LỜI MỞ ĐẦU
Trải qua một thời gian dài nước ta theo mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Các thành phần kinh tế không nhiều với sự đối xử không bình đẳng do vậy nền kinh tế của nước ta trì trệ không phát triển được. Nhưng trong 20 năm trở lại đây, với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nền kinh tế đã có những khởi sắc rõ rệt. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm luôn đạt mức trên 7%. Thành công này có sự đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp trong đó phải kể đến
90 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1251 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Đông Anh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ở nước ta hiện nay, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là vấn đề được nhà nước quan tâm đặc biệt vì sự thành đạt của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào các doanh nghiệp. Mà trong giai đoạn đầu của kinh tế thị trường thì vai trò của các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Xuất phát từ vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ nhiều phía để loại hình doanh nghiệp này phát triển. Nguồn hỗ trợ chủ yếu và quan trọng nhất là từ các NHTM thông qua việc đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này. Trước kia, hầu hết các ngân hàng đều chú trọng đầu tư cho các doanh nghiệp quốc doanh lớn và không chú trọng đến các DNV&N, do vậy rất khó khăn trong việc tồn tại và phát triển. Hiện nay, nhận thức được vai trò cũng như khả năng của các DNV&N mà hầu hết các ngân hàng đều xem đây là khách hàng mục tiêu của mình và luôn tìm cách mở rộng cho vay đặc biệt là cho vay ngắn hạn. Do vậy đã nảy sinh sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng cũng như quan hệ tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng bộc lộ nhiều vướng mắc. Do vậy nâng cao chất lượng cho vay là vấn đề đặt ra và cần có những biện pháp để giải quyết. Các thủ tục, quy trình cho vay luôn đòi hỏi phải cải tiến để đảm bảo tiện ích cho các doanh nghiệp cũng như an toàn vốn cho ngân hàng. Xuất phát từ vấn đề này em quyết định chọn đề tài ”Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn với doanh nghiệp vừa và nhỏ”.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục bảng biểu chuyên đề gồm có 3 chương.
Chương 1: Tổng quan về chất lượng cho vay ngắn hạn đối với DNV&N.
Chương 2: Thực trạng nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với DNV&N tại NHCT Đông Anh.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn với DNV&N tại NHCT Đông Anh.
Do điều kiện về kiến thức, kinh nghiệm còn hạn hẹp nên chuyên đề của em còn nhiều thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của Ngân hàng, của thầy cô giáo và bạn đọc quan tâm để đề tài hoàn thiện hơn.
Em xin cảm ơn nhà trường và Chi nhánh NHCT Đông Anh đặc biệt là các anh chị trong phòng khách hàng doanh nghiệp đã tạo điều kiện cho em tìm hiểu, nghiên cứu để hoàn thành đề tài của mình !
Em cũng xin cảm ơn thầy giáo: PGS.TS Lê Đức Lữ đã tận tình hướng dẫn em trong thời gian qua !
Hà Nội , ngày 1 tháng 5 năm 2007
Sinh viên
Phùng Thị Nguyệt
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính tiền tệ trong nền kinh tế với hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng, trên cơ sở đó tiến hành hoạt động cho vay và cung cấp các dịch vụ cho khách hàng. Thực tế hoạt động cho vay là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng.
1.1. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG:
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng:
Tín dụng là hoạt động kinh tế ra đời từ rất sớm trong điều kiện tín dụng nặng lãi trong điều kiện sản xuất thấp kém. Cùng với sự phát triển của xã hội, tín dụng có những bước phát triển vượt bậc. Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức kinh tế hoạt động độc lập và giữa chúng có mối quan hệ với nhau thông qua trao đổi mua bán để hình thành một thể thống nhất. Ở mỗi tổ chức kinh tế có những lúc thừa vốn và cũng có những lúc thiếu vốn, nhưng đứng trên góc độ toàn bộ nền kinh tế thì tại một thời điểm nhất định sẽ có một nhóm tổ chức kinh tế có vốn tạm thời chưa sử dụng, một nhóm khác lại có nhu cầu bổ sung vốn. Đây là hiện tượng khách quan tồn tại trong quá trình sản xuất xã hội, đồng thời đó là mâu thuẫn của quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn. Chính điều này đòi hỏi tín dụng phải làm cầu nối giữa nơi thừa và thiếu vốn.
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên đi vay khi đến hạn thanh toán.
Như vậy bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả.
1.1.2. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng:
- Lòng tin: là sự tin tưởng vào khả năng hoàn trả đầy đủ và đúng hạn của người cho vay đối với người đi vay.
- Tính thời hạn: là thời hạn người đi vay sử dụng tiền vay.
- Tính hoàn trả: đây là đặc trưng cơ bản nhất và sự hoàn trả là tiêu chuẩn để phân biệt quan hệ tín dụng với quan hệ tài chính khác. Giá trị lúc hoàn trả phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài phần gốc. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay phải được hoàn trả vô điều kiện khi đến hạn thanh toán.
1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng:
Phân loại tín dụng là việc sắp xếp tín dụng theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định.
* Phân loại theo thời gian:
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết tới tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian tín dụng được phân chia thành.
- Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: Theo quy định hiện nay của NHNN Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới công nghệ…
- Tín dụng dài hạn: tín dụng dài hạn có thời hạn từ 5 năm trở lên để đáp ứng các nhu cầu dài hạn về xây dựng nhà ở, xây dựng các xí nghiệp mới…
* Theo hình thức tài trợ tín dụng được phân thành:
- Cho vay.
- Bảo lãnh.
- Cho thuê.
- Chiết khấu thương phiếu.
* Mức độ tín nhiệm của khách hàng:
- Tín dụng không có đảm bảo.
- Tín dụng có đảm bảo.
* Tín dụng phân loại theo rủi ro:
- Tín dụng lành mạnh.
- Tín dụng có vấn đề.
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi.
- Nợ quá hạn khó đòi.
1.1.4. Nguyên tắc tín dụng:
Hoạt động tín dụng của ngân hàng phải dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời.
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn gốc và lãi với thời gian nhất định. Các khoản tín dụng của ngân hàng chủ yếu từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản mà ngân hàng vay. Đối với các khoản này thì ngân hàng buộc phải thanh toán cả vốn gốc và lãi theo như cam kết. Do vậy ngân hàng cũng yêu cầu người nhận tín dụng thực hiện đúng cam kết.
- Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng đúng mục đích đã cam kết với ngân hàng, không trái với quy định của pháp luật và các quy định của ngân hàng cấp trên.
- Ngân hàng chỉ tài trợ dựa trên phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đây là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án có hiệu quả tạo điều kiện cho khách hàng co nguồn thu để trả nợ cho ngân hàng.
1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ:
1.2.1. Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo qui định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Thuật ngữ DNV&N ở các nước Phương Tây viết là SME( Small and Medium Enterprise) hiểu theo nghĩa chiết tự thì những từ trên có nghĩa là các cơ sở sản xuất kinh doanh có qui mô tương đối nhỏ. Nhưng để xác định qui mô lớn đến đâu hay nhỏ đến mức nào để luận chứng cho vấn đề trên thì còn rất nan giải nó phụ thuộc vào từng quốc gia khác nhau với tình hình phát triển kinh tế, tình hình việc làm và tính chất của nền kinh tế của nước đó.
Các tiêu thức để xác định DNV&N là tổng vốn đầu tư được huy động vào sản xuất kinh doanh, giá trị của tài sản cố định, số lao động được sử dụng thường xuyên…Trong thực tế thì không phải các tiêu thức này được sử dụng hoàn toàn giống nhau ở các nước. Tuy nhiên để tiện cho việc so sánh thì tiêu thức được sử dụng phổ biến là số lao động thường xuyên tham gia sản xuất bởi nó không chịu sự khác biệt giữa các quốc gia. Ngoài ra tiêu thức về tổng vốn đầu tư cũng thường được sử dụng. Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước mà độ lớn của các tiêu thức này khác nhau.
Một số khái niệm về DNV&N của các nước trên thế giới:
- Đài Loan: DNV&N là doanh nghiệp có số vốn góp dưới 40 triệu đô la Đài Loan và có số lao động thường xuyên dưới 300 người đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng còn dưới 500 người là trong lĩnh vực khai khoáng.
- Philippin: DNV&N là doanh nghiệp có số vốn từ 1,5 đến 60 triệu Peso
- Nhật Bản: trong khu vực sản xuất thì DNV&N có dưới 300 lao động và 1 triệu USD vốn đầu tư. Trong khu vực thương mại và dịch vụ thì DNV&N là doanh nghiệp có dưới 100 lao động và vốn đầu tư dưới 300000 USD.
- Liên minh Châu Âu: DNV&N là doanh nghiệp có dưới 250 lao động, doanh số không quá 40000 ECU hoặc tổng số vốn hàng năm không quá 27 triệu ECU, có cổ phần không quá 25% ở một xí nghiệp lớn.
- Việt Nam: nước ta cũng sử dụng hai tiêu chí phổ biến là số lao động thường xuyên và vốn sản xuất. Việc sử dụng hai tiêu chí này là rất hợp lý vì nó có tính phổ dụng, tính bao quát và tính sát thực. Theo Nghị Định của Chính Phủ số 90/2001/NĐ-CP(23/11/2001) DNV&N vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đăng kí kinh doanh theo qui định của pháp luật hiện hành, có số vốn kinh doanh không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.
1.2.2. Đặc điểm của DNV&N:
Đặc điểm của DNV&N có ảnh hưởng lớn đến quá trình hoạch định chính sách đối với các doanh nghiệp này. Đặc điểm của các DNV&N xuất phát trước hết từ qui mô vốn của các doanh nghiệp. Do tiêu thức xác định DNV&N ở Việt Nam cũng như ở các quốc gia khác trên thế giới nên đặc điểm của các DNV&N của nước ta cũng có những điểm tương đồng với các quốc gia khác. Tuy nhiên do đặc thù của nước ta là từ nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xuất phát điểm nền kinh tế nước ta thấp cộng với những tàn dư của xã hội cũ đã tác động đến đặc điểm của các DNV&N.
Thứ nhất, sự phát triển của các DNV&N ở Việt Nam trải qua nhiều biến động, thăng trầm. Các DNV&N thuộc nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức tổ chức doanh nghiệp bao gồm từ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp và các công ty tư nhân đến các hợp tác xã. Trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung các DNV&N thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không được khuyến khích phát triển do vậy đã ảnh hưởng đến tâm lý phong cách kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay mặc dù hiện nay do đổi mới cơ chế mà các DNV&N thuộc các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển.
Thứ hai, Việt Nam là một nước có nền kinh tế còn tương đối kém phát triển nên sản xuất nhỏ còn phổ biến. Do vậy các DNV&N tất nhiên sẽ có qui mô vốn và lao động nhỏ. Hơn nữa, mặc dù xuất phát từ nhiều thành phần kinh tế khác nhau nhưng DNV&N đa số khởi sự từ khu vực kinh tế tư nhân nên sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động.
Thứ ba, khả năng quản lý hạn chế do trình độ của các nhà quản lý doanh nghiệp thường không cao và ít kinh nghiệm thực tế do chủ doanh nghiệp thường là những kĩ sư hoặc những kĩ thuật viên mới ra trường. Họ còn thiếu kiến thức về quản trị doanh nghiệp và luật pháp.Người quản lý doanh nghiệp đôi khi còn tham gia vào sản xuất nên mức độ chuyên môn hoá trong công việc không cao. Việc tách bạch giữa các bộ phận không rõ ràng do vậy hiệu quả quản lý doanh nghiệp thấp. Đa số ông chủ các DNV&N thường chưa qua một khoá đào tạo chính qui nào.
Thứ tư, trang thiết bị và công nghệ lạc hậu do không đủ trình độ về vốn và nhân lực do vậy giá thành sản phẩm thường cao, chất lượng và năng suất lao động thấp do vậy khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thường không cao. Tuy nhiên cũng cần khẳng định rằng do qui mô nhỏ nên các DNV&N khá linh hoạt trong việc thay đổi công nghệ và thường có những sáng kiến đổi mới công nghệ phù hợp với qui mô của mình để tạo ra sản phẩm có thể cạnh tranh trên thị trường.
Thứ năm, trình độ tay nghề của người lao động thường thấp do các chủ DNV&N không đủ khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong việc thu hút lao động có kĩ thuật. Lao động của DNV&N chủ yếu là do tự đào tạo nên thường không có kinh nghiệm và sự sáng tạo trong sản xuất thấp nên năng suất lao động không cao.
Thứ sáu, xu hướng đầu tư của các DNV&N là tập trung vào các ngành cần ít vốn, thu hồi vốn nhanh, lãi suất cao như thương nghiệp, dịch vụ, du lịch.
