Tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp tại Sở Giao dịch - Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam: ... Ebook Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp tại Sở Giao dịch - Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1249 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp tại Sở Giao dịch - Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đã bước vào thời kỳ chủ động hội nhập, sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế phụ thuộc phần lớn vào quy mô, năng lực hoạt động của các Tổng công ty, các tập đoàn lớn vì các đơn vị này mới hội tụ đủ điều kiện về vốn, nhân lực và quản lý. Song để đạt được những điều này, bản thân các doanh nghiệp trước tiên phải có nguồn tài chính để đầu tư mở rộng sản xuất. Trong khi chưa có điều kiện để huy động vốn trên thị trường chứng khoán trong nước và quốc tế, nguồn vốn cung cấp cho các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào các Ngân hàng thương mại
Với bề dày truyền thống 50 năm xây dựng và phát triển, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam từ lâu đã là người bạn thân thiết của doanh nghiệp và là Ngân hàng hàng đầu trong cho vay các công trình, dự án trọng điểm của đất nước. Đối với Ngân hàng, việc mở rộng và phát triển loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng được xem là thị trường quan trọng cho việc nâng cao và phát triển hoạt động cho vay ngắn hạn.
Tuy nhiên, trong những năm qua với nhu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng tăng cao thì cũng xuất hiện rất nhiều vụ tiêu cực dẫn đến chất lượng công trình kém, làm thất thoát, lãng phí vốn của Nhà nước và nguy cơ mất vốn của Ngân hàng là rất cao nếu không có biện pháp để giảm thiểu rủi ro đó.
Với mong muốn tìm hiểu sâu về chất lượng cho vay ngắn hạn trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại, cùng với những vấn đề thực tế nêu trên mà trong thời gian thực tập tại Sở giao dịch- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã tìm hiểu, vì thế em đã chọn đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp tại Sở giao dịch- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp của mình
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liêu tham khảo thì bố cục chính của bài viết này là:
Chương 1: Lý thuyết chung về chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp
Chưong 2: Thực trạng chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp tại Sở giao dịch- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp tại Sở giao dịch- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
CHƯƠNG 1:
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ THI CÔNG XÂY LẮP
1.1. KHÁI NIỆM CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại hiểu một cách đơn giản là việc ngân hàng giao tiền cho khách hàng trong khoảng thời gian nhất định với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và một khoản phụ thêm gọi là lãi.
Theo quyết định 1627/2001/QĐ- NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thì: “cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó, tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và trong thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”
1.1.2. Phân loại cho vay
Có nhiều cách phân loại hoạt động này, với mỗi tiêu thức đó phù hợp với từng đối tượng và mục đích sử dụng của khách hàng, dưới đây là một số cách phân loại phổ biến của ngân hàng thương mại.
1.1.2.1. Theo thời hạn cho vay
Cho vay không có thời hạn cụ thể: Là hình thức cho vay mà ngân hàng có thể yêu cầu hoặc tự khách hàng trả nợ vào bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên, nếu yêu cầu thì ngân hàng phải báo trước cho khách hàng thời gian hợp lý, và khoảng thời gian này có thể được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Cho vay có thời hạn: Là loại cho vay mà thời hạn trả nợ được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Loại cho vay này được phân thành:
- Cho vay ngắn hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn vay nhỏ hơn một năm. Loại hình này thường được sử dụng để bổ sung vốn ngắn hạn cho các doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu chi tiêu trong ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung hạn: Là hình thức cho vay mà thời gian cho vay từ một đến năm năm. Loại hình này thường để mua sắm hoặc cải tiến trang thiết bị, mở rộng sản xuất kinh doanh,....
Trước đây, cho vay trung hạn chỉ áp dụng trong khoảng thời gian từ 1 đến 3 năm. Nhưng 3 năm là thời gian khá ngắn do vậy doanh nghiệp vẫn chưa thể thu hồi được vốn dẫn đến ngân hàng chuyển thành nợ quá hạn, nên chất lượng cho vay của các ngân hàng bị đánh giá là kém. Vì vậy, để phù hợp tình hình từ tháng 9/1998 kỳ hạn đối với món vay trung hạn kéo dài đến 5 năm và được áp dụng cho đến nay.
- Cho vay dài hạn: Là hình thức cho vay có thời gian trên 5 năm, thông thường thời hạn tối đa cho món vay dài hạn khoảng 20- 30 năm, tuy nhiên có trường hợp đặc biệt có thể lên tới 40 năm, chủ yếu tài trợ các dự án phát triển của Chính Phủ.
Ngày nay, khi nhu cầu đầu tư ngày một tăng thì tỷ trọng cho vay trung và dài hạn được nâng dần lên, nhưng cho vay ngắn hạn vẫn là hoạt động chủ yếu và chiếm tỷ trọng cao trên tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng thương mại.
1.1.2.2. Theo mức độ tín nhiệm với khách hàng
Cho vay không có đảm bảo: Là loại hình cho vay mà khách hàng khi vay không cần có tài sản đảm bảo hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay dựa trên uy tín của phương án kinh doanh và uy tín của khách hàng đó. Thông thường, chỉ áp dụng cho khách hàng truyền thống và dư nợ cho vay đối với loại hình này chiếm tỷ trọng thấp.
Cho vay có đảm bảo: Là loại hình cho vay mà khách hàng cần có tài sản đảm bảo hoặc có sự bảo lãnh của người thứ 3. Hình thức này áp dụng với những khách hàng không có đủ uy tín với ngân hàng hoặc khách hàng lần đầu tiên quan hệ với ngân hàng. sự đảm bảo này cũng là để hạn chế thất thoát cho ngân hàng khi rủi ro xảy ra với món vay.
1.1.2.3. Theo phương thức vay
Phương thức cho vay được áp dụng khá phong phú ở các ngân hàng, dưới đây là một số phương thức hay được sử dụng:
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Hạn mức tín dụng là số dư nợ tối đa mà khách hàng được phép vay. Cho vay theo hạn mức tín dụng là loại hình cho vay mà có sự thoả thuận về mức dư nợ tối đa mà ngân hàng sẽ cấp cho khách hàng.
Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là loại hình cho vay mà trong đó ngân hàng cho phép khách hàng chi trội đến một giới hạn trên số dư tiền gửi thanh toán của họ trong thời gian xác định.
Cho vay luân chuyển: Là loại hình cho vay mà ngân hàng cấp tín dụng dựa trên kế hoạch luân chuyển hàng hoá của khách hàng. Hình thức này chủ yếu tài trợ khi doanh nghiệp mua hàng bị thiếu vốn, nên loại hình này được xem là một trong những phương thức cho vay ngắn hạn.
Cho vay trả góp: Là loại hình cho vay mà ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc và lãi theo định kỳ nhiều lần trong thời hạn đã được thoả thuận ở hợp đồng tín dụng, chủ yếu tài trợ cho các tài sản cố định như nhà cửa, máy móc thiết bị,...
Cho vay từng lần: Đây là hình thức cho vay rộng rãi áp dụng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất kinh doanh mới vay ngân hàng, tức vốn vay chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Cho vay hợp vốn (cho vay đồng tài trợ): Là loại hình cho vay được thực hiện bởi một nhóm ngân hàng thương mại cùng cho vay đối với một dự án vay vốn trong đó một ngân hàng thương mại làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các ngân hàng thương mại khác.
Ngoài ra, còn một số hình thức cho vay khác như: cho vay theo dự án đầu tư, cho vay qua phát hành thẻ tín dụng,....
1.1.2.4. Theo đối tượng khách hàng
Cho vay Chính Phủ: là loại hình cho vay mà khách hàng đi vay là Chính Phủ, mục đích chủ yếu là để đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế.
Cho vay tổ chức kinh tế: là hoạt động cho vay nhằm mục đích phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay của cá nhân nào đó.
Cho vay tổ chức tài chính: (như ngân hàng, công ty tài chính, quỹ tín dụng,...). Hoạt động này là để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hay thanh toán liên hàng.
Cho vay cá nhân: là hoạt động cho vay chủ yếu đáp ứng nhu cầu chi tiêu của cá nhân.
1.1.2.5. Theo mục đích sử dụng vốn vay
Cho vay tiêu dùng: Là những khoản cho vay chủ yếu là để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của cá nhân hoặc hộ gia đình
Cho vay kinh doanh: Là hoạt động cho vay mà vốn vay được sử dụng vào mục đích kinh doanh. Đối tượng khách hàng vay vốn có thể là cá nhân hoặc doanh nghiệp mà chủ yếu là các doanh nghiệp.
1.2. TÌM HIỂU CÁC ĐƠN VỊ THI CÔNG XÂY LẮP
1.2.1. Khái niệm và các hoạt động chính
Xây lắp được hiểu một cách cơ bản là những công việc thuộc quá trình xây dựng và lắp đặt thiết bị các công trình, hạng mục công trình.
Theo quy định điều 16, Nghị định 52/1999/ NĐ- CP vào 08- 07- 1999 của Chính Phủ về việc ban hành quy chế quản lý đầu tư và xây dựng thì: “Doanh nghiệp xây dựng là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký kinh doanh về xây dựng”. Hoạt động chính của các đơn vị thi công xây lắp là:
Chế tạo:
- Thiết bị xây dựng, thiết bị bê tông, thiết bị gạch, thiết bị băng tải, gầu tải, vít tải, thiết bị lọc bụi tĩnh điện, lọc túi bụi,....
- Kết cấu thép, khung nhà công nghiệp, dầm chịu lực, giàn không gian
- Thiết bị phi tiêu chuẩn, đường ống công nghiệp
- Các loại bình bể, silô chứa
Xây dựng- thuỷ lợi- giao thông:
- Xây dựng nhà công nghiệp, dân dụng, trường học, bệnh viện
- Xây dựng trạm bơm, đê, kè hồ chứa nước
- Thi công đường giao thông
Lắp đặt:
- Lắp thiết bị công nghệ, đường ống bảo ôn cho các công trình
- Lắp khung nhà công nghiệp, xưởng sản xuất
- Lắp thiết bị tự động, thiết bị điện, thiết bị đo, hiệu chỉnh điện
- Lắp hệ thống điều hoà
Dịch vụ khác:
- Cung cấp thiết bị cho các công trình công nghiệp, công trình nhiệt điện, thuỷ điện, các trạm bơm biến áp, đường dây,....
- Đào tạo công nhân kỹ thuật
- Xuất nhập khẩu thiết bị, vật tư
- Xuất khẩu lao động
- Tư vấn đầu tư lao động
- Thiết kế
1.2.2. Đặc điểm hoạt động của các đơn vị thi công xây lắp
Việt Nam hiện nay đang tồn tại rất nhiều các đơn vị thi công xây lắp dưới dạng như: Tổng công ty, công ty, xí nghiệp, đội xây dựng,....Tuy các đơn vị này có quy mô sản xuất và cách thức quản lý khác nhau nhưng đều là những đơn vị nhận thầu xây dựng các công trình xây lắp, và đều có mang một số đặc trưng chung của các đơn vị thi công xây lắp đó là:
1.2.2.1. Đặc điểm sản phẩm của các đơn vị thi công xây lắp
- Sản phẩm xây lắp chủ yếu là các công trình, vật kiến trúc,....có quy mô rộng lớn, kết cấu phức tạp, thời gian của những công trình có thể là vài tháng nhưng có khi lên tới vài năm. Chính vì đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý và hạch toán sản phẩm của các đơn vị thi công xây lắp phải lập dự toán (dự toán thiết kế, dự toán thi công). Dự toán là chi phí cần thiết cho việc đầu tư xây dựng (chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí thực hiện đầu tư kể cả mua sắm thiết bị, các chi phí khác của dự án) được tính toán cụ thể ở giai đoạn thiết kế kỹ thuật xây dựng, không vượt tổng mức đầu tư đã duyệt.
- Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc theo giá được thoả thuận với chủ đầu tư (hay còn gọi là giá đấu thầu), do vậy mà tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp không thể hiện rõ như sản phẩm thông thường vì hàng hoá thường không biết được người tiêu dùng là ai trong khi đó sản phẩm xây lắp đã được quy định trước giá cả, người mua, người bán thông qua hợp đồng giao nhận thầu.
- Sản phẩm xây lắp được cố định tại nơi sản xuất ra nó (ví dụ như trường học, bệnh viện, công trình thuỷ điện,....), một số điều kiện cần thiết luôn đi cùng để sản xuất ra nó như: người lao động, máy móc thiết bị,... phải di chuyển theo địa điểm nơi sản phẩm được sản xuất ra.
- Các sản phẩm thi công xây lắp chủ yếu đặt ở ngoài trời nên chịu ảnh hưởng rất nhiều của điều kiện tự nhiên, dễ bị mất mát và chóng hư. Chính vì thế công tác quản lý sử dụng, hạch toán tài sản, vật tư trở nên phức tạp hơn.
- Sản phẩm xây lắp từ khi bắt đầu khởi công cho đến khi công trình được đưa vào bàn giao và sử dụng thường kéo dài. Thời gian đó phụ thuộc chủ yếu vào quy mô, tính chất phức tạp về kỹ thuật của từng công trình.
- Các sản phẩm xây lắp tồn tại dưới dạng tài sản cố định, thời gian sử dụng lâu dài mà hình dáng của nó không bị thay đổi. Trong khi đó các sản phẩm vật chất khác cũng là sản phẩm tiêu dùng sử dụng trong đời sống sinh hoạt của người dân vì thế thời gian sử dụng thường ngắn hơn.
