹ ở mức thấp nhất có thể được. Tỷ trọng ngân quỹ trong tổng tài sản của ngân hàng thường thấp và khác nhau tại các ngân hàng. Thông thường, ngân hàng gần trung tâm tiền tệ, tỷ lệ này thường thấp hơn so với ngân hàng ở xa. Tỷ lệ này có xu hướng tăng trong giai đoạn kinh tế suy thoái, khi ngân hàng khó tìm kiếm được nhiều cơ hội cho vay và đầu tư. Cho vay Tại các NHTM hướng cơ bản trong sử dụng và khai thác các nguồn vốn cho vay và đầu tư. Trong đó cho vay là chủ yếu. NHTM tập trung năng lực tài chính của khách hàng này và đem chuyển cho người khác sử dụng theo phương thức kinh doanh vay để cho vay. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Nó là loại hình chủ yếu trong tổng danh mục tài sản của các ngân hàng, thường chiếm 70% tổng tài sản của các ngân hàng và cũng mang lại nguồn thu nhập chính cho ngân hàng. Nhìn chung cho vay là loại tài sản mang tính chất rủi ro cao nhất, vì vậy tìm kiếm và lựa chọn khách hàng phù hợp với công việc cần thiết và đòi hỏi nhiều chi phí của ngân hàng. Trong các hoạt động cơ bản của NHTM thì hoạt động cho vay là hoạt động mang tính truyền thống. Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhu cầu về vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh ngày càng cao nên hoạt động cho vay ngày càng gia tăng và phát triển mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế. Hiện nay, hoạt động cho vay được phân theo nhiều loại khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng Căn cứ vào kỳ hạn cho vay Cho vay ngắn hạn: là hình thức cấp tín dụng có thời hạn 1 năm trở xuống và mục đích chủ yếu là bù đắp thiếu hụt vốn tạm thời như phục vụ cho thanh toán tiền hàng hoá, tài trợ cho vốn lưu động. Cho vay trung hạn: là hình thức cấp tín dụng thường có thời hạn từ 1 đến 5 năm và thường được áp dụng cho vay các trường hợp đổi mới trang thiết bị, mua sắm máy móc mà thời gian khấu hao thường không quá dài để có thể hoàn trả vốn đúng hạn cho ngân hàng. Cho vay dài hạn: là khoản cấp tín dụng có thời hạn trên 5 năm cho vay các đối tượng xây dựng nhà xưởng, đầu tư dây truyền công nghệ với những dự án lớn có thời gian thu hồi vốn dài. Các khoản vay này thường có lãi suất cao hơn và ngân hàng chịu nhiều rủi ro. Trong thực tế có những khoản cho vay không xác định rõ thời hạn như cho vay luân chuyển, khách hàng thoả thuận với ngân hàng về việc ngân hàng được quyền trích trên tài khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có tiền. Việc xác định trước tài khoản thu nợ trong trường hợp này có thể gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm. Căn cứ vào tính chất bảo đảm vốn vay Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như cầm cố, thế chấp hoặc phải có bảo lãnh của bên thứ ba. Việc cho vay có bảo đảm nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng khi khách hàng mất khả năng thành toán khi đến hạn. Ngân hàng có thể phát mại tài sản nếu khách hàng không có khả năng chi trả khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết. Giá trị tài sản bảo đảm thông thường cao hơn giá trị khoản vay nhằm đề phòng sự mất mát, hao hụt, trượt giá và chi phí quản lý. Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của bên thế ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng đi vay. Cho vay không có tài sản bảo đảm thông thường dành cho khách hàng có uy tín cao, khách hàng truyền thống, tình hình tài chính lành mạnh, thường xuyên có lãi...Tuy nhiên đây là hình thức cho vay mang nhiều rủi ro đối với các ngân hàng. Ngân hàng cần thẩm định kỹ khách hàng trước khi quyết định cho vay hay không. Căn cứ vào phương thức cho vay Cho vay từng lần: Mỗi lần ngân hàng và khách hàng làm thủ tục vay vốn cần thiết ký kết hợp đồng tín dụng. Mỗi lần khách hàng có nhu cầu vay vốn thì việc ký kết hợp đồng được thực hiện từ đầu, sẽ phù hợp cho từng lần đi kèm với các điều khoản về lãi suất, thời hạn, tài sản bảo đảm...̣ Cho vay theo hạn mức tín dụng: Ngân hàng và khách hàng ký kết một hợp đồng tín dụng trong đó quy định giá trị tối đa mà khách hàng được vay trong thời gian cố định. Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho khách hàng vay để thực hiện dự án đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. Ngân hàng có thể giải ngân theo từng hạng mục mà dự án đang thực hiện khi khách hàng cung cấp đủ tài liệu, chứng từ ngân hàng yêu cầu cho lần giải ngân đó. Cho vay hợp vốn: Một nhóm các tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn của khách hàng. Trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Các tổ chức tín dụng phải ký kết với nhau về việc hợp vốn trên và khách hàng vay vốn không thể biết được điều đó. Hiện nay ở Việt Nam hình thức này tương đối phát triển và là một trong những nguyên nhân làm phát triển là nhiều khách hàng có nhu cầu vay vốn lớn nhưng các ngân hàng bị giới hạn bởi : Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng quy định mỗi ngân hàng không được cho vay đối với khách hàng vượt quá 15% vốn điều lệ. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Ngân hàng cam kết đáp ứng nguồn vốn cho khách hàng trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định để đầu tư cho dự án khi khách hàng có nhu cầu. Căn cứ vào nhu cầu vay, khách hàng và ngân hàng thoả thuận hạn mức tín dụng dự phòng, thời hạn hiệu lực của hạn mức dự phòng và mức chi trả cho ngân hàng. Căn cứ vào phương thức hoàn trả Cho vay trả một lần: là những khoản vay mà trong hợp đồng tín dụng thoả thuận khách hàng hoàn trả toàn bộ một lần vào thời gian đáo hạn cuối cùng. Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Nhờ vậy việc hoàn trả không phải là một lần duy nhất như trong trường hợp cho vay trả một lần. Cho vay trả góp thường được áp dụng với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc tài sản lâu bền. Số tiền và thời gian hoàn trả được tính sao cho phù hợp với khả năng hoàn trả của khách hàng. Trong cho vay trả góp đối tượng cho vay thông thường là người có thu nhập ổn định, phù hợp với mỗi lần hoàn trả cho ngân hàng. Căn cứ vào mục đích sử dụng món vay Cho vay sản xuất kinh doanh: là loại cho vay của tổ chức tín dụng đối với các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh. Các khoản vay này thường được sử dụng vào việc tài trợ cho vốn lưu động, mua sắm và lãi suất và đối tượng khách hàng chủ yếu của loại hình này là các doanh nghiệp. Cho vay tiêu dùng: là loại hình cho vay để tài trợ cho việc tiêu dùng nhằm giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo điều kiện cho người vay được hưởng