Ngoài ra DNV&N còn có một số đặc điểm sau: Trình độ văn hoá kinh doanh còn chưa cao, còn tồn tại hiện tượng làm ăn chộp giật, trốn lậu thuế, vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, các DNV&N thường sử dụng diện tích đất riêng để sản xuất do vậy rất khó khăn trong việc mở rộng qui mô sản xuất. Mặt khác, khả năng tiếp cận thị trường không cao do các DNV&N thường mới thành lập thiếu kinh nghiệm trong việc tiếp cận thị trường hơn nữa họ chưa có khả năng trong xây dựng chính sách Marketing phù hợp. Thị trường của các DNV&N chủ yếu là người dân địa phương.
Xuất phát từ những đặc điểm trên chúng ta có thể đưa ra một số ưu thế cũng như hạn chế của DNV&N để giúp cho các Ngân hàng tiện trong việc đưa ra các quyết định có nên tập trung vào đối tượng này hay không.
Như đã trình bày thì DNV&N có đặc điểm lớn nhất là quy mô vốn nhỏ nên các DNV&N rất cơ động, linh hoạt, dễ chuyển hướng kinh doanh. Những ưu thế của DNV&N cũng xuất phát từ chính đặc điểm này:
Thứ nhất, dễ dàng thành lập doanh nghiệp do đòi hỏi ít vốn, diện tích mặt bằng không nhiều, các điều kiện sản xuất kinh doanh đơn giản.
Nhạy cảm với sự thay đổi của thị trường đặc biệt là thị trường địa phương nơi doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh.
Thứ hai, do qui mô vốn đầu tư vào trang thiết bị không lớn nên dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ khi nhu cầu thị trường thay đổi cũng như khi muốn cải tiến nâng cao năng suất.
Thứ ba, sẵn sàng đầu tư vào những lĩnh vực mới, những lĩnh vực có độ rủi ro cao.
Thứ tư, có thể sản xuất sản phẩm có chất lượng khi điều kiện sản xuất kinh doanh có nhiều hạn chế.
Bên cạnh đó, do quy mô vốn không lớn, điều kiện sản xuất hạn hẹp là ưu thế của DNV&N nhưng cũng vì nó mà tạo ra nhiều hạn chế trong việc hoạt động của DNV&N:
Thứ nhất, khó khăn trong đầu tư công nghệ mới đặc biệt là công nghệ cao đòi hỏi vốn lớn, từ đó ảnh hưởng đến năng suất cũng như chất lượng và giá thành sản phẩm làm cho sản phẩm khó có thể cạnh tranh trên thị trường.
Thứ hai, việc đầu tư cho đào tạo lao động, đào tạo người quản lý, đầu tư cho nghiên cứu thường còn nhiều hạn chế do kinh phí hạn hẹp. Do vậy rất khó khăn trong việc nâng cao chất lượng quản lý cũng như người lao động, cải tiến công nghệ và tất yếu là năng suất lao động không cao.
Thứ ba, xuất phát từ quy mô vốn và lao động mà các DNV&N chủ yếu hoạt động ở địa phương. Họ thường bị động trong các quan hệ thị trường, khả năng tiếp thị, khó khăn trong việc mở rộng hợp tác với bên ngoài đôi khi là do họ không quan tâm đúng mức tới chinh sách Marketing.
Thứ tư, tư tưởng kinh doanh chộp giật không có tính chất lâu dài nên các DNV&N thường có tư tưởng trốn lậu thuế, không đăng kí kinh doanh, hàng hoá sản xuất kém chất lượng. Do các DNV&N hoạt động phân tán nên đòi hỏi một sự quản lý nghiêm ngặt của chính quyền các cấp.
1.2.3. Vai trò của các DNV&N trong nền kinh tế:
Trong suốt thời kỳ nước ta theo mô hình nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì các DNV&N hầu như không được quan tâm và tạo điều kiện để phát triển do các DNV&N hầu hết là thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Nhưng từ đầu những năm 1980 trở lại đây vời việc chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước đặc biệt là khi Luật Công Ty và Luật doanh nghiệp ra đời thì các DNV&N mới có cơ hội phát triển mạnh mẽ và có những đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế.
Tuy nhiên sự đóng góp của các DNV&N thực sự đáng ghi nhận khi Luật doanh nghiệp 1999 ra đời thay thế cho hai luật trên. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp đã thể hiện sự khuyến khích của Nhà nước trong việc thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Từ đây đóng góp của DNV&N đối với nền kinh tế là đáng ghi nhận thể hiện trong một số lĩnh vực sau:
Trước tiên, DNV&N đóng góp quan trọng vào GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế; do trong những năm gần đây số lượng các DNV&N không ngừng tăng và hoạt động trong mọi lĩnh vực nên sự đóng góp của chúng vào GDP là không nhỏ và có xu hướng ngày càng tăng và hiện nay thì đã cao hơn mức đóng góp của các loại hình doanh nghiệp khác. Tỷ trọng doanh thu của DNV&N luôn đạt mức trên 80% so với doanh nghiệp cả nước thể hiện qua bảng sau.
Bảng 1.1: Tỷ trọng doanh thu của DNV&N
Năm
Toàn bộ doanh thu (Tỷ đồng)
Tỷ trọng doanh thu DNV&N (%)
2002
364844
86.5
2003
485104
82
2004
640087
81.5
Tỷ trọng đóng góp vào GDP của DNV&N cho đến nay là từ khoảng 24% đến 25,5%.
Đồng thời, DNV&N cũng góp phần quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm cho người lao động. Nước ta là một quốc gia có dân số trẻ do vậy hàng năm có khoảng một triệu người bước vào độ tuổi lao động ngoài ra còn kể đến số người thất nghiệp và bán thất nghiệp do cơ cấu lại nền kinh tế và sắp xếp lại các DNNN.Hàng năm khu vực đầu tư nước ngoài chỉ tạo ra được khoảng 30000 chỗ làm mới. Do vậy việc giải quyết việc làm cho họ là rất khó khăn. Số lao động dôi dư chủ yếu chỉ trông chờ vào khu vực kinh tế tư nhân ở nông thôn và DNV&N.Các DNV&N thường tạo ra nhiều chỗ làm cho người dân địa phương đặc biệt là ở vùng nông thôn, người nông dân trong thời gian nông nhàn có thể được làm việc ở DNV&N tại địa phương thay vì phải lên thành phố sẽ giảm gánh nặng cho các thành phố lớn. Khu vực DNV&N chiếm khoảng 20% lực lượng lao động làm việc trong tất cả các ngành kinh tế.
Hơn nữa, DNV&N góp phần khai thác tiềm năng phong phú trong dân; hiện nay còn nhiều tiềm năng trong dân chưa được khai thác triệt để như tiềm năng về trí tuệ, tiềm năng về tay nghề tinh xảo, lao động, vốn, điều kiện tự nhiên…Việc phát triển các doanh nghiệp sản xuất các ngành nghề truyền thống trong nông thôn hiện nay đang là hướng quan trọng để tận dụng mọi nguồn lực trong dân. Việc phát triển các làng nghề truyền thống sẽ tạo ra một khối lượng lớn hàng xuất khẩu tạo ra thu nhập bằng ngoại tệ cho đất nước.
Ngoài ra, DNV&N cũng có những đóng góp quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế; việc nhiều DNV&N được thành lập ở các vùng nông thôn, vùng núi, vùng sâu,vùng xa sẽ làm giảm tủ trọng ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ điều này sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ.
Bên cạnh đó, các DNV&N thường lựa chọn kĩ thuật phù hợp với kĩ thuật thủ cộng để nghiên cứu tiếp thu và làm chủ. Các DNV&N thường khá linh hoạt, thường là người đi tiên phong trong việc áp dụng những phát minh mới để tạo sự khác biệt tuy không mang tính chất đột phá nhưng nó cũng thúc đẩy sự phát triển về công nghệ
Bên cạnh những vai trò trên thì DNV&N còn nhiều vai trò khác như tạo ra khối lượng hàng hoá và dịch vụ lớn, là tiền đề tạo ra những doanh nghiệp lớn, đồng thời làm lành mạnh hoá môi trường đầu tư và kinh doanh. Với những vai trò to lớn trên thi Nhà nước cũng như các cấp chính quyền nên có những chính sách hợp lý để thúc đẩy sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này và cũng là để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
1.3. CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ:
1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của cho vay ngắn hạn:
Cho vay ngắn hạn là hình thức cấp tín dụng có thời hạn hợp đồng dưới 1 năm có thể chia thành các khoảng thời gian là 3 tháng, 9 tháng, 12 tháng. CVNH là loại hình cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu vốn lưu động thường xuyên như mua nguyên vật liệu, trả lương công nhân, dự trữ hàng hoá.
Cho vay ngắn hạn là một hình thức sử dụng vốn phổ biến nhất của NHTM. Các khoản cho vay này thường ít rủi ro hơn về khả năng thanh toán cũng như rủi ro về lãi suất hơn so với cho vay trung và dài hạn. CVNH cũng mang những đặc trưng chung của loại hình cho vay là tính hoàn trả, tính thời hạn và dựa trên cơ sở lòng tin thì ngoài ra CVNH còn một số đặc điểm riêng sau.
Thứ nhất, CVNH có thời gian thu hồi vốn nhanh; do các khoản cho vay ngắn hạn thường dưới một năm nên nó thường ít rủi ro hơn so với cho vay trung hạn, dài hạn. Như vậy mức lãi suất CVNH cũng thấp hơn so với cho vay trung và dài hạn.
Thứ hai, đây là hình thức cho vay phổ biến và truyền thống của NHTM; ngân hàng hoạt động trên cơ sỏ nhận tiền gửi và đi vay để cho vay. Trong khi các khoản nhận tiền gửi và đi vay chủ yếu là ngắn hạn nên vì mục tiêu an toàn và sinh lợi các ngân hàng cũng chủ yếu cho vay ngắn hạn. Hơn nữa theo qui định các ngân hàng cũng chỉ được phép chuyển một tỷ lệ nhất định các khoản tiền gửi ngắn hạn để cho vay dài han. Ngày nay tuy hoạt động tín dụng đã có nhiều bước phát triển nhưng CVNH vẫn chiếm tỷ trọng lớn và giữ vai trò quan trọng.
Thứ ba, các hình thức CVNH phong phú: Ngày nay nhu cầu của khách hàng ngày càng đa dạng và đòi hỏi của họ ngày càng cao do vậy các ngân hàng phải không ngừng nghiên cứu để cải tiến sản phẩm của mình có như vậy mới tồn tại trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay đồng thời cũng nhằm phân tán rủi ro. Các hình thức CVNH hiện nay gồm cho vay thấu chi, cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển.
Thứ tư, vốn vay ngắn hạn đáp ứng nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên cũng như nhu cầu vốn thời vụ cho doanh nghiệp; CVNH chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn thiếu hụt trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do sự lệch pha trong quá trình lưu chuyển tiền tệ. Khách hàng thường vay khi bắt đầu vào mùa vụ và sẽ thanh toán cho ngân hàng khi cuối mùa vụ. Như vậy thời hạn cho vay chỉ là trong một chu kì sản xuất.
1.3.2. Sự cần thiết CVNH đối với DNV&N:
1.3.2.1. Xuất phát từ nhu cầu vốn của DNV&N:
Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp cần đầu tư vốn vào tài sản lưu động và tài sản cố định. Thông thường thì nguồn dài hạn và vốn chủ sở hữu sẽ được dùng để đầu tư vào tài sản cố định còn nguồn ngắn hạn sẽ được đầu tư cho tài sản lưu động. Về nguyên tắc doanh nghiệp nên tận dụng và huy động tất cả các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có thể tận dụng được như có thể tận dụng các khoản tín dụng thương mại hay các nguồn vay ngắn hạn của ngân hàng. Sự thiếu hụt vốn ngắn hạn là do sự chênh lệch về thời gian và doanh số giữa tiền bán hàng và tiền đầu tư vào tài sản lưu động hoặc do nhu cầu gia tăng thời vụ quyết định. Nhu vậy nhu cầu vốn của DNV&N có thể chia thành 2 loại là nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên và nhu cầu tài trợ thời vụ.
Thứ nhất, nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên: Nhu cầu này xuất phát từ sự chênh lệch hoặc không ăn khớp nhau về thời gian và quy mô giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra của DNV&N. Dòng tiền vào có được khi doanh nghiệp tiêu thụ hàng hoá còn khi doanh nghiệp mua nguyên vật liệu hay hàng hoá dự trữ doanh nghiệp có dòng tiền ra. Nếu dòng tiền ra lớn hơn dòng tiền vào thì doanh nghiệp cần bổ sung vốn. Nhu cầu về vốn loại này trước tiên được bù đắp bởi nguồn vốn chủ sở hữu sau đến là nguồn tín dụng thương mại. Phần còn lại doanh nghiệp sử dụng nguồn tín dụng ngân hàng. Trong khi nguồn vốn chủ sở hữu thường dùng để đầu tư cho tài sản cố định và nguồn tín dụng thương mại thường khó tiếp cận vì khi doanh nghiệp phải mua chịu hàng hoá thì họ thường chịu áp lực về giá và chất lượng hàng hoá. Do vậy nguồn vay ngắn hạn từ ngân hàng thường dễ tiếp cận. Khi doanh nghiệp vay vốn cũng là hình thức doanh nghiệp sử dụng nợ để tạo đòn bẩy tài chính. Việc sử dụng nợ sẽ tiết kiệm được thuế cho doanh nghiệp vì chi phí lãi vay được khấu trừ trước thuế.