1.2.2.2. Đặc điểm hoạt động của các đơn vị thi công xây lắp
- Việc thi công trải qua rất nhiều giai đoạn, ở mỗi giai đoạn đó thì có những phần việc khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là ở ngoài trời. Đặc điểm này đòi hỏi việc quản lý giám sát thi công phải chặt chẽ để đảm bảo chất lượng công trình đúng như thiết kế, và theo đúng dự toán. Công trình được xem là có chất lượng khi đáp ứng được yều cầu tổng hợp đối với đặc tính về an toàn, bền vững, kỹ thuật và mỹ thuật của công trình phù hợp với quy chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn kỹ thuật, phù hợp với hợp đồng kinh tế và pháp luật hiện hành của Nhà Nước.
- Do quy mô lớn, thời gian sản xuất thường kéo dài nên vốn dùng để đầu tư vào công trình dễ bị ứ đọng, gây ra tình trạng thất thoát lãng phí. Tuy nhiên, nếu công trình đó lại bị thiếu vốn hoạt động thì quá trình thi công sẽ bị gián đoạn vì thế thời gian xây dựng lại bị kéo dài hơn cũng gây ra tình trạng lãng phí. Từ đặc điểm hoạt động kinh doanh này mà những công tác liên quan đến quản lý xây dựng như: quản lý kinh tế, quản lý tình hình tài chính phải có kế hoạch cụ thể, có biện pháp thi công tốt để rút ngắn thời gian cũng như chi phí xây dựng, từ đó các chi phí phát sinh như: vật tư, nhân công được tiết kiệm hơn và đây cũng là yếu tố làm hạ giá thành sản phẩm xây dựng.
- Vốn tự có của các đơn vị thi công xây lắp là thấp chủ yếu là máy móc thiết bị đã qua sử dụng và khối lượng hao mòn là khá lớn, do vậy trong hoạt động của các đơn vị này thì nhu cầu vay vốn của ngân hàng là thường xuyên và rất lớn.
- Sau khi bàn giao công trình nhà thầu cũng có trách nhiệm bảo hành công trình. Bảo hành công trình là điều kiện bắt buộc, được xác lập trên cơ sở pháp luật và hợp đồng kinh tế giữa chủ đầu tư công trình và các đơn vị nhận thầu thi công xây lắp, điều này nhằm mục tiêu bảo vệ lợi ích của chủ đầu tư công trình, đồng thời xác lập các đơn vị thi công xây lắp phải có nghĩa vụ sửa chữa các hư hỏng công trình xảy ra trong thời gian bảo hành. Thời hạn bảo hành công trình được tính từ ngày bàn giao hẳn công trình cho chủ đầu tư công trình (hoặc cho người sử dụng) và kết thúc hoạt động xây dựng cho đến ngày cuối cùng của thời hạn bảo hành. Theo quy định thì thời hạn bảo hành tối thiểu là 24 tháng đối với công trình của Nhà nước hoặc công trình thuộc nhóm A (tức công trình nguồn vốn do ngân sách Nhà nước cấp) mức bảo hành là 3% giá trị xây lắp, 12 tháng với công trình khác với mức bảo hành là 5% giá trị xây lắp. Cần hiểu rằng bảo hành công trình ở đây khác với bảo trì công trình, vì bảo trì công trình được hiểu là sự yêu cầu bắt buộc theo luật pháp về chất lượng đối với chủ quản lý sử dụng công trình hoặc chủ sở hữu công trình cần phải sửa chữa, thay thế, phục hồi chức năng, bảo đảm tuổi thọ và an toàn vận hành nhằm duy trì khả năng chịu lực, mỹ quan, duy trì sử dụng hoặc vận hành một bộ phận, hạng mục, công trình đã hoạt động theo một chu kỳ thời gian do thiết kế và nhà chế tạo quy định. Chủ quản lý sử dụng công trình hoặc chủ sở hữu công trình có trách nhiệm và nghĩa vụ thực hiện bảo trì công trình theo quy định của thiết kế và nhà chế tạo đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
1.3. HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ THI CÔNG XÂY LẮP.
1.3.1. Khái niệm và đặc trưng
Cho vay phục vụ thi công xây lắp được hiểu là những khoản vay trực tiếp liên quan, phục vụ cho đơn vị thực hiện các hợp đồng thi công các công trình thi công xây lắp, hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị này có những đặc trưng sau:
Mục đích: Cho vay ngắn hạn để các đơn vị thi công xây lắp thanh toán chi trả tiền nguyên nhiên vật liệu, vật tư, nhân công, thuê máy móc thiết bị phương tiện thi công và các chi phí hợp lý khác cấu thành trong giá trị công trình nhận thầu xây lắp.
Mức độ rủi ro: Lĩnh vực hoạt động thi công xây lắp chứa đựng nhiều rủi ro, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của điều kiện tự nhiên, do vậy mặc dù là cho vay ngắn hạn nhưng hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng hơn đối với cho vay ngắn hạn các lĩnh vực khác
Về doanh số cho vay tối đa: Tổng doanh số cho vay thi công công trình không vượt qua 70% giá trị công trình trúng thầu. Đối với công trình thi công kéo dài qua nhiều năm mà nguồn vốn thanh toán là nguồn vốn ngân sách phân bổ hằng năm thì doanh số cho vay trong năm không vượt quá nguồn vốn ngân sách phân bổ cho năm đó.Tổng doanh số cho vay luỹ kế của từng công trình không vượt quá hạn mức cho vay của công trình nói chung và không vượt quá xa giá trị mà chủ đầu tư đã thanh toán từng phần cho công trình.
1.3.2. Điều kiện vay vốn đối với các đơn vị thi công xây lắp
Hoạt động của các đơn vị thi công xây lắp chứa đựng nhiều rủi ro vì thế khi ngân hàng đồng ý xét duyệt cho vay thì các đơn vị này thông thường phải đáp ứng được những điều kiện sau:
Trước hết, phải tuân thủ theo điều kiện cho vay được quy định tại quyết định 1627/ 2001/ QĐ- NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng gồm:
- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết
- Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật
- Thực hiện các quy định đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính Phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà Nước.
Bên cạnh những quy định chung trên, thì cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp còn có điều kiện riêng đó là:
Thứ nhất: chỉ được vay đối với các công trình mà nguồn vốn thanh toán được quy định rõ ràng trong hồ sơ mời thầu. Cụ thể, đối với công trình mà nguồn vốn thanh toán là nguồn vốn của ngân sách trung ương, ngân sách địa phương thì khách hàng phải cung cấp bản sao quyết định phân bổ nguồn ngân sách về công trình đó của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư; đối với công trình mà nguồn vốn thanh toán là nguồn vốn vay của WB, ODA, Quỹ hỗ trợ phát triển, Ngân hàng thương mại,..... thì khách hàng phải cung cấp bản sao hợp đồng vay vốn (hiệp định vay vốn); đối với công trình mà nguồn vốn thanh toán là nguồn vốn tự có hay nguồn vốn khác của chủ đầu tư ngoài các nguồn nêu trên thì khách hàng vay phải chứng minh được khả năng thanh toán của chủ đầu tư đối với công trình đó, chủ đầu tư phải có xác nhận bằng văn bản nguồn vốn thanh toán đó.
Thứ hai: Trong trường hợp doanh nghiệp làm thầu phụ thì phải cung cấp thêm bản sao hợp đồng giao thầu xây lắp ký kết giữa nhà thầu chính với chủ đầu tư.
Thứ ba: Chỉ thực hiện cho vay đối với các công trình mà giá trúng thầu ≥ 90% giá trần. Đối với những công trình mà giá trúng thầu< 90% giá trần trong khi chưa có quy định mới về giá sàn thì trong phương án vay vốn gửi ngân hàng đơn vị phải có giải trình cụ thể về phương án tổ chức thi công đảm bảo công trình có lãi, cũng như đảm bảo tiến độ chất lượng công trình theo yêu cầu của chủ đầu tư.
Thứ tư: Tiền vay được sử dụng để thi công các công trình và tiền thanh toán các công trình thi công phải được chuyển về tài khoản của đơn vị mở tại ngân hàng đó, đồng thời được ưu tiên dùng để trả nợ ngân hàng.
1.3.3. Phương thức cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp
1.3.3.1. Cho vay theo hạn mức tín dụng
Theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN thì “hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong thời hạn nhất định mà tổ chức tín dụng và khách hàng đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng”
Theo quyết định 1627/2001/QĐ- NHNN thì cho vay theo hạn mức tín dụng là hình thức cho vay mà tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian xác định.
Đối tượng cho vay: phương thức này dùng để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì thế, cho vay theo hạn mức tín dụng chỉ áp dụng cho những đơn vị mà vốn chủ sở hữu là nguồn kinh doanh chủ yếu.
Thời hạn trả nợ: Việc xác định mức kỳ hạn trả nợ, mức trả nợ của từng kỳ hạn phải căn cứ vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và định kỳ hạn trả nợ cho phù hợp. đối với một số doanh nghiệp vay thường xuyên thì mức trả nợ được xác định dựa vào chu kỳ sản xuất, mức độ luân chuyển và do ngân hàng tự thoả thuận với khách hàng.
Khi phát sinh nhu cầu vay vốn thì khách hàng làm đơn xin vay gửi tới ngân hàng. Hạn mức tín dụng có thể được tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ, được thể hiện qua hình vẽ sau:
Hình 1: Hạn mức tín dụng tính cho cả kỳ
Dư nợ
thời gian
Trong đó:
:Hạn mức tín dụng được duyệt trong kỳ
:Dư nợ
Hình 2: Hạn mức tín dụng được duyệt cuối kỳ
Dư nợ
thời gian
Trong đó:
:Hạn mức tín dụng được duyệt cuối kỳ
:Dư nợ
Hạn mức tín dụng cho vay: được thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Việc xác định hạn mức tín dụng dựa vào các chỉ tiêu sau:
- Kế hoạch hoặc phương án sản xuất kinh doanh trong kỳ
- Khả năng tài chính của khách hàng
- Vốn tự có thực tế khi tham gia vào dự án
- Giá trị của tài sản đảm bảo
- Nguồn vốn của ngân hàng
Trong kỳ nếu nhu cầu vay vượt quá hạn mức tín dụng mà ngân hàng xét thấy nhu cầu vay đó là cần thiết và hợp lý thì có thể thoả thuận lại với khách hàng về hạn mức của kỳ kế hoạch và sau đó ngân hàng sẽ áp dụng hạn mức đã điều chỉnh. Tuy nhiên, nếu cán bộ tín dụng phát hiện khách hàng đang có vấn đề tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn thì lập tờ trình gửi lên lãnh đạo nếu cần thiết giảm hạn mức tín dụng.
Số tiền cho vay: được xác định theo công thức sau:
=
C¸c kho¶n huy ®éng kh¸c
-
Vèn tù cã
-
Vßng quay vèn lu ®éng
H¹n møc tÝn dông
CFSX cÇn thiÕt trong n¨m
Doanh thu thuÇn
Vòng quay vốn lưu động được tính toán dựa vào quyết toán của năm trước và tính theo công thức:
Vßng quay vèn lu ®éng
TSL§ dù tr÷ b×nh qu©n
=
Trong đó:
- Doanh thu thuần = Tổng doanh thu trừ đi các khoản chiết khấu, giảm giá hàng bán, giá trị hàng bán bị trả lại, các khoản thuế phải nộp.
- TSLĐ dự trữ bình quân của các đơn vị thi công xây lắp được tính dựa trên cơ sở nguyên vật liệu, vật tư,....
*Ưu, nhược điểm của phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng:
Ưu điểm: Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng
Nhược điểm: Ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay do các lần vay không tách biệt thành kỳ hạn nợ cụ thể. Chỉ khi khách hàng không thể trả được nợ thì ngân hàng mới biết món vay này có rủi ro
1.3.3.2. Cho vay theo hạn mức thấu chi
Theo quyết định 1627/2001/QĐ- NHNN thì cho vay thấu chi là hình thức cho vay mà “tổ chức tín dụng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính Phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán”
Hình 3: Cho vay theo hạn mức thấu chi
y
x
Trong đó:
Trục y: Số dư tiền gửi thanh toán
Trục x: thời gian
: Hạn mức thấu chi
: Vay ngân hàng (thực hiện thấu chi)
: Số dư tiền gửi thanh toán
Cho vay thấu chi xuất hiện khi cơ cấu thu- chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Để được thấu chi, khách hàng phải làm đơn xin ngân hàng cấp hạn mức thấu chi trong thời gian thấu chi. Hết thời gian thấu chi khách hàng trả cho ngân hàng khoản tiền gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải trả được ngân hàng tính theo công thức:
Số lãi phải trả = LS thấu chi x thời gian thấu chi x số tiền thấu chi
Đây là hình thức cho vay phần lớn là không cần có sự đảm bảo, nên rủi ro xảy ra cao. Chính vì thế, hình thức này chủ yếu áp dụng cho khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn. Trong quá trình được cấp hạn mức thấu chi, nếu khách hàng có những khoản chi vượt quá giới hạn thấu chi thì sẽ bị chịu lãi suất phạt theo quy định của từng ngân hàng và không được sử dụng hình thức này nữa.
* Ưu, nhược điểm của cho vay theo hạn mức thấu chi:
Ưu điểm:
Về phía ngân hàng: Đây là nghiệp vụ cho vay đơn giản, dễ thực hiện, thu hút được nhiều khách hàng
Về phía khách hàng: Đây là phương thức cho vay khá linh hoạt, dễ vay vốn, thủ tục không phức tạp, đáp ứng tốt, kịp thời về vốn khi khách hàng có nhu cầu phát sinh. Trong kỳ, bất cứ khi nào có tiền khách hàng có thể trả ngay cho ngân hàng để có thể giảm tiền lãi phải trả.