mức sống cao hơn. Thông thường quy mô những khoản vay này thường nhỏ rủi ro cao nên lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao. Tuy nhiên cho vay tiêu dùng là hình thức đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng. Đối tượng được vay là các cá nhân và hộ gia đình để phục vụ cho mục đích xây dựng, sửa chữa, mua nhà ở, mua ô tô, du học, du lịch… Đầu tư Đầu tư hay còn gọi là hoạt động chứng khoán của NHTM giúp ngân hàng sử dụng và khai thác tối đa các nguồn vốn huy động đồng thời cũng mang lại nguồn thu nhập cũng rất quan trọng cho ngân hàng. Mặt khác hoạt động đầu tư còn giúp ngân hàng phân tán rủi ro và thực hiện mục tiêu thâm nhập thị trường...Các ngân hàng có thể thực hiện đầu tư vào chứng khoán ( có tính thanh khoản cao), góp vốn với các doanh nghiệp để trở thành 1 thành viên, đầu tư vào các dự án... Các hoạt động sử dụng vốn khác Bên cạnh những hoạt động sử dụng vốn cơ bản ngân hàng có sử dụng nguồn vốn huy động được vào việc quảng cáo, khuếch trương sản phẩm, các chương trình tài trợ khác không có lợi nhuận nhằm quảng bá thương hiệu của mình đến người tiêu dùng, các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hoạt động khác Ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ tài chính như : thanh toán không dùng tiền mặt ( séc, L/C, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu...), chuyển tiền, bảo lãnh, quản lý ngân quỹ, cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm, cung cấp các dịch vụ đại lý... Ngày nay các NHTM không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ để có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng. Khi cung cấp các dịch vụ này ngân hàng sẽ có một nguồn thu nhập từ phí dịch vụ. Trong tương lai thì các hoạt động này sẽ được ngân hàng chú trọng phát triển hơn nữa nhằm tăng khả năng cạnh tranh và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. 1.1.2 Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại 1.1.2.1 Khái niệm và đặc điểm cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại Trong nền kinh tế thị trường, NHTM chịu sự cạnh tranh gay gắt của nhiều đối thủ, không chỉ là các NHTM khác mà còn là các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, các ngân hàng đã liên tục phát triển và trở thành những tổ chức cung cấp chính về lĩnh vực cho vay tiêu dùng. Có được điều này là do ngân hàng đã thu hút được nguồn tiền gửi trong dân cư. Các cá nhân và hộ gia đình nhận thức được rằng, họ có thể cho vay lại tiền từ chính ngân hàng khi họ có nhu cầu. Vào những năm 1980, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đã tạo ra nhiều phương tiện kết nối với khách hàng như Internet, máy rút tiền tự động...Bên cạnh đó với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đời sống của nhân dân đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu chi tiêu phục vụ đời sống ngày càng cao. Đó là điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng nói chung, lĩnh vực cho vay tiêu dùng nói riêng phát triển. Cho vay tiêu dùng ra đời đã giải quyết mâu thuẫn cơ bản giữa tiêu dùng và khả năng thanh toán của cá nhân người tiêu dùng Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng thỏa thuận để khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình sử dụng một khoản tiền cho mục đích tiêu dùng phục vụ đời sống, theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định. Cho vay tiêu dùng là hình thức tài trợ cho mục đích chi tiêu của cá nhân, hộ gia đình. Các khoản cho vay tiêu dùng là nguồn tài chính quan trọng giúp người tiêu dùng có thể trang trải các nhu cầu trong cuộc sống như nhà ở, phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt, học tập, du lịch, y tế…trước khi họ có đủ khả năng về tài chính để hưởng thụ. Do đó, cho vay tiêu dùng có những đặc điểm riêng khác với tín dụng ngân hàng nói chung. Giá trị mỗi món vay nhỏ nhưng số lượng các món vay rất lớn Không giống như các khoản cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh, các khoản cho vay tiêu dùng thường có giá trị rất nhỏ. Khách hàng khi tìm đến ngân hàng nhằm mục đích vay tiêu dùng thường có nhu cầu vốn không lớn. Đó là vì giá trị hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng không quá đắt đỏ kể cả khi người tiêu dùng vay để mua nhà, xây hoặc sửa chữa nhà thì quy mô các khoản cho vay là không quá lớn đối với ngân hàng; hoặc là khách hàng vay vốn đã có sự tích lũy từ trước đối với các tài sản có giá trị lớn. Nhưng trong sự phát triển không ngừng như hiện nay, người tiêu dùng sẽ vay nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu của bản thân và của gia đình đồng thời đáp ứng các kế hoạch chi tiêu trên cơ sở kỳ vọng về thu nhập trong tương lai. Điều này dẫn tới số lượng khách hàng có nhu cầu vay là rất đông, khiến tổng quy mô cho vay tiêu dùng lại trở nên rất lớn. Lãi suất cho vay tiêu dùng là khá “cứng nhắc” Từ trước cho đến nay, cho vay tiêu dùng được các ngân hàng coi là khoản mục mang lại lợi nhuận khá cao với lãi suất “ cứng nhắc”. Điều đó có nghĩa là nó đủ để bù đắp chi phí huy động vốn của ngân hàng, không như hầu hết các khoản vay kinh doanh hiện nay với lãi suất thay đổi theo thị trường, như vậy với cho vay tiêu dùng ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất khi chi phí huy động vốn tăng lên. Tuy nhiên các khoản vay này thường được ngân hàng định giá rất cao ( vì nó bao hàm cả một phần bù rủi ro lãi suất). Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay ngắn hạn, nên lãi suất cho vay thường cố định. Khách hàng vay tiêu dùng dường như kém nhạy cảm với lãi suất. Người tiêu dùng thường quan tâm đến khoản trả hàng tháng hơn là lãi suất (mặc dù rõ ràng chính lãi suất ghi trên hợp đồng ảnh hưởng đến quy mô số tiền phải trả). Trong khi lãi suất không phải là một trong những yếu tố quan trọng mà khách hàng vay tiêu dùng quan tâm thì mức thu nhập và trình độ dân trí lại tác động rất lớn đến việc vay và sử dụng các khoản tiền vay của người tiêu dùng. Những người có thu nhập cao có xu hướng vay nhiều hơn so với thu nhập hàng năm của mình. Những gia đình mà người chủ gia đình hay người tạo thu nhập chính có trình độ học vấn cao cũng như vậy. Với họ, việc vay mượn là một công cụ để đạt được mức sống như mong muốn hơn là một lựa chọn chỉ được tiêu dùng trong tình trạng khẩn cấp. Các khoản cho vay tiêu dùng có độ rủi ro cao Cho vay tiêu dùng được xem là khoản mục rủi ro cao nhất trong danh mục cho vay của ngân hàng. Bên cạnh các yếu tố khách quan như môi trường kinh tế xã hội, môi trường