Tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn: MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Những vấn đề cơ bản về Ngân hàng thương mại……………………………9
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại……………………………. ……... 9
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại…. ……………………………………9
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại ………………..………...11
1.2. Chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại..……... Ebook Nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
86 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1371 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
…………………………………………………………………………13
1.2.1. Những vấn đề cơ bản về tài trợ xuất nhập khẩu………….……………...13
1.2.1.1. Tầm quan trọng của hoạt động xuất nhập khẩu…………..…………...13
1.2.1.2. Nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp…..…………...14
1.2.2. Những vấn đề cơ bản của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM………………………………………………………………….………...17
1.2.2.1. Khái niệm và phân loại cho vay ngân hàng………………...………… 17
1.2.2.2. Khái niệm, phân loại và vai trò của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu………………………………………………………………………………19
1.2.2.3. Các hình thức cho vay tài trợ xuất nhập khẩu chủ yếu của Ngân hàng thương mại……………………………………………………………………….21
1.2.3. Chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu………………………………28
1.2.3.1. Khái niệm chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu………………...28
1.2.3.2. Những chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu…………………………………………………………………………..…..29
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu………………………………………………………………………………33
1.3.1. Các nhân tố chủ quan……………………………………………………..33
1.3.2. Các nhân tố khách quan………………………………………… ……….37
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN
2.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn……………………40
2.1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn……………………………………………………………………..40
2.1.2. Cơ cấu tổ chức nhân sự của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn……………………………………………………………………………….41
2.1.3. Tình hình hoạt dộng kinh doanh của ngân hàng…...…………………...46
2.1.3.1. Các sản phẩm và dịch vụ………………………………………………..46
2.1.3.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn……………………………………………...…………………...…………...49
2.2. Thực trạng về chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn……………………………………………………53
2.2.1. Những quy định chung về cho vay tài trợ xuất nhập xuất nhập khẩu………………………………………………………………………………53
2.2.2. Những hình thức cho vay tài trợ xuất nhập khẩu ở Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn …………………………………………………………….57
2.2.3. Thực trạng chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn…………………………………………………....58
2.2.4. Đánh giá thực trạng chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu ở Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn……………………………………………...64
2.2.4.1. Những thành tựu đạt được……………………………………………...64
2.2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân………………………………………..66
CHƯƠNG III- GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN
3.1. Định hướng phát triển cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn……………………………………………………………………………….73
3.1.1. Định hướng chung………………………………………………………...73
3.1.2. Định hướng về hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu………………74
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn……………………..…………………..75
3.3. Một số kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền………………...…82
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VIẾT TẮT
NHTM: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
SCB : NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU
Sơ đồ 2.1 : Cơ cấu tổ chức nhân sự
Nguồn: Bản cáo bạch SCB năm 2007
Biểu đồ 2.2: Nguồn nhân lực của
Nguồn: Niên giám SCB 2003-2006, bản cáo bạch SCB2007
Đơn vị: Người
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu trình độ nhân sự
Nguồn: Bản cáo bạch SCB 2007
Biểu đồ 2.4: Lợi nhuận trước thuế
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của SCB 2003-2007
Đơn vị: Tỷ đồng
Biểu đồ 2.5: Tổng nguồn vốn
Nguồn: Bản cáo bạch 2003- 2006, Bản cáo bạch SCB 2007
Đơn vị: Tỷ đồng
Biểu đồ 2.6: Cơ cấu nguồn vốn 2007
Nguồn: Bản cáo bạch SCB 2007
Biểu đồ 2.7: Cơ cấu vốn huy động
Nguồn: Niên giám SCB năm 2007
Bảng 2.8 : Biểu lãi suất cho vay
Nguồn: Công văn về lãi suất cho vay của SCB
Biểu đồ 3.1: Doanh số cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng 2004-2007
Đơn vị: Triệu đồng
Biểu đồ 3.2: Dư nợ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng 2004-2007
Đơn vị: Triệu đồng
Biểu đồ 3.3: Tỷ trọng dư nợ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu trên tổng dư nợ
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng 2004-2007
Biểu đồ 3.4: Vòng quay cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng 2004-2007
Biểu đồ 3.5: Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng 2004-2007
Biểu đồ 3.6: Số hợp đồng tài trợ
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng 2004-2007
Đơn vị: Số hợp đồng
Biểu đồ 3.7: Tỷ lệ doanh số trên số hợp đồng tài trợ
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng 2004-2007
LỜI NÓI ĐẦU
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới cho thấy ngoại thương là một hoạt động kinh tế lâu đời, ngày nay, khi toàn cầu hóa diễn ra ngày càng nhanh chóng, thì không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển mà lại không trao đổi hàng hóa ra bên ngoài. Như vậy hoạt động ngoại thương, mà cụ thể là hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu là một trong những mục tiêu phát triển quan trọng trong chính sách của nhiều quốc gia.
Việt Nam là một nước đang phát triển, nền kinh tế đang đang được phát triển lên nền kinh tế thị trường định hướng Xã hộ chủ nghĩa, thì càng phải quan tâm phát triển hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là khi nước ta có được những thế mạnh nhất định và địa lý, tài nguyên…mà không phải quốc gia nào cũng có được. Trong những năm vừa qua, cùng với sự tăng trưởng mạnh của toàn bộ nền kinh tế, kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta cũng tăng mạnh, nhưng thực sự chưa phản ánh được tiềm năng và phát huy tốt ảnh hưởng của nó tới sự phát triển chung của nền kinh tế. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, một trong những nguyên nhân quan trọng nhất đó là sự hạn chế của các nguồn tài trợ xuất nhập khẩu, mà quan trọng nhất là cho vay tài trợ xuất nhập khẩu.
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn(SCB) là một ngân hàng trẻ, có những bước phát triển rất lớn trong vài năm trở lại đây, đã nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu nên đã có những chính sách nhằm đẩy mạnh hoạt động này. Tuy nhiên đây là một hoạt động hết sức phức tạp, chứ đựng nhiều rủi ro, với một thời gian hoạt động chưa lâu, kinh nghiệm chưa nhiều, cho nên hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại SCB còn nhiều hạn chế, doanh số chưa cao,vòng quay chưa hợp lý…Sau một thời gian thực tập tại SCB, tôi đã nhận thấy tầm quan trọng của việc nghiên cứu nhằm đưa ra những biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, nên tôi đã quyết định chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn ”.
Đề tài được kết cấu như sau:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong nghiên cứu để hoàn thành tốt chuyên đề đã chọn, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tôi mong sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý báu của thầy cô và bạn bè để hoàn thành tốt hơn chuyên đề của mình.
Nhân đây, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy Trần Đăng Khâm, các thầy cô khao Ngân hàng tài chính, các anh chị ở Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn, những người đã nhiệt tình chỉ dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này.
Hà Nôi, tháng 04 năm 2008
Sinh viên
Phạm Quốc Việt
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Những vấn đề cơ bản về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta, một nền kinh tế đang trên đà phát triển mạnh, các doanh nghiệp đã dần ý thức được sự cần thiết cũng như lợi thế của các khoản vay của NHTM, người dân cũng thấy được tiện ích khi gửi những khoản tiền nhàn rỗi của mình trong ngân hàng thay vì giữ tiền mặt tại nhà như trước đây, cho nên, như một điều tất yếu, ngành ngân hàng đang phát triển rất mạnh ở nước ta, đặc biệt là trong những năm gần đây.
Nói một cách chung nhất, ta có thể hiểu, Ngân hàng thương mại là một tổ chức tín dụng hoạt động vì mục đích lợi nhuận thông qua việc thực hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng là đi vay và cho vay. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ tài chính quan trọng khác như thanh toán, mua bán ngoại tệ, ủy thác…
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại
Từ khái niệm về NHTM nêu trên ta có thể thấy được tầm quan trọng của NHTM đối với toàn nền kinh tế là rất lớn, từ đó việc nghiên cứu vai trò của nó là cần thiết để rút ra được sự cần thiết của hoạt động cho vay tài trợ ngoại thương.
a. NHTM cung cấp vốn cho nền kinh tế
Nền kinh tế của một quốc gia muốn phát triển thì các doanh nghiệp thành viên trong nền kinh tế đó phải hoạt động hiệu quả, tạo ra lợi nhuận đóng góp vào thu nhập quốc dân. Vốn là một trong những yếu tố cơ bản quan trọng bậc nhất tạo nên hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp. Chính vì vậy mà có thể nói, vốn là quan trọng để phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, trong nền kinh tế, vốn được phân phối không đồng đều. Có những chủ thể có vốn nhàn rỗi nhưng không có kế hoạch đầu tư, ngược lại, có những chủ thể có phương án đầu tư hiệu quả, nhưng không thể thực hiện được vì thiếu vốn. Sự gặp nhau giữa các chủ thể này trong nền kinh tế là rất khó khăn do những hạn chế về không gian và thời gian. Chính vì vậy, với hoạt động huy động vốn từ các chủ thể có vốn nhàn rỗi và sử dụng vốn đó cho các chủ thể thiếu vốn vay đã mang lại cho NHTM một vai trò to lớn trong việc điều tiết vốn trong nền kinh tế. Hay chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản hơn NHTM chính là đầu mối cung cấp vốn cho toàn bộ nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp thực hiện được các phương án đầu tư hiệu quả, tăng thu nhập cho doanh nghiệp, ngân hàng nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
b. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường
Một doanh nghiệp không thể hoạt động nếu nó không có mối liên hệ với thị trường. Thị trường vừa là nơi cũng cấp những nguyên vật liệu, hàng hóa, máy móc đầu vào cho doanh nghiệp, đồng thời nó cũng là nơi tiêu thụ những sản phẩm mà doanh nghiệp đó làm ra. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường được thiết lập thông qua các hoạt động tìm kiếm đối tác, marketing, hoạt động bán hàng, phân phối sản phẩm…Những hoạt động này chỉ thực sự tốt và mang lại hiệu quả cao khi doanh nghiệp có cơ sở về vốn. Rõ ràng là không phải bất kì một doanh nghiệp nào cũng có đủ vốn để thực hiện những hoạt động đó. Khi đó, NHTM với vai trò là người tài trợ vốn sẽ giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn để thiết lập mối quan hệ gắn bó với thị trường, tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ được trơn tru, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
c. NHTM là cầu nối tài chính quốc gia với tài chính quốc tế
Trong thời đại hội nhập này, một quốc gia không thể tồn tại nếu không có sự giao lưu về kinh tế và tài chính với các quốc gia khác trên thế giới. NHTM với ưu thế là một tổ chức tín dụng kinh doanh tiền tệ trên thị trường tài chính sẽ là cầu nối hữu hiệu với nền tài chính quốc tế. Thông qua các nghiệp vụ như thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, ngân hàng đại lý, ủy thác…đã tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước giao lưu kinh tế với các doanh nghiệp nước ngoài, đồng thời cũng giúp các luồng vốn đầu tư từ nước ngoài vào và ngược lại được thuận lợi.
d. NHTM là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước
Hệ thống ngân hàng luôn nắm giữ một phần rất lớn tổng lượng tiền tệ lưu thông trên thị trường. Do đó, khi thực hiện các chính sách tiền tệ, việc tác động của Nhà nước vào NHTM rất có hiệu quả. Thông qua các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc...tác đông vào NHTM mà Nhà nước có thể điều tiết được lượng tiền lưu thông trên thị trường từ đó làm giảm lạm phát, góp phần giúp nền kinh tế phát triển bền vững. Ngoài ra, thông qua NHTM, Nhà nước còn có thể quản lý được tỷ giá, lãi suất thị trường…
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà, cung cấp vốn cho nền kinh tế. Vai trò đó được thể hiện rõ nét thông qua các nghiệp vụ cơ bản của NHTM.
a. Hoạt động huy động vốn
Cũng như các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác, NHTM cũng cần có nguyên vật liệu đầu vào để đảm bảo cho quá trình hoạt động kinh doanh của mình, đó là tiền. Huy động vốn chính là hoạt động thu hút “nguyên vật liệu” đó. Các hoạt động NHTM đều cần dùng rất nhiều vốn, tuy nhiên vốn tự có của ngân hàng không thể đáp ứng được cho các hoạt động đó. Do đó huy động vốn nhàn rỗi từ các tổ chức cá nhân là hoạt động rất quan trọng có ý nghĩa sống còn với NHTM. NHTM có thể huy động vốn thông qua việc nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, phát hàng kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, cổ phiếu, trái phiếu, đi vay các tổ chức khác…Huy động vốn tốt sẽ tạo cho ngân hàng cơ sở để mở rộng hoạt động, nâng cao chất lượng dịch vụ, từ đó tạo uy tín cho ngân hàng trên thị trường. Tuy nhiên, NHTM phải trả lãi cho các khoản vốn huy động được, vì vậy, các NHTM cần xem xét phương hướng hoạt động của mình để có chính sách huy động cho thích hợp nếu không muốn chi phí huy động bị độn lên quá cao, ảnh hưởng tới lợi nhuận của ngân hàng.
b. Hoạt động sử dụng vốn
Nếu như huy động vốn là hoạt động tìm đầu vào cho NHTM thì sử dụng vốn là hoạt động tìm đầu ra, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Hoạt động sử dụng vốn của NHTM rất đa dạng, bao gồm các hoạt động cơ bản sau.