Nhược điểm:
- Đây là phương thức cho vay chứa đựng nhiều rủi ro vì ngân hàng khó kiểm soát được các khoản vay này.
- Dư nợ biến động thường xuyên
- Ngân hàng có thể bị thiệt hại về tài chính, do khách hàng sử dụng không hết hạn mức thấu chi. Cụ thể: khi ngân hàng và khách hàng ký thoả thuận về hạn mức thì trách nhiệm của ngân hàng là phải đáp ứng đủ nhu cầu rút tiền của khách hàng bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khách hàng không sử dụng hết hạn mức thấu chi từ đó làm cho ngân hàng bị ứ đọng vốn. Chính vì đặc điểm trên làm cho ngân hàng bị động về khối lượng vay của khách hàng
1.3.3.3. Cho vay từng lần (cho vay theo món)
Theo quyết định 1627/2001/QĐ- NHNN thì cho vay từng lần là hình thức cho vay mà “mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện thủ tục vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng”
Đối tượng áp dụng: Phương thức này thường được áp dụng đối với các khách hàng sau: Khách hàng không đủ điều kiện vay vốn theo phương thức hạn mức tín dụng và hạn mức thấu chi, hoặc khách hàng không có quan hệ thường xuyên với ngân hàng, chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay để mở rộng sản xuất kinh doanh thì mới vay ngân hàng (hay vốn ngân hàng chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của quá trình sản xuất kinh doanh)
Số tiền cho vay: Trong kỳ bất cứ khi nào phát sinh nhu cầu vay vốn, khách hàng làm đơn xin vay gửi đến ngân hàng. Ngân hàng sẽ xem xét lại nếu nhu cầu vay vốn đó hợp lý và còn mức cho vay số tiền cho vay được ngân hàng xác định dựa trên cơ sở:
- Nhu cầu vay vốn của từng phương án
- Hợp đồng thi công
- Báo cáo tài chính
- Những giấy tờ khác có liên quan theo quy định của từng ngân hàng
-
=
Vèn kh¸c
Vèn chñ së h÷u
Chi phÝ cÇn thiÕt cho kinh doanh
Sè tiÒn cho vay
-
Trong đó:
-
-
-
ThuÕ
Lîi nhuËn ®Þnh møc
KhÊu hao c¬ b¶n
Gi¸ trÞ hîp ®ång
=
Chi phÝ cÇn thiÕt cho kinh doanh
Vốn khác ở đây bao gồm vốn vay các tổ chức tín dụng khác, vốn ứng trước của các đối tác trong hợp đồng thi công, và phần huy động khác
Thời hạn trả nợ: Việc trả nợ và kỳ hạn trả nợ đối với phương thức cho vay này được xác định dựa trên cơ sở chu kỳ sản xuất kinh doanh, hoặc khả năng thu tiền tại thời điểm gần nhất của người vay.
Quy mô vốn vay: được thể hiện trong hình vẽ sau
Hình 4: Cho vay từng lần
Quy mô vay
thời gian vay
Trong đó:
:Quy mô và thời gian cho vay
* Ưu, nhược điểm của cho vay từng lần:
Ưu điểm:
- Nghiệp vụ này thực hiện đơn giản
- Ngân hàng kiểm soát được việc sử dụng vốn vay của khách hàng Nhược điểm:
Đây là hình thức cho vay áp dụng theo món cụ thể, nên mỗi lần vay khách hàng phải làm lại hồ sơ và ngân hàng cũng phải làm đúng các bước theo quy định, điều này sẽ làm mất nhiều thời gian cho cả khách hàng và ngân hàng.
1.4. CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ THI CÔNG XÂY LẮP
1.4.1. Quan niệm về chất lượng cho vay ngắn hạn.
Chất lượng cho vay đứng dưới góc độ là một ngân hàng, một khách hàng, hay của nền kinh tế đều có cách đánh giá khác nhau. Nhìn chung, theo nghĩa rộng bao hàm các góc độ trên thì “chất lượng cho vay được hiểu là việc ngân hàng đáp ứng và thoả mãn nhu cầu hợp lý của khách hàng, nhưng vẫn đảm bảo mang lại lợi nhuận cho ngân hàng và việc sử dụng vốn vay đó cũng góp phần thúc đẩy nền kinh tế”.
Chất lượng cho vay nói chung và chất lượng cho vay cho vay ngắn hạn nói riêng là một khái niệm vừa mang tính cụ thể, nhưng cũng mang tính trừu tượng. Nó cụ thể bởi chất lượng đó được phản ánh qua các con số như: nợ quá hạn, nợ khó đòi, mức sinh lời của đồng vốn cho vay,.... Nó trừu tượng bởi được đánh giá qua các nhân tố như: quy trình cho vay, chất lượng cán bộ, hay đạo đức kinh doanh của các đơn vị thi công xây lắp,....
1.4.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp.
Hoạt động cho vay của ngân hàng được xem là có chất lượng khi khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, đảm bảo hoàn trả đủ gốc và lãi đúng thời hạn theo cam kết trong hợp đồng tín dụng. Hoạt động cho vay ở các ngân hàng thương mại Việt Nam đặc biệt cho vay ngắn hạn là một trong những hoạt động chính mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng, vì thế nâng cao chất lượng cho vay sẽ giúp ngân hàng tránh được những khoản mất vốn; tạo ra tâm lý, sự tin tưởng cho người dân khi đến giao dịch với ngân hàng; đồng thời sẽ đảm bảo tình hình tài chính của Ngân hàng ổn định hơn tránh được những biến động bất ngờ xảy ra.
Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước đòi hỏi nhu cầu đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng càng nhiều, vì vậy mà hoạt động cho vay đối với lĩnh vực thi công xây lắp cũng phát triển theo. Tuy nhiên, chất lượng của các công trình hiện nay đang là vấn đề phải bàn tới, cụ thể:
- Bỏ giá thầu thấp hơn giá thành nên gây ra thua lỗ;
- Thi công các công trình chưa xác định được nguồn vốn và kế hoạch bố trí vốn dẫn đến việc kéo dài thời gian thanh quyết toán, các khoản phải thu của các đơn vị tăng nhanh, trong đó có nhiều khoản tồn đọng, không có khả năng thu hồi;
- Mô hình tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh, quy chế quản lý nội bộ còn chưa phù hợp và tạo ra những khe hở, phát sinh tiêu cực, gây ra tình trạng thất thoát vốn của đơn vị;
- Công tác quản lý còn nhiều bất cập và vi phạm chế độ của Nhà nước đặc biệt là trong quản lý chi phí và công nợ;
- Hạch toán và báo cáo tài chính không đầy đủ, thiếu trung thực.
Qua tình hình thực tế đó ta thấy việc nâng cao chất lượng cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp là điều cần thiết, vì nó không chỉ đảm bảo an toàn cho hoạt động của các ngân hàng, vốn vay được khách hàng sử dụng có hiệu quả hơn mà nó còn thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.4.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp.
Chất lượng cho vay như đã đề cập ở trên vừa mang tính cụ thể, nhưng cũng mang tính trừu tượng. Để có thể đánh giá được chất lượng này các nhà kinh tế nói chung ._.và các nhà ngân hàng nói riêng đã nghiên cứu và đưa ra một loạt các chỉ tiêu, mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của chất lượng cho vay. Với hình thức cho vay ngắn hạn thì chất lượng cho vay được đánh giá chủ yếu qua một số chỉ tiêu chính sau:
1.4.3.1. Chỉ tiêu của Ngân hàng
Tỷ lệ nợ quá hạn:
Nợ quá hạn được hiểu là những món vay đến hạn mà khách hàng chưa thể trả được nợ, các khoản vay bị chuyển xuống nợ quá hạn trong những trường hợp sau:
- Không có đơn xin đề nghị gia hạn nợ của khách hàng
- Có đơn xin đề nghị nhưng do những nguyên nhân chủ quan hoặc do nguyên nhân khách quan không hợp lý
- Khách hàng cố tình không trả nợ cho ngân hàng
- Khoản vay đã gia hạn nợ tối đa theo quy định của Hội sở chính từng ngân hàng
Tỷ lệ nợ quá hạn được tính theo công thức sau:
Nî qu¸ h¹n cña cho vay ng¾n h¹n ®èi víi c¸c ®¬n vÞ thi c«ng x©y l¾p
=
X
100%
Tû lÖ NQH cña cho vay ng¾n h¹n ®èi víi ®¬n vÞ TCXL (%)
Tæng d nî cho vay ng¾n h¹n ®èi víi c¸c ®¬n vÞ thi c«ng x©y l¾p
Tỷ lệ này cho biết trong một đồng vốn cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp sẽ có bao nhiêu đồng bị chuyển xuống nợ quá hạn, tỷ lệ này càng cao chứng tỏ ngân hàng để xảy ra các khoản nợ quá hạn là lớn (xét trong tương quan với tổng dư nợ ngắn hạn), do vậy chất lượng cho vay thấp. Tỷ lệ này được xem là vừa theo quy định của từng ngân hàng và theo từng ngành nghề nhất định, đối với các đơn vị thi công xây lắp thì tỷ lệ này vào khoảng 3%. Nợ quá hạn có thể được chia làm hai loại đó là:
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là những khoản nợ mà khách hàng vẫn có thể trả được nợ sau khi bị chuyển xuống nợ quá hạn. Việc bị chuyển xuống nợ quá hạn do dòng ngân quỹ của khách hàng không phù hợp với dự kiến trước vì những nguyên nhân chủ quan như: thiên tai, chiến tranh, các yếu tố khác,.... mà khách hàng không thể trả nợ đúng hẹn theo hợp đồng tín dụng nhưng vẫn thanh toán khi có dòng tiền về.
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: là những khoản nợ khi bị chuyển xuống nợ quá hạn nhưng ngân hàng khó có khả năng thu hồi lại được. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước thì sau một năm kể từ khi chuyển nợ quá hạn mà khách hàng không thể trả được nợ thì bị chuyển xuống nợ khó đòi. Tình huống này xảy ra có thể do khách hàng làm ăn thua lỗ và không thể trả được nợ, hoặc có thể do khách hàng lừa đảo để chiếm đoạt lượng tài sản đó, những khoản nợ này càng cao thì chất lượng cho vay của ngân hàng bị giảm sút.
Tỷ lệ nợ khó đòi:
Tỷ lệ này sẽ cho thấy một đồng vốn trong tổng dư nợ quá hạn sẽ có bao nhiêu đồng không thể thu hồi được
Tû lÖ nî khã ®ßi cho vay ng¾n h¹n ®èi víi c¸c ®¬n vÞ TCXL(%)
D nî khã ®ßi cña kho¶n cho vay ng¾n h¹n c¸c ®¬n vÞ TCXL
100%
X
Tæng d nî qu¸ h¹n cho vay ng¾n h¹n c¸c ®¬n vÞ TCXL
=
Qua tỷ lệ này sẽ cho thấy ngân hàng xử lý món nợ đã quá hạn của khách hàng như thế nào, nếu tỷ lệ này thấp có nghĩa việc xử lý khoản nợ quá hạn của ngân hàng có hiệu quả. Ngược lại, nếu tỷ lệ này càng cao thì nguy cơ mất vốn của ngân hàng gia tăng, và phải dùng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp, do vậy mà chất lượng cho vay giảm đi. Tuy nhiên, tỷ lệ này còn có thể được tính dựa trên dư nợ cho vay ngắn hạn thi công xây lắp của ngân hàng, và được xem phù hợp khi tỷ lệ đó bé hơn 1%.
Chỉ tiêu mức sinh lời của đồng vốn cho vay:
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp nên hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Cho vay là một trong nghiệp vụ chính và chủ yếu tạo ra lợi nhuận ở ngân hàng của các nước đang phát triển. Vì thế, chất lượng cho vay cũng được đánh giá bởi lợi nhuận đem lại cho ngân hàng từ hoạt đồng này.
Lîi nhuËn cho vay ng¾n h¹n ®èi víi c¸c ®¬n vÞ TCXL
Møc sinh lêi kho¶n cho vay ng¾n h¹n ®èi víi c¸c ®¬n vÞ TCXL (%)
X
100%
=
Tæng d nî cho vay ng¾n h¹n ®èi víi c¸c ®¬n vÞ TCXL
Chỉ tiêu này có ý nghĩa: một đồng vốn cho vay trong ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp sẽ đem về cho ngân hàng bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ lệ này cao hay thấp sẽ phản ánh tình hình cho vay của ngân hàng có đạt hiệu quả hay không. Tỷ lệ này cao tức lợi nhuận tạo ra từ các khoản cho vay nói trên sẽ cao, tức là hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các đơn vị thi công xây lắp được đánh giá là có chất lượng. Ngược lại, tỷ lệ này thấp cũng có thể là do số lượng khách hàng vay thấp, nhưng có thể do chất lượng cho vay kém nên không thể thu hồi được nợ.