tự nhiên (thiên tai, hạn hán, lũ lụt…), hoạt động cho vay tiêu dùng còn đối diện với các rủi ro bắt nguồn từ các nguyên nhân sau: Thứ nhất, vì đối tượng cho vay tiêu dùng là cá nhân và hộ gia đình nên họ dễ dàng giữ kín các thông tin đáng ra phải trình bày (như triển vọng công việc cũng như sức khỏe của họ) nên chất lượng các thông tin tài chính của khách hàng vay thường không cao. Tư cách của khách hàng là yếu tố rất quan trọng quyết định sự hoàn trả của khoản vay nhưng lại rất khó xác định. Khả năng trả nợ của khách hàng thay đổi nhanh chóng khi họ thay đổi điều kiện làm việc hoặc tình trạng sức khỏe. Hơn nữa, cá nhân và hộ gia đình không thể dễ dàng vượt qua các khó khăn về tài chính so với một hãng kinh doanh. Đó là chưa kể tới trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo với hy vọng có thể quỵt nợ, hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. Trong những trường hợp này thì dù ngân hàng có nắm giữ tài sản đảm bảo hay không thì vẫn phải đối mặt với rủi ro giảm thu nhập. Thứ hai, lãi suất khoản cho vay tiêu dùng là khá “cứng nhắc” nên ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất khi chi phí huy động vốn tăng lên. Thứ ba, cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kỳ. Nhu cầu vay vốn tỷ lệ thuận với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nó tăng lên trong thời kỳ nền kinh tế mở rộng, khi mà người dân cảm thấy lạc quan, tin tưởng vào thu nhập của mình trong tương lai và sẵn sàng vay tiền để được sử dụng trước những hàng hóa cao cấp theo mong muốn. Ngược lại, khi nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, mất mùa, bệnh tật, thất nghiệp gia tăng…đa số người dân sẽ không nghĩ tới chuyện nâng cao mức sống mà chỉ cố gắng có thể đảm bảo được những nhu cầu thiết yếu hàng ngày và hạn chế tối đa việc vay mượn từ ngân hàng. Trên thực tế, tỷ lệ các khoản cho vay tiêu dùng không được thanh toán thường gấp nhiều lần so với tỷ lệ các khoản cho vay kinh doanh không được thanh toán và chiếm nhiều nhất trong hầu hết các loại cho vay. Chi phí cho mỗi khoản cho vay tiêu dùng là khá cao Các khoản cho vay tiêu dùng thường được định giá rất cao (vì đã bao hàm cả một phần bù rủi ro lãi suất) vì cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục có chi phí lớn nhất trong danh mục cho vay của ngân hàng. Điều này xuất phát từ đặc điểm của các khoản cho vay tiêu dùng là quy mô mỗi món vay thường rất nhỏ, thời gian vay không kéo dài và độ rủi ro cao. Hơn nữa, các thông tin về các cá nhân thường không đầy đủ và chính xác hoàn toàn nên ngân hàng phải mất rất nhiều chi phí và thời gian trong khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng. Đồng thời số lượng các khoản cho vay tiêu dùng thường lớn nên ngoài các chi phí trên, ngân hàng còn phải chịu các chi phí khác như chi phí quản lý khoản vay, theo dõi và kiểm tra khách hàng thường xuyên…Những điều này khiến cho việc thực hiện một khoản cho vay tiêu dùng đối với ngân hàng là rất tốn kém, chi phí lớn. Cho vay tiêu dùng có khả năng sinh lời rất cao Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục tín dụng mang lại mức lợi nhuận cao nhất trong danh mục cho vay của ngân hàng. Khi vay tiền, người tiêu dùng dường như kém nhạy cảm với lãi suất, họ đặt yếu tố thỏa mãn lên hàng đầu dù có phải trả chi phí lớn hơn. Từ đó, ngân hàng có thể cho vay với lãi suất cao và như vậy cho vay tiêu dùng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận. Là một thị trường rộng lớn với triển vọng lợi nhuận cao, cho vay tiêu dùng đã trở thành một trong những nguồn thu chủ chốt của ngân hàng thương mại, đóng vai trò chủ đạo trong dịch vụ ngân hàng và vẫn còn tiếp tục phát triển mạnh trong tương lai. Bên cạnh đó hoạt động cho vay tiêu dùng còn có ý nghĩa rất quan trọng với đối với người tiêu dùng, nhà sản xuất kinh doanh nói riêng và nền kinh tế nói chung. Vì thế cho vay tiêu dùng cần luôn được quan tâm và mở rộng. Ở các nước đang phát triển, cho vay tiêu dùng cũng đang dần khẳng định được vai trò của mình, đem lại những khoản lợi nhuận lớn cho hoạt động của ngân hàng. 1.1.2.2 Phân loại cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại Cho vay tiêu dùng được phân loại dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau. Căn cứ vào mục đích cho vay Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay của khách hàng, có thể phân loại cho vay tiêu dùng thành 2 loại: cho vay tiêu dùng cư trú và cho vay tiêu dùng phi cư trú. Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng, cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình. Cho vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản cho vay nhằm trang trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí, du lịch, y tế… Căn cứ vào phương thức hoàn trả Căn cứ vào phương thức hoàn trả có thể chia cho vay tiêu dùng thành 3 loại: cho vay tiêu dùng trả góp, cho vay tiêu dùng trả một lần (phi trả góp) và cho vay tiêu dùng tuần hoàn. Cho vay tiêu dùng trả góp là phương thức cho vay trong đó người đi vay trả nợ (bao gồm nợ gốc và/hoặc nợ lãi) cho ngân hàng làm nhiều lần, theo nhiều kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương thức này thường được áp dụng cho các khoản vay lớn, thu nhập định kỳ của người vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay. Đối với cho vay tiêu dùng trả góp, ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề cơ bản, có tính nguyên tắc sau: Loại tài sản được tài trợ Cho vay tiêu dùng trả góp thường được áp dụng với tài sản có thời hạn sử dụng lâu bền hoặc có giá trị lớn như nhà ở, ô tô, các phương tiện vận tải…Với những tài sản này, người tiêu dùng sẽ hưởng được những tiện ích từ chúng trong một thời gian dài và do đó nâng cao thiện chí trả nợ của người tiêu dùng. Số tiền phải trả trước Thông thường, ngân hàng yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước một phần giá trị tài sản cần mua sắm. Số tiền này được gọi là số tiền trả trước. Phần còn lại ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước ít hay nhiều phụ thuộc vào nhiều yếu tố như loại tài sản, thị trường tiêu thụ của tài sản sau khi đã sử dụng, môi trường kinh tế, năng lực tài chính của người đi vay... Lãi suất cho vay Lãi suất cho vay chính là chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng cho việc sử dụng vốn. Ngân hàng có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để xác định mức lãi suất thực tế. Song phần lớn lãi suất cho vay được xác định dựa trên lãi suất cơ bản cộng phần lợi nhuận cận biên và phần bù đắp rủi ro. Điều khoản thanh toán Khi xác định các điều khoản liên quan tới việc thanh toán nợ của khách hàng, ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề sau: Giá trị của tài sản tài trợ không được thấp hơn số tiền tài trợ chưa được thu hồi. Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng. Kỳ hạn trả nợ thường theo tháng vì thông thường nguồn trả nợ chính của khách hàng là lương (được nhận theo tháng). Thời gian tài trợ không nên quá dài. Thời hạn tài trợ bị giới hạn bởi thời gian hoạt động của tài sản tài trợ. Thời hạn tài trợ quá dài dễ làm giá trị tài sản tài trợ bị giảm mạnh. Hơn nữa, khi thời hạn tài trợ quá dài thì thiện chí trả nợ của người đi vay cũng như việc thu hồi nợ thường gặp nhiều rắc rối. Số tiền thanh toán mỗi định kỳ phải phù hợp với khả năng về thu nhập của khách hàng và có thể được tính theo một trong các phương pháp sau: Phương pháp gộp: Số tiền thanh toán ở mỗi kỳ (gồm cả nợ gốc và nợ lãi) được tính bằng cách: trước hết lấy gốc nhân với lãi suất và thời gian cho vay, sau đó cộng gộp vào với gốc rồi chia cho số kỳ hạn phải thanh toán. Phương pháp lãi đơn: Theo phương pháp này thì vốn gốc người đi vay phải trả từng định kỳ bằng nhau, bằng cách lấy gốc ban đầu chia cho số kỳ hạn thanh toán. Còn lãi phải trả mỗi định kỳ được tính trên số nợ gốc thực tế nhân với lãi suất. Việc phân bổ lãi cho vay theo thời gian Khi sử dụng phương pháp gộp để tính lãi, các ngân hàng thường tiến hành phân bổ phần lãi cho vay đã được tính. Việc phân bổ có thể được thực hiện theo định kỳ gắn liền với các kỳ hạn thanh toán hoặc cũng có thể được thực hiện theo quý hay theo năm tài chính. Vấn đề trả nợ trước hạn Thông thường, người đi vay được quyền thanh toán tiền vay trước hạn mà không bị phạt. Nếu tiền trả góp được tính theo phương pháp lãi đơn thì vấn đề rất đơn giản, người đi vay chỉ phải thanh toán toàn bộ gốc còn thiếu và lãi vay của kỳ hạn hiện tại cho ngân hàng. Tuy nhiên nếu tiền trả góp được tính bằng phương pháp gộp thì vấn đề sẽ phức tạp h._.ơn vì theo phương pháp này, giả định rằng tiền vay sẽ được khách hàng sử dụng cho đến lúc kết thúc hợp đồng, nếu khách hàng trả nợ trước hạn thì thời hạn nợ thực tế sẽ khác với thời hạn nợ ban đầu và như vậy số tiền lãi phải trả cũng có sự thay đổi. Khi đó người ta sẽ sử dụng phương pháp phân bổ lãi cho vay theo thời gian để tính số lãi thực sự phải thu, dựa trên thời hạn nợ thực tế. Cho vay tiêu dùng trả một lần (cho vay tiêu dùng phi trả góp) Theo phương thức này, tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì các khoản cho vay tiêu dùng phi trả góp chỉ được cấp cho khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài, hoặc khách hàng có khả năng trả nợ vào cuối thời hạn vay. Nó có tác dụng đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời và phần lớn được sử dụng để trả viện phí, sửa chữa tài sản cố định, mua sắm các vật dụng thiết yếu… Cho vay tiêu dùng tuần hoàn Cho vay tiêu dùng tuần hoàn là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó, ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn tín dụng được thỏa thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng. Căn cứ vào phương thức tài trợ Theo tiêu thức này, cho vay tiêu dùng được chia thành hai loại là cho vay tiêu dùng trực tiếp và cho vay tiêu dùng gián tiếp. Cho vay tiêu dùng gián tiếp Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hóa hoặc đã cung cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng. Hình thức này ngân hàng cho vay thông qua các doanh nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Sơ đồ 1.1 : Cho vay tiêu dùng gián tiếp (1) Công ty bán lẻ Ngân hàng (4) (5) Người tiêu dùng (6) (3) (2) Ngân hàng và công ty bán lẻ ký hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng, ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số tiền bán chịu tối đa, loại tài sản bán chịu… Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hóa. Thông thường người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản. Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng. Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hóa cho ngân hàng. Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ. Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng. Cho vay tiêu dùng gián tiếp tạo điều kiện để ngân hàng thương mại dễ dàng mở rộng và tăng doanh số cho vay tiêu dùng. Các ngân hàng thương mại sẽ tiết kiệm, giảm được các chi phí khi cho vay. Bên cạnh đó cho vay tiêu dùng còn là cơ sở để mở rộng quan hệ với khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động khác của ngân hàng. Nếu ngân hàng thương mại có quan hệ tốt với công ty bán lẻ, thì hình thức cho vay tiêu dùng gián tiếp có mức độ rủi ro thấp hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp. Tuy nhiên, khi cho vay tiêu dùng gián tiếp các ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng (người vay vốn) trước khi tài trợ mà chỉ được biết thông tin qua công ty bán lẻ. Ngân hàng rất khó kiểm soát (cả trước, trong và sau khi vay vốn) khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hóa, nhất là trong việc lựa chọn khách hàng. Các công ty bán lẻ không có chuyên môn sâu để thẩm định khách hàng một cách chi tiết, chính xác dẫn đến tăng rủi ro cho ngân hàng. Kỹ thuật và quy trình nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao và đòi hỏi một cơ chế kiểm soát khá chặt chẽ của ngân hàng với các công ty bán lẻ. Do những nhược điểm này mà rất nhiều ngân hàng thương mại không mặn mà với hình thức cho vay tiêu dùng gián tiếp. Còn những ngân hàng tham gia vào hoạt động này thì đều có các cơ chế kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ. Cho vay tiêu dùng trực tiếp Cho vay tiêu dùng trực tiếp là khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người vay. Sơ đồ 1.2 : Cho vay tiêu dùng trực tiếp Công ty bán lẻ Ngân hàng (3) Người tiêu dùng (1) (4) (2) (5) Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay tiêu dùng. Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ. (3) Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ. (4) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng. Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng. Khi cho vay tiêu dùng trực tiếp ngân hàng có thể sử dụng triệt để trình độ, kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng của cán bộ tín dụng. Do đó, các khoản cho vay tiêu dùng trực tiếp thường có chất lượng cao hơn so với cho vay tiêu dùng gián tiếp. Cán bộ tín dụng ngân hàng khi cho vay đặc biệt coi trọng đến chất lượng các khoản vay, trong khi đó, doanh nghiệp bán lẻ hàng hóa, dịch vụ thường coi trọng nhiều đến việc tăng doanh số bán hàng hơn là chất lượng các khoản vay. Hơn nữa, các doanh nghiệp thường đưa ra quyết định “tín dụng” một cách nhanh chóng, nên dẫn đến tình trạng có những khoản tín dụng cấp ra không chính đáng, ngược lại ,có thể từ chối cấp tín dụng đối với những khách hàng tiềm năng của mình. Đối với ngân hàng thì điều này được hạn chế tối đa. Hình thức cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn hình thức cho vay gián tiếp, vì khi quan hệ trực tiếp giữa ngân hàng và khách hàng sẽ xử lý tốt các phát sinh, hơn nữa có khả năng làm thỏa mãn quyền lợi cho cả ngân hàng và khách hàng. Do đối tượng khách hàng rất rộng do đó việc đưa ra các dịch vụ, tiện ích mới là rất thuận lợi, đồng thời là hình thức để tăng cường quảng bá hình ảnh của ngân hàng đến với khách hàng. Căn cứ vào biện pháp đảm bảo Cho vay có tài sản đảm bảo : Các ngân hàng áp dụng hình thức cho này đối với những khách hàng mà ngân hàng chưa thật sự tin tưởng. Hơn nữa sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất bị thiếu. Một số hình thức chủ yếu là : Cho vay mua nhà trả góp, cho vay mua ô tô, cho vay có đảm bảo bằng sổ tiết kiệm, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, các chứng từ có giá khác. Cho vay không đảm bảo : Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, việc cho vay ở đây chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Ví dụ như cho vay tín chấp với cán bộ công nhân viên. Chất lượng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại 1.2.1 Khái niệm chất lượng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại Trong giai đoạn hiện nay, các ngân hàng muốn đứng vững thì cạnh tranh là yếu tố không thể tránh khỏi. Nền kinh tế càng phát triển thì cạnh tranh càng gay gắt. Cũng như các doanh nghiệp, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra trên 4 phương diện chủ yếu: chất lượng, giá cả, sự đa dạng dịch vụ, tốc độ cung ứng các dịch vụ kịp thời.Trong đó, chất lượng là yếu tố quan trọng nhất tạo điều kiện giúp các ngân hàng chiếm lĩnh thị trường và thu hút được khách hàng. Với hoạt động cho vay tiêu dùng cũng thế, chất lượng tín dụng là yếu tố hàng đầu quyết định kết quả kinh doanh của mỗi Ngân hàng. Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng một cách tốt nhất của Ngân hàng đối với những yêu cầu của khách hàng trong quan hệ tín dụng với Ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn, tăng lợi nhuận cho Ngân hàng. Qua khái niệm trên, có thể dễ dàng nhận thấy chất lượng cho vay tiêu dùng cũng là sự đáp ứng một cách tốt nhất của ngân hàng đối với những cá nhân, hộ gia đình nhằm mục tiêu đảm bảo lợi ích của khách hàng và lợi nhuận của ngân hàng. 1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại Các ngân hàng ngày càng chú trọng cho vay tiêu dùng nên việc đánh giá chất lượng cho vay tiêu dùng đối với một ngân hàng là hết sức cần thiết và quan trọng vì chất lượng tín dụng biểu hiện khả năng hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tự đánh giá vị trí của mình từ đó giúp ngân hàng có những thay đổi kịp thời trong hoạt động và đưa ra những quyết định hợp lý nâng cao khả năng cạnh tranh đáp ứng mục tiêu an toàn và sinh lợi của bản thân ngân hàng. Để đánh giá chất lượng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thì không thể đánh giá từng chỉ tiêu riêng lẻ mà phải đánh giá tổng hợp các chỉ tiêu. Doanh số cho vay lớn, khả năng thu nợ tốt, khách hàng trả gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn về cả số tương đối và tuyệt đối, đạt được kế hoạch đề ra của ngành cũng như của ngân hàng thì chất lượng cho vay tốt. Ngân hàng đã thực sự chú trọng vào việc nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng. Doanh số cho vay tiêu dùng Doanh số cho vay tiêu dùng và tốc độ tăng doanh số cho vay tiêu dùng phản ánh lượng vốn mà Ngân hàng bỏ ra để giúp các cá nhân, hộ gia đình trong việc chi cho tiêu dùng. Con số này thể hiện xu hướng hoạt động tín dụng mở rộng hay thu hẹp. Tuy nhiên, việc doanh số cho vay tăng không phải lúc nào cũng là tốt và ngược lại doanh số cho vay thu hẹp không phải lúc nào cũng là xấu, vấn đề này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tiềm lực của Ngân hàng, điều kiện của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định... Doanh số thu nợ Doanh số thu nợ cho vay tiêu dùng phản ánh lượng vốn mà Ngân hàng đã được hoàn trả trong một thời kỳ. Doanh số này có thể phản ánh tình trạng trái ngược nhau : Các món vay được trả cho Ngân hàng đúng hạn, hoặc Ngân hàng nhận thấy những dấu hiệu không lành mạnh trong việc kinh doanh của khách hàng mà tăng cường việc thu hồi vốn. Cả hai trường hợp trên, doanh số thu nợ đều tăng lên, điều đó có lợi cho Ngân hàng.. Dư nợ Dư nợ cho vay tiêu dùng phản ánh lượng vốn mà khách hàng còn nợ tại một thời điểm cụ thể của ngân hàng. Tổng dư nợ phản ánh quy mô ngân hàng, tổng dư nợ thấp phản ánh chất lượng cho vay tiêu dùng thấp, ngân hàng không mở rộng được hoạt động cho vay, không thu hút được khách hàng. Nhưng tổng dư nợ cao thì chưa chắc chất lượng cho vay tiêu dùng đã tốt vì dư nợ cho vay còn tiềm ẩn những rủi ro tín dụng. Do vậy phải xem xét tổng dư nợ trong mối quan hệ với việc phân tích các yếu tố khách quan lẫn chủ quan đã ảnh hưởng đến chất lượng cho vay tiêu dùng của ngân hàng, với việc kết hợp các chỉ tiêu như nợ quá hạn, lợi nhuận do hoạt động cho vay mang lại để đánh giá được đúng đắn, chính xác và khoa học. Nợ quá hạn Đây là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng một khoản vay, được tính dựa trên chỉ số: Nợ quá hạn ------------------ Tổng dư nợ Là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của Ngân hàng ở một thời điểm nhất định, thường được tính vào cuối quý, cuối tháng, cuối năm. Như ta đã biết tín dụng là sự hoàn trả chính vì vậy khi một khoản vay không được hoàn trả đúng hạn nó đã vi phạm nguyên tắc cơ bản nhất của tín dụng. Lúc này ngân hàng sẽ chuyển khoản vay sang nợ quá hạn để theo dõi và xử lý với một mức lãi suất cao hơn bình thường. Trên thực tế những khoản vay quá hạn thường có vấn đề, có khả năng mất vốn, có tính an toàn thấp. Với hoạt động chính là cho vay thì việc gặp rủi ro là điều không thể tránh khỏi trong quá trình hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên nếu khoản nợ quá hạn vượt quá một mức độ nào đó thì nó sẽ gây ra nguy hiểm trong hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng sẽ không thu được nợ điều đó đồng nghĩa với việc ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, nếu nhẹ thì ngân hàng bị giảm thu nhập mất uy tín với khách hàng( một điều quan trọng của ngân hàng), nếu tình trạng mất khả năng thanh khoản kéo dài ngân hàng sẽ bị phá sản. Nếu tổ chức tín dụng nào có khoản vay được xếp vào nợ quá hạn cao sẽ bị đánh giá là có chất lượng tín dụng thấp. Mức độ đáp ứng kịp thời nhu cầu tài trợ của khách hàng Chất lượng cho vay tiêu dùng của ngân hàng đối với khách hàng được đánh giá là tốt khi ngân hàng có khả năng đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay vốn hợp lý của khách hàng. Để đảm bảo được điều đó, ngân hàng cần phải có hệ thống phân tích, đánh giá, dự báo nhu cầu tín dụng của khách hàng một cách nhanh chóng và chính xác, từ đó nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng. Chi phí cho vay tiêu dùng Chi phí cho vay tiêu dùng ở đây bao gồm chi phí bằng tiền mặt như lệ phí, chi phí đi lại, chi phí chứng thực giấy tờ,... và chi phí cơ hội do tham gia hoạt động tín dụng của cả ngân hàng và khách hàng. Chi phí cho vay tiêu dùng thấp một mặt làm gia tăng lợi nhuận từ hoạt động cho vay của ngân hàng, mặt khác sẽ thu hút được khách hàng đến giao dịch với ngân hàng. Như vậy, chi phí tín dụng thấp thì chất lượng cho vay tiêu dùng được đánh giá là cao. Theo từng hoàn cảnh cụ thể mà người đánh giá lựa chọn, kết hợp các chỉ tiêu phù hợp đưa ra kết quả toàn diện, chính xác và khách quan nhất. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại Nhân tố chủ quan Chính sách tín dụng của ngân hàng Một trong những phương pháp quan trọng nhất mà một ngân hàng có thể vận dụng để đảm bảo rằng các khoản cho vay của họ thỏa mãn được những tiêu chuẩn do cơ quan quản lý ngân hàng đặt là thiết lập một chính sách cho vay bằng văn bản. Chính sách tín dụng đó sẽ cung cấp cho cán bộ tín dụng và các nhà quản lý ngân hàng đường lối chỉ đạo cụ thể trong việc ra quyết định cho vay và xây dựng cho vay. Chính sách tín dụng hiểu đơn giản là một tuyên bố về tiêu chuẩn đối với danh mục cho vay của ngân hàng. Đây là kim chỉ nam đảm bảo cho hoạt động tín dụng của ngân hàng đi đúng quỹ đạo, có ý nghĩa quyết định tới sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Chính sách tín dụng không những phải bảo đảm an toàn và khả năng sinh lời cho hoạt động của ngân hàng mà còn phải biết hướng tới khách hàng, đảm bảo tính công bằng, hấp dẫn, khuyến khích được người gửi tiền cũng như người đi vay, đồng thời phải tuân thủ đúng pháp luật, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Một chính sách tín dụng đúng đắn, hợp lý, biết kết hợp hài hoà giữa lợi ích của khách hàng, ngân hàng và lợi ích của đất nước sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng tín dụng. Trình độ nghiệp vụ của đội ngũ nhân viên ngân hàng Trình độ nghiệp vụ của đội ngũ nhân viên ngân hàng thể hiện ở kiến thức nghiệp vụ và khả năng giao tiếp, kiến thức tổng hợp cũng như kiến thức về marketing, tin học, hiểu biết về kinh tế – xã hội…có trách nhiệm trong công việc và có tư tưởng đạo đức lành mạnh. Cán bộ tín dụng đủ năng lực, trình độ sẽ giúp cho việc cho vay đạt hiệu quả cao vì chỉ có thế việc phân tích, kiểm tra, giám sát, thẩm định khách hàng, phương án sản xuất kinh doanh mới chính xác, an toàn và hiệu quả được. Bên cạnh đó, do sản phẩm của ngân hàng là sản phẩm mang tính chất dịch vụ mà trong lĩnh vực ngân hàng con người đóng vai trò quan trọng. Khi một khách hàng đến giao dịch thì nhân viên ngân hàng chính là người hướng dẫn, giúp họ hiểu được cặn kẽ dịch vụ mà họ đang cần. Vì vậy, nếu nhân viên đó tỏ ra khó chịu khi hướng dẫn khách hàng thì khách hàng sẽ cảm thấy chất lượng dịch vụ của ngân hàng này quá kém mà đặc điểm của cạnh tranh hiện nay là khách hàng sẽ sẵn sàng chuyển sang một ngân hàng khác với chất lượng dịch vụ tốt hơn. Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ tín dụng có ảnh hưởng trực tiếp tới cho vay tiêu dùng. Họ là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay tiêu dùng, góp phần tạo dựng hình ảnh của ngân hàng, góp phần tăng tính cạnh tranh cho các dịch vụ của ngân hàng. Chất lượng và sự đa dạng trong các hình thức cho vay tiêu dùng Tầm quan trọng của chất lượng và tính đa dạng của hình thức cho vay tiêu dùng có ảnh hưởng trực tiếp đến cho vay tiêu dùng của các ngân hàng. Nếu ngân hàng đưa ra những sản phẩm cho vay tiêu dùng quá đơn điệu với chất lượng không cao, chưa đáp ứng nhu cầu của khách hàng thì ngân hàng này không có tiềm lực trong cho vay tiêu dùng. Đặc biệt trong sự cạnh tranh như hiện nay thì chất lượng sản phẩm và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ luôn cần được các ngân hàng chú trọng. Các ngân hàng cần không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và thực hiện đa dạng hóa sản phẩm nhằm củng cố và mở rộng thị phần, duy trì khả năng cạnh tranh. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của ngân hàng Khi mà công nghệ chưa phát triển thì quá trình xử lý thông tin rất chậm chạp và khách hàng khi giao dịch gặp nhiều quá nhiều thủ tục, gây tốn nhiều thời gian, do vậy để nó có thể gây ra tâm lý cảm thấy phiền phức khi đến ngân hàng. Tuy nhiên, ngày nay với sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin thì khách hàng có thể ở bất cứ đâu cũng có thể vay tiêu dùng cũng như tiếp cận với các dịch vụ khác của ngân hàng mà không cần trực tiếp đến ngân hàng. Do vậy việc áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của ngân hàng là rất cần thiết. Nó góp phần tích cực vào việc giảm bớt khối lượng, xử lý thông tin một cách nhanh chóng và đem lại lợi thế cạnh tranh cho các ngân hàng. 1.3.2 Các nhân tố khách quan Khả năng đáp ứng các điều kiện cho vay của khách hàng Điều kiện cho vay có rất nhiều nhưng không thể không nhắc đến tư cách đạo đức và các loại tài sản đảm bảo cho khoản vay. Khách hàng có uy tín sẽ luôn tìm cách để hoạt động kinh doanh có hiệu quả, trả nợ ngân hàng đúng hạn, không chây ì, lừa đảo gây tổn thất cho ngân hàng. Đạo đức, uy tín của khách hàng ảnh hưởng đến độ xác thực trong thông tin cung cấp cho cán bộ thẩm định của ngân hàng, là yếu tố tác động tới tính chính xác trong hoạt động thẩm định và quyết định cho vay của ngân hàng. Vì vậy việc quản lý hồ sơ xin vay phải được quan tâm đúng mức để góp phần nâng cao hiệu quả thẩm định khách hàng qua đó thúc đẩy nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Trình độ của khách hàng Dân cư có trình độ cao thì