Thứ hai, nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời vụ: Ngoài nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên doanh nghiệp còn có nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời vụ. Nhu cầu thời vụ xuất phát từ đặc điểm thời vụ của doanh nghiệp khiến cho nhu cầu vốn ngắn hạn tăng đột biến. Đây chủ yếu lá các doanh nghiệp sản xuất hàng nông, lâm ngư nghiệp hoặc các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc. Vay ngắn hạn giúp doanh nghiệp mở rộng qui mô sản xuất đồng thời duy trì một cơ cấu vốn hợp lý nhằm tối đa giá trị vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.
1.3.2.2. Xuất phát từ mục tiêu quản lý của NHTM:
Hoạt động cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận của ngân hàng song đây cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Để đảm bảo trong hoạt động của mình ngân hàng cần quản lý các khoản cho vay và một trong những phương thức quản lý mà các ngân hàng thường áp dụng là quản lý thời hạn. Thời hạn là yếu tố để xác định lãi suất cho vay. CVNH thường có lãi suất thấp hơn cho vay trung và dài hạn nhưng các khoản cho vay ngắn hạn thường có thời gian thu hồi vốn nhanh và khả năng thu hồi vốn đúng hạn cao hơn cho vay trung và dài hạn. Lãi suất trong cho vay trung và dài hạn cao nhưng đây thường là các khoản tài trợ cho dự án, thời gian thu hồi vốn dài cho nên rủi ro thường cao hơn. Hơn nữa chi phí để ngân hàng huy động các khoản ngắn hạn và dài hạn là khác nhau. Do vậy lợi nhuận thu được là khác nhau. Ngân hàng cần cân nhắc giữa doanh thu, lợi nhuận và chi phí để tạo ra cơ cấu thời hạn cho vay hợp lý.Thời hạn cho vay còn liên quan đến chiến lược quản lý thanh khoản của ngân hàng. Thời hạn cho vay càng dài thì tinh thanh khoản càng kém tức là các khoản cho vay càng rủi ro. Khi tăng khoản mục cho vay ngắn hạn thì tính thanh khoản của ngân hàng tăng lên đảm bảo cho ngân hàng hoạt động an toàn hơn.
Như vậy việc tài trợ ngắn hạn cho doanh nghiệp mang lại lợi ích cho cả hai phía doanh nghiệp và ngân hàng. Về phía doanh nghiệp việc cấp tín dụng của ngân hàng giúp doanh nghiệp bổ sung vốn thiếu hụt đảm bảo cho doanh nghiệp duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh. Về phía ngân hàng thì góp phần làm cho ngân hàng tiêu thụ được sản phẩm đồng thời mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
1.3.3. Các phương thức cho vay ngắn hạn:
1.3.3.1. Cho vay thấu chi:
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được phép chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi. Trong quá trình sử dụng khách hàng có thể kí sec, lập UNC có thể vượt quá số dư tiền gửi song không được vượt quá hạn mức thấu chi. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản thì ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải trả dựa trên lãi suất thấu chi, thời gian thấu chi, số tiền thấu chi. Các khoản chi vượt qua hạn mức sẽ phải chịu lãi suất phạt và đình chỉ ngay việc sử dụng hình thức này.
Thấu chi dựa trên cơ sở sự không phù hợp về thời gian và qui mô trong quá trình thu và chi của khách hàng. Hình thức này giúp cho khách hàng có thể chủ động, nhanh, kịp thời trong việc thanh toán. Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có tài sản đảm bảo và chỉ cung cấp cho doanh nghiệp hay cá nhân vài ngày trong tháng hoặc vài tháng trong năm và chỉ cung cấp cho khách hàng có độ tin tưởng cao có chu kì thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
1.3.3.2.Cho vay trực tiếp từng lần:
Đây là hình thức cho vay tương đối phổ biến của các ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu thường xuyên, không có đủ điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu chỉ khi có nhu cầu vốn thời vụ mới vay ngân hàng. Tức là vốn ngân hàng chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh.
Đặc điểm của loại cho vay này là khách hàng xin vay món nào thì phải làm hồ sơ xin vay món đó. Như vậy nếu trong một quý khách hàng có bao nhiêu món vay thì phải làm bấy nhiêu hồ sơ xin vay. Bộ phận tín dụng sẽ tiến hành phân tích hồ sơ xin vay và xem xét cho vay đối với từng hồ sơ cụ thể từ đó xem xét qui mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ và yêu cầu bảo đảm nếu cần. Trong quá trình khách hàng sử dụng khoản vay ngân hàng có thể kiểm tra mục đích và hiệu quả sử dụng món vay nếu phát hiện người vay sử dụng sai mục đích vi phạm hợp đồng đã kí kết ngân hàng có thể thu nợ trước hạn.
Hình thức này có ưu điểm là ngân hàng chủ động trong việc sử dụng vốn. Tuy nhiên hình thức này có nhiều nhược điểm là thủ tục phức tạp, tốn chi phí, thời gian cho cả ngân hàng và khách hàng.
1.3.3.3. Cho vay theo hạn mức tín dụng:
Đây là nghiệp vụ theo đó ngân hang thoả thuận cung cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể cấp cho cả kỳ hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Đặc điểm cơ bản của loại cho vay này là một hồ sơ xin vay có thể dùng cho nhiều món vay. Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần song không được vượt quá hạn mức tín dụng. Tuy nhiên có một số ngân hàng qui định hạn mức tín dụng cuối kì tức là trong kì khách hàng có thể chi vượt hạn mức nhưng cuối kì khách hàng phải trả sao cho dư nợ không vượt quá hạn mức đã được cấp.
Hình thức cho vay này có nhiều ưu điểm như nó thuận tiện cho khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày thu nợ do đó tạo chủ động trong quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên nhược điểm của hình thức này là ngân hàng dễ bị đọng vốn trong kinh doanh, hơn nữa do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả của từng lần vay.
1.3.3.4. Cho vay luân chuyển:
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá, doanh nghiệp khi mua hàng hoá có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quý người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong một năm hoặc nhiều năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem lại mối quan hệ với khách hàng và đưa ra quyết định có nên cho vay tiếp hay không.
Việc cho vay dựa trên tính chất luân chuyển c._.ủa hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn khách hàng đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để từ đó dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới.
Cho vay luân chuyển có nhiều ưu điểm là rất thuận tiện cho khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần thức hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời vì vậy có lợi thế cho việc mua hàng hoá và việc thanh toán cho người bán sẽ nhanh gọn hơn. Hình thức này thường áp dụng với doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng và có tình hình tài chính lành mạnh. Tuy nhiên nhược điểm của nó là ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng.
1.3.4. Quy trình cho vay ngắn hạn:
Bước 1: Tiếp nhận và hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn.
Bước 2: Thẩm định các điều kiện vay vốn.
- Kiểm tra hồ sơ vay vốn và mục đích vay vốn
- Điều tra, thu thập, tổng hợp thông tin về khách hàng và phương án sản xuất kinh doanh.
- Kiểm tra và xác minh thông tin.
- Phân tích ngành.
- Phân tích, thẩm định khách hàng vay vốn.
- Dự kiến lợi ích của ngân hàng nếu khoản vay được phê duyệt.
- Phân tích, thẩm định phương án sản xuất kinh doanh.
- Thẩm định tài sản đảm bảo tiền vay.
Bước 3: Xác định phương thức cho vay.
Bước 4: Xem xét khả năng nguồn vốn, điều kiện thanh toán và xác định lãi suất cho vay
Bước5: Lập tờ trình thẩm định cho vay.
Bước 6: Tái thẩm định khoản vay.
Bước7: Trình duyệt khoản vay.
Bước 8: Ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, giao nhận giấy tờ và tài sản bảo đảm.
Bước 9: Giải ngân.
Bước 10: Kiểm tra, giám sát khoản vay.
Bước 11: Thu nợ lãi, gốc và xử lý những phát sinh.
Bước 12: Thanh lý hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay.
Bước 13: Giải chấp tài sản bảo đảm.
Bước 14: Lưu giữ hồ sơ tín dụng và hồ sơ bảo đảm tiền vay.
1.4. CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ:
1.4.1. Quan niệm về chất lượng CVNH đối với DNV&N:
Trong bất kỳ nền kinh tế cạnh tranh nào, các doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường thì đều phải cải thiện chất lượng. Đây là vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp. NHTM cũng là một doanh nghiệp như bao doanh nghiệp khác trong nền kinh tế thị trường cũng chịu tác động của các qui luật cạnh tranh khốc liệt. Nhưng chỉ có một điểm khác là NH kinh doanh hàng hoá là tiền tệ. Do vậy các ngân hàng cũng phải quan tâm đến chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình để đạt được mục tiêu của ngân hàng là” an toàn và sinh lợi”.
Cho vay là hoạt động truyền thống nhất và quan trọng nhất của các NHTM nó góp phần lớn vào thu nhập của ngân hàng song đây cũng là hoạt động có nhiều rủi ro nhất. Rủi ro được các nhà quản lý ngân hàng xem là bạn đường trong kinh doanh ngân hàng, ta chỉ có thể phòng ngừa, hạn chế chứ không thể xoá bỏ nó. Do vậy nâng cao chất lượng các khoản cho vay là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng đồng thời cũng là mối quan tâm của các nhà quản lý Nhà Nước. Trước đây, quan niệm về chất lượng cho vay chỉ giới hạn trong khái niệm an toàn trong cho vay, thể hiện qua tổn thất phát sinh từ khoản vay. Chất lượng cho vay được coi là cao khi tổn thất trong hoạt động cho vay là thấp và ngược lại. Vì vậy, quan niệm về việc nâng cao chất lượng cho vay là thực hiện các biện pháp để giảm thiểu rủi ro đến mức thấp nhất.
Chất lượng CVNH được tiếp cận dựa trên 3 góc độ: đối với ngân hàng, khách hàng, và đối với nền kinh tế.
- Đối với ngân hàng: Chất lượng CVNH phản ánh mức độ an toàn tín dụng, khả năng sinh lời do hoạt động cho vay mang lại cũng như khả năng đáp ứng nhu cầu vốn hợp lý của khách hàng phù hợp khả năng và thực lực của ngân hàng.
Mức độ an toàn cho vay thể hiện ở khả năng thu hồi vốn gốc và lãi đúng hạn. Khả năng thu hồi vốn gốc và lãi càng cao thể hiện chất lượng cho vay cao. Tuy nhiên các khoản cho vay có độ an toàn cao nhưng khả năng sinh lời thấp thì cũng không được đánh giá là có chất lượng cao. Chất lượng CVNH phải thoả mãn vừa đảm bảo an toàn vốn, vừa tạo ra thu nhập xứng đáng cho ngân hàng. Nếu chất lượng cho vay tốt thì ngân hàng có thể tăng quy mô cho vay do đó sẽ tăng được thu nhập từ hoạt động cho vay. Kết hợp giữa tăng trưởng dư nợ cho vay ngắn hạn và an toàn cho vay mới đảm bảo chất lượng. Mục tiêu của ngân hàng khi cho vay là một mặt tài trợ cho khách hàng một cách có hiệu quả giúp khách hàng duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh và quan trọng hơn là tạo ra thu nhập cho ngân hàng thông qua số lãi mà ngân hàng được hưởng. Như vậy, chất lượng cho vay đứng trên giác độ ngân hàng là quy mô cho vay, tính an toàn của các khoản cho vay và thu nhập từ cho vay.
- Đối với khách hàng: Chất lượng cho vay ngắn hạn là việc ngân hàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng về lãi suất, kì hạn, qui mô, phương thức giải ngân, phương thức thu nợ đối với mỗi khoản vay mà ngân hàng cấp cho khách hàng. Thời gian của các khoản vay ngắn hạn thường dưới 12 tháng, các món vay chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn lưu động thường xuyên hoặc nhu cầu vốn thời vụ. Do vậy, chất lượng cho vay được khách hàng đánh giá là dựa trên việc đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, đầy đủ với chi phí vốn hợp lý và hiệu quả mang lại từ việc sử dụng vốn vay.
