Nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Thạch hà - Hà tĩnh

Tên chuyên đề: Nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thạch hà - Hà tĩnh MỤC LỤC Danh mục các bảng Bảng 2.1 Kết quả hoạt động huy động vốn 2005 – 2007 44 Bảng 2.2 Kết quả hoạt động cho vay của chi nhánh 2005 -2007 46 Bảng 2.3 Kết quả hoạt động cho vay hộ sản xuất 48 Bảng 2.4 Kết quả doanh số cho vay qua tổ vay vốn năm 2005 – 2007 49 Bảng 2.5 Dư nợ cho vay hộ sản xuất theo hình thức cho vay 51 Bảng 2.6 Dư nợ quá hạn phân

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1475 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Thạch hà - Hà tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
loại theo thời gian 52 Bảng 2.7 Cơ cấu nợ quá hạn cho vay hộ sản xuất năm 2005 – 2007 53 Bảng 2.8 Dư nợ theo đối tượng vay vốn 54 Bảng 2.9 Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay gián tiếp 55 Bảng 2.11 Vòng quay vốn tín dụng 56 Bảng 2.12 Hệ số sinh lời bình quân cho vay 57 Bảng 2.13 Kết quả cho vay năm 2007 58 Danh mục các chữ viết tắt - NHNN: Ngân hàng nhà nước - NHTM: Ngân hàng thương mại - WTO : Tổ chức thương mại thế giới - CNH,HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá - NHN0&PTNT: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - NHN0 Thạch Hà: Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp huyện Thạch Hà Lời nói đầu Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng và Nhà nước những năm qua đã thu được nhiều kết quả to lớn, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế của đất nước ta. Đặc biệt, tháng 11 năm 2006 Việt Nam chính thức đã được kết nạp là thành viên thứ 150 của WTO đánh dấu sự phát triển và hội nhập ngày càng sâu rộng, mạnh mẻ vào nền kinh tế toàn cầu. Cùng hoà nhập sự phát triển của nền kinh tế, ngành ngân hàng càng có vị trí vô cùng quan trọng đối với quá trình CNH, HĐH và hội nhập của đất nước. Hoạt động ngân hàng những năm qua đã đóng góp được nhiều thành quả to lớn như ổn định tiền tệ, kìm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế. Trong nghị quyết hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã định hướng cho sự phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nêu cao quan điểm phát huy nội lực, tập trung tạo nguồn vốn, huy động và sử dụng tốt các nguồn vốn cho phát triển nông nghiệp và nông thôn. Trong đó hệ thống tín dụng đối với nông nghiệp và nông thôn phải được phát huy và giữ vai trò chủ đạo, nhất là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Thực hiện chủ trương trên của Ban chấp hành Trung ương Đảng,Thủ tướng chính phủ đã có quyết định 67/1999/QĐ-TTg về một số chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đã tiến hành phối hợp với Trung ương hội Nông dân Việt Nam ký Nghị quyết liên tịch số 2308/NQLT-1999; và Trung ương hội phụ nữ Việt Nam ký Nghị quyết liên tịch số 02/NQLT-2000, nhằm phối hợp triển khai, tổ chức thực hiện chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn trên. Những năm qua hoạt động của hệ thống tín dụng ngân hàng bên cạnh các kết quả đạt được vẫn còn hạn chế và tồn tại cần phải tiếp tục nghiên cứu và giải quyết, việc nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả của ngân hàng thương mại về chất lượng tín dụng là hết sức cần thiết. Qua một thời gian ngắn đi thực tế, quan sát, thu thập các hoạt động tín dung của chi nhánh NHN0 huyện Thạch Hà – Hà Tĩnh em nhận thấy để đạt được hiệu quả khi cho vay, tránh được rủi ro, thúc đẩy kinh tế hộ ngày càng phát triển đi lên làm giàu cho gia đình, cho xã hội và cho hoạt động ngân hàng, chi nhánh cần phải chú trọng hơn nữa vào công tác tín dụng hộ sản xuất. Mặt khác, trong điều kiện đất nước đã bước đầu hội nhập WTO thì các hộ sản xuất, nhất là các hộ sản xuất nông nghiệp sẽ gặp không ít khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm, vì thế cũng sẽ ảnh hưởng tới việc thu hồi nợ của ngân hàng. Xuất phát từ đó em chọn đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Thạch Hà” làm đề tài để viết chuyên đề tốt nghiệp. Bài viết có kết cấu gồm ba chương như sau: Chương I. Chất lượng cho vay hộ sản của ngân hàng thương mại_ những cơ sở lý luận cơ bản. Chương II. Đánh giá thực trạng cho vay hộ sản xuất tại chi nhánh NHN0 Thạch Hà – Hà Tĩnh. Chương III. Một số giải pháp nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất tại chi nhánh NHN0 Thạch Hà – Hà Tĩnh. Do thời gian thực tập ngắn, trình độ nghiên cứu còn hạn chế nên dù có sự hướng dẫn và giúp đỡ của cô chú trong cơ quan nhưng em viết đề tài này vẫn không tránh khỏi khiếm khuyết. Vì thế em rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I. CHẤT LƯỢNG CHO VAY HỘ SẢN XUẤT CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI_NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CƠ BẢN 1.1 Cho vay hộ sản xuất của ngân hàng thương mại 1.1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại 1.1.1.1 khái niệm và những đặc trưng hoạt động của ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu dùng (cá nhân, hộ gia đình), và với hầu hết các cơ quan chính quyền địa phương (tỉnh, thành phố ...). Hơn nữa, đối với các doanh nghiệp từ khi tiến hàng hoạt động kinh doanh, từ các doanh nghiệp nhỏ đến các doanh nghiệp lớn trong quá trình hoạt động đều sử dụng vốn vay và các dịch vụ từ ngân hàng. Từ các dịch vụ thanh toán như thẻ tín dụng, thẻ ATM trả lương cho nhân viên, mở LC, chuyển tiền,... đến các dịch vụ quản lý ngân quỹ, bảo hiểm, tư vấn đầu tư. Đối với các cá nhân, ngân hàng là nơi gửi tiền an toàn nhất, nơi cất giữ các khoản tiền tiết kiệm từ nhỏ nhất đến lớn của người lao động. Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cho vay tiền. Ngân hàng (banks), có thể được định nghĩa qua các chức năng, các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, hoặc tính chất hoạt động hoặc qua vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Có thể xem xét trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, khi đó: Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, dịch vụ thanh toán, tiết kiệm và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Theo luật các tổ chức tín dụng 1997 và được sửa đổi, bổ sung 2004 của nhà nước ta. Ngân hàng là loại tổ chức tín dụng được thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ ngân hàng. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, thuật ngữ ngân hàng bao gồm những hãng như ngân hàng thương mại, các ngân hàng tiết kiệm tương trợ, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách và các loại hình ngân hàng khác. Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên của nó là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, làm nghiệp chiết khấu, bảo lảnh ngân hàng và làm các phương tiện thanh toán.Trong hệ thống trung gian tài chính hiện nay của bất ký một quốc gia nào, ngân hàng thương mại là loại ngân hàng phổ biến nhất,có số lượng và quy mô lớn nhất. Và đa dạng về loại hình tổ chức và sở hưu như: Ngân hàng thương mại cổ phần (Ngân hàng cổ phần hàng hải, Cổ phần quân đội,...), ngân hàng thương mại quốc doanh (Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng công thương Việt Nam), ngân hàng liên doanh và các loại hình ngân hàng khác. Hiện nay, trên thế giới có nhiều ngân hàng thương mại có quy mô tài sản lớn và có phạm vi hoạt động không chỉ trong một vài quốc gia mà trên toàn thế giới, như là AMERICAN BANK, ANZ BANK... Hầu hết các ngân hàng này là nằm ở các nước phát triển, còn các ngân hàng thương mại của nước ta đều có quy mô tài sản nhỏ, khả năng canh tranh và phạm vị hoạt động chủ yếu là trong nước. Ngân hàng thương mại là ngân hàng hình thành, phát triển lâu đời và phong phúc về hình thức tổ chức nhất. Nó có những đặc trưng hoạt động cơ bản sau: Thứ nhất: Hoạt động của NHTM dựa vào sự tín nhiệm, uy tín và lòng tin. Thứ hai: Hoạt động của ngân hàng chịu sự kiểm soát rất chặt chẻ của hệ thống pháp luật. Thứ ba: Hoạt động của ngân hàng dựa vào nguồn vốn từ bên ngoài là chủ yếu Thứ tư: Trong hoạt động của ngân hàng tiềm ẩn rũi ro cao. Thứ năm: Cán bộ, đội ngũ nhân viên của ngân hàng phải có năng lực, trình độ cao và đạo đức tốt. 1.1.