Một là hoạt động cho vay
Cho vay là hoạt động truyền thống và cũng là hoạt động quan trọng nhất của NHTM. Nguồn thu từ lãi vay là một nguồn quan trọng để trang trải chi phí từ hoạt động huy động vốn. Nhưng cho vay cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro nhất cho ngân hàng. Do đó, ngân hàng luôn chú trọng đến việc xây dựng một quy trình cho vay khoa học, hợp lý để hạn chế rủi ro và nâng cao lợi nhuận. Các hình thức cho vay của NHTM rất đa dạng đáp ứng đầy đủ nhu cầu về thời hạn, giá trị vốn vay, mục đích…cho mọi đối tượng khách hàng.
Hai là hoạt động đầu tư
Nếu như trong hoạt động cho vay ngân hàng đóng vai trò là chủ nợ của các doanh nghiệp thì trong hoạt động đầu tư, ngân hàng đóng vai trò là chủ sở hữu của doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư không những giúp tăng nguồn thu mà còn giúp ngân hàng san sẻ rủi ro trong hoạt động của mình. Ngân hàng có thể đầu tư vào một doanh nghiệp thông qua việc góp vốn thành lập doanh nghiệp hoặc mua cổ phiếu của doanh nghiệp đó. Ngoài ra, hoạt động đầu tư của ngân hàng có thể còn được hiểu bao gồm cả những khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng của chính ngân hàng nhằm phục vụ tốt quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM.
Ba là hoạt động ngân quỹ
Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro, do đó, ngân hàng không chỉ quan tâm đến vấn đề nâng cao lợi nhuận mà còn tập trung vào vấn đề hạn chế rủi ro. Ngân hàng luôn sử dụng một phần vốn huy động được để bổ sung vào ngân quỹ, tạo tính thanh khoản cho ngân hàng. Thông qua hoạt động này, ngân hàng đảm bảo được tính an toàn trong kinh doanh, đây là một yếu tố quan trọng thể hiện chất lượng hoạt động, và là cơ sở để nâng cao uy tín cho ngân hàng.
c. Hoạt động khác
Ngoài các hoạt động trên, NHTM còn triển khai nhiều hoạt động khác góp phần hiện đại hóa hệ thống tài chính như thanh toán, nhờ thu, ủy nhiệm chi, các dịch vụ e-banking, môi giới, mua bán chứng khoán…Các dịch vụ mang lại những tiện ích lớn cho khách hàng, giúp khách hàng giảm chi phí cũng như thời gian một cách đáng kể. Những hoạt động này ít rủi ro, và mang lại lợi nhuận khá lớn cho ngân hàng, do đó, xu thế chung của các NHTM là tăng dần tỷ trọng thu nhập từ hoạt động này trong tổng thu nhập của toàn ngân hàng.
1.2. Chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Những vấn đề cơ bản về tài trợ xuất nhập khẩu
1.2.1.1. Tầm quan trọng của hoạt động xuất nhập khẩu
Đã qua từ lâu rồi cái thời các quốc gia đóng của, “bế quan tỏa cảng” không giao thương với thế giới, trong thời đại này, cho dù là một cường quốc, hay là một quốc gia nhỏ bé thì cũng không thể phát triển nếu không có sự giao lưu, trao đổi ra bên ngoài. Theo lý lợi thế cạnh tranh của David Ricardo, mỗi nước muốn tối đa hóa lợi ích của quốc gia mình thì phải xuất khẩu những mặt hàng có giá cả thấp hơn một cách tương đối so với quốc gia khác, và ngược lại. Có nghĩa là các nước cần phải tham gia vào hoạt động ngoại thương nếu muốn phát triển.
Tầm quan trọng của hoạt động ngoại thương thể hiện ở vai trò của nó, là một lĩnh vực kinh tế đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa giữa các nước, các chức năng cơ bản của ngoại thương: Một là, tạo vốn cho quá trình mở rộng đầu tư trong nước. Hai là, chuyển hóa giá trị sử dụng làm thay đổi cơ cấu vật chất của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân được sản xuất trong nước và thích ứng với nhu cầu của tiêu dùng và tích lũy. Thứ ba, góp phần nâng cao hiểu quả cuẩ nền kinh tế bằng việc tạo môi trường cho sản xuất, kinh doanh.
Đối với Việt Nam, ngoài những đặc điểm nêu trên chúng ta còn có những nét đặc thù riêng đó là nước ta đang trong quá trình đi lên từ một nền sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế có nhiều thành phần tham gia, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, công nghệ lạc hậu… Tất cả những điều này cho thấy hoạt động xuất nhập khẩu đối với nước ta càng quan trọng hơn.
1.2.1.2. Nhu cầu và các nguồn tài trợ xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp
Từ những lý luận trên, một lần nữa ta có thể khẳng định hoạt động xuất nhập khẩu đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh tế quốc dân. Tỷ trọng xuất nhập khẩu trong tổng thu nhập quốc dân ngày càng tăng và tăng nhanh. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đang tích cực tham gia vào hoạt động này.
Với vai trò to lớn, rõ ràng nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp là rất lớn, và rất đa dạng.
Các doanh nghiệp xuất khẩu
Bất kỳ một loại hàng hóa nào xuất khẩu cùng phải mất nhiều thời gian, cho dù Nhà nước đã có nhiều chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu phát triển, nhưng với đặc thù của nó, thời gian xuất khẩu vẫn thường diễn ra trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Nhu cầu tài trợ thường nảy sinh trong những giai đoạn sau.
- Phân tích, tìm kiếm thị trường, giới thiệu sản phẩm: Đây là một giai đoạn quan trọng, nó thể hiện đường lối phát triển của doanh nghiệp. Để thành công thì doanh nghiệp cần phải sản xuất ra những sản phẩm mà thị trường cần, phải có kế hoạch sản xuất cụ thể, phải quảng bá được sản phẩm, và phải tìm kiếm được đối tác. Đối với những doanh nghiệp nhỏ, khả năng về tài chính còn yếu thì chi phí cho giai đoạn này là tương đối lớn.
- Ký kết hợp đồng: Giai đoạn này, những nhà xuất khẩu nhỏ, hoặc chưa có quan hệ thường xuyên với khách hàng, thì khách hàng thường yêu cầu họ phải có những hợp đồng bảo lãnh như bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh chất lượng sản phẩm...với những hợp đồng có giá trị lớn thì chi phí bảo lãnh là không nhỏ.
- Chuẩn bị sản xuất: Giai đoạn này thường phát sinh rất nhiều chi phí ngoài dự kiến đặc biệt là đối với những hợp đồng lớn.
- Cung ứng sản phẩm: Tùy vào điều kiện gaio hàng theo thỏa thuận của hai bên mà nhà xuất khẩu trong giai đoạn này vẫn phải chịu những chi phí như chi phí vận chuyển, bảo hiểm...
- Lắp ráp, chạy thử, bàn giao công trình: Ngoài những chi phí lắp đặt, chạy thử, nhà xuất khẩu còn phải đối mặt với chi phí thực hiện nghĩa vụ khi có bảo lãnh chất lượng sản phẩm cho nhà nhập khẩu.
- Bảo hành: Trong giai đoạn này người mua có quyền yêu cầu được bảo hành ở ngân hàng của nhà xuất khẩu trước khi thanh toán.
- Thanh toán: Hiện nay, để việc cung cấp hàng hoá xuất khẩu được thuận lợi người xuất khẩu thường phải dành cho người mua một ưu đãi thanh toán về chiết khấu, hoặc cho nhà nhập khẩu thanh toán chậm. Trong thời gian chờ được thanh toán nhà xuất khẩu vẫn có nhu cầu được tài trợ để đảm bảo vốn cho quá trình tái sản xuất tiếp theo. Do đó, để đảm bảo sản xuất liên tục, nhà xuất khẩu rất cần được tài trợ trong giai đoạn này.
Doanh nghiệp nhập khẩu
Đối với nhà nhập khẩu, nhu cầu tài trợ cũng được thể hiện ở rất nhiều giai đoạn.
- Trước khi kí kết hợp đồng: ở giai đoạn này các nhà nhập khẩu cần có những chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác nhu cầu cũng như khả năng tài chính của mình để tiến hành đấu thầu một cách phù hợp.
- Sau khi kí kết hợp đồng: Sau khi kí kết được hợp đồng, nhà nhập khẩu cần được tài trợ để đặt cọc, tạm ứng cho nhà xuất khẩu.
- Sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn này nhà nhập khẩu có thể phải thực hiện những khoản thanh toán theo thỏa thuận cho nhà xuất khẩu hay tài trợ cho các công việc ở điạ phương để chuẩn bị cho đầu tư. Giai đoạn này là một trong những giai đoạn cần tài trợ nhất của nhà nhâp khẩu.
- Cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện cung ứng hàng hoá có thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo hiểm đối với các nhà nhập khẩu.
-Nhận hàng hoá: Thông thường những nhà xuất khẩu yêu cầu nhà nhập khẩu thanh toán theo tiến độ cung ứng hàng hóa. Khi đó, nhà nhập khẩu chỉ có thể nhận được hàng hóa khi nhà nhập khẩu đã thanh.
- Xử lí tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với những nhà nhập khẩu hoạt động trong lĩnh vực thương mại thì họ còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho khoảng thời gian từ khi nhập hàng về tới khi nhận được tiền bán hàng hoá, vì trong thời gian này nhà nhập khẩu vẫn cần vốn để nhập những mặt hàng khác, đảm bảo cho việc kinh doanh được thông suốt.
1.2.2. Những vấn đề cơ bản của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM
1.2.2.1. Khái niệm và phân loại cho vay ngân hàng
Cho vay là một bộ phận rất lớn và quan trọng trong tín dụng ngân hàng. Tín dụng bao gồm cho vay, bảo lãnh và cam kết cho vay. Trong một số ngữ cảnh cụ thể, có thể đồng nghĩa thuật ngữ cho vay với tín dụng. Mặt khác, do cho vay luôn chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tín dụng ngân hàng, cho nên nhiều lúc khi nói đến tín dụng ngân hàng nhiều người sẽ hiểu ngay là cho vay. Do đó, để hiểu thế nào là cho vay của NHTM, chúng ta cần nghiên cứu khái niệm tín dụng ngân hàng.
Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng trường hợp cụ thể mà có những cách định nghĩa khác nhau. Cách được hiểu chung nhất: Tín dụng ngân hàng là một hoạt động của NHTM mà trong đó, NHTM cấp cho khách hàng một khoản vốn (hoặc cam kết cấp vốn trong những điều kiện nhất định) với cam kết từ phía khách hàng sẽ trả đầy đủ cả vốn và lãi khi đến hạn.
Cho vay là một bộ phận của tín dụng, và trong một khía cạnh nào đó người ta có thể đồng nhất hai khái niệm này với nhau. Tóm lại, cho vay được hiểu hẹp hơn so với tín dụng. Hoạt động cho vay của NHTM là việc ngân hàng giao cho người vay một khoản tiền trong một khoảng thời gian nhất định, và người vay phải trả cả gốc và lãi vô điều kiện khi đến hạn thanh toán.
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa trên các tiêu thức nhất định. Có rất nhiều cơ sở để phân loại cho vay:
Theo mục đích, cho vay thường được chia thành các loại sau:
Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng, mua sắm, để trang trải những chi phí thông thường của đời sống.
Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực này.
Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải những chi phí liên quan đến nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, cây con giống, thức ăn gia súc, lao động, chuồng trại...
Cho vay các tổ chức tài chính là các khoản cho vay đối với các ngân hàng khác, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng, và các định chế khác.
Cho thuê bao gồm cho thuê vận hành và cho thuê tài chính, tài sản được cho thuê bao gồm cả động sản và bất động sản trong đó chủ yếu là máy móc thiết bị.
Theo thời hạn vay,
Cho vay ngắn hạn là những khoản vay có thời hạn dưới 12 tháng.
Cho vay trung hạn là những khoản vay có thời hạn từ trên 12 tháng đến 5 năm(theo quy định của ngân hàng nhà nước Việt Nam).
Cho vay dài hạn là những khoản vay có thời hạn trên 5 năm có thể lên đến 20-30 năm, thậm chí là 40 năm.
Theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng, theo cơ sở này, cho vay được chia làm hai loại:
Cho vay không bảo đảm, loại này thương được áp dụng với những khách hàng quen thuộc, có uy tín, và khả năng tài chính mạnh.
Cho vay có bảo đảm áp dụng đối với những khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng.