- Đối với nền kinh tế: chất lượng cho vay thể hiện ở các khoản vay có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn, việc làm…
Chất lượng cho vay là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh sự thích nghi của ngân hàng đối với sự thay đổi của môi trường, thể hiện sức mạnh của NH trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Chất lượng cho vay cao tức là phải thoả mãn được các mục tiêu mà ngân hàng, khách hàng và sự phát triển nền kinh tế nói chung. Thực tế các mục tiêu đặt ra của các đối tượng này lại luôn mâu thuẫn nhau. Ngân hàng muốn đạt lợi nhuận cao nhất từ các khoản cho vay đồng thời các món vay phải được bảo đảm an toàn nên họ muốn lãi suất thu được từ các khoản cho vay phải cao cũng như khách hàng phải hoàn trả đúng hạn. Ngược lại, là khách hàng của ngân hàng, lãi vay là một khoản chi phí do vậy doanh nghiệp muốn cạnh tranh trên thị trường phải tối thiểu hoá chi phí để tạo ra sản phẩm với giá thành thấp nhất. Khách hàng luôn muốn tìm kiếm các khoản vay với lãi suất thấp nhất và thời gian sử dụng vốn lâu nhất. Về mục tiêu phát triển kinh tế thì hoạt động cho vay ngắn hạn được đòi hỏi là giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động góp phần xoá đói giảm nghèo…
1.4.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn với DNV&N:
Hoạt động cho vay ngắn hạn được xem là có chất lượng khi người vay sử dụng vốn vay đúng mục đích và đảm bảo hoàn trả vốn gốc và lãi đúng hạn theo như cam kết đã được kí kết trong hợp đồng tín dụng. Hoạt động cho vay ngắn hạn là một trong những hoạt động chủ chốt mang lại thu nhập thường xuyên với tỷ trọng lớn cho ngân hàng do đó ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng để đảm bảo cho sự an toàn của các khoản cho vay. Việc các khoản vay bị mất vốn sẽ tác động xấu đến tính thanh khoản của ngân hàng, có thể tạo ra tâm lý và sự thiếu tin tưởng của người dân khi đến giao dịch với ngân hàng. Ngân hàng là loại hình kinh doanh mà uy tín tác động rất lớn đến hành vi của khách hàng đến giao dịch. Chất lượng cho vay tốt không chỉ giúp ngân hàng bảo toàn vốn, thu được lợi nhuận và không phải dùng nguồn vốn để trích lập dự phòng rủi ro mà nó còn giúp cho ngân hàng trong việc huy động được các nguồn vốn phong phú trong dân. Đồng thời nó tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của ngân hàng thông vì chất lượng cho vay cao cho phép ngân hàng có được những khách hàng lớn và trung thành với ngân hàng. Hơn nữa, một ngân hàng muốn có tình hình tài chính lành mạnh thì nhất định chất lượng cho vay phải cao vì nó giúp cho ngân hàng cắt giảm được chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn và khả năng sinh lợi của các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng sẽ tăng.
Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn không chỉ cần thiết với các NHTM mà nó còn rất cần thiết với doanh nghiệp và nền kinh tế. Chất lượng cho vay ngắn hạn cao sẽ giúp các doanh nghiệp duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh từ đó giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường. Đồng thời nó còn giúp cho hoạt động cho vay của ngân hàng thích nghi với nền kinh tế thị trường, đáp ứng nhu cầu vốn gia tăng không ngừng của nền kinh tế đặc biệt là nhu cầu vốn lưu động và nhu cầu vốn thời vụ phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Đặc biệt với những công trình đầu tư có hiệu quả vào những ngành, lĩnh vực bằng vốn vay của ngân hàng nền kinh tế nước ta đã có những thành tựu nhất định. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn còn có tác dụng như là làm đồng vốn cho vay phục vụ được mục tiêu của doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động đầu tư, thúc đẩy quá trình tập trung vốn, tập trung sản xuất với nền kinh tế do vậy sẽ giảm lượng tiền thừa trong lưu thông góp phần ổn định nền kinh tế kiềm chế lạm phát…
1.4.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay ngắn hạn đối với DNV&N:
1.4.3.1. Các chỉ tiêu định lượng:
Để có thể có cái nhìn rõ nét hơn và chính xác hơn về chất lượng cho vay ngắn hạn đối với DNV&N thì các chỉ tiêu như nợ quá hạn, nợ khó đòi, nợ khoanh, dư nợ cho vay và tốc độ tăng dư nợ cho vay đối với DNV&N,… thường được quan tâm.
- Nợ quá hạn:
Theo Điều 2-Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN thì nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/ hoặc lãi đã quá hạn.
Các khoản vay bị chuyển xuống nợ quá hạn trong những trường hợp khách hàng không có đơn đề nghị gia hạn nợ, hoặc khách hàng có đơn đề nghị gia hạn nợ nhưng cán bộ tín dụng thấy lý do gia hạn nợ không hợp lý vì nó không xuất phát từ nguyên nhân khách quan bất khả kháng mà do thái độ chây ì của khách hàng trong việc trả nợ. Hoặc những khoản vay đã hết thời gian gia hạn nhưng khách hàng vẫn không trả được.Tỷ lệ được xác định bằng
Các ngân hàng xem chỉ tiêu này như là một chỉ tiêu cơ bản trong việc đánh giá chất lượng của hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNV&N. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt. Theo quy định của NHNN thì các NHTM có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ quá 5 % là ngân hàng hoạt động yếu kém. Còn nếu tỉ số này dưới 3% thì được xem là hoạt động có hiệu quả. Tỏng nợ quá hạn thì còn được phân chia ra thành nợ quá hạn có khả năng thu hồi và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi. Nợ quá hạn có khả năng thu hồi là những khoản nợ mà sau khi chuyển xuống nợ quá hạn vẫn có khả năng thu hồi vì lý do những khoản nợ này quá hạn là vì sự chênh lệch giữa dòng tiền vào và ra của khách hàng không phù hợp với dự kiến.
- Nợ quá hạn khó đòi trên tổng số nợ quá hạn: Theo qui định của NHNN thì sau 360 ngày kể từ khi chuyển nợ quá hạn mà khách hàng không thể trả được nợ thì bị chuyển xuống nợ khó đòi. Nó phát sinh từ những khách hàng làm ăn thua lỗ hoặc những khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng.
Tỷ lệ này cho thấy một đồng vốn trong tổng dư nợ quá hạn sẽ có bao nhiêu đồng không thể thu hồi được. Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi trên tổng số nợ quá hạn càng cao chứng tỏ khả năng thu hồi thấp, khả năng mất vốn cao ảnh hưởng đến tài chính của ngân hàng, chất lượng cho vay của ngân hàng thấp. Khi đánh giá chỉ tiêu nợ quá hạn khó đòi càn phải xem xét trên 2 khía cạnh: số tương đối và số tuyệt đối. Vì khi tỷ lệ nợ quá hạn tăng lên thì tỷ lệ nợ khó đòi giảm về mặt tương đối. Khi đó chất lượng tín dụng không tăng lên mà giảm đi.
- Dư nợ cho vay và tốc độ tăng dư nợ cho vay ngắn hạn với DNV&N:
Dư nợ cho vay là một chỉ tiêu quan trọng, nó phản ánh số tiền mà khách hàng còn vay ngân hàng tính đến một thời điểm cụ thể. Chỉ tiêu này lớn thể hiện ngân hàng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay nhiều.
Tỷ lệ này cho biết mức độ cho vay nhanh hay chậm của ngân hàng. Tỷ lệ này dương chứng tỏ thời điểm sau cho vay nhiều hơn thời điểm trước chứng tỏ có chất lượng tín dụng. Tỷ lệ này phản ánh khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng.
- Doanh số cho vay: là tổng số tiền các ngân hàng đã cho vay trong một thời kỳ, doanh số này càng cao chứng tỏ qui mô cho vay đang tăng trưởng và nó là một dấu hiệu tốt cho ngân hàng
- Doanh số thu nợ: là số tiền ngân hàng thu được nợ trong một thời kỳ. Các ngân hàng đạt được doanh số thu nợ cao khi họ có các món vay có chất lượng.
- Lợi nhận từ hoạt động cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đóng góp của hoạt động CVNH đối với DNV&N trong tổng lợi nhuận của hoạt động cho vay.
1.4.3.2. Nhóm các chỉ tiêu định tính:
Nhóm chỉ tiêu này đánh giá chất lượng cho vay dựa trên cơ sở pháp lý, dựa trên việc tuân thủ các qui trình tín dụng và việc các bên thực hiện nghĩa vụ của mình như thế nào theo như cam kết trong hợp đồng cho vay.
- Trên cơ sở pháp lý thì hoạt động cho vay có chất lượng khi nó phải tuân theo các qui định của pháp luật mà trực tiếp là luật các tổ chức tín dụng, các qui định về cho vay,quy định về tỷ lệ an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng do NHNN ban hành cũng như những văn bản cụ thể của từng NHTM.
- Khoản cho vay có chất lượng còn đòi hỏi phải thực hiện theo đúng qui trình cho vay. Và với mỗi đối tượng khách hàng khác nhau thì được áp dụng một qui trình khác nhau. Mục đích của việc đặt ra qui trình này ở mỗi ngân hàng là làm cho khoản cho vay có chất lượng.
- Trên cơ sở hợp đồng cho vay của các ngân hàng. Hoạt động cho vay có chất lượng khi các khoản cho vay có chất lượng. Các khoản cho vay có chất lượng khi người vay sử dụng đúng mục đích vay vốn, hoàn trả vốn gốc và lãi đúng thời hạn và khả năng trả nợ của khách hàng là từ hiệu quả của việc sử dụng vốn vay. Nếu các khoản vay sử dụng không đúng mục đích thì rủi ro là rất lớn.
1.5. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ:
1.5.1. Về phía ngân hàng:
1.5.1.1. Chính sách cho vay:
Hoạt động cho vay là hoạt động truyền thống của ngân hàng mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho các ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay khi mà dịch vụ ngân hàng chưa thực sự phát triển. Với tầm quan trọng và qui mô lớn nên hoạt động cho vay thường phải theo một chính sách nhất định, nó được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm, nó phản ánh cương lĩnh tài trợ của ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và toàn bộ nhân viên ngân hàng. Chính sách cho vay của mỗi ngân hàng phụ thuộc vào nhu cầu vốn của khách hàng cũng như khả năng sinh lời và rủi ro tiềm năng của khách hàng từ đó ngân hàng đưa ra các quyết định cho vay phù hợp. Tuy nhiên, nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng chủ yếu là do huy động từ nguồn tiền gửi và vay ngắn hạn nên ngân hàng thường chủ yếu cho vay ngắn hạn để đảm bảo sự phù hợp về kì hạn đảm bảo an toàn cho khoản cho vay.
Chính sách khách hàng: khách hàng nhận tín dụng của ngân hàng rất đa dạng, từ các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cơ quan nhà nước, cá nhân người tiêu dùng, các ngân hàng, các công ty tài chính. Tuy nhiên luật pháp cũng cấm hoặc hạn chế tài trợ đối với một số đối tượng nhất định. Mỗi ngân hàng thường tiến hành phân loại khách hàng truyền thống, khách hàng quan trọng và khách hàng khác để từ đó có chính sách hợp lý với từng loại khách hàng. Nếu nhóm khách hàng nào được ngân hàng xác định là đối tượng khách hàng mục tiêu thì sẽ có những chính sách ưu đãi nhất định.
Chính sách qui mô và giới hạn: ngân hàng sẽ tài trợ cho khách hàng dựa trên nhu cầu vốn của khách hàng nhưng phải phù hợp với qui định cũng như những tính toán của ngân hàng về rủi ro và khả năng sinh lời. Nhìn chung ngân hàng thường quan tâm đến vốn chủ sở hữu của khách hàng và ít muốn tài trợ cho khách hàng vượt quá khả năng về vốn chủ sở hữu. Với mỗi ngân hàng khác nhau thì còn có những qui định về mức cho vay tối đa của giám đốc khu vực hoặc chi nhánh, quy mô cho cho vay dựa trên tài sản đảm bảo, quy mô cho vay tối đa với từng khách hàng, từng ngành nghề. Chính sách này có tác động rất lớn đến khả năng vay vốn của các DNV&N.
Chính sách lãi suất và phí suất tín dụng: lãi suất và phí suất tín dụng là khoản thu nhập của ngân hàng để bù đắp những chi phí mà ngân hàng phải bỏ ra. Ngân hàng khi thoả thuận về lãi suất tín dụng phải tính đến rủi ro, lãi suất hoà vốn và lãi suất cạnh tranh trên thị trường. Với mỗi loại tiền, mỗi loại kỳ hạn và mỗi loại khách hàng khác nhau thì có một mức lãi suất khác nhau. Đối với các khách hàng truyền thống có quan hệ vay trả tốt với ngân hàng thì thường có những mức lãi suất ưu đãi hơn. Các DNV&N thường phải chịu mức lãi suất cao hơn do mức độ rủi ro khi cho loại hình doanh nghiệp này vay.
Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ: các giới hạn về thời hạn luôn được các nhà quản lý ngân hàng quan tâm vì nó liên quan đến thanh khoản và rủi ro của ngân hàng cũng như chu kỳ kinh doanh của người vay.