thường có xu hướng muốn nâng cao mức sinh hoạt hàng ngày của họ, ngay cả khi họ chưa đủ khả năng tài chính để thực hiện việc đó. Muốn nâng cao mức hưởng thụ trong cuộc sống hàng ngày thì họ phải vay ngân hàng, tuy nhiên với điều kiện rằng món nợ ngân hàng đó họ phải có khả năng hoàn trả trong một thời gian nhất định. Trình độ khách hàng ngày càng cao sẽ khiến cho ngân hàng chú trọng hơn nữa đến việc nâng cao chất lượng cho vay, thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Nhu cầu thực tế của khách hàng Đối tượng vay tiêu dùng ở các ngân hàng rất đa dạng : là các cá nhân và hộ gia đình..từ các nhu cầu thiết yếu đến các nhu cầu cao cấp. Và tùy vào từng giai đoạn phát triển các đối tượng này sẽ xuất hiện những nhu cầu khác nhau. Vấn đề ở đây là cần phải phát hiện những nhu cầu đó một cách nhanh nhất để đáp ứng kịp thời vì những người cung cấp sớm nhất sẽ có ưu thế trong việc thu hút khách hàng. Nhu cầu của khách hàng là căn cứ để các ngân hàng có thể xây dựng chính sách cho vay tiêu dùng của mình. Đáp ứng đầy đủ, kịp thời, đa dạng các nhu cầu ngày càng cao của người dân sẽ góp phần nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng và tăng cường sự cạnh tranh của ngân hàng trong loại hình cho vay đầy tiềm năng này. Môi trường kinh tế Mọi thành phần kinh tế hoạt động trong môi trường kinh tế đều chịu ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô như các chính sách kinh tế, quy luật cung cầu, quy luật giá trị, tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát… Khi nền kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng ngân hàng pháp triển. Ngược lại trong thời kỳ suy thoái kinh tế, nó cũng ảnh hưởng đáng kể đến đời sống của người dân. Hoạt động tín dụng ngân hàng giảm sút về quy mô và chất lượng. Mức độ phù hợp giữa lãi suất ngân hàng với mức thu nhập của cá nhân, hộ gia đình cũng ảnh hưởng đến chất lượng cho vay tiêu dùng. Những sự biến động về lãi suất thị trường, tỷ giá thị trường cũng ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất của ngân hàng. Môi trường văn hóa - chính trị - xã hội Môi trường chính trị xã hội ổn định là một điều kiện vô cùng quan trọng trong việc tạo lòng tin đối với khách hàng. Còn môi trường văn hóa được thể hiện ở trình độ dân trí, thói quen, tâm lý, bản sắc dân tộc, nơi ở và nơi làm việc...Tất cả đều ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định của người tiêu dùng và chất lượng cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Môi trường pháp lý Môi trường pháp lý ảnh hưởng tới hành vi của mọi chủ thể kinh tế, bao gồm tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật, tính đầy đủ, thống nhất của hệ thống văn bản dưới luật đồng thời gắn với quá trình chấp hành pháp luật và sự hiểu biết của người dân về vấn đề này. Môi trường pháp lý hoàn thiện có tác dụng kích thích hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh tế, ngược lại luật pháp chồng chéo, không nhất quán, thủ tục hành chính phiền hà, an ninh trật tự không ổn định… kìm hãm hoạt động kinh doanh tự đó tác động đến chất lượng hoạt động ngân hàng. Chương 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA PGD THÀNH CÔNG – NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI VIỆT NAM 2.1 Khái quát về PGD Thành Công – Ngân hàng TMCP Quân Đội Việt Nam Tổng quan về Ngân hàng TMCP Quân Đội Việt Nam Quá trình hình thành và phát triển Ngân hàng TMCP Quân đội Việt Nam (MB) là ngân hàng thương mại cổ phần được thành lập tại nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam với hoạt động chính thức là thực hiện các dịch vụ ngân hàng và tài chính có liên quan theo Giấy phép hoạt động số 0054/NH-GP ngày 14 tháng 9 năm 1994 do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (“NHNNVN”) cấp.Và vào ngày 4 tháng 11 năm 1994 MB được chính thức thành lập. Trụ sở chính được đặt tại số 3 Liễu Giai, phường Cống Vị, quận Ba Đình, Hà Nội. Với sơ sở ban đầu mới hình thành còn nhỏ cả về quy mô và lượng khách hàng, trụ sở chính ban đầu tại 28A, Điện Biên Phủ. Giữ vững phương châm hoạt động “VỮNG VÀNG – TIN CẬY” , bên cạnh việc gắn bó với khối khách hàng truyền thống, MB không ngừng mở rộng cung cấp các sản phẩm dịch vụ đến mọi đối tượng khách hàng thuộc nhiều thành phần kinh tế và góp sức vào nhiều công trình lớn của đất nước như Nhà máy Thuỷ điện Hàm Thuận - Đa mi, cảng Hàng không Nội Bài, Tân Sơn Nhất . . . Trong năm 2006, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn với tốc độ tăng trưởng GDP gần 8,2% , kim ngạch xuất khẩu đạt gần 40 tỷ USD, đầu tư và tài trợ nước ngoài đạt gần 15 tỷ USD...Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, Hoa Kỳ cũng thông qua quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam vào cuối năm 2006. Việt Nam được ghi nhận bởi các quốc gia, các chuyên gia, các tổ chức kinh tế lớn như là một điểm đến đầu tư hấp dẫn với sức hút mạnh mẽ của một đất nước có nền chính trị ổn định, an toàn, môi trường đầu tư không ngừng được cải thiện và hứa hẹn những cải cách đột phá về tự do kinh tế và mở cửa với thế giới. Việt Nam đang có một vận hội mới, một bước ngoặt mới trong quá trình hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu. Trong năm 2006, nền kinh tế Việt Nam cũng chứng kiến những biến chuyển mạnh mẽ về chất của các ngân hàng thương mại Việt Nam với những tăng trưởng mạnh mẽ về lợi nhuận, về quy mô vốn cũng như sự gia tăng cạnh tranh. Mặc dù phải đối mặt sự cạnh tranh mạnh mẽ trong hoạt động ngân hàng nhưng MB đã hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu đề ra, đạt được những tiến bộ vượt bậc và toàn diện xét về cả chất và lượng. Tính đến cuối năm 2006, vốn điều lệ của MB đã đạt 1.045 tỷ đồng, tăng hơn 50 lần so với ngày đầu thành lập, trong đó có hơn 4.000 cổ đông pháp nhân và thể nhân, thể hiện sự đa dạng hoá trong sở hữu của MB. Huy động vốn tính đến ngày 31/12/2006 đạt 11.200 tỷ đồng, trong đó vốn huy động từ dân cư ngày càng tăng, chiếm 50% tỷ lệ nguồn vốn huy động, vượt kế hoạch của cả năm là 20%. Lợi nhuận trước thuế đạt 252,9 tỷ đồng, vượt 25% kế hoạch. Tổng tài sản đạt 13.864 tỷ đồng, tăng 69% so với năm 2005, dư nợ đạt xấp xỉ 6.200 tỷ đồng. Tỷ lệ lợi tức trên vốn cổ phần của MB luôn dẫn đầu trong khối các ngân hàng TMCP. Đặc biệt, tỷ lệ chia cổ tức cho cổ đông năm 2006 là 60% trong đó 42% được chia bằng cổ phiếu và 18% được chia bằng tiền mặt. Hiệu quả hoạt động của MB luôn được các cơ quan quản lý, đối tác cũng như khách hàng đánh giá cao. Liên tục được Ngân hàng Nhà nước xếp hạng A và trao