Theo phương pháp hoàn trả,
Cho vay có thời hạn là loại cho vay có thảo thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp đồng.
Cho vay không có thời hạn cụ thể , đối với loại cho vay này, ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, được thỏa thuận trong hợp đồng.
Theo xuất xứ tín dụng,
Cho vay trực tiếp: Ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho khách hàng, và khách hàng trực tiếp hoàn trả cho ngân hàng.
Cho vay gián tiếp bao gồm các nghiệp vụ: chiết khấu thương phiếu, cho vay trả góp, nghiệp vụ factoring...
1.2.2.2. Khái niệm, phân loại và vai trò của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
Từ căn cứ khái niệm về cho vay ngân hàng đã nêu trên ta có thể định nghĩa cho vay tài trợ xuất nhập khẩu như sau: Cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM là hình thức cho vay nhằm tài trợ cho hoạt động ngoại thương, kỳ hạn gắn liền với thời gian thực hiện hợp đồng kinh tế, đối tượng tài trợ là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp hoặc ủy thác.
Như đã phân tích ở trên, sự phát triển của hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu là khách quan, do nó có tầm quan trọng rất lớn với nên kinh tế. Với vai trò là một trong những nguồn tài trợ quan trọng nhất, hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM cũng thể hiện được những vai trò riêng biệt. Nó được thể hiện qua những mặt sau.
Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu:
Nguồn cho vay của NHTM còn là công cụ để làm nâng cao lợi nhuận và hiệu quả của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Cho vay tài trợ xuất nhập khẩu cũng là một khoản giảm trừ thuế thu nhập doanh nghiệp. Chính vì vậy mà việc sử dụng hợp lý nguồn vốn này là một công cụ rất hiệu quả để nâng cao lợi nhận cho các doanh nghiệp. Mặt khác, việc sử dụng nguồn, cũng tạo động lực để các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn, bởi vì các doanh nghiệp vẫn phải trả lãi cho việc sử dụng nguồn này, và buộc các doanh nghiệp phải quan tâm hơn đến vấn đề hiệu quả kinh doanh.
Do cũng là một trong những nguồn tài trợ cho xuất nhập khẩu, cho nên cũng giống những nguồn khác, cho vay của NHTM là một nguồn để tài trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu mua sắm nguyên vật liệu đầu vào, mua sắm máy móc, công nghệ, sản xuất, tiêu thụ hàng hóa...
Với sự tham gia của các NHTM, là những tổ chức có những cán bộ giàu kinh nghiệm, chuyên môn, hiểu biết về hoạt động xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế, cũng như nền tài chính quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu sẽ được diễn ra một cách thuận lợi, nhanh chóng và an toàn hơn.
Đối với toàn bộ nền kinh tế
Những vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp có tác động gián tiếp đến nền kinh tế. Cụ thể là nguồn cho vay của NHTM đối với hoạt động ngoại thương góp phần làm tăng nguồn thu ngoại tệ, tạo công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập, tăng hàng hóa tiêu dùng trong nước, góp làm nâng cao đời sống nhân dân, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với nhiều quốc gia khác... Bên cạnh đó, NHTM còn là nơi phân phối các nguồn tài trợ từ các tổ chức tài chính quốc tế, vì những nguồn này đều được ủy thác qua NHTM. Vai trò của nguồn tài trợ này còn được thể hiện ở chỗ, nó là một công cụ để Nhà nước điều tiết sự phát triển của xuất nhập khẩu cho phù hợp với định hướng phát triển chung của nền kinh tế.
1.2.2.3. Các hình thức cho vay tài trợ xuất nhập khẩu chủ yếu của Ngân hàng thương mại
Sự phát triển của hệ thống ngân hàng cùng với sự phát triển ngày càng đa dạng của nhu cầu tài trợ mà các hình thức cho vay tài trợ xuất nhập khẩu cũng ngày càng đa dạng. Sau đây là một số hình thức phổ biến nhất.
Cho vay trong khuôn khổ của tín dụng chứng từ
Đối với nhà xuất khẩu
Do tính ưu việt của nó mà tín dụng chứng đang ngày càng được sử dụng phổ biến trong hoạt động xuất nhập khẩu. Tín dụng chứng từ không những là một công cụ đảm bảo thanh toán mà còn là một công cụ của tín dụng ngân hàng. Nó chỉ có thể phục vụ trong nhiều mối liên quan như là một phương tiện cho vay hàng xuất.
Thông qua L/C chấp nhận (accepting accredit) khả năng chiết khấu hối phiếu đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu. Thông thường ngân hàng mở L/C (opening bank) hoặc ngân hàng thanh toán (negotiating bank) sãn sàng chấp nhận chiết khấu các hối phiếu của L/C chấp nhận này khi nhà xuất khẩu có nhu cầu, tức là ngân hàng đã cho nhà xuất khẩu vay để tiếp tục quá trình sản xuất của mình.
Ngay cả khi nhà xuất khẩu không được hưởng một L/C chấp nhận, mà là một L/C cho phép mua lại chứng từ để đòi tiền nhà nhập khẩu, nhà nhập khẩu vẫn có thể dễ dàng trình chứng từ cho ngân hàng để được cấp một khoản tín dụng với chi phí phù hợp với khoản đòi tiền đó. Loại hối phiếu của L/C này có tính thanh khoản cao, cho nên phần lớn các đại lý tín dụng chứng từ sãn sàng chấp nhận cho vay.
Cho vay trên cơ sở một tín dụng chuyển quyền sở hữu còn tiện lợi hơn nhiều so với những loại trên khi việc cho vay này được đảm bảo dưới dạng nhà xuất khẩu chuyển nhượng quyền sở hữu đối với L/C và tất cả các chứng từ hàng hóa có giá trị thanh toán cho ngân hàng của mình.
Tóm lại, về cơ bản thì bất cứ một thư tín dụng trả chậm nào cũng được sử dụng như một phương tiện để đi vay của nhà nhập khẩu, trong đó số tiền thanh toán không phải trả ngay mà được lùi lại đến ngày mà L/C quy định. Nhà xuất khẩu có thể nhận tiền bất kỳ lúc nào, đặc biệt thuận ._.lợi khi đó là L/C trả chậm có xác nhận. Lúc này nhà xuất khẩu có thể nhận tiền dưới dạng tín dụng chuyển nhượng toàn bộ quyền sở hữu L/C cho ngân hàng cấp vốn.
Đối với nhà nhập khẩu
Như chúng ta đã biết, mọi thư tín dụng của ngân hàng mở đều là do yêu cầu của bên nhập khẩu. Ngân hàng mở L/C luôn đối mặt với rủi ro khi nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán hay không muốn thanh toán khi L/C đến hạn. Do đó, ngân hàng thường phải yêu cầu nhà nhập khẩu kí quỹ một khoản tiền để đảm bảo cho thư tín dụng. Nhưng thực tế là không phải bất cứ lúc nào trên tài khoản của nhà nhập khẩu cũng đủ số tiền kí quỹ. Thêm nữa, khoảng cách giữa thời gian mở L/C và thanh toán L/C là khá dài, nếu ngân hàng khống chế số dư trên tài khoản của nhà nhập khẩu sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của họ, nhưng nếu không khống chế thì người phải gánh chịu rủi ro trước hết chính là ngân hàng mở L/C, phải trả giá đắt bằng sự mất uy tín đối với khách hàng và ngân hàng nước ngoài, đặc biệt là với L/C trả ngay.
Do đó, để tránh cản trở tới hoạt động kinh tế của nhà nhập khẩu đảm bảo uy tín của ngân hàng mở L/C thì ngân hàng mở ra loại hình cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu theo hạn mức tín dụng. Chính vì thế, trước khi mở L/C theo yêu cầu của nhà nhập khẩu, ngân hàng phải kiểm tra mục đích, đối tượng nhập khẩu, khả năng cạnh tranh của nhà nhập khẩu hiện tại và tương lai. Đó là cở sở để đảm bảo sự thu hồi vốn của ngân hàng.
Cho vay trên cơ sở hối phiếu
Trong hoạt động kinh doanh ngoại thương, hối phiếu đóng vai trò vô cùng quan trọng. Hối phiếu là một chứng từ có giá và đảm nhiệm ba chức năng: chức năng đảm bảo, chức năng thanh toán và chức năng tài chính. Hối phiếu đước biết đến như một cam kết trả tiền. Cam kết trả tiền này là vô điều kiện và hoàn toàn mang tính trừu tượng, không phụ thuộc vào hợp đồng mua bán phát sinh ra nó. Khoản tiền trên hối phiếu không những có gái trị để đòi tiền mà nó còn có thể chuyển nhượng. Dựa vào hối phiếu, ngân hàng có thể cho vay theo các hình thức sau:
Cho vay chiết khấu hối phiếu
Đây là loại cho vay của ngân hàng cấp cho khách hàng dưới hình thức mua lại hối phiếu trước khi đến hạn thanh toán. Tức là ngân hàng mua lại những khoản nợ phải đòi. Cho vay chiết khấu này tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu trong việc tái đầu tư đối với khoản tín dụng thương mại mà họ đã cấp cho nhà nhập khẩu. Đồng thời đối với nhà nhập khẩu, loại cho vay này giúp họ có thời gian thanh toán hối phiếu. Trong trường hợp đặc biệt chiết khấu hối phiếu tự nhận nợ của ngân hàng nhà nhập khẩu vừa giải quyết khó khăn về tài chính, vừa tạo điều kiện cho nhà nhập khẩu hưởng tài khoản thanh toán nhanh (tức là khi nhà nhập khẩu trả tiền ngay cho nhà xuất khẩu họ sẽ được giảm giá). Chính vì tính ưu việt này mà cho vay chiết khấu hối phiếu là loại cho vay thông dụng trong hoạt động ngoại thương và kể cả trong hoạt động nội thương.
Cơ sở để xác định khối lượng tín dụng này là giá trị hối phiếu sau khi đã trừ đi giá trị chiết khấu và lệ phí nhờ thu. Giá chiết khấu hối phiếu được tính theo công thức sau:
P
Ki= Kh( 1 - ––– t)
100
Trong đó Ki là giá trị chiết khấu của hối phiếu
Kh là giá trị hối phiếu
P là tỉ lệ chiết khấu
t là thời gian chờ thanh toán hối phiếu
Trong các yếu tố trên người ta quan tâm nhất đến tỷ lệ chiết khấu. Tỷ lệ này phụ thuộc vào nhiều yếu tố: khả năng truy hoàn nhà xuất khẩu, Khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu, thời hạn chờ thanh toán, giá trị hối phiếu, hình thức hối phiếu.
Cho vay chiết khẩu hối phiếu tự nhận nợ
Hối phiếu tự nhận nợ là một dạng hối phiếu của người mua đối với người bán. Thông qua loại hối phiếu này, ngân hàng cấp một khoản tín dụng đặc biệt gọi là tín dụng chiết khấu hối phiếu tự nhận nợ. Nó phục vụ cho những điều kiện thanh toán đơn giản nhất. Với loại cho vay này, nhà nhập khẩu sẽ ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng phục vụ mình trên cơ sở hối phiếu tự nhận nợ. Ngân hàng này sẽ phát hành hối phiếu tự nhận nợ và chuyển cho nhà nhập khẩu. Nhà nhập khẩu có thể dùng hối phiếu đó đến chiết khấu tại một ngân hàng bất kỳ để lấy tiền mặt thanh toán cho nhà xuất khẩu. Hình thức cho vay này tạo thuận lợi cho nhà nhập khẩu được hưởng tài khoản thanh toán nhanh trong hoạt động ngoại thương ngay cả khi ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu không đủ vốn.
Cho vay chấp nhận hối phiếu
Cho vay chấp nhận hối phiếu là khoản cho vay đảm bảo cho việc chấp nhận hối phiếu. Với khoản cho vay này, ngân hàng có trách nhiệm chấp nhận những hối phiếu đòi nợ họ. Tín dụng này đảm bảo cho người hưởng tín dụng được sử dụng để thanh toán hối phiếu khi tới hạn. Người đi vay chính là nhà nhập khẩu chứ không phảI nhà xuất khẩu. Đó cũng chính là điểm khác biệt giữa loại cho vay này với những loại chiết khấu nói trên. Hơn nữa, loại cho vay này chỉ là hình thức, một sự đảm bảo về tài chính, chứ thực sự ngân hàng chưa phải xuất tiền thực sự cho người vay. Nhà nhập khẩu mượn uy tín của ngân hàng để có được một chấp nhận của ngân hàng trên hối phiếu theo yêu cầu của nhà xuất khẩu. Và tất nhiên, nhà nhập khẩu phải trả lệ phí cho khoản vay này. Tuy nhiên, nếu như đến hạn thanh toán mà nhà nhập khẩu không có khả năng trả thì ngân hàng là người thanh toán, lúc này ngân hàng phả xuất tiền, và khi đó khoản cho vay này giống với những khoản cho vay thông thường.