Bên cạnh các chỉ tiêu cụ thể trên thì chất lượng cho vay ngắn hạn của ngân hàng còn được đánh giá bởi các chỉ tiêu xét dưới góc độ của đơn vị thi công xây lắp và việc chấp hành các quy định theo pháp luật của ngân hàng đó, cụ thể sẽ được phân tích theo tiêu chuẩn và chỉ tiêu như dưới đây:
1.4.3.2. Chỉ tiêu từ phía các đơn vị thi công xây lắp:
Tiêu chuẩn
Chỉ tiêu
Khách hàng mong đợi:
- Phục vụ nhanh nhất, thủ tục đơn giản, tiện lợi
- Có thái độ đón tiếp, hướng dẫn và phục vụ khách hàng chu đáo
- Đảm bảo cung ứng đúng và đủ lượng tiền và thời gian theo hợp đồng tín dụng đã ký
- Lãi suất, phí thấp phù hợp
- Thời gian xét duyệt không quá 10 ngày làm việc kể từ khi ngân hàng nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết của khách hàng theo quy định
- Thái độ phục vụ văn minh lịch sự, tận tình chu đáo
- Giải ngân theo đúng hợp đồng tín dụng với khách hàng
- Lãi suất phù hợp với thị trường đảm bảo cho hoạt động kinh doanh ngân hàng có hiệu quả
Đây là những chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay của ngân hàng dựa trên sự đánh giá của khách hàng. Với tiêu thức và chỉ tiêu trên thì chất lượng cho vay được đánh giá tuỳ theo từng nhóm khách hàng, tuỳ theo mức độ quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng, ngoài ra chất lượng cho vay theo tiêu chí này chủ yếu do khách hàng đánh giá.
1.4.3.3. Chỉ tiêu từ phía các quy định pháp luật:
Các tiêu thức và chỉ tiêu này được xét xem ngân hàng từ khi ký kết hợp đồng tín dụng đến khi chấm dứt quan hệ tín dụng đó có tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật đề ra hay không, cụ thể:
Tiêu chuẩn
Chỉ tiêu
Pháp luật yêu cầu:
- Thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật
- Thời hạn cho vay
- Mức tiền cho vay
- Tuân thủ các quy định của pháp luật đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng ngân hàng
- Thời hạn cho vay đối với quy trình tín dụng ngắn hạn tối đa là 12 tháng, được xác định phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng
- Theo giới hạn tín dụng trong luật các tổ chức tín dụng thì: tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của chính phủ, của tổ chức và các cá nhân
Chất lượng cho vay được đề cập và tổng hợp ở rất nhiều khía cạnh, nhưng trong chuyên đề này em chỉ nghiên cứu chất lượng cho vay trên giác độ của một ngân hàng thương mại và phản ánh chất lượng cho vay đó theo các tỷ lệ cụ thể.
ơ
1.5. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ THI CÔNG XÂY LẮP
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay ngắn hạn của ngân hàng đối với các đơn vị thi công xây lắp, đó là những nhân tố trước hết thuộc về bản thân ngân hàng và các đơn vị thi công xây lắp, và những nhân tố thuộc về môi trường như kinh tế, xã hội và luật pháp. Cụ thể:
ơ
1.5.1. Về phía ngân hàng
Xét ở khía cạnh ngân hàng thì có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay, tuy nhiên dưới đây là một số yếu tố chính:
Thông tin về khách hàng: Ngân hàng là “người đi vay để cho vay” do vậy khi cho vay ngân hàng đòi hỏi người đi vay phải có khả năng và thiện chí trả nợ. Quá trình phân tích, tìm hiểu khách hàng sẽ có tác dụng giúp ngân hàng loại trừ khách hàng xấu, nhiều rủi ro, đồng thời giúp tìm ra những biện pháp hạn chế rủi ro đó. Tuy nhiên, để có cơ sở cho việc phân tích thì đòi hỏi ngân hàng phải thu thập càng nhiều thông tin về khách hàng đó ngoài những thông tin tài chính mà khách hàng phải cung cấp. Việc thu thập những thông tin đầy đủ, kịp thời sẽ giúp cho ngân hàng đánh giá chính xác về tình hình hoạt động của khách hàng, từ đó mà chất lượng cho vay được nâng cao.
Chất lượng cán bộ ngân hàng (đặc biệt chất lượng cán bộ tín dụng): Đây được xem là nhân tố quan trọng thuộc về bản thân ngân hàng khi đề cập đến chất lượng cho vay. Chất lượng cán bộ ở đây không đơn thuần là chỉ trình độ nghiệp vụ, mà còn cả tư cách đạo đức và kỹ năng giao tiếp của cán bộ đó. Thi công xây lắp là lĩnh vực hoạt động có quy mô lớn, chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện tự nhiên nên nguy cơ xảy ra rủi ro cao. Do vậy, nếu việc thu thập thông tin đầy đủ nhưng cán bộ thiếu hiểu biết về lĩnh vực này, hoặc tư cách đạo đức kém thì sẽ đưa ra những đánh giá sai lệch về khách hàng vay vốn, vì thế nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng là cao. Chính vì thế, để nâng cao chất lượng cho vay nói chung và cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp nói riêng thì vấn đề chất lượng cán bộ là vấn đề quan trọng
Quy trình cho vay: Là các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong việc cho vay, trong đó sẽ xác định trình tự từ khi tiếp nhận hồ sơ đến khi chấm dứt quan hệ với khách hàng. Việc tuân theo những quy trình này sẽ giúp cho hoạt động cho vay của ngân hàng đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó, dựa vào những quy trình đó ngân hàng còn thiết lập thủ tục hành chính phù hợp và đảm bảo an toàn cho ngân hàng, do vậy mà chất lượng cho vay của ngân hàng từ đó được nâng cao.
Lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng thương mại. Lãi suất cho vay cao khiến cho nhà đầu tư phải suy nghĩ lựa chọn những công trình nào có hiệu quả để đầu tư, từ đó đồng vốn của ngân hàng cũng được sử dụng hiệu quả hơn và chất lượng cho vay được nâng lên. Ngược lại, nếu lãi suất cho vay quá rẻ thì nhà đầu tư sẽ đầu tư tràn lan vào các công trình, kể cả công trình hoạt động không hiệu quả do đó sẽ không thu hồi được vốn dẫn đến chất lượng cho vay giảm. Chính vì thế, việc duy trì chính sách lãi suất cho vay ngắn hạn hợp lý vừa để đảm bảo được sự cạnh tranh, mà vừa để tạo ra được lợi nhuận cho ngân hàng.
1.5.2. Về phía các đơn vị thi công xây lắp
Đạo đức kinh doanh của các đơn vị thi công xây lắp: Đạo đức kinh doanh ở đây thể hiện trước hết các đơn vị này có sẵn sàng và có trung thực trong việc cung cấp những thông tin mà ngân hàng yêu cầu hay không. Ngoài ra, đạo đức còn thể hiện trong quá trình sử dụng vốn vay khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích đã cam kết trong hợp đồng tín dụng không, khi đến hạn có thiện chí trả nợ hay không,.... Thi công xây lắp là lĩnh vực hoạt động phức tạp rủi ro có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, do vậy việc các đơn vị thi công xây lắp cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động một cách đầy đủ và kịp thời, sẽ giúp cho cán bộ ngân hàng có đánh giá chính xác hơn về tình hình hoạt động và những dự báo có thể xảy ra trong tương lai, từ đó mà việc sử dụng vốn vay của các đơn vị xây lắp sẽ hiệu quả hơn và chất lượng cho vay của ngân hàng cũng được nâng lên.
Tình hình tài chính của các đơn vị thi công xây lắp: Theo như các phân tích ở trên thì ngân hàng cho vay ngắn hạn chủ yếu để đáp ứng nhu cầu thiếu vốn ngắn hạn. Do vậy, ngoài vốn vay của ngân hàng thì khách hàng phải có tình hình tài chính tốt thì mới đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tình hình tài chính được các ngân hàng quan tâm khi thẩm định cho vay thể hiện chủ yếu qua:
Quy mô tài sản như: nguồn vốn chủ sở hữu, tài sản cố định, ngân quỹ, chứng khoán, và các giấy tờ có giá khác,....
Quy mô và cơ cấu nợ: mà trong cho vay ngắn hạn chủ yếu là các khoản phải trả trong năm đó, tỷ lệ các khoản nợ quá hạn ở các năm trước, các chủ nợ và thứ tự ưu tiên trả nợ cho ngân hàng,....
Một số tỷ lệ: mà các ngân hàng thường dùng để phân tích tình hình doanh nghiệp như: tỷ lệ sinh lời, tỷ lệ thanh khoản nhanh,.....
Nếu những tình hình tài chính của doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu nhất định của ngân hàng thì khoản cho vay sẽ ít rủi ro hơn, chất lượng cho vay vì thế được nâng cao hơn.
Dự án xin vay của khách hàng: Khi khách hàng tiến hành đi vay đối với dự án, Ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định, đánh giá dự án và đến lúc đáp ứng đủ các điều kiện của Ngân hàng thì hai bên sẽ thoả thuận cụ thể với nhau về mục đích, số tiền, thời hạn vay,.... trong hợp đồng tín dụng. Vì vậy, chất lượng cho vay của ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả của dự án đó.
Cơ chế quản lý và trình độ quản lý của đơn vị này: Đây là nhân tố ảnh hưởng quan trọng và quyết định nhất đến chất lượng thi công công trình. Việc quản lý tốt sẽ giúp cho công trình hoạt động có hiệu quả, tránh được thất thoát, lãng phí xảy ra. Ngược lại, nếu quy chế quản lý lỏng lẻo sẽ tạo ra khe hở để các đối tượng xấu lợi dụng từ đó mà chất lượng công trình giảm, hoàn thành không đúng thời hạn đặt ra. Do vậy, chất lượng cho vay của ngân hàng cũng phụ thuộc rất nhiều vào trình độ và cơ chế quản lý của các đơn vị thi công xây lắp.
1.5.3. Môi trường kinh tế
Ngân hàng hay các đơn vị thi công xây lắp là một trong những thành phần kinh tế quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển đặc biệt là nền kinh tế đang có nhu cầu đầu tư lớn như Việt Nam. Môi trường kinh tế và hoạt động của các đơn vị trên có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Khi kinh tế ổn định và tăng trưởng bền vững sẽ tạo ra môi trường đầu tư tốt, thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và thu nhiều lợi nhuận, do vậy mà các món vay ngân hàng được trả đúng hạn và đầy đủ.
Về phía ngân hàng, môi trường đầu tư tốt sẽ có nhiều nhà đầu tư tìm đến để vay vốn, ngân hàng sẽ có nhiều cơ hội sàng lọc chọn ra những khách hàng hoạt động an toàn và có lãi, từ đó mà chất lượng cho vay được nâng lên. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế biến động theo xu hướng bất lợi thì nó sẽ tạo ra môi trường kinh doanh khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước, từ đó sẽ ảnh hưởng đến việc thu nợ của ngân hàng.
Mặt khác, các biến số kinh tế vĩ mô như: lạm phát, lãi suất huy động thay đổi theo xu hướng tăng lên sẽ gây ra sự hao mòn vô hình về khoản tiền đã cho vay và sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng, bởi vì chất lượng cho vay ở đây ngoài việc thu gốc và lãi theo đúng hạn còn đảm bảo hoạt động đó đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
1.5.4. Môi trường pháp lý
Hành lang pháp lý là một trong những yếu tố quan trọng để doanh nghiệp hoạt động theo khuôn khổ nhất định. Môi trường pháp lý của các ngân hàng thương mại chủ yếu là các quy định của Ngân hàng Nhà Nước giúp cho hoạt động của hệ thống ngân hàng trở nên an toàn hơn. Về phía các đơn vị thi công xây lắp thì môi trường pháp lý ở đây chủ yếu là các quy định của Pháp luật, các quy định của Bộ xây dựng,.... Nếu những quy định này chặt chẽ, đầy đủ thì hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ lành mạnh hơn, hiệu quả cao hơn và ngân hàng có thể thu được nợ đúng hạn. Đồng thời, pháp luật cũng là cơ sở để giải quyết các mối quan hệ giữa ngân hàng và các đơn vị thi công xây lắp, do đó nếu chấp hành đúng quy định đó thì lợi ích của cả hai bên sẽ được đảm bảo.
Pháp luật là không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh, tuy nhiên những quy định đặt ra có hợp lý và đầy đủ hay không thì tuỳ thuộc vào từng Quốc Gia. Việt Nam hiện nay luật đầu tư xây dựng cơ bản chưa hoàn chỉnh, các chế tài xử phạt chưa nghiêm nên chất lượng công trình không đảm bảo, làm thất thoát nhiều tài sản của Nhà nước và cũng gây tổn thất trong hoạt động của các ngân hàng.
1.5.5. Môi trường chính trị- xã hội
Kinh tế phát triển không chỉ cần nhà đầu tư trong nước mà cần phải thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài, bởi ngoài việc đem tiền đến những nhà đầu tư này còn đem đến những công nghệ, cách thức quản lý hiện đại. Để có thể thu hút được những nhà đầu tư đó trước hết môi trường chính trị- xã hội phải ổn định, tạo ra sự tin tưởng cho các nhà đầu tư.
Chính trị- xã hội ổn định, đầu tư phát triển nên đã tạo điều kiện phát triển các dịch vụ như: cho vay, thanh toán,.... đặc biệt hoạt động cho vay sẽ được đẩy mạnh về cả số lượng món vay và chất lượng của từng món.