Tài sản đảm bảo và chính sách đối với tài sản có vấn đề: Khi DNV&N vay vốn thì cũng như bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào đều phải có tài sản thế chấp. Đây là điều kiện để các DNV&N có thể tiếp cận được vốn của ngân hàng và là một trong những điều kiện làm cho khoản vay có chất lượng hơn.
1.5.1.2. Năng lực thẩm định, giám sát và quản lý qui trình cho vay:
Đây là những yếu tố mà có thực hiện tốt hay không phụ thuộc vào chất lượng cán bộ tín dụng của ngân hàng. Chất lượng cán bộ ở đây không chỉ đơn thuần là nghiệp vụ mà còn cả tư cách đạo đức và kĩ năng giao tiếp của người cán bộ. Các DNV&N chiếm một lượng khá lớn trong các doanh nghiệp hiện nay, không nhỏ trong số các ông chủ của doanh nghiệp này có tư tưởng làm ăn chộp giật, luôn có chủ ý lừa đảo ngân hàng nếu có thể. Hơn nữa ngành hàng mà các DNV&N kinh doanh thường khá đa dạng do vậy đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có những hiểu biết nhất định khi thẩm định khoản cho vay đồng thời khi cho vay ngắn hạn cần phải thường xuyên giám sát xem liệu khách hàng có thực sự nhập nguyên vật liệu để sản xuất kinh doanh hay không. Qui trình cho vay bao gồm những qui tắc, qui định của ngân hàng trong việc cấp vốn cho khách hàng, trong đó sẽ xác định trình tự từ khi nộp hồ sơ cho đến khi chấm dứt quan hệ với khách hàng. Việc tuân thủ qui trình này sẽ làm cho khoản vay có chất lượng cao hơn. Đối với cho vay ngắn hạn qui trình này phải tiến hành một cách linh hoạt trong từng trường hợp cụ thể nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc an toàn cho ngân hàng và lợi ích của người đi vay.
1.5.1.3. Thông tin về khách hàng:
Ngân hàng hoạt động kinh doanh dựa trên cơ sở “nhận tiền gửi và đi vay để cho vay” khi ngân hàng nhận tiền gửi và đi vay thì ngân hàng phải hoàn trả đúng hạn do vậy ngân hàng cũng đòi hỏi người đi vay phải có khả năng và thiện chí trả nợ đúng thời hạn đã cam kết trong hợp đồng. Do vậy khi cho vay ngân hàng cần tìm hiểu kỹ các thông tin về người đi vay. Các thông tin này có thể lấy từ nhiều nguồn có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Đồng thời ngân hàng phải phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính của người vay. Việc thu thập thông tin đầy đủ sẽ giúp cho ngân hàng có những đánh giá chính xác về người vay từ đó ra quyết định đúng đắn đảm bảo chất lượng cho vay được nâng cao.
1.5.1.4. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ:
Đây là phần việc quan trọng nếu làm tốt công tác này sẽ đảm bảo chất lượng các khoản vay được nâng cao.
1.5.2. Về phía DNV&N:
Để có thể tiếp cận với các nguồn vốn của ngân hàng thì bản thân các DNV&N phải biết được mục tiêu, nguyên tắc hoạt động cũng như các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp để từ đó chủ động thiết lập các điều kiện cần thiết để có thể vay vốn của ngân hàng. Các DNV&N phải đảm bảo được khả năng tài chính, ý chí trả nợ…Do vậy về phía các DNV&N có thể có các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay ngắn hạn như đạo đức kinh doanh, tình hình tài chính, dự án xin vay, trình độ quản lý của DNV&N.
- Đạo đức kinh doanh thể hiện trước hết ở khâu đầu tiên khi khách hàng trình hồ sơ vay vốn. Đạo đức thể hiện ở tính trung thực của các thông tin mà khách hàng đưa cho ngân hàng. Và quan trọng hơn là trong quá trình sử dụng vốn vay khách hàng có sử dụng đúng mục đích đã cam kết hay không và khi đến hạn có thiện chí để trả nợ hay không.
Thứ nhất, năng lực vay vốn: thực tế không phải bất kỳ khách hàng nào đến vay vốn đều được ngân hàng đáp ứng. Ngân hàng cho vay dựa vào năng lực pháp lý, năng lực tài chính và năng lực sản xuất của khách hàng. Năng lực pháp lý giúp đảm bảo tính hợp pháp của hợp đồng vay vốn. Khách hàng phải là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Nếu khách hàng là cá nhân phải có đầy đủ giấy chứng minh thư nhân dân, hộ khẩu thường trú và xác nhận của chính quyền địa phương. Còn đối với doanh nghiệp thì cần phải có các giấy tờ chứng minh sự tồn tại hợp pháp của doanh nghiệp đó như đăng ký kinh doanh, mã số thuế...Năng lực pháp lý là yếu tố đầu tiên mà cán bộ tín dụng phải kiểm tra khi tiếp nhận một hồ sơ vay vốn. Ngân hàng cho vay ngắn hạn chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động thường xuyên hoặc nhu cầu vốn thời vụ do đó ngoài vốn vay ngân hàng thì ngân hàng cần phải có tình hình tài chính lành mạnh. Ngân hàng thường quan tâm đến các hệ số về khả năng thanh toán hiện hành, khả năng thanh toán nhanh và tự tài trợ của khách hàng. Ngoài ra ngân hàng còn quan tâm đến cơ cấu nợ và qui mô của các khoản nợ chủ yếu là các khoản nợ đến hạn phải trả vì cho vay ngắn hạn thời hạn vay dưới 12 tháng. Ngân hàng còn đặc biệt quan tâm đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp trong những năm trước đó xem qui mô sản xuất của doanh nghiệp cũng như khả năng đáp ứng những sản phẩm cho thị trường.
Thứ hai, dự án xin vay: khi khách hàng trình một phương án sản xuất kinh doanh ngân hàng cần phải tiến hành thẩm định, đánh giá phương án và từ đó sẽ quyết định hạn mức cho vay cũng như thời gian cho vay. Ngân hàng chỉ cho vay đối với những dự án khả thi.
Thứ ba, trình độ quản lý của DNV&N: điều này sẽ quyết định đến chất lượng thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh. Việc quản lý tốt sẽ góp phần giảm thiểu chi phí không cần thiết chống lãng phí do vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Như vậy chất lượng cho vay cũng phụ thuộc nhiều vào trình độ quản lý của chủ DNV&N. Vì như trên đã phân tích trình độ của chủ DNV&N là rất đa dạng cũng như cách thức làm ăn đôi khi không mang tính chất lâu dài.
1.5.3. Các nhân tố khác:
1.5.3.1. Môi trường kinh tế:
Một nền kinh tế dù mạnh hay yếu đều phải trải qua chu kỳ “khủng hoảng - suy thoái - phát triển - hưng thịnh”. Do vậy một nền kinh tế tăng trưởng lành mạnh, tiềm năng sản xuất và tiêu dùng của xã hội càng lớn thì hoạt động sản xuất kinh doanh có điều kiện tốt để phát triển. Một nền kinh tế mà đang ở trạng thái tăng trưởng cao và ổn định thì các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ diễn ra theo chiều hướng tốt như vậy nhu cầu vốn của các doanh nghiệp tăng cao tạo điều kiện cho ngân hàng tăng các khoản cho vay. Ngược lại trong nền kinh tế khủng hoảng đang trên đà xuống dốc, thu nhập của tất cả các thành viên trong xã hội giảm xuống, lạm phát tăng vọt, giá cả đồng tiền giảm xuống, sản xuất bị đình đốn thì khả năng sản xuất kinh doanh là rất kém, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và khả năng thu hồi công nợ của ngân hàng nói riêng. Đồng thời hoạt động cho vay của ngân hàng cũng bị thu hẹp và khó có thể phát triển được. Mặt khác các biến số kinh tế vĩ mô như lạm phát, lãi suất huy động thay đổi theo xu hướng tăng lên sẽ gây ra hao mòn vô hình cho các khoản cho vay của ngân hàng và từ đó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng khoản vay.
1.5.3.2. Nhân tố pháp lý:
Hành lang pháp lý là một trong những yếu tố quan trọng để doanh nghiệp hoạt động theo khuôn khổ nhất định. Ngân hàng hoạt động kinh doanh trong một lĩnh vực mà đối tượng là hàng hoá đặc biệt “ tiền tệ”. Cái mà ngân hàng cần trước hết là hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa đầy đủ, đồng bộ, hợp lý sẽ không đảm bảo được môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế, là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng. Pháp luật còn là cơ sở để giải quyết mối quan hệ giữa ngân hàng và các DNV&N. Chấp hành đúng pháp luật sẽ đảm bảo lợi ích cho cả hai bên.
1.5.3.3. Môi trường xã hội:
Việc thu hút được đầu tư nước ngoài là yêu cầu đặt ra đối với bất kỳ nền kinh tế nào bởi ngoài việc thu hút được ngoại tệ thì họ còn mang đến cả công nghệ, cách thức quản lý hiện đại. Để thu hút được đầu tư nước ngoài thì đòi hỏi môi trường chính trị trong nước phải ổn định, tạo ra niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Nói đến các yếu tố xã hội người ta thường đề cập đến trình độ dân trí, tư cách đạo đức của người vay. Một xã hội có sự ổn định cao, trình độ dân trí cao thì tạo điều kiện cho việc mở rộng cho vay. Trong nền kinh tế mà tư cách đạo đức của người vay thấp thì sẽ tạo ra rủi ro đạo đức đối với người cho vay vì người đi vay có ý định lừa gạt ngân hàng từ lúc bắt đầu vay vốn. Như vậy sự ổn định về xã hội tác động mạnh đến chất lượng các khoản vay.
1.5.3.4. Các đối thủ cạnh tranh trên cùng địa bàn:
Các DNV&N không chỉ là khách hàng mục tiêu của nhiều ngân hàng nên khách hàng có thể lựa chọn tổ chức tín dụng nào phù hợp nhất, đem lại lợi ích cao nhất cho họ để vay vốn. Điều này đã gây ra sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong cùng địa bàn. Do vậy các ngân hàng thực hiện tốt chính sách khách hàng như đa dạng các hình thức cho vay ngắn hạn, thủ tục cho vay đơn giản hơn, gia tăng các dịch vụ tiện ích…Như vậy ngân hàng mới thu hút được các DNV&N tạo điều kiện sàng lọc đối tượng khách hàng do vay sẽ nâng cao được chất lượng cho vay.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐÔNG ANH
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐÔNG ANH:
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển:
Ngân hàng Công Thương Việt Nam là một trong bốn ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam với mạng lưới hoạt động phủ khắp cả nước. Đến cuối năm 2006, tổng tài sản của NHCT chiếm 19% tổng tài sản của các ngân hàng thương mại Việt Nam, thị phần cho vay và đầu tư chiếm khoảng 21%, huy động vốn khoảng 22%. Ngân hàng Công thương Đông Anh là một trong những chi nhánh cấp một trực thuộc NHCT Việt Nam hoạt động ngày càng có hiệu quả kể từ ngày thành lập.
Chi nhánh NHCT Đông Anh là một chi nhánh trực thuộc ngân hàng Công Thương Việt Nam, được thành lập theo quyết định số: 05/HĐQT ngày 07 tháng 12 năm 1996 của chủ tịch hội đồng quản trị NHCT Việt Nam. Tiền thân là phòng giao dịch và sau đó chuyển thành chi nhánh NHCT Đông Anh trực thuộc chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương. Tháng 01 năm 2007, chi nhánh được nâng cấp thành Chi nhánh NHCT Đông Anh trực thuộc NHCT Việt Nam.