Với sự chấp nhận của ngân hàng nhập khẩu trên hối phiếu, nhà xuất khẩu có thể đem hối phiếu đi chiết khấu ở bất kỳ một tổ chức tín dụng nào. Với sự chấp nhận đó, khả năng thanh khoản của hối phiếu rất cao, tạo điều kiện để nhà xuất khẩu được hưởng một tỉ lệ chiết khấu ưu đãi.
Cho vay ứng trước cho hoạt động xuất nhập khẩu
Đối với nhà xuất khẩu
Khi nhà xuất khẩu có toàn quyền sở hữu bộ chứng từ hàng xuất, mà bộ chứng từ này thể hiện nội dung và giá trị hàng hóa đã chuyển giao, họ có thể nhận được khoản tín dụng ứng trước bằng cách bán lại bộ chứng từ này cho ngân hàng. Qua đó, nhà xuất khẩu được bù đắp nguồn vốn để tiếp tục kinh doanh trong suốt thời gian kể từ khi gửi hàng cho đến khi nhà nhập khẩu chấp nhận bộ chứng từ và chấp nhận thanh toán. Cơ sở của khoản cho vay này là việc ngân hàng có toàn quyền đối với bộ chứng từ có giá trị đòi tiền.
Điều kiện để nhận khoản vay này là khả năng truy hoàn nhà xuất khẩu. Các chứng từ này nhất thiết phải là các chứng từ có giá trị để cho vay, không được phép chuyển nhượng cho người thứ ba để sử dụng. Các ngân hàng thường kí với khách hàng của mình một hạn mức tín dụng. Khoản vay này chỉ cấp cho nhà xuất khẩu căn cứ vào giá trị hợp đồng với một tỷ lệ nhất định, thường là từ 70-80% giá trị hàng hóa.
Đối với nhà nhập khẩu
Nhà nhập khẩu thường phải thanh toán bộ chứng từ hàng hóa trong khi hàng chưa cập bến, và sau đó họ phải sử dụng hàng nhập để sản xuất kinh doanh để thu hồi vốn. Đó là một quá trình dài, và họ cần ngân hàng tài trợ, đó là cho vay ứng trước.
Cho dù đối với nhà nhập khẩu hay xuất khẩu thì những chứng từ có giá theo lệnh hoặc những chứng từ như vận đơn, hóa đơn hay hợp đồng bảo hiểm… đều có thể thế chấp cho ngân hàng. Khi mà những chứng từ có giá trên không cho phép chuyển nhượng thì người vay vốn phải sử dụng những hình thức thế chấp khác. Vì một khi không có những chứng từ theo quy định của pháp luật thương mại thì rất khó có quyền sở hữu đối với hàng hóa- vật đảm bảo vốn vay.
Mức độ cấp tín dụng ứng trước phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu hoặc xuất khẩu.
Khả năng cạnh tranh của hàng hóa và giá hàng hóa dự kiến.
Chính sách kinh tế, chính trị của nước nhập khẩu (đối với ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu).
Những rủi ro về tỉ giá có thể gặp phải (đối với ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu).
Bao thanh toán
Bao thanh toán xuất khẩu- factoring
Khác với hoạt động mua bán lại chứng từ thanh toán ở phần trên, hoạt động factoring chỉ sử dụng cho những hoạt động xuất khẩu thường xuyên theo định kỳ, theo hợp đồng ngắn hạn và cho nhiều nhà xuất khẩu khác nhau trong cùng một nước hoặc nhiều nước trong cùng một thời điểm. Như vây nghiệp vụ này chỉ phù hợp với những nhà xuất khẩu lớn đã chiếm lĩnh được thị trường và chỉ có những khoản thanh toán đáp ứng những điều kiện sau mới được phép mua bán:
Đạt quy mô về sản xuất doanh thu hàng năm.
Thời hạn thanh toán không quá 120 ngày.
Cơ cấu khách hàng thay đổi ở mức có thể chấp nhận được.
Nghiệp vụ Factoring có thể mang lại những lợi thế cho nhà xuất khẩu như sau:
Hạn chế được rủi ro về kinh tế 100% (nhưng trước tiên bị khấu trừ 20-30%).
Không cần thiết phải kí hợp đồng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
Cải thiện được bảng cân đối kế toán.
Tăng cạnh tranh thông qua cấp tín dụng thương mại cho người mua.
Giảm được chi phí quản lý.
Chiết khấu nợ dài hạn- Forfaiting
Đây cũng là nghiệp vụ mua bán những khoản thanh toán chưa tới thời hạn như factaring nhưng khác ở một số điểm sau:
Forfaiting chỉ bao những khoản thanh toán cụ thể riêng lẻ trong toàn bộ quá trình XNK dài hạn và cho từng đối tượng nhập khẩu riêng.
Thời hạn thanh toán của factoring tối đa là 4 tháng trong khi thời hạn đối với forfaiting là 6 tháng đến 10 năm. Forfaiting được coi là hình thức tín dụng trung và dài hạn.
Factaring phục vụ cho những hoạt động XNK không sử dụng tới tín dụng chứng từ còn forfaiting lại dựa vào chúng và sự bảo đảm của ngân hàng.
1.2.3. Chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
1.2.3.1. Khái niệm chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
Như đã phân tích rất nhiều ở trên, cho vay tài trợ xuất nhập khẩu đang ngày càng trở nên quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và nền kinh tế. Tuy nhiên nhìn từ góc độ ngân hàng thì đây chính là một dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho những nhà xuất nhập khẩu- những khách hàng của mình. Nguồn thu nhập của ngân hàng từ dịch vụ này là không nhỏ, vì hầu hết những hợp đồng xuất nhập khẩu thường rất lớn. Cho nên việc nâng cao chất lượng tài trợ này để thu hút khách hàng mới và giữ chân khách hàng cũ là một việc làm rất cần thiết của các NHTM.
Như vậy, ta có thể thấy chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu là việc các NHTM đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu của những doanh nghiệp xuất nhập khẩu, mang lại cho họ những lợi ích tốt nhất khi sử dụng dịch vụ này của ngân hàng mình như: thời gian xét hồ sơ ngắn, thủ tục nhanh gọn, lãi suất ưu đãi, giải ngân nhanh, rủi ro thấp...Không chỉ có thế, cho vay tài trợ xuất nhập khẩu được xem là có chất lượng khi nó mang lại cho ngân hàng lợi nhuận cao và góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Hay nói một cách khác, chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu được hiểu là sự đảm bảo một cách hợp lí lợi ích của cả ba chủ thể là ngân hàng, nhà xuất nhập khẩu và nền kinh tế.
Tuy nhiên, việc đánh giá này cũng không có một khuôn mẫu nhất định, do đó với mỗi một người, việc đánh giá và nhận xét sẽ không giống nhau. Dưới đây là những chỉ tiêu chung nhất, thường gặp nhất.
1.2.3.2. Những chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
Doanh số và dư nợ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
Khi xem xét đến chất lượng cho vay chúng ta quan tâm đầu tiên đều là doanh số. Doanh số cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của một ngân hàng chính là tổng giá trị của tất cả những khoản cho vay với mục đích tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng đó trong một kỳ kinh doanh. Đây là một chỉ tiêu định lượng, và thông thường, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Doanh số cho vay thể hiện được quy mô và uy tín của ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn càng thể hiện quy mô vốn của ngân hàng lớn, và thêm nữa nó còn thể được uy tín của ngân hàng đó. Bởi vì, một ngân hàng có uy tín cao, chất lượng dịch vụ tốt thì mới thu hút được nhiều khách hàng với nhiều hợp đồng lớn, do đó doanh số cho vay mới cao.
Khác với doanh số cho vay là chỉ tiêu đánh giá thời kì, thì dư nợ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu lại là mọt chỉ tiêu thời điểm. Dư nợ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại một thời điểm là tổng giá trị các khoản vay tại thời điểm đó chưa đến hạn hoàn trả mà ngân hàng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vay. Chỉ tiêu này cho biết ngân hàng tại thời điểm đó đang cho vay nhiều hay ít. Chỉ số này càng lớn chứng tỏ ngân hàng đã tạo được uy tín, quan hệ với nhiều khách hàng, cung cấp nhiều dịch vụ tốt, có chất lượng và ngân hàng hoạt động có hiệu quả.
Vòng quay cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
Chỉ tiêu này thường được xác định như sau:
Doanh số cho vay xuất nhập
khẩu trong kì
Vòng quay cho vay xuất nhập khẩu = ––––––––––––––––––––
Dư nợ cho vay xuất nhập khẩu
bình quân trong kì
Chỉ tiêu này thể hiện khả năng tổ chức, quản lí vốn tín dụng, đồng thời thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn tín dụng và đáp ứng nhu cầu khách hàng. Để có thể đánh giá chính xác chất lượng tín dụng, các tiêu chuẩn tính toán cần phải đồng nhất trong việc áp dụng đối với từng loại cho vay cụ thể. Nhìn chung chỉ tiêu này thường phải đánh giá với vòng quay trung bình của toàn ngành. Nếu như chỉ tiêu này thấp hơn quá nhiều so với chỉ tiêu trung bình của ngành, thì chứng tỏ hoạt động cho vay của ngân hàng có vấn đề, hoặc là ít khách hàng, do chất lượng tín dụng thấp, hoặc là do việc thu hồi vốn gặp khó khăn, do chưa thẩm định doanh nghiệp xuất nhập khẩu một cách chính xác.
Số lượng hợp đồng tài trợ
Số lượng hợp đồng tài trợ cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng hoạt động cho vay của ngân hàng. Nếu như số lượng hợp đồng tăng qua các năm chứng tỏ rằng chất lượng cho vay của ngân hàng tốt, nên khách hàng quan tâm đến ngân hàng hơn. Ngoài ra, nếu kết hợp chỉ tiêu này với chỉ tiêu dư nợ thì ta có thể biết được giá trị trung bình một hợp đồng mà ngân hàng tài trợ thông qua tỷ số:
Doanh số cho vay trong kỳ
–––––––––––––––
Số hợp đồng tài trợ (hoặc số khách hàng)
Tỷ số này là một chỉ tiêu quan trọng thể hiện xu hướng cho vay của ngân hàng. Chỉ số này càng lớn chứng tỏ rằng ngân hàng ngày càng thu hút được những hợp đồng có giá trị lớn.
Cơ cấu dư nợ
Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ đóng góp của từng khoản cho vay vào tổng dư nợ của ngân hàng. Để xác định tỷ trọng của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu trong tổng dư nợ cho vay, ta dùng công thức sau:
Dư nợ cho vay xuất nhập khẩu
Tỷ trọng cho vay xuất nhập khẩu =
Tổng dư nợ cho vay
Chỉ tiêu này cho ta biết mức độ quan tâm của ngân hàng tới cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Tùy vào từng chính sách, đặc thù hoạt động và thời điểm khác nhau mà tỷ trọng tham gia này có thể lớn hay nhỏ. Ví dụ, với ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu (Eximbank) thì tất nhiên loại cho vay này rất được chú trọng và luôn chiếm tỷ trọng cao. Còn với nhiều ngân hàng khác, loại cho vay này không phải là loại cho vay trọng điểm, nên không chiếm tỷ trọng cao.
Nếu ta dùng chỉ tiêu này để so sánh giữa các năm, chúng ta có thể thấy được mức độ phát triển của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu so với những loại cho vay khác. Nếu tỷ trọng của loại cho vay này càng cao qua các năm thì chứng tỏ rằng ngân hàng đang ngày càng quan tâm tới loại hình cho vay này, và thu hút được ngày càng nhiều khách hàng...và ngược lại.
Tỷ lệ nợ quá hạn
Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng cho vay nói chung và cho vay tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng của NHTM.
Nợ quá hạn cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
Tỷ lệ nợ quá hạn = ––––––––––––––––––––
Tổng dư nợ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
Nợ quá hạn chính là khoản mà khách hàng không đủ khả năng hay cố tình không trả nợ cho ngân hàng khi đến hạn. Rõ ràng tỷ lệ này càng cao thì càng bất lợi cho ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay tài trợ xuất nhập khẩu cao biểu hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng thấp, rủi ro cao vì số lượng lớn nợ không được hoàn trả đúng hạn, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng. Do vậy không phải dư nợ cho vay càng cao thì càng tốt bởi điều đó còn phải phụ thuộc nhiều yếu tố khác như việc quản lý và chất lượng các khoản tín dụng đó.
Các chỉ tiêu định tính
Bên cạnh những chỉ tiêu định lượng đã nêu bên trên, còn rất nhiều những chỉ tiêu định tính để đánh giá chất lượng của hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Các chỉ tiêu được thể hiện qua một số khía cạnh sau.
Chất lượng cho vay được thể hiện thông qua khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng về vốn và các hình thức tài trợ, thủ tục đơn giản, thuận tiện, cung cấp vốn nhanh chóng, kịp thời, an toàn, kỳ hạn và phương thức thanh toán phù hợp với chu kỳ kinh doanh của khách hàng.