Có thể nói, ổn định chính trị- xã hội là tiền đề cho việc ổn định các môi trường khác như: kinh tế, pháp luật. Một khi chính trị không ổn định thì nền kinh tế sẽ bị trì trệ, không phát triển, pháp luật sẽ kém hiệu quả thì sẽ có tác động xấu đến các hoạt động của ngân hàng đặc biệt là cho vay, lúc này nguy cơ không thể thu hồi được vốn vay là cao và gây ra thiệt hại lớn cho ngân hàng. nếu tình hình bất ổn định (khủng hoảng chính trị) kéo dài cũng sẽ kéo theo khủng hoảng kinh tế và lúc này nguy cơ phá sản của hệ thống ngân hàng có thể xảy ra.
Tóm lại: Trong chương 1 này em đã trình bày khái quát chung về chất lượng cho vay ngắn hạn của ngân hàng thương mại đối với các đơn vị thi công xây lắp và những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay, để có thể hiểu hơn hoạt động này của các ngân hàng em xin trình bày phần thực trạng tại Sở giao dịch- Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam trong chương 2.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ THI CÔNG XÂY LẮP TẠI SỞ GIAO DỊCH- NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1. VÀI NÉT VỀ SỞ GIAO DỊCH
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Sở giao dịch (SGD) được thành lập năm 1991 theo quyết định số 76/QĐ-TCCB ngày 28-03-1991 của tổng giám đốc Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam về việc thành lập SGD Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam.
Trong giai đoạn 1991-1997 SGD là đơn vị phụ thuộc, thực hiện cho vay, nhận tiền gửi từ trên xuống. Mọi hoạt động của SGD đều mang tính chất tự bao cấp, chỉ thị (tức SGD cho vay đối với các dự án phát triển kinh tế do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chỉ định), không tự hạch toán và không tự chịu trách nhiệm về con số có được, hoạt động chủ yếu do Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam giúp đỡ.
Từ 1997 trở đi SGD có bước chuyển biến trong hoạt động, thật sự tách ra và trở thành một đơn vị. Cùng với quyết định 349/QĐ/NH5 ngày 16-10-1997 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, SGD đã được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường. Nhiệm vụ ban đầu của SGD là phục vụ các tổng công ty, công ty Nhà nước hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Trong xu thế hội nhập ngày nay, SGD đã chủ động mở rộng cung ứng các dịch vụ của mình đến tất cả các thành phần kinh tế bao gồm các tổng công ty và các công ty thành viên, các doanh nghiệp liên doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hộ tư nhân, cá thể,....Trên thực tế việc tài trợ các dự án lớn của các tổng công ty Nhà nước chiếm tỷ trọng chủ yếu trong hoạt động của SGD, nhưng trong những năm qua việc phục vụ thành phần kinh tế ngoài quốc doanh của SGD đã thay đổi đáng kể. Hiện nay, SGD được tổ chức theo mô hình doanh nghiệp Nhà nước, cơ chế hoạt động của Sở luôn có sự dân chủ và trao đổi thông tin hai chiều từ cấp quản lý đến cấp quản lý các phòng ban, từ quản lý các phòng ban đến các nhân viên và ngược lại.
2.1.2. Tình hình kinh doanh của Sở giao dịch qua các năm
Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI đánh dấu sự phát triển lớn mạnh của nền kinh tế thế giới nói chung, và nền kinh tế Việt Nam nói riêng trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Trước tình hình đó các ngành kinh tế của Việt Nam cũng ngày càng phát triển nổi bật lên là sự mở rộng mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cả về số lượng và chất lượng. Cùng với sự xuất hiện của các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng nước ngoài đã giúp cho người dân có nhiều sự lựa chọn hơn đồng thời tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Tuy nhiên, đây cũng là những trở ngại của các ngân hàng thương mại Việt Nam vì phải đối mặt với nhiều khó khăn yếu kém trong thời đại công nghệ thông tin, thời kỳ của sự hội nhập kinh tế quốc tế, đó là: sự yếu kém về trình độ khoa học công nghệ, yếu kém trong khâu đào tạo cán bộ nhân viên,... Nhận định được những khó khăn và thử thách gặp phải, ban giám đốc SGD- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã đưa ra những biện pháp, kế hoạch đúng đắn, kịp thời giúp cho SGD hoàn thành tốt nhiệm vụ do hội sở chính đề ra, và SGD luôn là đơn vị dẫn đầu trong hệ thống Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam. Mặc dù tình hình kinh tế những năm đầu thế kỷ XXI không thuận lợi cho hoạt động ngân hàng nhưng với sự cố gắng của các cán bộ nhân viên trong Sở giao dịch mà trong năm 2005 những con số mà Sở giao dịch có được cũng rất khả quan. Dưới đây là những kết quả tổng hợp mà SGD đã đạt được trong năm 2005 và hai năm trước đó:
2.1.2.1. Công tác huy động vốn
Năm 2004, 2005 là năm đầy biến động trên thị trường tài chính tiền tệ trong nước cũng như trên trường quốc tế. Trên thế giới, sự biến động của giá dầu mỏ, giá vàng và việc quỹ dự trữ liên bang Mỹ (FED) liên tục điều chỉnh, 10 lần tăng lãi suất trong một năm đã gây ra một số ảnh hưởng đến tâm lý người gửi tiền. Trong nước, chỉ số giá cả tiếp tục tăng cao 8,4% làm lãi suất thực dương của tiền gửi nội tệ. Trong khi đó, các tổ chức tín dụng không ngừng đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn, các cơ quan Nhà Nước huy động vốn dài hạn với lãi suất cao như: trái phiếu Chính Phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu công trình, phát hành cổ phiếu, tiết kiệm bưu điện,... cùng nhiều Quỹ đầu tư mới thành lập đã làm cho sự cạnh tranh trên thị trường huy động vốn ngày càng trở nên gay gắt. Nhận thức được vai trò quan trọng của công tác nguồn vốn trong hoạt động Ngân hàng cũng như đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động của Sở giao dịch và hỗ trợ nguồn vốn cho toàn hệ thống, Sở giao dịch đã xác định nhiệm vụ của công tác nguồn vốn trong năm 2005 là xây dựng chính sách lãi suất phù hợp, đẩy mạnh marketing khách hàng nhằm giữ vững nền khách hàng truyền thống, xây dựng quan hệ với khách hàng mới, đa dạng hoá hình thức huy động dân cư bù đắp lượng vốn đã chia sẻ với chi nhánh bạn và phát triển nền vốn của mình. Việc tăng lãi suất luôn có sự bàn bạc, kết hợp chặt chẽ với các chi nhánh trên địa bàn, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và thống nhất mức lãi suất chung của toàn hệ thống. Trong tình hình như vậy kết quả huy động vốn của Sở giao dịch có kết quả khả quan sau:
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn trong 3 năm
đơn vị: tỷ đồng
Năm
2003
2004
2005
Tổng huy động
9.210
7.070
10.652
(nguồn: báo cáo tổng kết năm 2004&2005)
Qua bảng số liệu trên ta thấy, tỷ trọng huy động vốn năm 2004 giảm đáng kể 2140 tỷ đồng (23.23%) so với năm 2003, nhưng lại tăng trở lại trong năm 2005 tới 4.571 tỷ đồng (49%) và vượt kế hoạch đề ra là 3.582 tỷ đồng, hoàn thành 130% kế hoạch năm và ở mức cao so với toàn ngành. Nguồn tiền gửi của Sở giao dịch tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tăng 2.900 tỷ đồng so với đầu năm với cơ cấu kỳ hạn hợp lý, đảm bảo khả năng thanh toán cũng như hiệu quả kinh doanh của Sở giao dịch, góp phần đáng kể vào việc điều hoà nguồn vốn chung cho toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Việc huy động vốn đạt được 10.625 tỷ đồng trong năm 2005 với đầy biến động trên thị trường đã chứng tỏ sự cố gắng nỗ lực chung của toàn thể cán bộ Sở giao dịch. Tuy nhiên, Sở giao dịch đặt mục tiêu tăng huy động vốn nhưng không chủ trương tăng bằng mọi giá cũng như không chạy theo vòng xoáy cạnh tranh chưa có điểm dừng về gia tăng lãi suất huy động trên thị trường hiện nay như các Ngân hàng thương mại cổ phần đã và đang làm. Sở giao dịch đã chọn cho mình giải pháp bền vững về phát triển sản phẩm và cung ứng dịch vụ mang tính cạnh tranh cao từ việc khai thác các tiện ích của dự án hiện đại hoá nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Không những đặt mục tiêu tăng trưởng về số lượng mà còn cải thiện về chất lượng: cơ cấu huy động vốn giữa các tổ chức kinh tế và khu vực dân cư đã được cải thiện rõ rệt theo chiều hướng ổn định và có lợi theo đúng mục đích kinh doanh của Sở giao dịch, cụ thể:
Bảng 2.2: Tình hình huy động phân theo nhóm khách hàng
đơn vị: tỷ đồng
Nhóm khách hàng
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
TĐ
%
TĐ
%
TĐ
%
Tiền gửi TCTC
1.748
19
1.949
28
3.322
31
Tiền gửi TCKT
2.015
22
1.840
26
2.974
28
Tiền gửi dân cư
5.447
59
3.281
46
4.356
41
Tổng cộng
9.210
100
7.070
100
10.652
100
(nguồn: báo cáo tổng kết năm 2004&2005)
Trong cơ cấu nguồn vốn hiện nay của Sở giao dịch, tiền gửi của tổ chức chiếm tỷ trọng 54% đây là nguồn vốn với chi phí hợp lý, có thể duy trì củng cố nền khách hàng tại Sở giao dịch. Xác định được lợi thế đó, Sở giao dịch đã tích cực thực hiện công tác chăm sóc khách hàng, nhạy bén nắm bắt được các thông tin để kịp thời đưa ra chính sách thu hút nguồn tiền gửi của khách hàng, duy trì tốt quan hệ với khách hàng truyền thống đi đôi với tích cực mở rộng đối tượng khách hàng mới.
Đối với các tổ chức tài chính: Sở giao dịch đã đẩy mạnh quan hệ hợp tác trên lĩnh vực huy động vốn đối với các tổ chức, định chế tài chính như: Quỹ hỗ trợ Phát triển trên cơ sở thoả thuận hợp tác toàn diện giữa Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Quỹ hỗ trợ. Đối với Bảo hiểm Xã hội, tiếp tục duy trì số dư, tăng thêm một phần tiền gửi mới và quay vòng gửi với kỳ hạn dài lên tới 36 tháng. Đây là nguồn vốn lâu dài, bền vững góp phần tạo ra tính ổn định của nền vốn Sở giao dịch. Cũng chính vì thế mà nguồn tiền gửi từ các tổ chức này liên tục tăng từ năm 2003, và tăng mạnh trong năm 2005 lên tới1.373 tỷ đồng so với năm 2004.
Đối với nhóm khách hàng là tổ chức kinh tế: Tỷ trọng huy động năm 2004 giảm 175 tỷ đồng (8,68%) so năm 2003 là do trong năm đó các tổ chức kinh tế lớn như: tổng công ty điện lựcViệt Nam, tổng công ty xăng dầu Việt Nam,... có nhu cầu đầu tư nhiều nên lượng tiền duy trì trong tài khoản không nhiều. Ngoài ra, SGD phải chia sẻ một lượng khách hàng do chi nhánh Đông Đô được nâng cấp lên thành chi nhánh cấp 1.
Bước sang năm 2005 tỷ trọng này lại tăng lên đáng kể 1.134 tỷ đồng (tăng 63,6%) so năm 2004 được này được giải thích năm 2005 SGD đã có nhiều chính sách mở rộng và thu hút khách hàng truyền thống có lượng tiền gửi lớn như tổng công ty dầu khí Việt Nam với số dư tiền gửi lên tới 1.000 tỷ đồng, Tổng công ty Điện lực Việt Nam, Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam,.... Bên cạnh đó SGD vẫn duy trì được số dư tiền gửi của khách hàng lớn như: tổng công ty xây dựng công nghiệp Việt Nam, tổng công ty xây dựng Hà Nội, tổng công ty lắp máy Việt Nam,....Đối với nhóm khách hàng này Sở giao dịch tập trung huy động vốn kết hợp cung ứng dịch vụ trọn gói, đẩy mạnh quan hệ hợp tác toàn diện với các Tổng công ty lớn để gia tăng nguồn vốn với chi phí thấp. Thực hiện cung ứng các dịch vụ quản lý tiền tự động như: Smart@account dịch vụ Homebanking, Phonebanking, dịch vụ ngân quỹ tu đổi ngoại tệ, dịch vụ thu hộ tiền mặt, dịch vụ vận chuyển, kiểm đếm tiền mặt, dịch vụ quản lý tài sản, giấy tờ có giá,..... đã góp phần tăng nhanh về số lượng khách hàng giao dịch và gửi tiền (lên tới 2.974 tỷ đồng trong năm 2005)
Đối với nhóm khách hàng là dân cư: Bên cạnh việc huy động vốn từ các tổ chức trên, Sở giao dịch cũng luôn chú trọng tới công tác huy động vốn dân cư thông qua việc chủ động triển khai các sản phẩm huy động như: tiết kiệm “ổ trứng vàng”, tiết kiệm dự thưởng đợt I, đợt II, đợt III/2005, kỳ phiếu đợt I/2005, giấy tờ có giá dài hạn đợt I/2005, tiết kiệm phân tầng, tiết kiệm rút dần, huy động vốn khuyến mại có tặng thẻ bảo hiểm.....theo chỉ đạo và hướng dẫn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Nhờ thế mà huy động vốn trong dân cư năm 2005 tăng 1.075 tỷ đồng so với 2004 do Sở giao dịch kịp thời điều chỉnh mức lãi suất hợp lý, thu hút được khách hàng tham gia tiền gửi tiết kiệm lãi suất bậc thang và mua chứng chỉ tiền gửi dài hạn 13 tháng, cơ cấu tiền gửi trong dân cư bao gồm:
Bảng 2.3: Cơ cấu nguồn vốn huy động dân cư
đơn vị: tỷ đồng
Nhóm sản phẩm
2003
2004
2005
TĐ
%
TĐ
%
TĐ
%
Tiền gửi tiết kiệm
2.766
51
1.393
42
3.098
71
Phát hành GTCG
2.681
49
1.888
58
1.258
29
Tổng cộng
5.447
100
3.281
100
4.356
100
(nguồn: báo cáo tổng kết năm 2004&2005)
Cơ cấu nguồn vốn huy động trong dân cư luôn có sự biến động mạnh đặc biệt ở nhóm tiền gửi tiết kiệm, nhóm này tiếp tục tăng từ năm 2003 đến 2005 mặc dù tổng nguồn vốn huy động trong năm 2005 thấp hơn 2003 là 1.091 tỷ đồng, điều này do SGD thu hút được nhiều khách hàng tham gia chương trình gửi tiết kiệm bậc thang (830 tỷ đồng) và mua chứng chỉ tiền gửi loại 13 tháng (280 tỷ đồng). Tuy nhiên phát hành giấy tờ có giá giảm trong 630 tỷ đồng so năm 2005 với 2004, điều này do năm 2005 chi nhánh Quang Trung đã tách ra thành chi nhánh cấp 1 và SGD đã chuyển giao cho chi nhánh Quang Trung 40 triệu USD trái phiếu, và một nguyên nhân quan trọng hơn nữa là các ngân hàng thương mại cổ phần đang dần chiếm lĩnh thị phần bằng cách nâng cao uy tín, hình ảnh và lãi suất huy động như: ngân hàng VPBank, ACB,....