Là huyện ngoại thành, người dân ở đây chủ yếu sống bằng nghề nông song trong huyện có 6 tổ chức tín dụng đang hoạt động là: Chi nhánh ngân hàng Công Thương Đông Anh, chi nhánh ngân hàng NN & PTNT Đông Anh, chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh, chi nhánh ngân hàng chính sách Đông Anh, phòng giao dịch của ngân hàng thương mại cổ phần Sacombank và ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Techcombank. Và các ngân hàng này đều có trụ sở gần nhau. Để tồn tại trong môi trường này đòi hỏi chi nhánh NHCT Đông Anh phải không ngừng nỗ lực phấn đấu để vươn lên chiếm lĩnh thị trường. Đặc biệt là chi nhánh lại thành lập sau hai chi nhánh của ngân hàng NN&PTNT và NHĐT&PTNT. Trong mấy năm gần đây hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn do cơ chế cạnh tranh gay gắt. Đứng trước những khó khăn đó, chi nhánh đã tìm cách mở rộng hoạt động kinh doanh theo hướng mở đường đi mà không giới hạn địa bàn hoạt động. Chính vì vậy sau những ngày đầu hoạt động thì đến nay qui mô và hoạt động của chi nhánh đã ngày càng mở rộng. Qua 11 năm hoạt động chi nhánh đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, đã tạo được lòng tin đối với người dân, đối với các doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn và luôn khẳng định là đơn vị kinh doanh có hiệu quả. Và trong vài năm gần đây chi nhánh đã có những thay đổi trong việc lựa chọn khách hàng mục tiêu để đảm bảo cạnh tranh hiệu quả và đối tượng chính được hướng tới là cá nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ thay vì các doanh nghiệp lớn như trước đây.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức:
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Chi nhánh
BAN GIÁM ĐỐC
Phòng kho quỹ
Phòng kiểm tra nội bộ
Phòng giao dịch Sóc Sơn
Phòng giao dịch Bắc T Long
Phòng khách hàng cá nhân
Phòng tổng hợp
Phòng tổ chức hành chính
Phòng kế toán
Phòng quản lý rủi ro
Phòng khách hàng DN
Điểm giao dịch Nội Bài
ĐGD số 08
Quỹ TK 73
KT chi tiêu
Vi tính
KT Giao dịch
ĐGD số 09
Phòng tài trợ TM
2.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐÔNG ANH:
2.2.1. Hoạt động huy động vốn:
Xác định ý nghĩa quyết định của nguồn vốn đối với hoạt động ngân hàng là thước đo sức mạnh và là cơ sở cho việc đẩy mạnh các hoạt động đầu tư, cho vay, Ngân hàng công thương Đông Anh đã áp dụng nhiều hình thức huy động vốn và có những chính sách huy động vốn hợp lý làm cho số vốn huy động của ngân hàng liên tục tăng trong thời gian qua. Tận dụng lợi thế là một Ngân hàng quốc doanh lớn NHCT Đông Anh đã áp dụng nhiều biện pháp hữu hiệu trong chiến lược kinh doanh để áp dụng cho công tác huy động vốn. Ngân hàng công thương Đông Anh đã hoạt động trên địa bàn 11 (1996 -2007) do vậy ngân hàng đã có những kinh nghiệm nhất định và đã có những uy tín nhất định nên đã thu hút được ngày càng nhiều tiền gửi của dân cư.
Với việc nâng cao chất lượng dịch vụ và sản phẩm đa dạng, các hình thức tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm dự thưởng, kỳ phiếu... với thủ tục gọn nhẹ và tinh thần phục vụ chu đáo của các cán bộ công nhân viên nên công tác huy động vốn luôn luôn tăng trưởng. NHCT Đông Anh đã giúp cho khách hàng quản lý có hiệu quả và an toàn nguồn vốn. Mặc khác do áp dụng linh hoạt các chính sách khách hàng thực sự hấp dẫn cùng với lãi suất linh hoạt cùng lãi suất linh hoạt cùng với việc mở rộng mạng lưới giao dịch; điểm giao dịch số 09, phòng giao dịch Bắc Thăng Long.
Tính đến ngày 31/12/2006 tổng nguồn vốn huy động được là 1357 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn khá cao( năm 2005 tăng so với ._.ó quan hệ với một ngân hàng mà có quan hệ với nhiều bạn hàng, nhiều Ngân hàng. Với mỗi ngân hàng, doanh nghiệp phải cung cấp một số lượng thông tin nhất định tuỳ theo yêu cầu của mỗi ngân hàng. Do vậy để có cái nhìn tổng thể hơn về doanh nghiệp, Chi nhánh NHCTĐA có thể thu thập thông tin từ ngân hàng bạn như quan hệ vay trả có sòng phẳng không, hoàn trả nợ có đúng hạn không, uy tín của doanh nghiệp ra sao. Bên cạnh đó, thông qua các bạn hàng cung cấp hoặc tiêu thụ có thể đánh giá được doanh nghiệp có giao hàng đúng về số lượng, chất lượng hay không, giá cả ra sao, yếu tố đầu vào có ổn định hay không. Cán bộ cho vay phải hết sức chú ý vấn đề trên.
- Nguồn thông tin khác: thông qua cơ quan chủ quản, bộ chức năng, ngân hàng có thể nắm được thông tin về cung cầu sản phẩm trên thị trường, chính sách phát triển của ngành. Từ đó xây dựng các tiêu chuẩn trong ngành và trong toàn nền kinh tế để làm căn cứ so sánh, đánh giá phân tích, chấm điểm tín dụng. Ngoài ra còn có thể thông qua sách báo, phương tiện thông tin đại chúng để thu thập thông tin về khách hàng.
Việc thu thập thông tin không chỉ tính đến yếu tố chính xác tin cậy mà còn phải tính đến chi phí để có được các thông tin đó thì hoạt động cho vay mới mang lại thu nhập cho NH.
Ngoài ra, NH cần thiết lập một hệ thống lưu trữ thông tin riêng bằng cách xây dựng một hệ thống chuyên nghiên cứu dự báo thông tin phục vụ trực tiếp cho ngân hàng.
3.2.1.2. Nâng cao chất lượng xử lý thông tin:
Thông tin thu được thường mang tính chất đa chiều vì vậy cần xử lý theo cách thức khác nhau để đưa ra những kết luận hợp lý. Các thông tin mà ngân hàng thu thập được hầu hết là ở trong quá khứ và các số liệu thường mang tính chất thời điểm. Nếu là các phương án sản xuất kinh doanh thì lại là các dự đoán trong tương lai. Do vậy khi phân tích, ngân hàng phải xem xét doanh nghiệp trong trạng thái động. Tức là ngân hàng cần phải phân tích tỷ lệ qua các năm, so sánh giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành để tìm hiểu xu hướng phát triển trong ngành. Từ đó ngân hàng sẽ đánh giá được rủi ro cũng như hiệu quả của dự án mang lại.
Khi thẩm định, cán bộ tín dụng nên tập trung vào phân tích tài chính của khách hàng cũng như tài chính của dự án xin vay. NH nên đưa ra tiêu chuẩn để thẩm định như tiêu chuẩn phân tích khách hàng 6 C. Ngân hàng nên lượng hoá các chỉ tiêu bằng cách chấm điểm cho từng khách hàng. Mặc dù ngân hàng đã áp dụng hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng nhưng các chỉ tiêu này còn chưa thực sự cụ thể và các cán bộ tín dụng cũng chưa có nhận thức đúng đắn về việc này. Bên cạnh việc phân tích định lượng thì phân tích định tính cũng hết sức quan trọng. Cho vay DNV&N có những điểm khác biệt so với cho vay doanh nghiệp lớn ở chỗ quy mô vay không lớn, số lượng món vay nhiều, chi phí nghiệp vụ và rủi ro cao nên Chi nhánh cần ban hành quy trình cho vay phù hợp. Cán bộ tín dụng khi phân tích hồ sơ cho vay ngoài các thông tin mang tính chất định lượng còn đặc biệt chú ý yếu tố pháp lý của hồ sơ vay vốn như phân tích đánh giá tư cách của người vay, khả năng quản lý của chủ doanh nghiệp...
3.2.2. Đa dạng hoá các phương thức cho vay:
Có rất nhiều hình thức cho vay ngắn hạn như thấu chi, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay từng lần. Nhưng hiện tại ở chi nhánh vẫn phổ biến chỉ sử dụng cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức. Hình thức cho vay từng lần là hình thức được Chi nhánh áp dụng phổ biến nhất nhưng đây là hình thức cho vay không có hiệu quả cao vì chi phí cho mỗi lần vay lớn đồng thời tạo ra cho khách hàng những thủ tục khá phiền hà. Đối với các DNV&N, Chi nhánh thường chỉ áp dụng cho vay từng lần do đó chất lượng cho vay ngắn hạn thường không cao. Trong khi đó các hình thức cho vay như thấu chi, cho vay luân chuyển là hai hình thức cho vay ngắn hạn được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới và hiệu quả của hai phương thức này rất cao. Chi nhánh nên áp dụng hai phương thức này trong cho vay ngắn hạn.
Hiện nay chi nhánh đang áp dụng cho vay từng lần. Hình thức này chỉ nên áp dụng với những khách hàng mới, độ tin cậy đối với họ chưa cao. Tuy nhiên đối với những khách hàng đã quan hệ lâu dài với Chi nhánh thì phương thức này quả thực không hiệu quả vì nó tốn rất nhiều thời gian, chi phí của khách hàng cũng như của ngân hàng. Bên cạnh đó chi nhánh cũng đã áp dụng phương thức cho vay theo hạn mức. Đối với phương thức này thì khách hàng chủ động hơn trong việc sử dụng vốn do việc tính toán hạn mức đã được cán bộ tín dụng và doanh nghiệp tính ngay từ đầu kì nhưng việc kiểm soát các mon vay thường khó khăn hơn đối với NH vì các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể do vậy dễ dẫn đến rủi ro cho NH. Trong khi đó cho vay luân chuyển thì đòi hỏi người vay phải xuất trình các giấy tờ hợp pháp, hợp lệ về hàng hoá đã nhập thì mới xuất khoản cho vay . Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng.
Thấu chi là hình thức cho vay cũng có rất nhiều ưu điểm nhưng hầu như chưa được áp dụng rộng rãi trong hệ thống NHTM Việt Nam. Kĩ thuật thấu chi thường dành cho khách hàng sử dụng tài khoản một cách linh hoạt và chủ động. Đối với khách hàng có năng lực tài chính mạnh, tài khoản tiền gửi phát sinh thường xuyên, đồng thời phát sinh nợ chỉ trong thời gian ngắn khi đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng tài khoản vãng lai. Khi tài khoản này dư nợ thì ngân hàng là chủ nợ còn khi tài khoản này dư có thì khách hàng là chủ nợ. Đây là hình thức cho vay ngắn hạn khá linh hoạt nhưng mức độ rủi ro không phải là thấp. Tuy nhiên, Chi nhánh cũng nên chọn ra một số DNV&N đủ yêu cầu để áp dụng hình thức này vì nó thuận tiện cho cả khách hàng cũng như ngân hàng.
Một phương thức cho vay hiệu quả khác là cho vay ứng trước căn cứ vào giá trị của giấy tờ có giá. Đây thực chất là chiết khấu giấy tờ có giá mà chủ yếu là thương phiếu. Hình thức cấp tín dụng ngắn hạn này thường rủi ro ít vì có ba bên chịu trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng vì nếu ngân hàng không thu hồi được tiền từ người phát hành thì có thể thu hồi những người liên quan hoặc nếu ngân hàng không nắm thương phiếu đến hạn thanh toán có thể đem chiết khấu tại NHNN. Hơn nữa thương phiếu thường có tính thanh khoản cao, thời hạn ngắn, an toàn. NH nên áp dụng hình thức cho vay này. Để đạt được hiệu quả cao nhất từ hình thức cho vay này NH nên thẩm định, đánh giá quan hệ thương mại hình thành nên thương phiếu, điều kiện, tư cách của những người ký tên trên thương phiếu đồng thời cũng phải xác định chi phí chiết khấu đối với từng loại như vậy sẽ đảm bảo thoả mãn yêu cầu vay vốn của khách cũng như đảm bảo an toàn trong khoản cho vay của Chi nhánh.
Việc đa dạng hoá các sản phẩm phù hợp đối với đối tượng khách hàng DNV&N phải thực hiện trên 2 phương hướng. Thứ nhất là thiết kế lại sản phẩm hiện có cho phù hợp với DNV&N và nghiên cứu phát triển sản phẩm mới thông qua điều tra nhu cầu khách hàng, khảo sát, học tập kinh nghiệm của các ngân hàng khác.
3.2.3. Xây dựng chính sách cho vay phù hợp với DNV&N:
Hiện nay ở hầu hết các NH thì việc cho vay giữa DNV&N và các thành phần kinh tế khác là không có sự khác biệt. Chính điều này đã gây nhiều bất lợi cho các DNV&N dẫn đến dư nợ mất cân đối giữa DNV&N và doanh nghiệp lớn. Để nâng cao chất lượng cần đổi mới cơ chế cho vay theo các hướng sau.
- Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt: Lãi suất cho vay là giá cả tín dụng và cũng là cái giá mà doanh nghiệp phải trả để có thể sử dụng vốn vay. Lãi suất chính là chi phí sản xuất của doanh nghiệp vì vậy khi đi vay các doanh nghiệp đều quan tâm hàng đầu đến lãi suất bởi nó sẽ quyết định đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Do vậy ngân hàng nên có chính sách lãi suất hợp lý đối với DNV&N. Chính sách hợp lý tức là lãi suất phải dựa trên sự tín nhiệm của doanh nghiệp cũng như xu hướng sản xuất kinh doanh trên thị trường.