tặng nhiều bằng khen cho những thành tích xuất sắc; nhiều năm liền nhận được các giải thưởng thanh toán quốc tế do các ngân hàng uy tín quốc tế trao tặng như HSBC, Standard Chatered Bank, UBOC; được người tiêu dùng bình chọn Thương hiệu mạnh liên tục trong hai năm liền 2005 và 2006; đạt cúp vàng Top ten thương hiệu Việt, ngành ngân hàng: Ngân hàng – tài chính năm 2006; …và nhiều giải thưởng có uy tín, giá trị khác. Các sản phẩm dịch vụ của MB không ngừng được đa dạng hoá theo hướng hoàn thiện và phát huy dịch vụ truyền thống kết hợp với phát triển các dịch vụ hiện đại như, hệ thống thanh toán qua thẻ, Mobile Banking, Internet Banking, mạng lưới máy chấp nhận thẻ P.O.S... Dịch vụ của MB liên tục được cải thiện, mang lại cho khách hàng không những hiệu quả cao về tài chính mà còn cả sự yên tâm tuyệt đối. Song song với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, MB đặc biệt chú trọng mở rộng mạng lưới kênh phân phối tại các khu vực kinh tế trọng điểm của cả nước. Hiện nay, MB đang có 40 điểm giao dịch trên khắp đất nước, đặt quan hệ đại lý với gần 600 ngân hàng trên thế giới để hợp tác cung cấp các dịch vụ ngân hàng toàn cầu. Nhận thức được chất lượng đội ngũ nhân viên chính là sức mạnh của Ngân hàng, hàng năm, hàng ngàn lượt cán bộ, nhân viên chủ chốt của MB đã được cử đi đào tạo trong và ngoài nước. Trong vòng từ năm 2005 đến đầu năm 2007, gần 600 cán bộ, nhân viên đã được MB tuyển dụng vào làm việc tại Ngân hàng. Bởi vậy, hiện nay hơn 1.000 cán bộ, nhân viên đang cống hiến và làm việc tại Ngân hàng với những chính sách, chế độ đãi ngộ thoả đáng. Cuối năm 2007, con số này tăng lên 50-60%. Với mục tiêu phát triển trở thành một tập đoàn ngân hàng đa năng, tháng 11/2006, Ngân hàng đã thành lập Công ty quản lý quỹ đầu tư Hà Nội ( Hanoi Fund) hoạt động bên cạnh các công ty trực thuộc khác cũng đang hoạt động rất hiệu quả như Công ty chứng khoán Thăng Long (TSC), Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC). Ngân hàng còn tham gia góp vốn đầu tư các công ty trực thuộc đã hoạt động hiệu quả, có lợi nhuận và tạo lập được uy tín trên thị trường. Công tác quản trị rủi ro được đặt lên hàng đầu nhằm đưa ra các giải pháp tổng thể để giảm thiểu rủi ro không chỉ cho Ngân hàng mà cho cả khách hàng. MB luôn đảm bảo tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế và tỷ lệ nợ xấu ở mức hợp lý. Về đối ngoại, MB đã có bước phát triển mạnh trong việc phát triển hệ thống ngân hàng đại lý nhằm phục vụ các yêu cầu của khách hàng. Đến hết năm 2006, MB đã đặt quan hệ đại lý với hơn 500 ngân hàng trên thế giới. Bên cạnh đó, chúng tôi đang xúc tiến mạnh mẽ việc tăng cường hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế thông qua việc không ngừng mở rộng quan hệ, những cam kết song phương và đặc biệt MB đang hướng tới những đối tác chiến lược để có được những thoả thuận hợp tác lâu dài, bền vững giúp MB nâng cao năng lực quản trị, công nghệ tiên tiến và các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại... Năm 2007, nền kinh tế Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ hơn trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam phát triển mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu, đặc biệt là có sự tham gia mạnh mẽ hơn của các tổ chức tài chính ngân hàng nước ngoài vào thị trường Việt Nam. Mặc dù môi trường kinh doanh có sự cạnh tranh quyết liệt hơn nhưng MB đã tận dụng được những cơ hội của giai đoạn mới, vượt qua những thách thức, khắc phục những hạn chế, đồng thời tận dụng những thế mạnh của mình để thực hiện những giải pháp lớn, hoàn thành những mục tiêu đề ra để vươn đến những tầm cao mới cho phát triển tương lai, quyết tâm trở thành một trong những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu tại Việt Nam. Cơ cấu tổ chức ngân hàng Công ty quản lý quỹ đầu tư Hà Nội Đại hội đồng cổ đông Trung tâm Công nghệ thông tin Khối tổ chức-Nhân sự-Hành chính Phòng KHTH & Pháp chế Phòng tài chính kế toán Phòng Nghiên cứu phát triển & xây dựng chính sách Phòng Kiểm tra, kiểm soát nội bộ Tổng giám đốc Các Uỷ ban cao cấp Hội đồng quản trị Ban kiểm soát khối Quản lý tín dụng Khối khách hàng doanh nghiệp Khối khách hàng cá nhân Khối Treasury Phòng đầu tư & dự án Công ty AMC Công ty chứng khoán Thăn Long Sở Giao dịch & Chi nhánh Một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu từ năm 2001 đến 2006 Tổng vốn huy động Sơ đồ 2.1 : Tổng vốn huy động của NHTMCP Quân đội (Nguồn: Báo cáo thường niên NHTMCP Quân đội 2006) Tổng dư nợ Sơ đồ 2.2: Tổng dư nợ của NHTMCP Quân đội (Nguồn: Báo cáo thường niên NHTMCP Quân đội 2006) Lợi nhuận trước thuế Sơ đồ 2.3 : Lợi nhuận trước thuế của NHCPTM Quân đội (Nguồn: Báo cáo thường niên NHTMCP Quân đội 2006) ROE ( Lợi nhuận sau thuế / Vốn chủ sở hữu bình quân) Sơ đồ 2.4 : ROE (Nguồn: Báo cáo thường niên NHTMCP Quân đội 2006) Tổng quan về Phòng giao dịch Thành Công ( PGD Thành Công) PGD Thành Công được thành lập từ đầu năm 2005, là một chi nhánh trẻ về thời gian thành lập song có những bước đi khá vững chắc và được đánh giá là chi nhánh triển vọng. Mặc dù chỉ là một chi nhánh cấp 2 trực thuộc Chi nhánh Điện Biên Phủ, cơ sở vật chất đang còn nhiều thiếu thốn song với vai trò và nhiệm vụ quan trọng của mình, chi nhánh đã biết khắc phục những khó khăn hiện tại để từ đó với sự nỗ lực của mỗi cán bộ nhân viên đã đạt được những kết quả kinh doanh hiệu quả. Từ khi thành lập cho đến nay PGD Thành Công luôn thực hiện tốt nhiệm vụ của một chi nhánh cấp II. Huy động vốn Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và ngoài nước bằng Việt Nam đồng. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động vốn khác theo quy định của MB. Cho vay ngắn, trung, dài hạn bằng Việt Nam đồng đối với cái tổ chức kinh tế, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Hướng dẫn khách hàng xây dựng dự án, thẩm định các dự án tín dụng. Nếu các dự án vượt quyền phán quyết thì trình lên MB cấp trên quyết định. Kinh doanh nghiệp vụ ngoại hối khi được tổng giám đốc MB cho phép. Kinh doanh dịch vụ thu, chi tiền mặt, két sắt; nhận cất giữ các loại giấy tờ có giá; thẻ thanh toán; nhận uỷ thác cho vay của các tổ chức tài chính, tín dụng, các tổ chức, cá nhân khác trong và ngoài nước; các dịch vụ ngân hàng khác được ngân hàng Nhà nước Việt Nam và MB quy định. Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định của MB. Thực hiện kiểm tra, kiểm toán nội bộ việc chấp hành thể lệ, chế ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7679.doc
Tài liệu liên quan