Các bảng số liệu trên đã chỉ ra cho chúng ta thấy tình hình huy động vốn chung và tỷ trọng nguồn huy động của từng nhóm khách hàng, còn cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền và kỳ hạn được tổng hợp ở bảng sau:
Bảng 2.4: Cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền và kỳ hạn
đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
TĐ
%
TĐ
%
TĐ
%
1. Theo loại tiền
- VND
5.818
63
5.183
73
8.641
81
- Ngoại tệ quy đổi
3.392
37
1.887
27
2.011
19
2. Theo kỳ hạn
- Ngắn hạn
4.214
45
3.211
45
5.417
51
- Trung dài hạn
5.086
55
3.859
55
5.235
49
Tổng cộng
9.210
100
7.070
100
10.652
100
(nguồn: báo cáo tổng kết năm 2004&2005)
Qua bảng số liệu trên ta thấy cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền có sự biến động mạnh cụ thể: là tỷ trọng VND trong tổng huy động tăng nhanh, điều đó đồng nghĩa với việc tỷ trọng ngoại tệ huy động được giảm đi (năm 2005 giảm 1.381 tỷ đồng so 2003). Sỡ dĩ việc huy động ngoại tệ giảm đi do sự cạnh tranh về lãi suất huy động của SGD kém hơn so với các ngân hàng thương mại trên cùng địa bàn.
Xét về cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn: thì trong hai năm 2003&2004 tỷ trọng giữa huy động ngắn hạn và trung dài hạn không thay đổi. Tuy nhiên, đến năm 2005 thì tỷ trọng huy động ngắn hạn lại cao hơn so với huy động trung dài hạn. Tất nhiên chúng ta không phủ nhận sự nỗ lực trong việc huy động vốn của SGD, nhưng việc huy động ngoại tệ thấp cộng với nguồn ngắn hạn đang có xu hướng tăng lên sẽ dẫn đến sự khó khăn cho SGD trong khi nhu cầu sử dụng ngoại tệ và nguồn trung dài hạn đang nhiều. Đây l._.nh tranh gay gắt với nhau, mà phương thức cạnh tranh chủ yếu thường bỏ giá thầu thấp hơn mức giá trị công trình để được trúng thầu. Do vậy, để đảm bảo hoàn thành xong công trình mà vẫn có được lợi nhuận thì các đơn vị này luôn tìm cách cắt giảm nhiều chi phí, vì thế chất lượng thi công công trình kém, công trình xây dựng xong một thời gian ngắn là phải tiến hành sửa chữa, nâng cấp. Chất lượng thi công kém cộng với mô hình tổ chức không chặt chẽ, quy chế trong nội bộ ngành chưa phù hợp tạo ra nhiều khe hở, phát sinh ra nhiều vụ tiêu cực gây ra tình trạng thất thoát, lãng phí vốn của Nhà Nước, vốn vay Ngân hàng thì không thể trả được đúng hạn
Thực tế tại Sở giao dịch, số nợ tập trung nhiều nhất vẫn là ở các công trình dự án giao thông, thuỷ lợi. Một mặt, do sự cấp bách phải thực hiện khi mùa mưa lũ đến gần nên các nhà thầu cho khởi công hoặc đẩy nhanh tiến độ thi công trong khi chưa được bố trí nguồn tài chính. Mặt khác, quan niệm của các nhà thầu các công trình trọng điểm của địa phương sử dụng vốn ngân sách thì sớm hay muộn sẽ được thanh toán nên họ thường ứng trước vốn vay Ngân hàng để thi công. Tuy nhiên, có không ít trường hợp, làm xong công trình nhưng chưa nhận được tiền thanh toán, thậm chí ở nước ta có nhiều công trình sử dụng vài năm nhưng nhà thầu vẫn không được thanh toán trong khi lãi vay của Ngân hàng vẫn phải trả, nợ gốc thì liên tục phải gia hạn do đó xảy ra các khoản nợ quá hạn là điều tất yếu, cụ thể cho nguyên nhân này là các khách hàng như: Công ty công trình giao thông 128, 842, 810, 230, Tổng công ty xây dựng Thuỷ lợi 1,.....
Bên cạnh đó, do tình hình tài chính của các đơn vị thi công xây lắp không lành mạnh, tồn tại nhiều vi phạm về các quy định hạch toán kế toán, hoạt động chủ yếu bằng vốn vay của Sở giao dịch và vốn chiếm dụng (vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng), do vậy nguy cơ xảy ra rủi ro là cao.
Có rất nhiều nguyên nhân từ phía các đơn vị này, nhưng nguyên nhân được xem là quan trọng nhất là kinh doanh yếu kém, sử dụng vốn vay sai mục đích, sử dụng vốn sai mục đích trong các đơn vị thi công xây lắp thường gặp như: theo trong hợp đồng tín dụng khách hàng vay tiền mặt để chi lương thì phần chi lớn lại là thanh toán nguyên vật liệu, vay vốn ngắn hạn để bổ sung sự thiếu hụt tài chính tạm thời thì lại dùng vào đầu tư tài sản cố định,.... từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho Ngân hàng.
2.5.3. Môi trường luật pháp
Luật đấu thầu quy định không rõ ràng, luật đưa ra thì có rất nhiều quan điểm đề ra nên sửa đổi, bổ sung ý kiến khác vào, cho đến nay thì luật này vẫn chưa được hoàn chỉnh dẫn đến xảy ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các đơn vị thi công xây lắp với nhau. Có rất nhiều quy định hiện hành liên quan đến lĩnh vực thi công xây lắp nhưng cái thiếu lớn nhất ở Việt Nam là chế tài xử phạt chưa nghiêm, cho nên những vụ tiêu cực vẫn liên tiếp xảy ra.
Bên cạnh đó, môi trường pháp lý trong cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp còn chưa đầy đủ, thiếu các văn bản hướng dẫn, cụ thể:
Về cơ sở pháp lý cho tài sản thế chấp: Tài sản thế chấp của các đơn vị thi công xây lắp chủ yếu là máy móc thiết bị thường xuyên được dùng đến chưa có bắt buộc phải đăng ký sở hữu, đăng ký giao dịch đảm bảo đối với quyền sử dụng đất và tài sản trên đất nên rất khó khăn và trong nhiều trường hợp việc nhận tài sản đảm bảo trên chỉ là hình thức
Về phát mại tài sản thế chấp: Thời gian phát mại dài, thủ tục rườm rà,chi phí cao, nhiều trường hợp Ngân hàng không có lợi gì trong việc phát mại tài sản của các đơn vị này.
Nhìn chung ở Việt Nam hệ thống pháp luật đang còn yếu kém, quản lý của các cơ quan chức năng còn lỏng lẻo. Do vậy, để hạn chế bớt vụ việc tiêu cực liên quan đến lĩnh vực này thì trong tương lai pháp luật Việt Nam còn phải thay đổi và bổ sung nhiều hơn nữa.
2.5.4. Sự biến động trên thị trường
Thị trường là nơi mua bán trao đổi hàng hoá lẫn nhau. Thị trường được xem là rào cản và thách thức lớn đối với các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh và chịu ảnh hưởng rất nhiều của sự biến động trên thị trường thế giới và việc thay đổi chính sách của Nhà nước. Trong năm 2005, kinh tế Việt Nam có nhiều diễn biến phức tạp như: tỷ lệ lạm phát cao, đồng USD mất giá, giá xăng dầu, sắt thép, xi măng những vật liệu chính được sử dụng trong việc thi công các công trình đều tăng cao, giá vàng không ổn định đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của Sở giao dịch cũng như các đơn vị thi công xây lắp, và gây ra thiệt hại không nhỏ đến quá trình thi công của các đơn vị này. Do vậy, việc bình ổn giá các mặt hàng trên thị trường được xem là giải pháp giúp tình hình sản xuất kinh doanh của các đơn vị sẽ ổn định hơn
Tóm lại: Cùng với nhu cầu đầu tư nhiều để phát triển đất nước, Sở giao dịch đã có những đóng góp nhất định vào công cuộc xây dựng cơ sở hạ tầng, khối lượng cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp liên tục tăng cả về số lượng và chất lượng của món vay.
Thông qua việc tìm hiểu thực trạng chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp tại Sở giao dịch- Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam cho ta thấy sự cố gắng và hạn chế của Sở giao dịch đang gặp phải. Đồng thời, qua thực trạng trên cho ta cái nhìn tổng quát về tình hình hoạt động của các đơn vị thi công xây lắp hiện nay. Để góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị này, em xin đưa ra một số giải pháp cũng như kiến nghị trong chương 3.
CHƯƠNG 3:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ THI CÔNG XÂY LẮP TẠI SỞ GIAO DICH- NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ THI CÔNG XÂY LẮP TẠI SỞ GIAO DỊCH TRONG NĂM 2006.
3.1.1. Phương hướng kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006
Trước tình hình môi trường kinh doanh đầy thách thức trong năm 2006 và những kết quả đạt được năm 2005 mà Sở giao dịch đã đề ra kế hoạch kinh doanh năm 2006 thông qua các chỉ tiêu sau:
Bảng 3.1. Mục tiêu hoàn thành trong năm 2006
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Thực hiện 2005
Kế hoạch 2006
- Lợi nhuận trước thuế
117
160
- Huy động vốn bình quân
8.704
10.150
- Giới hạn tín dụng cuối kỳ
5.674
6.800
- DPRR trích trong năm
51
50
- Tỷ lệ nợ xấu (%)
4,3
5
- Thu dịch vụ ròng
32,8
41
- Thu nợ đã hạch toán ngoại bảng
6,11
8,5
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm2004 &2005)
Huy động vốn: Mặc dù tình hình huy động vốn gặp nhiều khó khăn nhưng Sở giao dịch vẫn đề ra kế hoạch huy động được 12.550 tỷ đồng tăng 1.898 tỷ đồng (18%) so với năm 2005
Công tác tín dụng: Phấn đấu năm 2006 dư nợ cuối kỳ đạt 6.800 tỷ đồng, trong đó tỷ trọng có tài sản đảm bảo chiếm 60% trên tổng dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn là 1,5% và trích lập dự phòng rủi ro là 50 tỷ đồng
Công tác dịch vụ: Đề ra mục tiêu đạt được 41 tỷ đồng trong điều kiện phải cạnh tranh với nhiều ngân hàng như hiện nay thì Sở giao dịch hiểu rằng cần phải triển khai nhiều dịch vụ mới mang tính đột phá nhưng vẫn có nét đặc trưng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam như: gói dịch vụ BIDV- Smart@account, thẻ VIP, thẻ Power,...
Dự kiến trong năm 2006 Sở giao dịch phát hành thêm 10.000 thẻ ATM, lắp đặt thêm 06 máy ATM tại Quán Sứ, Phố Huế, Lò Đúc, Hàn Thuyên, Lê Duẩn, Bạch Mai.
Công tác khác: Phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ để lập thành tích kỷ niệm 15 năm thành lập Sở giao dịch và 50 năm thành lập Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
3.1.2. Định hướng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp tại Sở giao dịch.
3.1.2.1. Mục tiêu đặt ra đối với hoạt động cho vay các đơn vị thi công xây lắp
- Nắm bắt được thực chất năng lực tài chính, đặc điểm quản lý sản xuất kinh doanh và tổ chức thi công của các đơn vị thi công xây lắp để có biện pháp quản lý tín dụng phù hợp.
- Đảm bảo vốn cho vay có khả năng thu hồi về đúng hạn, giá thầu hợp lý, có lãi. Chỉ cho vay các công trình có nguồn vốn thanh toán rõ ràng và đúng kế hoạch, tiền thu từ các công trình cho vay phải được chuyển về tài khoản tại Sở giao dịch để chủ động thu nợ, không cho vay vượt quá chi phí dự kiến của công trình.