Chất lượng cho vay còn được xem xét thông qua tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng, tình hình khai thác tiềm năng của ngân hàng trên địa bàn hoạt động.
Mức độ hài lòng của khách hàng đối với các dịch vụ tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng cũng là một yếu tố rất quan trọng trong quá trình đánh giá chất lượng cho vay. Thông tin này ngân hàng có thể nắm bắt được thông qua các cuộc điều tra, phỏng vấn các chuyên gia, khách hàng, những buổi hội nghị khách hàng mà ngân hàng tổ chức.
Ngoài ra, còn có một số chỉ tiêu khác như thời gian xét duyệt hồ sơ xin vay, quy mô trung bình...Tất cả những chỉ tiêu này đều mang tính tương đối, khi xem xét chất lượng cho vay của ngân hàng, chúng cần phải đặt nó vào điều kiện kinh tế xã hội, cũng như tình hình của ngân hàng tại thời điểm đó, để đánh giá chính xác chất lượng dịch vụ.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
Hệ thống chi nhánh, đại lý: Hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu liên quan rất nhiều đến các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, trong đó có nghiệp vụ ngân hàng đại lý. Một hệ thống ngân hàng đại lý rộng lớn sẽ giúp NHTM phát triển mạnh hoạt động cho vay thông qua thu hút các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có quan hệ làm ăn với các doanh nghiệp ở nước có đại lý của ngân hàng.
Chính sách tín dụng: Với mỗi một ngân hàng, chính sách tín dụng luôn có một vai trò to lớn, quyết định sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Để nâng cao chất lượng cho vay, trước tiên ngân hàng cần có một hệ thống chính sách tín dụng rõ ràng, hợp lý, phù hợp với định hướng phát triển của ngân hàng cũng như nền kinh tế, đảm bảo lợi ích của các bên tham gia.
Chính sách tín dụng của một NHTM thường bao gồm: các hình thức cho vay áp dụng, giới hạn tín dụng, kỳ hạn cho vay, hướng giải quyết tín dụng vượt giới hạn, thanh toán nợ…vì thế nó có quyết định to lớn đến sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ kích thích được việc tiết kiệm và đầu tư thu hút được nhiều khách hàng đảm bảo khả năng sinh lời của ngân hàng, đồng thời tuân thủ theo pháp luật và đường lối chính sách của Nhà nước đề ra. Bất cứ một ngân hàng nào muốn hoạt động cho vay của mình có chất lượng tốt đều phải đầu tư xây dựng một chính sách tín dụng tốt, rõ ràng, phù hợp với điều kiện của ngân hàng đó.
Hoạt động huy động vốn của NHTM: Muốn cho vay được thì điều kiện trước tiên là ngân hàng phải có vốn. Nguồn vốn chủ yếu dùng cho hoạt động cho vay chính là vốn huy động từ thị trường. Do đó, việc huy động vốn ảnh hưởng lớn tới chất lượng hoạt động cho vay, nếu việc huy động vốn diễn ra không như ý muốn, thì ngân hàng khó có thể đáp ứng được những nhu cầu ngày càng lớn và đa dạng của khách hàng.
Công tác tổ chức và quan điểm lãnh đạo của ngân hàng: Tổ chức ngân hàng được sắp xếp một cách có khoa học, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng, ban trong từng ngân hàng, cũng như trong toàn bộ hệ thống ngân...sẽ tạo thuận lợi trong việc phục vụ tốt khách hàng và quản lý chặt chẽ luồng vốn vào ra của ngân hàng. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh và quản lý có hiệu quả nguồn vốn tín dụng. Ngoài ra, quan điểm của lãnh đạo ngân hàng, bảo thủ hay năng động cũng là một nhân tố quan trọng, nhất là trong hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu mới mẻ, luông tiếp xúc mới những công nghệ mới.
Trình độ cán bộ công nhân viên: Con người luôn là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong mọi hoạt động kinh doanh nói chung và tất nhiên nó cũng không loại trừ khỏi hoạt động của một ngân hàng. Muốn nâng cao được chất lượng trong hoạt động cho vay, ngân hàng cần phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng có trình độ, không những am hiểu về hoạt động cho vay, hệ thống tài chính, mà còn phải có kiến thức về những nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu, về thị trường cũng như những chính sách vĩ mô liên quan đến xuất nhập khẩu, đặc biệt trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, đang tiếp cận với nhiều công nghệ mới. Ngoài ra, họ còn phải có tiêu chuẩn về đạo đức và sự liêm khiết, bởi lẽ nếu người cán bộ tín dụng thiếu trách nhiệm hay cố tình vi phạm có thể sẽ gây tổn thất rất lớn cho ngân hàng, đặc biệt là cho vay tài trợ xuất nhập khẩu với những hợp đồng thường có giá trị rất lớn.
Quy trình tín dụng: Quy trình tín dụng bao gồm những quy định cần phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm bảo đảm an toàn nguồn vốn tín dụng. Nó được bắt đầu từ khi chuẩn bị cho vay, giải ngân, kiểm tra quá trình cho vay cho đến khi thu hồi được nợ. Chất lượng cho vay có bảo đảm hay không tuỳ thuộc vào việc thực hiện tốt các quy định ở từng bước và sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng.
Trong quy trình tín dụng, bước chuẩn bị cho vay là hết sức quan trọng, là cơ sở để định lượng rủi ro trong quá trình cho vay. Trong bước này, chất lượng cho vay tuỳ thuộc vào chất lượng công tác thẩm định đối tượng được vay vốn cũng như quy định điều kiện và thủ tục vay ở từng NHTM.
Kiểm tra quá trình cho vay giúp ngân hàng nắm được diễn biến của khoản vay đã cung cấp để có thể điều chỉnh hoặc can thiệp khi cần thiết, sớm thấy được nguyên nhân và ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra.
Thu nợ và thanh lý là khâu có ý nghĩa quyết định. Sự nhạy bén của ngân hàng trong việc phát hiện kịp thời những bất lợi xảy ra đối với khách hàng cùng các biện pháp xử lý chính xác, đúng lúc không những giảm thiểu các khoản nợ quá hạn mà còn tạo được quan hệ gần gũi với khách hàng, điều đó sẽ có tác động tích cực đối với chất lượng cho vay.
Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng sẽ tạo điều kiện cho vốn tín dụng được luân chuyển bình thường, theo đúng kế hoạch đã định mà nhờ đó bảo đảm được chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu.
Thông tin tín dụng : Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng cho vay. Nhờ có thông tin tín dụng, người quản lý có thể đưa ra các quyết định cần thiết có liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Thông tin tín dụng có thể lấy được từ ngân hàng (hồ sơ vay vốn, thông tin của các NHTM khác, phân tích của các cán bộ tín dụng...), từ các nguồn của khách hàng(các báo cáo định kỳ, các phương án sản xuất kinh doanh), từ các cơ quan chuyên thông tin tín dụng trong và ngoài nước, từ các bộ, các ngành chủ quản...Đây là cơ sở để NHTM đưa ra những quyết định phù hợp. Vì vậy, thông tin càng đầy đủ, nhanh nhậy, chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngày càng lớn, chất lượng cho vay ngày càng cao.
Kiểm soát nội bộ: Hoạt động này nhằm giúp lãnh đạo ngân hàng nắm bắt được tình hình chấp hành đinh hướng tín dụng do ngân hàng đề ra của các cán bộ tín dụng, nắm bắt được những sai sót trong quá trình cho vay. Chất lượng cho vay phụ thuộc vào mức độ phát hiện kịp thời nguyên nhân các sai sót đó để có các biện pháp khắc phục kịp thời.
Cơ sở hạ tầng: Để có thể quản lý và theo dõi có hiệu quả hoạt động cho vay, song song với việc nâng cao chất lượng công tác hoạch định chính sách, công tác tổ chức quản lý Ngân hàng, công tác nhân sự, quản lý quá trình cho vay, công tác thông tin, kiểm soát nội bộ, cần chú ý tới các phương tiện cần thiết phục vụ cho quá trình quản lý hoạt động tín dụng. Điều này rất quan trọng đối với cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, khi những đối tác của khách hàng mình đều ở nước ngoài, có cơ sở hạ tầng phát triển. Nếu thực hiện tốt chỉ tiêu này sẽ giúp các NHTM nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng cũng như giảm thiểu được rủi ro, nâng cao được doanh số cho vay.
Quan hệ với các đối tác: Uy tín của ngân hàng ảnh hưởng mạnh đến chất lượng cho vay của ngân hàng, uy tín lại chịu ảnh hưởng lớn từ quan hệ của NHTM với các đối tác. Do đó các quan hệ vay trả, thực hiện cam kết với đối tác có ảnh hưởng lớn tới chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM.
1.3.2. Các nhân tố khách quan
Khách hàng
Thứ nhất, vấn đề đầu tiên phải nhắc đến khi nói đến yếu tố này là uy tín, đạo đức của người vay. Khách hàng có thể lừa đảo ngân hàng thông qua việc gian lận về số liệu, quyền sở hữu tài sản, sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, phương án kinh doanh…Việc khách hàng gian lận sẽ dẫn đến những rủi ro lớn cho ngân hàng.
Uy tín của khách hàng cũng là một yếu tố đáng quan tâm. Uy tín được khẳng định và kiểm nghiệm bằng kết quả thực tế trên thị trường qua thời gian càng dài càng chính xác. Do đó, ngân hàng cần phân tích xuyên suốt cả quá trình hoạt động của khách hàng mới có kết luận chính xác.
Thứ hai, chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào năng lực tổ chức, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của người vay. Đây chính là tiền đề tạo ra khả năng kinh doanh có hiệu quả của khách hàng, là cơ sở cho khách hàng thực hiện cam kết hoàn trả đúng hạn nợ ngân hàng cả gốc lẫn lãi.
Môi trường
Thứ nhất là môi trường kinh tế, Tính ổn định về kinh tế mà trước hết và chủ yếu là ổn định về tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát, các chính sách về xuất nhập khẩu là những điều mà các doanh nghiệp kinh doanh rất quan tâm vì nó liên quan trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế ổn định sẽ là điều kiện, môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận cao, từ đó góp phần tạo nên sự thành công trong kinh doanh của ngân hàng, đó cũng là cơ sở để nâng cao chất lượng cho vay của NHTM.
Thứ hai là môi trường chính trị, môi trường chính trị đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh, đặc biệt đối với các hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tính ổn định về chính trị trong nước sẽ là một trong những nhân tố thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Thứ ba là môi trường pháp lý, Đối với cho vay tài trợ xuất nhập khẩu yếu tố này trở nên quan trọng. Vì hoạt động ngoại thương là một trong những công cụ điều tiết nề kinh tế của chính phủ, cho nên hệ thống pháp lý liên quan đến nó rất chặt chẽ, một thay đổi nhỏ cũng có thể dẫn đến những thuận lợi hay khó khăn lớn cho những nhà xuất nhập khẩu. Hơn thế nữa, những quy định pháp luật quốc tế cũng tác động mạnh tới hoạt động xuất nhập khẩu. Nếu doanh nghiệp không hiểu rõ rất có thể sẽ bị những đối tác nước ngoài lừa đảo, từ đó gây thiệt hại cho ngân hàng.
Thứ tư là môi trường cạnh tranh, Có thể nói đây là yếu tố tác động mạnh mẽ đến chất lượng cho vay nói riêng và hoạt động kinh doanh chung của NHTM. Dưới sự tác động này, ngân hàng luôn phải quan tâm tới đầu tư trang thiết bị tốt, tăng cường đội ngũ nhân viên có trình độ, củng cố và khuyếch trương uy tín và thế mạnh của ngân hàng. Mặt khác, dưới áp lực của cạnh tranh gay gắt các ngân hàng có thể không quan tâm đến vấn đề rủi ro, làm giảm chất lượng cho vay.
Thứ năm là môi trường tự nhiên, Các yếu tố này chủ yếu không dự báo trước được, nhưng không gây ảnh lớn tới chất lượng cho vay của NHTM vì tỷ lệ xảy ra nhỏ.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN
2.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
2.1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
NHTMCP Sài Gòn (Sai Gon Commercial Joint Stock Bank – SCB) có tiền thân là NHTMCP Quế Đô, thành lập ngày 30/06/1992, theo số ĐKKD gốc 059019/NH – GP. Tuy nhiên, do một số nguyên nhân sau 10 năm hoạt động, ngân hàng Quế Đô đã gặp phải rất nhiều khó khăn, hoạt động kinh doanh không hiệu quả. Đến cuối năm 2002, Ngân hàng Quế Đô hoạt động trong hiện trạng tài chính thua lỗ trên 20 tỷ chưa có nguồn bù đắp, bộ máy quản trị điều hành suy sụp hoàn toàn, khách hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro, nợ quá hạn hơn 20 tỷ không có khả năng thu hồi; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam duy trì chế độ thanh tra – giám sát thường xuyên và quy định hạn mức huy động chỉ 160 tỷ đồng, hoạt động kinh doanh nghèo nàn, không có hệ thống quy trình quy chế hoạt động nghiệp vụ, đội ngũ nhân sự yếu về trình độ chuyên môn...