- Cải tiến điều kiện cho vay: Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN thì tổ chức tín dụng xem xét và cấp tín dụng cho các khách hàng phải có các điều kiện như phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự, có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết, có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, đồng thời phải thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay. Như vậy điều kiện cuối cùng và cũng rất quan trọng là bảo đảm tiền vay. Tài sản thế chấp luôn là vấn đề nan giải đối với các DNV&N vì qui mô vốn của các DNV&N thường thấp, khả năng tự tài trợ không cao. Thực tế tài sản thế chấp không phải là vật bảo đảm duy nhất cho món vay mà nó là thủ tục có tính răn đe nhiều hơn. Sự thành công trong kinh doanh của khách hàng mới đảm bảo cho khoản vay được hoàn trả và đây cũng chính là mong đợi của Chi nhánh. Do vậy NH nên linh hoạt trong việc cho vay dựa trên thực trạng doanh nghiệp, thẩm định chắc chắn dự án. Vì đôi khi doanh nghiệp xảy ra rủi ro không trả được nợ mà có tài sản thế chấp thì không phải là ngân hàng đã hết rủi ro vì khả năng phát mại tài sản thế chấp phụ thuộc vào tính thị trường của tài sản thế chấp. Tuy nhiên tài sản thế chấp đôi lúc cũng rất cần thiết. Để tài sản thế chấp thực sự là nguồn thu thứ hai của NH thi cần xác định đầy đủ các điều kiện của tài sản đem ra làm thế chấp, xác định tương quan giữa mức cho vay và tài sản đảm bảo tức là phải điều chỉnh mức tín dụng nhỏ hơn giá trị thị trường của tài sản tại thời điểm cấp tín dụng cũng như phải điều chỉnh dư nợ tín dụng theo mức giảm giá của tài sản thế chấp. Nó góp phần làm nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp. Nhưng để đạt được hiệu quả cao nhất thì chi nhánh cần lựa chọn các hình thức phù hợp như vừa thế chấp vừa tín chấp hoặc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để làm tài sản đảm bảo. Đối với trường hợp dùng tài sản hình thành từ vốn vay làm tài sản thế chấp thì NH giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay. Thiết nghĩ, chi nhánh có thể nới lỏng các điều kiện về thế chấp một khi nắm được các thông tin đầy đủ và chính xác về khách hàng. Các khoản cho vay như vậy chứng tỏ trình độ phân tích, quản lý khoản cho vay của NHCT Đông Anh và năng lực cạnh tranh trên thị trường.
- Thủ tục vay vốn: có rất nhiều khách hàng phàn nàn về thủ tục vay vốn của các Ngân Hàng Quốc doanh hiện nay. Để hoàn thành được một bộ hồ sơ khách hàng phải đáp ứng rất nhiều loại giấy tờ đặc biệt các DNV&N thì lại càng yêu cầu nhiều hơn và cụ thể hơn. Trong khi nguồn vay ngắn hạn chủ yếu để đáp ứng nhu cầu vốn thời vụ và nhu cầu vốn thường xuyên và thời hạn sử dụng vốn vay ngắn mà các thủ tục kéo dài đôi khi làm lỡ cơ hội kinh doanh của khách hàng. Do đó để nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn Chi nhánh cần nghiên cứu để đơn giản hoá thủ tục vay vốn để tiết kiệm thời gian cũng như chi phí cho cả khách hàng và ngân hàng.
3.2.4. Đảm bảo tốt hơn quy trình cho vay:
Quy trình cho vay được quy định và hướng dẫn cụ thể trong Sổ tay tín dụng của NHCT VN. Đó là một qui trình được thực hiện rất chặt chẽ và được tính từ khi ngân hàng tiếp nhận hồ sơ xin vay đến khi giải chấp tài sản. Toàn bộ quy trình này đều hướng đến để hoạt động cho vay của NH được an toàn hơn. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng cũng cần linh hoạt trong việc áp dụng qui trình vào những điều kiện cụ thể. Đối với những khách hàng có quan hệ tín dụng lần đầu thì cán bộ tín dụng cần hướng dẫn đầy đủ, kỹ lưỡng các bước trong quy trình để đảm bảo khách hàng hiểu rõ và thực hiện đầy đủ các yêu cầu của ngân hàng đồng thời khi khách hàng đã trở thành khách hàng có quan hệ tín dụng lâu dài với ngân hàng thì ngân hàng có thể kế thừa các bước như thu thập và điều tra thông tin.
Trong cho vay ngắn hạng thì thời gian và thời cơ là yếu tố quan trọng. Do vậy cần áp dụng quy trình linh hoạt vừa đảm bảo đáp ứng được các quy định vừa giảm nhẹ thời gian và chi phí không cần thiết. Một quy trình tín dụng tốt tức là quy trình đó phải tốt ở từng bước của quy trình và bước sau phải có sự kế thừa của bước trước. Do đó để có được các quyết định cho vay đúng đắn, tạo điều kiện tối đa cho khách hàng và đồng thời phải đảm bảo sinh lợi cho khách hàng thì cần phải có một quy trình cho vay chặt chẽ mà linh hoạt. Như vậy chất lượng cho vay được nâng cao.
3.2.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng:
Trong bất cứ lĩnh vực kinh doanh nào yếu tố con người cũng là yếu tố trọng tâm hàng đầu, quyết định sự thành bại của mọi hoạt động. Cán bộ tín dụng phải thể hiện đầy đủ tư cách của một người nắm vững trình độ chuyên môn, có đủ tư cách đạo đức với vốn kiến thức xã hội phong phú, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Như vậy chất lượng cán bộ tín dụng cần phải đáp ứng được trên các phương diện; trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác và tư cách đạo đức.
- Về trình độ chuyên môn: cán bộ cho vay cần phải được đào tạo chính quy, có kiến thức cơ bản về ngân hàng tài chính cũng như kiến thức về kinh tế thị trường. Cán bộ tín dụng phải có hiểu biết sâu về tài chính doanh nghiệp, về thẩm định dự án đầu tư. Để đáp ứng yêu cầu công việc, họ phải thường xuyên cập nhật những thay đổi trong chủ trương, chính sách của Nhà nước, của ngành và địa phương. Cán bộ tín dụng phải luôn luôn có ý thức tự đào tạo để nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công việc đồng thời họ cần phải có sự nhiệt tình và trách nhiệm cao trong công việc.
- Về kinh nghiệm công tác: kinh doanh ngân hàng là hoạt động kinh doanh phức tạp. Hoạt động kinh doanh chủ yếu liên quan tới mối quan hệ, tới uy tín. Khách hàng của ngân hàng rất đa dạng. Nhất là đối tượng khách hàng DNV&N, các doanh nghiệp này hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực và đôi khi hoạt động của họ có rủi ro rất cao. Cán bộ tín dụng cần phải có sự tích luỹ về kinh nghiệm thì mới có thể lường hết được các tình huống và có thể hoàn thành được công việc được giao.
- Về tư cách đạo đức: việc thẩm định dự án và ra quyết định cho vay đều mang tính chất chủ quan của cán bộ tín dụng. Nếu cán bộ tín dụng có kinh nghiệm, có trình độ nhưng tư cách đạo đức không tốt dẫn đến móc ngoặc với khách hàng để chiếm dụng vốn của ngân hàng thì chất lượng cho vay nhất định sẽ bị ảnh hưởng.
Để đạt được những yêu cầu trên chi nhánh cần thực hiện những biện pháp sau.
Thứ nhất, cần tuyển cán bộ một cách cẩn trọng. Tuyển chọn cán bộ phải trên cơ sở có tiêu chuẩn cụ thể về bằng cấp, kinh nghiệm công tác, trình độ ngoại ngữ, khả năng giao tiếp... Cần áp dụng chính sách tuyển dụng một cách công khai. Tuyển chọn phải gắn liền với bố trí công việc cho phù hợp, mỗi mặt nghiệp vụ phải có người có kiến thức chuyên môn về nghiệp vụ đó và đặc biệt phải là người có tư cách đạo đức tốt, có trách nhiệm trong công việc
Thứ hai, phân công giao việc một cách khoa học, trong đó phải xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng cho từng công việc. Các nghiệp vụ chức năng cần phải tách biệt. Chi nhánh đã có phòng thẩm định riêng nhưng hiện nay vẫn còn trong tình trạng cán bộ tín dụng vừa làm công tác thẩm định vừa làm công tác cho vay.
Thứ ba, công tác đào tạo phải được quan tâm đúng mức. Đối với nhân viên mới được tuyển chọn cần được đào tạo chuyên môn sâu thêm về công việc được giao, hướng dẫn những quy định của Ngân hàng và của pháp lệnh có liên quan. Đối với cán bộ đang làm cũng phải thường xuyên được bồi dưỡng, đào tạo lại bởi yêu cầu công việc đòi hỏi một sự hiểu biết rất rộng. Chi nhánh cần thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, cho cán bộ đi học nghiệp vụ, học cao học nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Việc nâng cao nghiệp vụ được bao gồm nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ, các kĩ năng nghiệp vụ, các quy định của pháp luật, thông tin thị trường.
Thứ tư, có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với cán bộ tín dụng để động viên kịp thời tránh bình quân chủ nghĩa. Chi nhánh cần phát huy hơn nữa phong trào nêu gương tốt tại đơn vị thông qua chính sách khen thưởng. Chế độ khen thưởng và xử phạt kịp thời giúp cho cán bộ có tinh thần trách nhiệm cũng như ý thức đào tạo để vươn lên.
3.2.6. Xây dựng chiến lược Marketing đúng đắn:
Không giống như trước kia các ngân hàng chỉ việc ngồi một chỗ và người cần giao dịch với ngân hàng tự phải tìm đến. Hiện nay tình hình đã khác, cạnh tranh trong ngành Ngân hàng trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết. Do vậy việc tìm thế mạnh từ chất lượng hoạt động là vấn đề quan tâm của hầu hết các ngân hàng. Xây dựng được chính sách marketing đúng đắn và hiệu quả là cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngân hàng.
- Thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường: hiện nay tại chi nhánh vẫn chưa có bộ phận nghiên cứu thị trường riêng mà nhiệm vụ này hiện đang do phòng khách hàng đảm nhận nên hiệu quả chưa cao. Ngân hàng là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên một trong những mục tiêu quan trọng của ngân hàng là mở rộng thị phần để từ đó tăng thu nhập. Do đó, thành lập một bộ phận nghiên cứu thị trường để tiếp cận tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Bộ phận này không chỉ nghiên cứu thị trường của ngân hàng mà còn nghiên cứu thị trường của khách hàng. Nghiên cứu thị trường của ngân hàng tức là nghiên cứu các nhu cầu vay vốn của khách hàng, khả năng đáp ứng nhu cầu này. Đồng thời, cần phải nghiên cứu xem đối với các sản phẩm cùng loại thì các đối thủ cạnh tranh trên cùng địa bàn đáp ứng nhu cầu của khách hàng như thế nào. Họ có ưu, nhược điểm gì để từ đó cải tiến sản phẩm của mình. Hơn nữa, DNV&N trên địa bàn hoạt động trong nhiều lĩnh vực do vậy cần phải xem xét loại cho vay nào là hiệu quả nhất đối với ngân hàng và phục vụ tốt nhất cho khách hàng. Còn nghiên cứu thị trường của khách hàng chính là một phần trong việc xem xét tính khả thi của phương án cho vay. Vì nguồn trả nợ cho ngân hàng chính là từ phương án sản xuất hiệu quả. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp đang được thị trường chấp nhận do có những ưu thế về giá cả, chất lượng thì khả năng thành công của doanh nghiệp cao như vậy khoản cho vay sẽ an toàn. Công việc này còn thực sự cần thiết bởi DNV&N khả năng tự chủ về tài chính kém hơn nữa sản phẩm sản xuất mang tính chất thời vụ do vậy nếu ngân hàng không xem xét kĩ thị trường thực tế của doanh nghiệp mà chỉ xem xét dự án trên giấy tờ thì rủi ro là rất lớn. Việc nghiên cứu thị trường sẽ giúp cho ngân hàng đánh giá đúng vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường cũng như khả năng hoàn trả vốn và lãi đúng hạn.
- Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn: Vai trò và vị thế của DNV&N ngày càng được khẳng định là rất quan trọng trong nền kinh tế. Trong vài năm gần đây thực hiện đúng chủ trương của NHCT Việt Nam cũng như xuất phát từ tình hình thực tế, chi nhánh đã tiến hành phân loại và sàng lọc khách hàng. Chi nhánh đã xác định nhóm khách hàng mục tiêu là các làng nghề, các DNV&N và tập trung cho vay ngắn hạn với các đối tượng khách hàng này. Với những nỗ lực không ngừng thì trong thời gian qua chi nhánh đã bước đầu được đánh giá là ngân hàng tốt nhất trong việc phục vụ các DNV&N ở địa phương. Xác định khách hàng mục tiêu là DNV&N, đây cũng là đối tượng được các ngân hàng trên cùng địa bàn hướng tới nên mức độ cạnh tranh tương đối gay gắt nên chi nhánh cần phải không ngừng nâng cao uy tín, nâng cao vị thế của mình đối với các DNV&N. Cần phải xây dựng một hình ảnh của một ngân hàng luôn hết lòng vì sự thành công của khách hàng.