- Đảm bảo tiền vay được sử dụng thi công các công trình và có sản lượng
- Nắm bắt kịp thời tình hình nghiệm thu, thanh toán và chi phí giá thành, hiệu quả kinh tế của từng công trình nói riêng và của toàn Công ty nói chung để có biện pháp quản lý tín dụng kịp thời.
- Hồ sơ tín dụng lưu trữ đủ các bằng chứng về cơ sở phát vay và kết quả sử dụng vốn vay.
3.1.1.2. Chỉ tiêu hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp tại Sở giao dịch trong năm 2006.
- Phấn đấu tỷ lệ dư nợ cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị thi công xây lắp đạt khoảng 560 tỷ đồng. chiếm tỷ trọng trên tổng dư nợ cho vay ngắn hạn của toàn Sở giao dịch trong năm 2006 đạt 30%.
- Giảm tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay ngắn hạn trong lĩnh vực này xuống còn 5%.
- Mở rộng cho vay trong lĩnh vực thi công xây lắp ra các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp cổ phần.
- Kiên quyết không cho vay đối với đơn vị làm ăn kém hiệu quả, hoặc những công trình mà nguồn vốn thanh toán không rõ ràng.
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ THI CÔNG XÂY LẮP TẠI SỞ GIAO DỊCH
3.2.1. Thay đổi một số chính sách cho vay ngắn hạn
Việc đề ra chính sách cho vay là tùy thuộc vào mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. Sở giao dịch là đơn vị có thế mạnh cho vay đối với lĩnh vực thi công xây lắp nhưng vẫn còn một số bất cập trong chính sách cho vay của Sở giao dịch cần thay đổi như:
Chính sách lãi suất: Lãi suất được xem là công cụ cạnh tranh chủ yếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, việc đề ra lãi suất cho vay được căn cứ từ nhiều yếu tố khác nhau. Trong hai năm 2004 và 2005 do lãi suất huy động tăng mạnh nên lãi suất cho vay của các ngân hàng đã được đẩy lên cao. Tuy nhiên, như đã trình bày ở phần thực trạng mặc dù các đơn vị thi công xây lắp cũng có mối quan hệ lâu dài với Sở giao dịch nhưng lãi suất mà Sở giao dịch áp dụng đối với các đơn vị này thường cao hơn so với ngành dầu khí, điện,.... điều này cũng dễ hiểu khi chính ngành đó có số dư tiền gửi lớn tại Sở tạo điều kiện cho Sở có nhiều vốn để đầu tư (ví dụ: như số dư tiền gửi của dầu khí trong năm 2005 là 1.000 tỷ đồng). Tuy nhiên, việc duy trì lãi suất khá cao (trên 0,9%/ tháng) trong những tháng cuối năm 2005 đã tạo ra sự không bình đẳng giữa các ngành trong nền kinh tế. Chính vì vậy, mà Sở giao dịch nên phân chia ra từng nhóm khách hàng, cụ thể như đối với khách hàng có mối quan hệ lâu dài, có uy tín và trả nợ đúng hạn cần được hưởng mức lãi suất ưu đãi hơn, điều này sẽ trở thành động lực giúp cho các đơn vị thi công xây lắp làm ăn có hiệu quả hơn để duy trì được mối quan hệ và được hưởng những ưu đãi kèm theo của Ngân hàng.
Phát triển nhiều phương thức cho vay: Đa dạng hoá phương thức cho vay là một biện pháp chủ động nhằm phân tán rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Việc đa dạng hoá phương thức cho vay sẽ giúp cho Sở giao dịch thu hút được nhiều khách hàng hoạt động trong lĩnh vực thi công xây lắp hơn, vì thế Sở giao dịch không phải tập trung quá nhiều vốn vào một số khách hàng lớn, theo nguyên tắc: “không bỏ trứng vào một giỏ”, do vậy sẽ phân tán rủi ro trên nhiều món vay.
Cho vay trong lĩnh vực thi công xây lắp là thế mạnh vốn có của Sở giao dịch, nhưng trong thời gian qua thì phương thức cho vay ngắn hạn mà Sở giao dịch đang áp dụng cho các đơn vị này còn quá ít chủ yếu là cho vay theo món (cho vay theo từng lần) và cho vay theo hạn mức tín dụng. Đồng thời Sở giao dịch tập trung vào quá nhiều khách hàng truyền thống là các Tổng công ty lớn thuộc khu vực kinh tế quốc doanh như: Tổng công ty Sông Đà, Tổng công ty xây dựng và phát triển nhà Hà Nội,..... Do vậy để đảm bảo hai yếu tố song hành là an toàn và sinh lời thì trong thời gian tới Sở giao dịch cần có chiến lược khai thác thêm nhiều phương thức cho vay ngắn hạn khác như: cho vay thấu chi, cho vay luân chuyển,.... đối với nhiều đối tượng khách hàng thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đặc biệt là các công ty cổ phần.
Đa dạng hoá hình thức đảm bảo tiền vay: Hiện nay, tại các ngân hàng thương mại Việt Nam số tiền vay của khách hàng chủ yếu được căn cứ dựa trên giá trị của tài sản đảm bảo. Đối với các đơn vị thi công xây lắp thì giá trị của tài sản đảm bảo là rất thấp, do đó tài sản đảm bảo cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhu cầu vay của các đơn vị này. Mặc dù, theo nghị định 178/ 1999/ NĐ- CP thì các ngân hàng thương mại có thể áp dụng hình thức cho vay không cần có tài sản đảm bảo, nhưng cho đến nay việc cho vay không cần tài sản đảm bảo là rất ít đặc biệt trong lĩnh vực thi công xây lắp, bởi hoạt động này tiềm tàng rất nhiều rủi ro cho Sở giao dịch. Tuy nhiên, với sự phát triển kinh tế trong tương lai thì nhu cầu đầu tư xây dựng nhiều và nếu căn cứ vào giá trị tài sản đảm bảo thì các đơn vị xây lắp chắc chắn không đủ vốn để hoạt động. Do vậy, Sở giao dịch nên áp dụng hình thức đảm bảo tiền vay theo từng đối tượng khách hàng, ví dụ: đối với khách hàng được xếp loại A* (có tiềm lực mạnh, năng lực quản trị tốt, hoạt động hiệu quả, thiện trí trả nợ, khách hàng và ngân hàng có mối quan hệ tốt và lâu dài) và dự án vay vốn có tính khả thi cao thì nên áp dụng hình thức cho vay không cần có tài sản đảm bảo; đối với khách hàng xếp loại B (tức khách hàng có thể bị hạn chế về nguồn tài trợ nhưng nhìn chung được coi là hấp dẫn với ngân hàng, có quan hệ lâu dài và tốt với ngân hàng) thì giá trị tài sản đảm bảo áp dụng bằng 50% giá trị của món vay,....
Việc áp dụng các hình thức tài sản đảm bảo đối với từng loại khách hàng khác nhau do Ban giám đốc Sở giao dịch quyết định. Việc đa dạng hoá hình thức đảm bảo tiền vay sẽ tạo điều kiện cho các đơn vị xây lắp có đủ vốn để hoạt động ổn định, đồng thời nâng cao vị thế và hình ảnh của ngân hàng.
3.2.2. Nâng cao chất lượng thẩm định vốn đầu tư
Để đưa ra quyết định có cho vay hay không đối với từng khách hàng thì công tác phân tích, đánh giá được thực hiện rất kỹ càng. Nó trải qua nhiều khâu từ tiếp nhận hồ sơ, giấy tờ, kiểm tra, đánh giá, thẩm định năng lực hoạt động, năng lực hành vi,....diễn ra chặt chẽ. Bởi vì, nếu Ngân hàng đánh giá, thẩm định không chính xác và từ chối quan hệ tín dụng với những khách hàng tốt thì sẽ có ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín của Ngân hàng. Ngược lại, khi Ngân hàng chấp nhận quan hệ tín dụng với khách hàng làm ăn không hiệu quả thì sẽ tiềm ẩn rủi ro có thể xảy ra.
Do đặc thù riêng của lĩnh vực thi công xây lắp có liên quan đến vốn đầu tư như: nguồn đầu tư, tổng số vốn được đầu tư vào công trình,...có ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ thi công cũng như chất lượng công trình, do đó ảnh hưởng đến tình hình trả nợ cho ngân hàng. Chính vì thế, việc nâng cao chất lượng công tác thẩm đinh vốn đầu tư là rất cần thiết khi Sở giao dịch quyết định đầu tư vào một dự án nào đó.
Việc thẩm định tổng vốn đầu tư là rất quan trọng để tránh việc khi thực hiện, vốn đầu tư tăng lên hoặc giảm đi quá lớn so với dự kiến ban đầu, dẫn đến việc không cân đối được nguồn, ảnh hưởng đến hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án. Xác định tổng vốn đầu tư sát thực với thực tế sẽ là cơ sở để tính toán hiệu quả tài chính và dự kiến khả năng trả nợ của dự án.
Cán bộ thẩm định phải xem xét, đánh giá tổng vốn đầu tư của dự án đã được tính toán hợp lý hay chưa, tổng vốn đầu tư đã tính đủ các khoản cần thiết chưa, cần xem xét các yếu tố làm tăng chi phí do trượt giá, phát sinh thêm khối lượng, dự phòng việc thay đổi tỷ giá ngoại tệ (nếu dự án có sử dụng ngoại tệ),.... Trên cơ sở dự án tương tự đã thực hiện và được Sở giao dịch đúc rút ở giai đoạn thẩm định dự án đầu tư (về phương án công nghệ, về các hạng mục thực sự cần thiết và chưa cần thiết trong giai đoạn thực hiện đầu tư,...), cán bộ thẩm định sau khi so sánh nếu thấy có sự khác biệt lớn ở bất kỳ nội dung nào thì phải tập trung phân tích, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra nhận xét của mình. Từ đó, đưa ra cơ cấu vốn đầu tư hợp lý mà vẫn đảm bảo đạt được mục tiêu dự kiến ban đầu của dự án để làm cơ sở xác định mức tài trợ tối đa mà Sở giao dịch nên tham gia vào dự án, do đó mà rủi ro khi cho vay sẽ giảm đi.
Mặt khác, trong quá trình thẩm định các cán bộ cũng phải tìm hiểu xem công trình đó được tài trợ bằng nguồn vốn nào, có đảm bảo hay không, và Sở giao dịch cần phải kiên quyết không cho vay đối với những công trình mà nguồn vốn thanh toán không rõ ràng. Có như vậy thì khả năng trả nợ của khách hàng mới có thể chắc chắn được và hạn chế rủi ro cho ngân hàng.
3.2.3. Nâng cao trình độ bản thân ngân hàng
Trong hoạt động cho vay dù dưới hình thức hay lĩnh vực nào đi nữa thì Sở giao dịch luôn đặt ra nhiều quy định để đảm bảo an toàn trong hoạt động của mình. Tuy nhiên, chất lượng cho vay của ngân hàng còn thấp là do còn nhiều nguyên nhân khách quan mà Sở giao dịch cần phải khắc phục.
Trước hết về con người: Bất kỳ hoạt động nào thì con người luôn có vị trí trung tâm và đóng vai trò chủ chốt. Trong hoạt động cho vay của ngân hàng cũng vậy, để món vay đạt chất lượng thì phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của con người thông qua các khâu như: thu thập thông tin đánh giá khách hàng, thẩm định dự án, đánh giá giá trị của tài sản đảm bảo, quá trình giám sát món vay,....Bên cạnh đó, đạo đức của cán bộ cũng không kém phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cho vay bởi nếu người cán bộ thiếu trách nhiệm, không trung thực trong công việc, phẩm chất đạo đức kém dễ có những việc làm tiêu cực.
Chính vì thế, bên cạnh việc thường xuyên nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ thông qua các khoá đào tạo ngắn hạn thì Ban giám đốc cũng cần phải có nhiều buổi thảo luận, giáo dục nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức của cán bộ nhân viên trong Sở. Ngoài ra, Sở giao dịch cũng cần đưa ra chính sách tiền lương hợp lý để cán bộ chuyên tâm vào công việc, đồng thời các chế độ khen thưởng, phạt đúng lúc và thích đáng để nâng cao tinh thần trách nhiệm của nhân viên, giúp cho nhân viên cảm thấy có sự quan tâm từ đó hiệu quả công việc được nâng cao hơn.
Bên cạnh yếu tố con người như trên thì việc cung cấp thông tin phục vụ quản lý rủi ro tín dụng hiện nay tại Sở giao dịch còn nhiều bất cập, đó là chưa có quy định rõ ràng về việc khai thác, xử lý, sử dụng và lưu trữ thông tin. Việc tìm kiếm các thông tin phục vụ công tác tín dụng nói chung và phục vụ công tác hạn chế rủi ro nói riêng không được thường xuyên, việc thiết lập các dữ liệu tín dụng (như dư nợ, nợ quá hạn,....) chủ yếu vẫn bằng phương pháp thủ công do đó mất nhiều thời gian thiết lập, bên cạnh đó các thông tin khách hàng mặc dù được lưu trữ hằng năm nhưng vẫn đơn lẻ, khó sử dụng cho các cán bộ khác. Do vậy, trong thời gian tới Sở giao dịch cần phải xây dựng hệ thống thông tin và lưu trữ thông tin hiện đại, đồng bộ và có hệ thống. Bên cạnh những thông tin do khách hàng cung cấp, thì Sở giao dịch cần chủ động tìm kiếm nhiều thông tin từ các nguồn khác nhau như: bạn hàng chủ yếu, thông tin từ phía các cơ quan ban ngành có liên quan,.... Nếu yếu kém thông tin được khắc phục kịp thời thì việc hạn chế rủi ro tín dụng chắc chắn đạt được kết quả cao hơn.