Trước tình hình đó, hội đồng cổ đông (HĐCĐ) hiện tại của ngân hàng đã tiến hành mua lại ngân hàng, cơ cấu lại tổ chức và hoạt động để tiếp tục đưa ngân hàng phát triển. Nhận thức rõ những khó khăn đó, khi tiếp nhận Ngân hàng, các cổ đông mới đã tin tưởng giao phó cho Hội đồng quản trị và Ban Tổng giám đốc tiến hành các biện pháp cải cách toàn diện để giải quyết những mâu thuẫn nội tại, kiện toàn bộ máy tổ chức, làm cơ sở để tháo gỡ những khó khăn trong hoạt động. Nhờ đó, Ngân hàng TMCP Quế Đô chính thức được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép đổi tên gọi, đi vào hoạt động với thương hiệu mới: Ngân hàng TMCP Sài Gòn – SCB kể từ ngày 08/04/2003. Thương hiệu này đã dần định hình và ngày càng chiếm được sự tin tưởng của người dân và doanh nghiệp khắp cả nước. Với quyết tâm đưa Ngân hàng đi lên, từ sự cố gắng phát triển kinh doanh đầy hiệu quả trong năm 2003 (SCB bắt đầu có lãi từ quý II/2003), SCB đã có những giải pháp rất thực tế, mang ý nghĩa đột phá, nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính của SCB, củng cố hệ thống quy trình, quy chế chuyên môn nghiệp vụ trong toàn hàng. Kết thúc năm 2006, SCB được NHNN đánh giá xếp thứ 6 trong hệ thống các NHTM trên địa bàn TP.HCM. Đến hết năm 2007, tổng tài sản của SCB đạt 25.980,27 tỷ đồng, gấp hơn 2.37 lần so với năm 2006; Tổng nguồn vốn huy động đạt 22.753,3 tỷ đồng, tăng 12.817,9 tỷ đồng tương ứng 129% so với đầu năm; Tổng dư nợ tín dụng - đầu tư là 19595.92 tỷ đồng, tăng 10.805,92 tỷ đồng tương ứng 123% so với cả năm 2006. Mạng lưới hoạt động từ 7 điểm năm 2002 tăng lên 32 điểm bao gồm Hội sở, Sở giao dịch, các chi nhánh và các phòng giao dịch tại khu vực Hà Nội, miền Trung, Tp.HCM, Miền Tây Nam Bộ.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức nhân sự của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
Ngân hàng được tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty TNHH. Mô hình tổ chức của ngân hàng được bố trí như sau:
Đại hội cổ đông
._.ân hàng ngày càng lớn mạnh, tính cạnh tranh ngày càng gay gắt, phải nói là SCB chưa đủ uy tín để huy động vốn trung và dài hạn với số lượng lớn. Hầu hết, những khoản huy động của SCB đều là ngắn hạn, do đó, rất khó cho ngân hàng có thể tìm nguồn hỗ trợ phát triển cho vay tài trợ xuất nhập khẩu trung và dài hạn.
Do có nhiều hạn chế trong cơ cấu tổ chức mà sự phối hợp giữa các phòng ban của SCB chưa tốt. Sự hỗ trợ của phòng thanh toán quốc tế cho phòng tín dụng còn nhiều bất cập. Thêm vào đó còn nhiều trường hợp không chấp hành quy trình tín dụng của ngân hàng. Tất cả những điều này đều mang lại những rủi ro tiềm ẩn cho ngân hàng khi khách hàng cố tình không trả nợ.
Bên cạnh đó, cho vay tài trợ xuất nhập khẩu còn mang tính tự phát, chưa được triển khai trong toàn hệ thống. Có những đơn vị chuyên cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, nhưng ngược lại có những đơn vị dư nợ cho vay này rất thấp. Một bộ phận cán bộ nhận thức chưa đầy đủ trong việc phát triển hoạt động xuất nhập khẩu hơn thế đây là hình thức nghiệp vụ còn nhiều mới mẻ do vậy lực lượng cán bộ tín dụng để triển khai vừa thiếu, vừa yếu về kinh nghiệm, nghiệp vụ và ngoại ngữ so với yêu cầu. Mặt khác, mạng lưới thanh toán quốc tế chưa thực sự phát triển tương xứng và phù hợp cũng ảnh hưởng rất nhiều, kiềm hãm sự phát triển của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu.
Quan điểm của lãnh đạo SCB nhiều khi còn chưa năng động, chính vì vậy SCB chưa thực sự chú trọng đến công tác Marketing để tìm kiếm khách hàng mới. hầu hết những khách hàng vay xuất nhập khẩu của SCB đều là những khách hàng truyền thống, có quan hệ làm ăn lâu năm với ngân hàng, mặc dù SCB có rất nhiều ưu đãi cho khách hàng.
Do nguồn nhân lực của SCB còn thiếu, cho nên cán bộ tín dụng hoạt động rất rộng, chưa có những cán bộ chuyên về cho vay tài trợ xuất nhập khẩu cho nên có những bỡ ngỡ về pháp luật, thể lệ tập quán thương mại và thanh toán quốc tế, trình độ ngoại ngữ là điều không thể tránh khỏi.
Với những tài sản thế chấp cho vay tài trợ xuất nhập khẩu hình thành từ vốn vay, đặc biệt là hàng hóa, Ngân hàng vẫn chưa thực sự nắm bắt được lô hàng một cách chắc chắn. Chủ yếu ngân hàng chỉ yêu cầu khách hàng gửi đến hóa đơn hàng hóa, hợp đồng kinh tế liên quan đến lô hàng. Tuy việc này tạo thuận lợi cho khách hàng, nhưng đồng thời cũng mang lại cho ngân hàng rủi ro khi khách hàng cố tình sử dụng vốn sai mục đích.
Quá trình thu nợ và bán chéo sản phẩm chưa được thực hiện một cách hợp lý. Trong quá trình thu nợ, khi khách hàng gặp phải những rủi ro trong kinh doanh, SCB chưa thực sự tạo điều kiện giúp đỡ, tư vấn cho khách hàng để cùng tháo gỡ khó khăn với khách hàng. Từ đó nhiều khi làm cho khách hàng rời bỏ ngân hàng. Quá trình bán chéo sản phẩm cũng chưa được đẩy mạnh.
Vấn đề kiểm soát nội bộ chưa được quan tâm đúng mức. Từ đó, lãnh đạo ngân hàng chưa kiểm soát chặc chẽ những nảy sinh trong quá trình cho vay, không thế xử lý kịp thời những sai phạm trong quá trình cho vay, từ đó gây lên những ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng cho vay của SCB.
Thông tin tín dụng mà SCB thu thập mỗi lần thẩm định khách hàng chủ yếu là từ khách hàng, và của trung tâm thông tin tín dụng (CIC). Các nguồn thông tin từ các đối tác của khách hàng, các tổ chức tín dụng đã có quan hệ vay trả với ngân hàng, các ngành chủ quản chưa được SCB quan tâm khai thác. Từ đó, ngân hàng khó có thể đánh giá chính xác được năng lực, phẩm chất của người vay, không đảm bảo được chất lượng cho vay.
Những chi nhánh và phòng giao dịch của SCB đã có một số nơi cơ sở vật chất, điều kiện làm việc chưa đáp ứng được điều kiện để cán bộ làm việc tốt. Thậm chí có nhiều cơ sở phòng tín dụng không đủ để kê bàn tiếp khách. Khách hàng thường có xu hướng tin cậy vào những ngân hàng có cơ sở vật chất tốt, do đó những hạn chế này sẽ làm ảnh hưởng không tốt đến tâm lý khách hàng. Thêm nữa, trong khi một số ngân hàng nước ngoài, giờ đóng của buổi chiều là 18h thì giờ đóng của ở SCB là 16h30. Đây là một yếu tố nhỏ, nhưng cũng không kém phần quan trọng, vì thậm chí hiện nay đã có nhiều ngân hàng áp dụng dịch vụ ngân hàng 24 giờ.
Nguyên nhân khách quan
Hệ thống pháp lý của nước ta chưa đầy đủ, nhiều khi các luật còn chồng chéo, phủ định lẫn nhau đã gây ra những khó khăn nhất định cho các NHTM. Hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu phải chịu sự điều chỉnh của nhiều luật mà các luật ở nước ta còn có sự đan chéo, gây nhiều bất lợi cho doanh nghiệp và ngân hàng trong nước khi có trang chấp, khiếu kiện xảy ra. Mặc dù sau khi gia nhập WTO, hàng rào thuế quan của nước ta đã giảm bớt, nhưng vẫn đang trong lộ trình, cho nên vẫn có hiện tượng một quy định ban hành chưa lâu đã thay đổi. Điều này ảnh hưởng xấu tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, từ đó gây lên những khó khăn cho ngân hàng.
Những hạn chế trong việc điều hành chính sách lãi suất và tỷ giá có ảnh hưởng lớn tới cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Sự thay đổi trong tỷ giá sẽ dẫn đến những thay đổi trong lãi suất cho vay của các NHTM, những thay đổi này có thể gây lên những bất lợi cho những nhà xuất nhập khẩu, ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ của ngân hàng.
Hệ thống thông tin của nước ta còn kém phát triển, các NHTM chưa có một nguồn cung cấp thông tin từ nhà nước hiệu quả, chưa có một kênh thông tin nào chuyên biệt cho hoạt động ngoại thương.
Nhà nước cũng chưa có những cơ quan chuyên môn để hỗ trợ hoạt động ngoại thương, một hoạt động mới, đòi hỏi phải có sự hiểu biết sâu và rộng tới các tập quán thương mại quốc tế.
Sự kém phát triển của những công cụ tín dụng thương mại như thương phiếu, hối phiếu đã làm cho tính thanh khoản của những chúng kém đi, thêm vào đó là sự kém phát triển của thị trường hối đoái đã gây ra những khó khăn nhất định cho NHTM.
Một nguyên nhân khác rất quan trọng xuất phát từ phía người đi vay. đó là năng lực và đạo đức của họ. Nhiều khi phương án sản xuất kinh doanh của họ rất khả thi, nhưng do năng lực kém, không thể xử lý được những rủi ro xáy ra, nên họ bị mất vốn, thua lỗ, thậm chí phá sản. Hoặc do đạo đức của người vay, muốn chiếm đoạt tiền vay của ngân hàng nên đã nghĩ ra cách để không hoàn trả khoản vay đó. Những điều trên nếu xảy ra sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng. Chính vì thế khâu thẩm định luôn được xem là rất quan trọng trong cho vay tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng và tín dụng nói chung.
Ngoài ra còn rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, như những biến động của thị trường quốc tế, thiên tai, lũ lụt…Đây là những tiền đề quan trọng để đưa ra những giải pháp cụ thể hữu hiệu nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng.
CHƯƠNG III- GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN
3.1. Định hướng phát triển cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
3.1.1. Định hướng chung
Với những thành tựu đã có trong những năm vừa qua, SCB mong muốn có những bước phát triển hơn trong năm tiếp theo nên đã đề ra những phương hướng hoạt động chung cho toàn ngân hàng như sau:
Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động huy động vốn và chủ động giữ vững tỷ lệ huy động giữa thị trường 1 và thị trường 2, tăng cường việc huy động nguồn vốn giá rẻ nhưng ổn định. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, triển khai các sản phẩm huy động mới nhằm duy trì khách hàng hiện hữu đồng thời thu hút khách hàng mới.
Tăng trưởng tín dụng ổn định gắn liền với chất lượng tín dụng luôn được kiểm soát một cách chặt chẽ. Thực hiện phục vụ khách hàng trọn gói, tăng cường bán chéo sản phẩm.
Bên cạnh tăng trưởng tín dụng, SCB cũng sẽ đẩy mạnh các hoạt động đầu tư, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối…nhằm đa dạng hóa thu nhập, phân tán rủi ro và nâng cao tỷ trọng thu dịch vụ trong tổng thu.
Bên cạnh việc tăng nguồn thu, SCB cũng sẽ chú trọng đến việc khai thác tối đa lợi ích của các tài sản không để tình trạng lãng phí, tiết kiệm chi phí nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và tối đa hóa lợi nhuận.
Song song với những định hướng về hoạt động kinh doanh, về mặt tổ chức, SCB tiếp tục kiện toàn bộ máy và đưa bộ máy vận hành theo mô hình tổ chức mới, hoạt động có hiệu quả.