Chi nhánh cần tiến hành phân loại khách hàng DNV&N, lựa chọn những khách hàng có quan hệ lâu dài, có uy tín để áp dụng các hình thức cho vay đảm bảo thuận tiện cho khách hàng cũng như nên có những ưu đãi về lãi suất và phí dịch vụ. Đồng thời tránh sự phân biệt giữa doanh nghiệp lớn và DNV&N cũng như doanh nghiệp Nhà nước và khối ngoài quốc doanh. Khi doanh nghiệp gặp khó khăn về tình hình tài chính nhất định, ngân hàng nên cùng doanh nghiệp tháo gỡ vướng mắc như vậy dù có khó khăn về tài chính họ vẫn nỗ lực để trả nợ cho ngân hàng. Hơn nữa ngân hàng cũng cần cho các DNV&N vay dài hạn khi họ mới bắt đầu sản xuất bởi có đầu tư dài hạn thì mới có đầu tư ngắn hạn. Đảm bảo tốt những yêu cầu trên chắc chắn chất lượng tín dụng sẽ nâng cao.
3.2.7. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát khoản vay.
Trong tình hình có nhiều biến động như hiện nay thì việc các doanh nghiệp gặp rủi ro dường như không thể tránh khỏi. Các DNV&N gặp rủi ro thì khả năng chống đỡ của họ rất thấp nên khả năng hoàn trả vốn vay cho ngân hàng là không cao. Vì vậy chi nhánh sau khi cho khách hàng vay cần thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp.
Với mỗi khách hàng vay vốn ngân hàng cần yêu cầu họ mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh và cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra để xem xét sự biến động của tài khoản này có như vậy cán bộ tín dụng mới chủ động trong việc giải quyết các tình huống khi có sự cố xảy ra. Việc kiểm tra, kiểm soát các khoản vay giúp cho ngân hàng đánh giá đúng tiến độ thực hiện của phương án vay vốn. Bên cạnh việc theo dõi tài khoản tiền gửi cán bộ tín dụng phải thường xuyên gặp gỡ khách hàng, đến thăm nhà xưởng để cảm nhận những cái thực sự đang diễn ra so với những cái đã trình bày trên hồ sơ. Đồng thời cán bộ tín dụng phải xem xét kỹ các báo cáo tài chính hàng quý cũng như hoá đơn mua bán hàng hoá đối với cho vay luân chuyển và cho vay hạn mức.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐÔNG ANH:
3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước:
- Nhà nước cần nhận thức rõ vai trò quan trọng của DNV&N trong tiến trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để từ đó có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để DNV&N phát triển. Nhà nước nên có biện pháp để cải thiện nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như người dân nói chung về vai trò của DNV&N.
- Các chính sách kinh tế của Nhà nước cần ổn định. Nhà nước nên có những biện pháp tháo gỡ khó khăn cho DNV&N đặc biệt là khó khăn về vốn. Cần giúp đỡ các DNV&N nâng cao hiệu quả hoạt động của mình nhằm đảm bảo an toàn về vốn vay cho Ngân hàng.
- Hệ thống pháp luật của toàn bộ nền kinh tế nói chung là chưa hoàn chỉnh và chưa đồng bộ do đó môi trường pháp lý còn nhiều vướng mắc. Vì vậy Nhà nước nên sớm hoàn thiện môi trường pháp lý giúp các DNV&N có thể dễ dàng trong việc tiếp cận vốn của ngân hàng.
- Nhân tố con người là vô cùng quan trọng và không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhưng thực tế ở nước ta hiện nay thì đội ngũ quản lý DNV&N vừa thiếu về số lượng và đặc biệt yếu kém về chất lượng. Vì vậy việc đào tạo các nhà quản lý DNV&N là hết sức cần thiết. Nhà nước phải có kế hoạch chỉ đạo các địa phương mở các lớp đào tạo lại cán bộ quản lý cho các DNV&N. Bên cạnh đó thì công nhân trong các DNV&N chủ yếu là thợ phổ thông không được đào tạo bài bản nên năng suất lao động thấp. Nhà nước cần chỉ đạo các bộ ngành mở thêm các trường đào tạo nghề để nâng cao trình độ của đội ngũ này.
- Hỗ trợ những khó khăn mang tính đặc thù của các DNV&N như sự hạn chế về kế hoạch, chiến lược trong sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính thông qua các hoạt động đào tạo tăng cường khả năng kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp, tiếp tục thúc đẩy đề án thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng.
- Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần thúc đẩy việc cải cách hành chính, hoàn thiện các quy định liên quan đến giao dịch bảo đảm, về chứng thư sở hữu tài sản.
3.3.2. Kiến nghị với NHNN:
- Trong khuôn khổ các qui định về kinh tế, tài chính, tín dụng, vấn đề bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế còn nhiều hạn chế. Điều này được thể hiện trong chính sách tín dụng, các điều kiện cho vay vốn còn quá cứng nhắc. Đồng thời còn có sự phân biệt trong tài sản thế chấp cũng như mức lãi suất cho vay. Vì vậy để khuyến khích các DNV&N thì NHNN cần xem xét để đưa ra các qui định cho vay linh hoạt và mức lãi suất cho vay bình đẳng.
- Hệ thống thông tin tín dụng của NH Việt Nam bao gồm trung tâm thông tin tín dụng (CIC) và phòng thông tin của các NHTM được hình thành từ mấy năm nay mặc dù đã có những kết quả nhất định nhưng về cơ bản là chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin của các ngân hàng. NHNN cần cải thiện để có thể đáp ứng được nhu cầu thông tin của các ngân hàng về dư nợ của khách hàng tại các ngân hàng khác cũng như mối quan hệ của khách hàng với Ngân hàng khác...Từ đó giúp các NHTM tránh được các khách hàng vay vốn bừa bãi tại nhiều NH. NHNN cần sớm có biện pháp để hoạt động của trung tâm này có hiệu quả. NHNN cũng nên cho phép hình thành và phát triển các cơ quan chuyên cung cấp thông tin tín dụng nhằm tăng cường nguồn thông tin cho các ngân hàng.
- NHNN cần rà soát lại các văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ, không còn phù hợp để hệ thống văn bản mang tính pháp lý cao chư không đơn thuần là hướng dẫn nghiệp vụ.
- NHNN cần phải đưa ra những biện pháp cải tổ triệt để thủ tục hành chính, giảm thủ tục nhất là thủ tục khi cho vay để giảm tâm lý e ngại khi muốn vay vốn tại ngân hàng nhất là với cho vay ngắn hạn. Việc ban hành hệ thống văn bản phải tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng, đồng bộ, linh hoạt để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường nhất là trong điều kiện hội nhập cao như hiện nay.
3.3.3. Kiến nghị với NHCT Việt Nam:
Mục tiêu của NHCT cho đến năm 2010 là “Trở thành ngân hàng thương mại dẫn đầu Việt Nam về tài trợ DNV&N. Dư nợ cho vay đối với DNV&N chiếm 70% tổng dư nợ cho vay của toàn hệ thống, tỷ lệ nợ xấu dưới 3%”. Để đạt được những mục tiêu trên em xin đưa ra một số kiến nghị như sau.
- Tăng cường quảng bá hoạt động của NHCT phục vụ DNV&N qua nhiều kênh như tổ chức hội thảo, tuyên truyền quảng cáo qua phương tiện thông tin đại chúng.
- Hoàn thiện bổ sung sản phẩm theo hai hướng là thiết kế lại sản phẩm đồng thời tạo ra các sản phẩm mới phù hợp đồng thời tăng cường các hoạt động hỗ trợ phi tài chính cho khách hàng DNV&N.
- Tăng cường hỗ trợ phi tài chính cho DNV&N như cung cấp thông tin kinh tế tài chính, hướng dẫn thủ tục, giới thiệu đối tác đầu tư... thông qua nhiều kênh khác nhau. Đồng thời NHCT cũng nên hỗ trợ cho các khách hàng tiêu biểu tham gia các khoá đào tạo, tham gia triển lãm, hội chợ triển lãm, giới thiệu sản phẩm giữa các DNV&N trong và ngoài nước.
- Với vai trò lãnh đạo của mình NHCT Việt Nam cần từng bước tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ tín dụng cũng như cán bộ điều hành chi nhánh.
- Tăng cường hiệu lực của công tác thông tin phòng ngừa rủi ro từ NHCT Việt Nam đến chi nhánh.
KẾT LUẬN
Với sự đòi hỏi càng cao của nền kinh tế thì các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng ngày càng đa dạng. Bên cạnh những sản phẩm mới thì những sản phẩm truyền thống như cho vay không ngừng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Chất lượng các khoản vay là vấn đề vô cùng quan trọng và mang tính chất sống còn đối với mỗi Ngân hàng.
Các DNV&N có vai trò vô cùng quan trọng trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay. Hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp này là công việc hết sức cần thiết để khắc phục những khó khăn về vốn cho họ, giúp các DNV&N đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, nâng cao năng suất lao động và đặc biệt là nâng cao chất lượng sản phẩm để sản phẩm của DNV&N có thể cạnh tranh trên thị trường. Mặc dù, hệ thống NHCT Việt Nam đã xác định lấy đối tượng khách hàng DNV&N là khách hàng mục tiêu để cho vay đặc biệt là cho vay ngắn hạn. Nhưng Chi nhánh cũng cần nhận thức rõ những điểm yếu của loại hình DNV&N để có biện pháp nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn. Muốn nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với DNV&N thì không chỉ phụ thuộc vào chính sự nỗ lực của bản thân ngân hàng mà còn phải có sự hợp tác của các DNV&N cũng như sự hỗ trợ của các cấp, ngành có liên quan. Sự phát triển của các DNV&N sẽ góp phần đẩy nhanh tiến trình CNH – HĐH đất nước. Những giải pháp đề ra trong bài viết này chỉ xuất phát từ sự cố gắng của Chi nhánh chứ không đề cập đến trách nhiệm của các DNV&N cũng như về phía Nhà nước. Em tin rằng những giải pháp đưa ra sẽ góp phần nào nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với DNV&N của Chi nhánh.
Do điều kiện về kiến thức, kinh nghiệm còn hạn hẹp nên chuyên đề của em còn nhiều thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của Ngân hàng, của thầy cô giáo và bạn đọc quan tâm để đề tài hoàn thiện hơn.
Em xin cảm ơn nhà trường và Chi nhánh NHCT Đông Anh đặc biệt là các anh chị trong phòng khách hàng doanh nghiệp đã tạo điều kiện cho em tìm hiểu, nghiên cứu để hoàn thành đề tài của mình !
Em cũng xin cảm ơn thầy giáo: PGS.TS Lê Đức Lữ đã tận tình hướng dẫn em trong thời gian qua !
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Peter S.Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB tài chính.
Phan Thị Thu Hà, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, NXB thống kê.
Nguyễn Minh Kiều, Nghiệp vụ ngân hàng, NXB thống kê.
Tạp chí thông tin ngân hàng công thương Việt Nam.
Luận văn K43, K44.
Báo cáo kết quả kinh doanh của Chi nhánh NHCT Đông Anh.
Sổ tay tín dụng của Ngân hàng công thương Việt Nam.
Luật các tổ chức tín dụng tín dụng
Các quy định của NHNN liên quan đến cho vay.
PGS, PTS Nguyễn Cúc: Dự án: Chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Tài chính hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa - Viện NCTC - 2002
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Tỷ trọng doanh thu của DNV&N
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn trong giai đoạn 2004 - 2006
Bảng 2.2: Cơ cấu tổng nguồn phân theo tính chất nguồn vốn huy động
Bảng2.3: Dư nợ cho vay phân theo tính chất đảm bảo
Bảng 2.4: Dư nợ phân theo tính chất sở hữu
Bảng 2.5: Cơ cấu dư nợ theo thời hạn
Bảng 2.6: Kết quả kinh doanh ngoại tệ trong 3 năm
Bảng 2.7: Kết quả hoạt động kinh doanh trong 3 năm
Bảng 2.8: Dư nợ cho vay theo nhóm khách hàng
Bảng 2.9: Dư nợ tín dụng đối với DNV&N trong 3 năm
Bảng 2.10: Dư nợ cho vay ngắn hạn theo tính chất đảm bảo
Bảng 2.11: Nợ quá hạn của toàn chi nhánh
Bảng 2.12: Dư nợ quá hạn của DNV&N
Bảng 2.13: Tỷ lệ dư nợ quá hạn ngắn hạn
Bảng 2.14: Tỷ lệ nợ khó đòi của toàn chi nhánh và của cho vay ngắn hạn đối với DNV&N
Bảng 2.15: Doanh số cho vay và thu nợ đối với DNV&N
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu tổng nguồn theo tính chất huy động
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu dư nợ theo thời hạn
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu dư nợ cho vay theo nhóm khách hàng
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CVNH : Cho vay ngắn hạn
DNV&N : Doanh nghiệp vừa và nhỏ
NHCT : Ngân hàng Công thương
NHCTĐA : Ngân hàng Công thương Đông Anh
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
NH : Ngân hàng
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32130.doc