3.2.4. Tăng cường kiểm tra, giám sát công trình và hoạt động của các đơn vị thi công xây lắp
Công tác kiểm tra giám sát hoạt động của khách hàng là yêu cầu cần thiết và cũng là để đảm bảo an toàn cho chính bản thân ngân hàng. Việc tích cực kiểm tra sẽ giúp cho ngân hàng phát hiện được những sai sót và những vướng mắc mà khách hàng đã, đang và sẽ có khả năng gặp phải, để từ đó sẽ đưa ra những biện pháp hợp lý đảm bảo có lợi cho cả khách hàng và ngân hàng
Trước hết là việc kiểm tra tiến độ thi công công trình: Trong quá trình đi kiểm tra công trình cán bộ tín dụng phải so sánh sản lượng thực tế của đơn vị với số lượng mà đơn vị đã báo cáo. Đánh giá phần sản lượng mà đơn vị thi công đã nghiệm thu; phần dở dang là bao nhiêu và tại sao chưa được nghiệm thu? Đồng thời cán bộ tín dụng cũng phải tìm hiểu kế hoạch thi công trong thời gian tới là gì? Và những điều kiện thi công hạng mục mới có thuận lợi và khó khăn gì mà đơn vị thi công có thể phải gặp phải.
Bên cạnh đó, các cán bộ tín dụng làm việc trực tiếp với tư vấn giám sát và giám đốc ban điều hành để tìm hiểu về công tác nghiệm thu, thanh toán, nguồn thanh toán của công trình. Tiến hành kiểm tra mục thu, chi để xem khoản vay có được nhập quỹ tiền mặt và có được theo dõi trên sổ quỹ hay không? kiểm tra mục chi và chứng từ kèm theo để xem khoản vay được chi cho mục đích gì và có đúng với mục đích sử dụng vốn vay đã được thoả thuận như trong hợp đồng tín dụng hay không?
Ngoài những buổi kiểm tra định kỳ đã được báo trước, thì Sở giao dịch cần phải tăng cường nhiều lần đi kiểm tra đột xuất tại các đơn vị. Sau khi kiểm tra công trình yêu cầu các cán bộ phải lập báo cáo một cách trung thực về tình hình thực tế đang diễn ra ở công trình lên cấp trên để thông qua đó điều chỉnh kỳ hạn cho vay và thu nợ hợp lý.
Ngoài việc kiểm tra tiến độ thi công công trình thì công tác giám sát các khoản vay cũng cần được diễn ra thường xuyên hơn. Giám sát các khoản cho vay là quá trình thực hiện các bước công việc sau khi cho vay nhằm hướng dẫn, đôn đốc người vay sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả số tiền vay, hoàn trả nợ gốc, lãi vay đúng hạn, đồng thời thực hiện các biện pháp thích hợp nếu người vay không thực hiện đầy đủ, đúng hạn các cam kết. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi hoạt động của các đơn vị thi công xây lắp có nhiều tiêu cực thì Sở giao dịch cần phải tăng cường công tác kiểm tra.
Đối với việc giám sát định kỳ: Định kỳ rà soát các nội dung chủ yếu như: đánh giá tình hình tài chính, hoạt động sản xuất, kinh doanh của khách hàng; xem xét, phân tích việc sử dụng tiền vay, có đúng với sự tuân thủ trong hợp đồng tín dụng hay không. Trong quá trình giám sát, cán bộ cần phải điều tra nguyên nhân để báo cáo cấp trên khi phát hiện có sự vi phạm trong thoả thuận tín dụng như: không thanh toán nợ gốc và lãi đúng hạn, không tuân thủ các cam kết đã ký trong hợp đồng tín dụng,.....Bất kỳ sự vi phạm nào đối với thoả thuận tín dụng như: không thanh toán nợ gốc và lãi đúng hạn, không tuân thủ các cam kết đã ký trong hợp đồng..... đều phải được điều tra và phải có biện pháp giải quyết tức thời. Định kỳ hoặc hàng năm: ngoài việc giám sát theo danh mục, phải thực hiện cả việc rà soát định hạng rủi ro tín dụng.
Hoạt động cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp chứa đựng nhiều rủi ro ngoài nguyên nhân từ chính các đơn vị này thì còn phụ thuộc rất nhiều vào môi trường xung quanh hoạt động đó. Vì thế cán bộ tín dụng cần phải tiến hành kiểm tra, rà soát và lập báo cáo ngay nếu có những sự kiện bất ngờ xảy ra như: sự suy giảm nghiêm trọng về tình hình tài chính hoặc hoạt động kinh doanh của đơn vị; khách hàng có dấu hiệu lẩn tránh tiếp xúc hoặc từ chối sự kiểm tra của Sở giao dịch; hay có sự thay đổi cơ cấu điều hành, tính pháp lý của các đơn vị vay vốn, hoặc một sự thay đổi trong đội ngũ quản lý chủ chốt trong các đơn vị thi công xây lắp vay vốn
Song song với việc kiểm tra, giám sát các đơn vị thì việc định kỳ đánh giá lại tài sản đảm bảo cũng hết sức cần thiết: Mặc dù tài sản đảm bảo của các đơn vị thi công xây lắp là các máy móc thiết bị có giá trị thấp nhưng định kỳ vẫn phải tiến hành đánh giá lại tài sản đảm bảo một cách trung thực, chính xác và độc lập để nhằm đưa ra giá trị ròng của rủi ro tín dụng tiềm tàng trong trường hợp khách hàng không trả được nợ. Việc định giá tài sản đảm bảo phải được thực hiện phù hợp với các tiêu chuẩn, chỉ số rủi ro của tài sản đảm bảo do Tổng giám đốc quy định cho cả hệ thống Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam.
Tất cả giải pháp trên để có thể thực hiện được trước hết các cán bộ ngân hàng đặc biệt là cán bộ khối tín dụng và khối thẩm định phải am hiểu rõ về lĩnh vực xây lắp, và một số vấn đề khác có liên quan như: sự biến động của thị trường, ảnh hưởng của các quy định liên quan,...Đồng thời, cũng cần có sự hợp tác của chính bản thân đơn vị thi công xây lắp trong việc cung cấp thông tin cần thiết cho ngân hàng. Tuy nhiên, ngoài hai yếu tố trên thì những giải pháp muốn thực hiện được cũng phải có sự hỗ trợ của các cơ quan ban ngành có liên quan.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3.1. Kiến nghị với các cơ quan Nhà nước
Cần hoàn thiện nhanh chóng luật đấu thầu để các đơn vị thi công xây lắp hoạt động khuôn khổ hơn tránh tình trạng bỏ giá thầu thấp để trúng thầu rồi trong quá trình thi công lại phát sinh ra nhiều chi phí khác
Xây dựng khung hình phạt nghiêm khắc liên quan việc tiêu cực trong hoạt động thi công xây lắp các công trình như: nhận hối lộ, sử dụng nguyên vật liệu không đúng trong dự toán,....để tránh thất thoát tiền của và công sức của người dân và Nhà nước
Điều chỉnh chính sách về đầu tư xây dựng cơ bản và giải quyết nợ tồn đọng xây dựng cơ bản: Mặc dù Quốc hội đã ra Nghị quyết từ nay đến hết năm 2006 có kế hoạch cụ thể, biện pháp xử lý mạnh để giải quyết dứt điểm nợ đọng vốn và Chính phủ yêu cầu từ nay đến 2006 các bộ ngành tập trung xử lý hơn 13.000 tỷ đồng nợ đọng xây dựng cơ bản, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Biện pháp là: Các địa phương có nợ đọng phải dùng một phần ngân sách hằng năm để trả nợ đồng thời xây dựng kế hoạch thanh toán nợ để kết thúc trong năm 2006. Nguồn bổ sung cho việc trả nợ này có thể là từ nguồn Trung Ương hỗ trợ, nguồn từ Ngân sách tỉnh tự bố trí, nguồn từ đổi đất lấy cơ sở hạ tầng, nguồn từ trái phiếu Chính phủ,… Song với mức nợ lớn hiện nay, ngay cả khi trung ương rót vốn cho các địa phương, việc thanh toán cho các công trình còn lại cũng không hề dễ dàng. Tính riêng khoảng 6.000 tỷ đồng các chủ đầu tư phải tự lo giải quyết, chính họ cũng chưa biết sẽ lấy từ nguồn nào. Đó vẫn là một quá trình gian nan và rất khó khăn. Do vậy, đề nghị Chính phủ, các Bộ, ngành, các tỉnh tích cực, quyết liệt chỉ đạo điều chỉnh chính sách đầu tư xây dựng cơ bản và thanh toán nợ tồn đọng.
Với môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp như hiện nay thì nguy cơ dẫn tới rủi ro trong hoạt động kinh doanh càng lớn, nếu không có sự liên kết thì một Ngân hàng không thể khắc phục được. Do vậy, nên có hình thức trao đổi kinh nghiệm hợp tác giữa các Ngân hàng trong công tác nghiên cứu và đưa ra biện pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro. Để làm được điều này cần có công tác chỉ đạo trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước tới toàn hệ thống Ngân hàng.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam
Sổ tay tín dụng sử dụng cho toàn hệ thống được ban hành vào tháng 9- 2004, đến nay cần phải được bổ sung và thay đổi lại theo đúng, phù hợp với sự thay đổi của luật và quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng.
Xây dựng riêng chính sách tín dụng áp dụng đối với từng nhóm khách hàng, đặc biệt đối với khách hàng hoạt động trong lĩnh vực thi công xây lắp thì phải đặt ra quy trình kiểm tra, giám sát trước trong và sau khi cho vay chặt chẽ hơn.
Vào năm 2006, Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam có dự định sẽ áp dụng mô hình tổ chức mới, do vậy Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam cũng cần xem xét để đưa ra cơ cấu mô hình gọn nhẹ hơn
Tăng cường công tác đào tạo, tập huấn để nâng cao trình độ nghiệp vụ của từng cán bộ đặc biệt là cán bộ tín dụng, công tác đào tạo này phải gắn liền với thực trạng đang diễn ra trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, cần tổ chức nhiều buổi thảo luận, trao đổi giữa các cán bộ với nhau để ngăn ngừa, hạn chế rủi ro cho ngân hàng.
Với mỗi sự thay đổi của luật liên quan đến lĩnh vực ngân hàng, hoặc hoạt động của các đơn vị thi công xây lắp thì Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam nên có văn bản hướng dẫn hoặc quy định rõ ràng, chính xác và kịp thời tránh tình trạng mỗi chi nhánh hiểu và làm theo cách khác nhau.
Hoạt động trong lĩnh vực thi công xây lắp tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, do vậy Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam phải có chính sách, biện pháp để quản lý các đơn vị vay vốn trong lĩnh vực này, đồng thời tăng cường kiểm tra, kiểm soát hoạt động cho vay của các chi nhánh ngay từ việc đánh giá khách hàng cho đến khâu thu nợ để tránh tình trạng gian lận giữa cán bộ ngân hàng với các đơn vị này.
3.3.3. Kiến nghị với các đơn vị thi công xây lắp
Các đơn vị thi công xây lắp cần có sự phối hợp với Ngân hàng và cung cấp đầy đủ, kịp thời các báo cáo tài chính, các thông tin cần thiết để thuận lợi cho việc đánh giá của ngân hàng.
Đơn vị thi công xây lắp phải nâng cao hơn nữa tình hình hoạt động kinh doanh của mình, nên xây dựng dự án hay công trình phù hợp với năng lực của mình, trước khi đưa ra quyết định dự án cần nghiên cứu, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến công trình đó như: yếu tố đầu ra, đầu vào, sự thay đổi chính sách của Nhà nước,....để từ đó chủ động hơn đảm bảo tính hiệu quả của việc đầu tư vào công trình đó
Hiện nay, trong quá trình thi công tồn tại rất nhiều hiện tượng tiêu cực xảy ra ảnh hưởng đến chất lượng công trình, tạo ra suy nghĩ không tốt trong dân chúng, do vậy để khắc phục tình trạng trên thì bản thân trong các đơn vị thi công xây lắp nên nâng cao tính tự giác, công bố tình hình tài chính của mình một cách công khai và chính xác, có như vậy thì ngân hàng cũng mới có thể tạo điều kiện cho vay.
Tóm lại: Trong chương 3 em đã đưa ra những giải pháp và kiến nghị cụ thể với để có thể nâng cao chất lượng cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp nói chung và chất lượng cho vay ngắn hạn nói riêng trong điều kiện nhu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng của nền kinh tế đang tăng mạnh.
KẾT LUẬN
Kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, nhu cầu vay tại Sở giao dịch- Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam để đầu tư vào các công trình đã tăng mạnh trong thời gian qua. Với xu thế đó thì việc nâng cao chất lượng cho vay đối với các đơn vị thi công xây lắp để đảm bảo an toàn trong hoạt động luôn là mục tiêu quan trọng của Sở giao dịch. Do vậy, việc nghiên cứu và đề ra các giải pháp thích hợp để nâng cao chất lượng cho vay luôn là yêu cầu cấp bách không chỉ với Sở giao dịch mà nó còn có ý nghĩa cho cả hệ thống Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam.
Do thời gian thực tập có hạn cũng như kiến thức thực tế chưa cao nên bài viết của em không tránh sự thiếu sót, em mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo trong khoa, cũng như các cán bộ Ngân hàng để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
MỤC LỤC
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36379.doc