Trong năm tiếp theo, SCB quyết tâm hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, tập trung đầu tư và triển khai corebanking mới nhằm hỗ trợ tốt nhất hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, trung tâm dữ liệu dự phòng sẽ được xây dựng nhằm đảm bảo dự liệu của SCB được lưu giữ an toàn đúng quy định.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác phát triển mạng lưới hoạt động ra khắp các vùng miền trong cả nước với dự kiến sẽ mở thêm khoảng 30 chi nhánh và 60-70 phòng giao dịch nhằm đưa thương hiệu SCB tiếp cận với các khách hàng trên khắp mọi miền.
3.1.2. Định hướng về hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
Năm 2008 sẽ là một năm khó khăn cho SCB khi mà tỷ lệ làm phát năm 2007 rất cao, có nhiều hiện tượng thể hiện sự bất ổn của nền kinh tế trong nước cũng như trên thế giới. Thêm vào đó, năm 2008 sẽ chứng kiến sự góp mặt của hàng loạt những ngân hàng mới, khiến thị trường ngân hàng ngày càng cạnh tranh khốc liệt hơn.
Để tồn tại và phát triển, SCB đã đặt ra cho mình những định hướng chung cho hoạt động tín dụng và hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng. Trong năm 2008, hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu phải đảm bảo: tiếp tục ổn định các mặt hoạt động nghiệp vụ, duy trì và mở rộng mối quan hệ với các ngân hàng nước ngoài, đảm bảo kinh doanh có lãi, giảm tỷ lệ nợ quá hạn, xây dựng một ngân hàng có số lượng khách hàng ổn định, đẩy mạnh tìm kiếm những dự án có hiệu quả phúc vụ kinh doanh xuất nhập khẩu để đầu tư, có được chữ tín trên trường quốc tế, tăng uy tín trên mọi lĩnh vực, sử dụng tài sản Có một cách hiệu quả nhất, đồng thời chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết để mở rộng hoạt động kinh doanh cho các năm tiếp theo, tiến tới đa dạng hoá các loại hình cho vay tài trợ xuất nhập khẩu nhằm khai thác tối ưu nguồn vốn hiện có.
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
Tăng cường hơn nữa việc mở rộng chi nhánh, đại lý trong nước và nước ngoài
Muốn thu hút được khách hàng về phía mình, SCB cần phải đẩy mạng nghiên cứu để mở rộng thêm mang lưới chi nhánh và phòng giao dich trong nước. Bên cạnh đó, SCB cũng phải không ngừng mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính ở nhiều quốc gia khác nhau tạo thuận lợi cho hoạt động thanh toán quốc tế, đó là tiền đề để nâng cao được chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu.
Hoàn thiện dần chính sách tín dụng cho phù hợp
SCB cần mở rộng thẩm quyền phán quyết tín dụng đối với các phòng giao dịch và chi nhánh nhằm góp phần giảm bớt thời gian thẩm định hồ sơ khách hàng. Đồng thời SCB cũng nên tích cực tìm kiếm đối tác để thực hiện các hợp đồng đồng tại trợ với những hợp đồng có giá trị lớn, đáp ứng tốt nhu cầu của các khách hàng lớn.
Trong quá trình thu nợ, SCB cần nghiên cứu để đưa ra hình thức thu gốc và lãi phù hợp với khách hàng, tránh gây ra những áp lực cho khách hàng, và SCB có thể yêu cầu bắt buộc ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng để thuận lợi cho việc theo dõi và trả nợ. Nếu trong quá trình theo dõi, nếu phát hiện ra những dấu hiệu cho thấy khách hàng làm ăn thua lỗ do những rủi ro bất ngờ, ngân hàng cần có những biện pháp phòng ngừa thích hợp, đồng thời có thể cùng khách hàng giải quyết khó khăn. Ngân hàng có thể tư vấn cho doanh nghiệp, hoặc có thể gia hạn nợ, hay cho vay thêm nếu cảm thấy khách hàng vẫn có cơ hội vực dậy. Đây cũng là một động thái của ngân hàng cho thấy ngân hàng luôn quan tâm đến khách hàng, hết lòng vì lợi ích khách hàng, tù đó, ngân hàng sẽ giữ chân được khách hàng truyền thống, đồng thời có thể thu hút được khách hàng mới thông qua sự giới thiệu của khách hàng về ngân hàng với đối tác.
Tăng cường huy động vốn để cung cấp vốn cho hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
Với bất cứ một ngân hàng nào, nguồn vốn tài trợ cho hoạt động tín dụng nói chung chủ yếu là nguồn huy động từ dân cư. Nâng cao hiệu quả cho vay tài trợ xuất nhập khẩu chính là đáp ứng tốt nhu cầu vay vốn của khách hàng. Do đó muốn nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu trước hết phải đảm bảo tốt khâu đầu vào- huy động vốn. SCB có thể tăng trưởng huy động vốn bằng một số biện pháp sau:
SCB nên có những chính sách về lãi suất, đẩy mạnh khuyến mãi cho khách hàng khi gửi tiết kiệm tại ngân hàng để thu hút khách hàng gửi tiền nhiều hơn. Đối với những khách hàng gửi nhiều lần ở ngân hàng, SCB nên có những phần quà, những khuyến mãi hấp dẫn hơn những khách hàng thông thường. Đặc biệt, SCB cần quan tâm hơn tới những việc huy động trung và dài hạn bằng cách có những sản phẩm tiết kiệm trung và dài hạn hấp dẫn.
Ngoài ra, ngân hàng cần bố trí cho nhân viên giao dịch làm thêm vào ngày nghỉ, vì một số lượng không ít cán bộ công nhân viên chức làm giờ hành chính có nhu cầu gửi tiền vào ngày nghỉ.
Một vấn đề khác để thu hút khách hàng gửi tiền là ngân hàng phải đảm bảo tốt cho khách hàng vấn đề bảo hiểm tiền gửi. Một bộ phận khách hàng, đặc biệt là những khách hàng cao tuổi rất quan tâm đến vấn đề an toàn khi gửi tiền. Nếu vấn đề này không được chú trọng, ngân hàng sẽ mất đi một số lượng khách hàng không nhỏ.
Không chỉ mở rộng hình thức gửi tiết kiệm, mà SCB cần chú trọng phát triển huy động bằng chứng khoán như kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi cho nhu cầu ngắn hạn, và trái phiếu cho nhu cầu dài hạn. Nếu làm tốt, đây sẽ là một kênh huy động rất hiệu quả, góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường.
Ngoài nguồn vốn huy động từ dân cư- thị trường 1, ngân hàng cũng cần có sự quan tâm thích đáng đến thị trường 2, từ những tổ chức tín dụng khác. Đó là những tổ chức tín dụng không những trong nước mà cả ở ngoài nước. Đây là nguồn cung vốn rất quan trọng khi ngân hàng cần vay nóng để đáp ứng cho nhu cầu tài trợ của mình. Cho nên, ngân hàng cần khai thác nguồn vốn này bằng cách tiếp tục mở rộng quan hệ với các ngân hàng trong nước và ngoài nước, nâng cao uy tín của mình tỏng việc vay trả cả gốc và lãi.
Nghiên cứu hoàn hiện công tác tổ chức, nâng cao hoạt động của các nghiệp vụ hỗ trợ
SCB cần nghiên cứu để cải thiện sự phối hợp giữa các phòng ban để thực hiện hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu có chất lượng. Đây là loại hình cho vay phức tạp, cần có sự giúp đỡ của các nghiệp vụ hỗ trợ, nếu làm tốt vấn đề này, hoạt động cho vay tài trợ xuất khẩu sẽ diễn ra thuận lợi.
Song song với công việc trên, SCB cần đẩy mạnh những nghiệp vụ hỗ trợ như thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ. Hai nghiệp vụ này có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Kinh doanh ngoại tệ có ảnh hưởng mạnh đến lượng vốn bằng ngoại tệ tài trợ cho khách hàng đặc biệt là những nhà nhập khẩu, còn thanh toán quốc tế nhanh chóng góp phần hạn chế những rủi ro cho khách hàng. Việc vận hành tốt hai nghiệp vụ này là điều kiện để cho vay tài trợ xuất nhập khẩu được nhanh chóng và an toàn. Ngân hàng phải xây dựng cơ chế có liên quan về quản lý, mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế trên cơ sở quy định của Ngân hàng Nhà nước và vận dụng linh hoạt vào điều kiện ngân hàng. Bên cạnh đó SCB cần mở rộng quan hệ kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế, ký kết các cam kết mua bán ngoại tệ, nghiên cứu thị trường để nắm bắt những thay đổi tỷ giá một cách kịp thời…
Áp dụng những hình thức cho vay mới đồng thời thực hiện đa dạng hóa khách hàng
Khả năng đáp ứng mọi nhu cầu đa dạng của khách hàng là một trong những chỉ tiêu quan trọng thể hiện chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Như đã nói ở trên, những hình thức cho vay tài trợ xuất nhập khẩu hiện nay của SCB là khá đơn điệu, chủ yếu là những hình thức tài trợ truyền thống. Những hình thức cho vay tài trợ nhà xuất khẩu tuy đã được áp dụng nhưng doanh số rất thấp. Vì vậy phương hướng lấy cho vay xuất khẩu làm trọng tâm và kết hợp giữa cho vay xuất khẩu và nhập khẩu, nhằm nâng cao chất lượng cho vay tìa trợ xuất nhập khẩu thì trong giai đoạn tới việc xem xét mở rộng các hình thức tín dụng cho xuất khẩu cũng như nhập khẩu là đòi hỏi cấp thiết.
Tuy nhiên nếu chỉ mở rộng những hình thức cho vay tài trợ xuất nhập khẩu thôi là chưa đủ. Điều quan trọng là phải làm sao cho khách hàng biết được ngân hàng có thể đáp ứng mọi nhu cầu của họ. Chính vì vậy, song song với việc mở rộng những hình thức tài trợ, SCB cần đẩy tìm kiếm khách hàng thông qua các nghiệp vụ Marketing ngân hàng.
SCB cần xây dựng cho mình một chiến lược Marketing phù hợp, bao gồm: Chính sách tìm kiếm thông tin, điều tra thị trường, nhằm tìm hiểu nhu cầu của thị trường để đưa ra những sản phẩm thích ứng. tìm hiểu về đặc điểm của khách hàng mình để có những biện pháp lôi kéo thích hợp; Chính sách giá nhằm tạo những đặc trưng riêng về dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thông qua những hình thức ưu đãi về phí suất và lãi suất; Chính sách phân phối, nhằm đưa sản phẩm của ngân hàng đến với khách hàng một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất; Chính sách PR, khuyếch trương, bán chéo sản phẩm, chính sách này nhằm tạo quan hệ gần gũi giữa ngân hàng với khách hàng thông qua những buổi hội nghị khách hàng, qua đó thuyết phục khách hàng sử dụng những dịch vụ khác của ngân hàng ngoài những dịch vụ đã cung cấp.
Nâng cao hiệu quả của quy trình cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
Để nâng cao chất lượng dịch vụ cho vay, cạnh tranh với các ngân hàng khác, SCB cần phải hoàn thiện và hệ thống hóa các quy trình, quy định liên quan đến đến cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. SCB cần đưa ra những quy trình cụ thể và chặt chẽ, thực hiện thống nhất trong toàn ngân hàng, đặc biệt chú trọng đến thẩm định, quản lý khoản vay và các hình thức đảm bảo. Đồng thời phải đặt ra mục tiêu, chiến lược hàng năm cho những đơn vị trực thuộc, và có những hình thức khen thưởng, khiển trách xung quanh mục tiêu đó.
Về quá trình thẩm định, Đây là một quá trình quan trọng, có tính quyết định đến chất lượng khoản cho vay. Trong giai đoạn này, ngân hàng trước hết cần thu thập đầy đủ thông tin về khách hàng. Để làm được điều này, ngân hàng không chỉ chú trọng đến những thông tin mà khách hàng cung cấp, mà còn nên trực tiếp phỏng vấn khách hàng, mở rộng mạng lưới thu thập thông tin từ bên ngoài, có thể từ các tổ chức cung cấp thông tin tín dụng, hay những đối tác, ngân hàng đã có quan hệ làm ăn, vay trả với khách hàng của mình. Từ đó, có thể lập lên một cơ sở dữ liệu thông tin về khách hàng, để đánh giá đầy đủ về khách hàng thuận lợi cho những lần cho vay sau.
Sau khi đã thu thập đầy đủ thông tin, SCB cần tập trung đưa ra những chuẩn mực cụ thể trong việc đánh giá phương án kinh doanh cũng như khả năng trả nợ của khách hàng. Việc quy định rõ những chỉ tiêu đánh giá khách hàng và việc làm cần thiết, thuận lợi cho cán bộ tín dụng trong việc đánh giá khách hàng. Thêm vào đó, SCB cần triển khai nhiều cán bộ tham gia vào công tác thẩm định, nâng cao sự hỗ trợ của phòng thanh toán quốc tế và kiểm soát nội bộ.
Về quá trình quản lí khoản vay, Không những phải quan tâm đến công tác thẩm định, mà SCB cũng nên quan tâm đến công tác quản lý khoản vay. Sau khi giải ngân, định kỳ cán bộ tín dụng phải xuống cơ sở, kiểm tra hàng hóa, kho bãi, để chắc chắn khoản vay được sử dụng đúng mục đích và khách hàng có khả năng trả nợ. Để biện pháp này không mang tính hình thức, SCB có thể yêu cầu mỗi cán bộ tín dụng quản lý khoản vay phải có sổ nhật ký nhằm mục đích ghi lại những lần kiểm tra cơ sở khách hàng, và nếu cần thiết có thể yêu cầu có cả chữ kí của khách hàng.
Nâng cao vai trò của kiểm soát nội bộ
Nghiên cứu để đưa ra chính sách tín dụng là quan trọng, nhưng việc thực hiện đúng, nghiêm túc quy trình đề ra còn quan trọng hơn. Trong những năm tới, SCB cần quan tâm hơn nữa tới công việc này nhằm kiểm soát tốt tình hình cho vay, ngăn chặn kịp thời những sai phạm, hạn chế tôn thất cho ngân hàng, từ đó là cơ sở để ngày càng nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu.
Tăng cường quản lý tài sản thế chấp cầm cố
Để hạn chế tối đa những rủi ro trong hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, SCB cần xây dựng một hệ thống kho bãi để quản lý những tài sản thế chấp của khách hàng, thay vì gửi ở kho bãi của khách hàng hoặc kho bãi trung gian. Với những tài sản dễ cháy nổ, khó bảo quản, ngân hàng nên yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm cho tài sản đó. Mặt khác, ngân hàng cũng nên thành lập những tổ chuyên theo dõi và thanh lý tài sản đảm bảo. Điều nay sẽ giúp ngân hàng nâng cao được hiệu suất sử dụng tài sản đồng thời hạn chế rủi ro nếu nó xảy ra. Tuy nhiên, phải cân nhắc kỹ trước khi thanh lý tài sản đảm bảo, bời vì, thông thường đây là một trong những nguyên nhân để khách hàng dời bỏ ngân hàng.
Đẩy mạnh đào tạo, tuyển chọn cán bộ tín dụng
Con người luôn là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại của tổ chức, đặc biệt là trong ngành kinh doanh dịch vụ ngân hàng. Mặt khác, cho vay tài trợ xuất nhập khẩu là một nghiệp vụ liên quan đến yếu tố nước ngoài, đến công nghệ cao, đến những biến động thường xuyên của thị trường cũng như những hệ thống, quy định quốc tế. Nếu muốn chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu cao thì cán bộ tín dụng không những phải am hiểu về tín dụng, về hoạt động xuất nhập khẩu và nền kinh tế, họ còn phải sủ dụng thành thạo ngoại ngữ và vi tính. Để nâng cao chất lượng cán bộ, SCB cần phải:
Quan tâm đến công tác tuyển chọn người tài: SCB cần thường xuyên tổ chức thi tuyển, với thái độ nghiêm túc, công khai; bên cạnh đó, SCB cũng phải thường xuyên tài trợ, cấp học bổng, tuyển chọn nhân viên ngay trong các trường đại học và cao đẳng. Làm tốt công tác này, SCB sẽ tránh được hiện tượng thừa nhân viên đại trà, thiếu nhân viên giỏi như nhiều ngân hàng đang gặp phải.
Với những cán bộ đang làm việc tại ngân hàng, SCB cần phải tập trung đào tạo ngoại ngữ, vi tính có liên quan đến nghiệp vụ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu; những khóa học liên quan đến quy trình, quy chế mới; những khóa học nhằm trau dồi kiến thức về thẩm định dự án, phân tích tín dụng, ứng dụng Marketing vào hoạt động ngân hàng; những khóa học về những công nghệ mới, những quy định, cam kết quốc tế mới. Ngoài ra, SCB cũng nên thường xuyên tổ chức những buổi nói chuyện của các chuyên gia nước ngoài, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này với cán bộ công nhân viên ngân hàng…
Nâng cao cơ sở vật chất và công nghệ ngân hàng
SCB cần nhanh chóng nâng cao cơ sở vật chất, điều kiện làm việc tại những cơ sở còn thiếu thốn về không gian và trang thiết bị nhằm tạo điều kiện làm việc tốt nhất cũng như tạo ấn tượng tốt cho khách hàng.
Một trong những công việc mà SCB cần làm ngay trong năm tới đó là nghiên cứu thay đổi phần mềm corebanking cho phù hợp, phần mềm đang sử dụng hiện nay là Smartbank đã cũ, lỗi thời, và gặp nhiều lỗi, ảnh hưởng đến quá trình làm việc của ngân hàng, gây nên những rủi ro không đáng có cho ngân hàng. SCB cần nghiên cứu để từng bước bỏ chứng từ giấy trong hoạt động mà thay vào đó là hệ thống chứng từ điện tử, thực hiện nâng cấp mạng nội bộ, phát triển những hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, mở rộng thêm hệ thống thẻ, rút tiền tự động, đảm bảo khách hàng gửi tiền một nơi nhưn có thể rút ở nhiều nơi…
3.3. Một số kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Nước ta đang là phát triển nền kinh tế theo hướng là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy, sự tham gia điều tiết của nhà nước tuy đã giảm bớt, nhưng vẫn còn có nhiều hạn chế. Với mục tiêu nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, các ngân hàng nói chung và SCB nói riêng cần một mội trường kinh tế đồng nhất và ổn định.
Hoàn thiện môi trường pháp lý về kinh tế ngoại thương và tín dụng ngân hàng
Cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành có liên quan đến hoạt động ngoại thương như các cơ quan hành pháp, bộ ngoại thương, cơ quan hải quan, cơ quan thuế…để đưa ra những quy định chung, đồng bộ. Điều này không những tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh hoạt động ngoại thương trong nước mà nó cũng là cơ sở để những nhà đầu tư nước ngoài quan tâm hơn đến Việt Nam. Bên cạnh đó, các cơ quan ban hành pháp luật phải nghiên cứu thật kỹ trước khi ban hành các văn bản pháp luật, để hạn chế những khe hở, tạo điều kiện cho hiện tượng buôn lậu, trốn thuế, tham nhũng phát triển, từ đó có ảnh hưởng gián tiếp đến ngân hàng. Các quy định đưa ra cần được tham khảo kỹ , nếu cần thiết sẽ có thời gian thử nghiệm, cần phải có tầm nhìn xa. Trước khi thay đổi quy định cần phải báo trước cho các doanh nghiệp liên quan, và phải có một khoảng thời gian đủ dài để các doanh nghiệp chuẩn bị cho những thay đổi trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh những sửa đổi về các văn bản pháp luật điều chỉnh xuất nhập khẩu, những quy định về tín dụng ngân hàng cũng cần có sự đồng bộ và rõ ràng. Các văn bản mà Ngân hàng nhà nước đưa ra cần phải tham khảo các văn bản của các cơ quan khác đã ban hành, tránh sự chồng chéo, gây khó khăn cho hoạt động của các NHTM.
Ngân hàng nhà nước cần nghiên cứu kỹ trước khi ban hành các chính sách lãi suất và tỷ giá
Do tầm quan trọng của các chính sách này đến hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu cho nên Ngân hàng nhà nước nên có những cân nhắc kỹ càng trước khi ban hành các chính sách lãi suất và tỷ giá. Việc thi hành chính sách lãi suất, tỷ giá nới lỏng hay cố định cần xem xét kỹ trên cơ sở các điều kiện kinh tế trong nước và thế giới và tác động của nó tới nền kinh tế.
Hoàn thiện hệ thống thông tin trong và ngoài nước
Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các NHTM, nhà nước cần hoàn thiện hệ thống thông tin trong và ngoài nước để đáp ứng kịp thời những nhu cầu của doanh nghiệp và ngân hàng. Đồng thời, Nhà nước nên xây dựng những cơ quan tư vấn xuất nhập khẩu chuyên môn hóa, sẽ giải đáp kịp thời những thắc mắc của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, Nhà nước nên hoàn thiện cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, cung cấp kịp thời và đầy đủ thông tin cho các NHTM nếu có nhu cầu.
Thành lập các cơ quan hỗ tợ hoạt động ngoại thương
Nền kinh tế ngoại thương của nước ta nhìn chung vẫn còn non trẻ và nhiều hạn chế, để hoạt động ngoại thương diễn ra an toàn và bền vững, Nhà nước cần lập ra những cơ quan hỗ trợ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, sự hỗ trợ này có thể diễn ra giảm dần, để các doanh nghiệp quen dần với môi trường quốc tế, dần dần tiến tới để các doanh nghiệp tự chủ. Với sự hỗ trợ của nhà nước, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có tiền đề để phát triển, từ đó cũng góp phần nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của các NHTM.
Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu định kỳ phải công khai báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán
Việc bắt buộc định kỳ công khai các bản báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán sẽ giúp các ngân hàng rất nhiều trong việc phân tích tài chính doanh nghiệp. Đây có thể coi là một biện pháp để hạn chế rủi ro khách quan từ phía khách hàng. Qua biện pháp này, các ngân hàng sẽ không phải lo chuyện khách hàng cung cấp số liệu không chính xác cho mình và từ đó đánh giá được năng lực chính xác của khách hàng từ đó có những phán quyết cho vay phù hợp, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng cho vay của các NHTM
Đẩy mạnh sử dụng các công cụ tín dụng thương mại
Nhà nước cần nhanh chóng đưa ra những điều luật quy định việc sử dụng các công cụ tín dụng thương mại. Điều này sẽ làm cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước có những cơ sở để phát hành và sử dụng các công cụ này, không chỉ trong nước mà quốc tế. Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải có những chính sách khuyến khích và hỗ trợ các ngân hàng thực hiện hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, đặc biệt là trong thanh toán quốc tế. Từ đó sẽ tạo mội trường cho việc luu hành rộng rãi các công cụ tín dụng thương mại. Khi thực hiện được, công cụ tín dụng thương mại cùng với cho vay ngân hàng sẽ kết hợp chặt chẽ với nhau tạo thành nguồn tài trợ rất tốt cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, qua đó nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM.
Xây dựng nền kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững
Nền kinh tế tăng trưởng ổn định là điều kiện cần thiết cho không chỉ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các NHTM mà tất cả các ngành nghể tham gia nền kinh tế phát triển. Để làm được điều này cần có sự phối hợp hoạt động của tất cả các cấp các ngành trong nền kinh tế. Không chỉ đặt mục tiêu tăng trưởng nhanh cho nền kinh tế, các cơ quan quản lý cũng phải thực hiên tốt các biện pháp để kiềm chế lạm phát. Đây cũng là mục tiêu lâu dài của Đảng và Nhà nước ta.
KẾT LUẬN
Năm 2002 là năm đánh dấu sự ra đời của Ngân hàng thường mại cổ phần Sài Gòn trên cơ sở một ngân hàng cũ, hoạt động không hiệu quả. Trong hơn 5 năm hoạt động, SCB đã có những thành tựu lớn, đáng tự hào. SCB đang dần khẳng định được thương hiệu của mình, dần chiếm được thị phần trong ngành ngân hàng nước nhà,
Sự quan tâm tới cho vay tài trợ xuất nhập khẩu trong những năm qua đã thể hiện sự nhạy bén của ngân hàng với xu hướng của thị trường. Tuy nhiên với những hạn chế của một ngân hàng mới thành lập, SCB còn gặp phải những khó khăn, hạn chế lớn trong quá trình hoạt động. Thêm vào đó, trong những tháng đầu năm 2008 này, nền kinh tế trong nước và thế giới có những diễn biến rất phức tạp. Những điều kiện trên là những thách thức lớn đối với đội ngũ cán bộ trẻ của SCB.
Với những cố gắng không ngừng với mục tiêu ngày càng nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng, với những con người trẻ, năng động và rất nhiệt huyết, hy vọng chúng ta sẽ được chứng kiến những bước chuyển mạnh mẽ của SCB trong tương lai không xa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trang web của SCB: www.scb.com.vn
Trang web của Ngân hàng nhà nước www.sbv.gov.vn
Các trang báo điện tử về ngân hàng : Thời báo ngân hàng, tạp chí ngân hàng, thời báo kinh tế, vietnamnet, vneconomy…
Các báo cáo và quy trình của SCB.
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế-PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Thảo- Nhà xuất bản thống kê 2006.
Giáo trình Ngân hàng thương mại trường Đại học Kinh tế quốc dân – PGS.TS.Phan Thu Hà – Nhà xuất bản thống kê 2006.
Ngân hàng thương mại – Edward W.Reed PH.D & Edward K.Gill PH.D, Biên dịch: PGS.TS. Lê Văn Tư - Nhà xuất bản thống kê 2004.
Giáo trình Kinh tế ngoại thương, Đại học ngoại thương, GS, TS Bùi Xuân Lưu, PGS, TS Nguyễn Hữu Khải.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20192.doc