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Hoạt động ngân hàng theo luật các tổ chức tín dụng: là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Như vậy, ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, các hoạt động đều liên quan đến tiền tệ, tài chính như bao trùm vẫn có ba hoạt động lớn nhất đó là huy động vốn, thanh toán và ngân quỹ, tín dụng. Ngoài ra, còn có các hoạt động khác như là bảo hiểm, chứng khoán,... Mỗi hoạt động của ngân hàng có những vai trò và đặc trưng nhất định nhằm để thực hiện ba chức năng cơ bản là thanh toán, nhận gửi, và cho vay: Thứ nhất: Hoạt động huy động vốn đây là hoạt động quan trọng của bất kỳ một tổ chức tài chính nào. Các NHTM khi thành lập và bắt đầu tiến hành các hoạt động kinh doanh tiền tệ cần một nguồn vốn do chủ của ngân hàng bỏ ra gọi là vốn tự có, nó được huy động do các cổ đông tự nguyện góp vốn hoặc phát hành cổ phiếu ra công chúng. Nhưng để ngân hàng tồn tại, phát triển, tiến hành cung cấp các dịch vụ cho khách hàng vốn tự có cũng chưa đủ mà cần ngân hàng phải huy động từ bên ngoài bằng vay từ bên ngoài như nhận tiền gửi, đi vay các tổ chức tín dụng khác hoặc ngân hàng trung ương (NHTW) và trên thị trường, các khoản này NHTM phải có nghĩa vụ thanh toán cả gốc và lãi trong khoảng thời gian nhất định gọi là nguồn vốn nợ. Trong bảng cân đối tài sản của ngân hàng, nguồn vốn nợ này chiếm tỷ trọng khoảng trên 70% nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng. -Nhận tiền gửi Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi như tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ cho người có tiền với cam kết sẽ hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc canh tranh để tìm và dành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là một phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất, như các ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất tiết kiệm 16% năm để thu hút vốn nhằm cho vay các chủ tàu để thu lãi gấp đôi, gấp ba. Ở nước ta lãi suất vừa qua của các NHTM cổ phần huy động với kỳ hạn 3 tháng đã có lúc lên tới 14% một năm. Đặc điểm của các khoản tiền gửi này là rất nhạy cảm với lãi suất, biến động của tỷ giá, chu kỳ tiêu dùng ... và là đối tượng phải dự trữ bắt buộc nên chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi suất trả cho khách hàng. - Đi vay Bên cạnh nguồn nhận tiền gửi của khách hàng, khi cần ngân hàng thường vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh. Tại nhiều nước, NHTW thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền gửi và vốn tự có. Do vậy, nhiều ngân hàng phải đi vay để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng nhận gửi có hạn. Cũng giống như doanh nghiệp, các ngân hàng cũng thường vay mượn bằng cách pháp hành các giấy nợ như tín phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu ra thị trường vốn. Việc các ngân hàng đi vay trực tiếp vốn trên thị trường chủ yếu là huy động nguồn vốn trung và dài hạn để bổ sung cho nguồn tiền gửi. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Nên những ngân hàng lớn, có uy tín và lịch sử lâu đời hoặc trả lãi cao dễ vay được nhiều hơn. Hiệu quả của hoạt động đi vay này thường phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ phát triển của thị trường tài chính, lãi suất, mệnh giá ... Ngoài ra, NHTM còn đi vay mượn lẫn nhau và giữa các tổ chức tín dụng khác với nhau thông thị trường liên ngân hàng. Hoặc là đi vay từ ngân hàng trung ương. Các khoản vay này để giải quyết nhu cầu cấp bách trong thanh toán của ngân hàng khi thiếu hụt dự trữ (dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán) hoặc trong nhiều trường hợp nó bổ sung cho nhau. Thứ hai: Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ Khi các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng, họ ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng (còn gọi là séc), khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Khi ngân hàng mở rộng chi nhánh, thanh toán qua ngân hàng được mở rộng phạm vi, tạo nhiều tiện ích cho khách hàng. Điều này đã khuyến khích các doanh nhân và cá nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ nhiều hơn. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, các hoạt động thanh toán của ngân hàng ngày được mở rộng với nhiều hình thức thanh toán được phát triển như Uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L\C, thanh toán bằng điện tử, séc, thẻ, chuyển tiền nhanh. Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối quan hệ chặt chẻ với nhiều khách hàng. Lại có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đống ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hàng đầu tư phần thặng dư tiền tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách cần tiền mặt để thanh toán. Khi ngân hàng thực thiện các hoạt động thanh toán, ngân quỹ thay cho khách hàng là ngân hàng đã thực hiện chức năng tạo phương thiện thanh toán và trung gian thanh toán. Qua hoạt động thanh toán và ngân quỹ ngân hàng vừa thu hut khách hàng đến với ngân hàng, vừa huy động được vốn tạm thời nhàn rỗi cho kinh doanh vừa thu được một khoản thu nhập từ phí dịch vụ cho ngân hàng, bên cạch nguồn thu nhập quan trọng từ hoạt động tín dụng. Thứ ba: Hoạt động tín dụng Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rũi ro cao nhất, phản ánh đặc trưng hoạt động của ngân hàng. Theo luật các tổ chức tín dụng Việt Nam, hoạt động tín dụng là việc các tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Theo nghĩa rộng, tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Như khi gắn tín dụng với một chủ thể nhất định như ngân hàng được gọi là tín dụng ngân hàng, là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng. Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Dưới đây là một số các phân loại tín dụng cơ bản thường được sử dụng: - Theo thời hạn tín dụng Phân theo thời thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng bao gồm: (1) Tín dụng ngắn hạn là thời hạn từ 12 tháng trở xuống. Đối với các doanh nghiệp, tài sản lưu động có vòng quay trong một năm. Nên ngân hàng thường cấp tín dụng ngắn hạn để tài trợ cho khách hàng mua sắm các tài sản lưu động. (2) Tín dụng trung hạn có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm. Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng để mua các tài sản cố định như phương tiên vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn có yêu cầu tài trợ từ trên 1 năm đến 5 năm. (3) Tín dụng dài hạn có thời hạn từ trên 5 năm. Thường được sử dụng cấp cho các công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu có yêu cầu tài trợ trên 5 năm, có thể 10 năm hoặc trên 20 năm. Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể (ngày, tháng, năm) và ghi rõ trong hợp đồng tín dụng, là thời gian mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. Và có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về. Hoặc có thể là thời gian mà khi kết thúc, ngân hàng xem xét lại quan hệ tín dụng với khách hàng. Tuy nhiên, việc xác định thời hạn trên cũng chỉ có tính tương đối, vì nhiều khoản tín dụng không xác định trước thời hạn, như cho vay luân chuyển. Trong trường hợp đó, việc xác định thời hạn thu nợ trước sẽ gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm. - Phân theo tài sản đảm bảo Về nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có đảm bảo. Ngân hàng chỉ ghi vào hợp đồng tín dụng loại tài sản đảm bảo mà ngân hàng có thể bán đi để thu nợ khi khách hàng không trả được nợ. Do đó, theo quan điểm của ngân hàng tài sản bảo đảm cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất ( từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ. Tín dụng đảm bảo có thể phân chia thành tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của khách hàng (bảo lãnh), có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản. Trong tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu phải ký hợp đồng đảm bảo. Đó là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản mà chính mình sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của bên thứ ba để tài trả nợ cho ngân hàng. Những khoản tín dụng không gắn với hợp đồng đảm bảo được ngân hàng xếp vào khoản không có đảm bảo. Loại này cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc các món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản vay theo chỉ thị của chính phủ mà chính phủ yêu cầu không có tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty tài chính lớn, hoặc những khoản vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng ... cũng có thể không cần tài sản đảm bảo. - Phân theo rũi ro: tín dụng bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Để phân loại theo tiêu thức này, các ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để phân loại rũi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rũi ro tín dụng, tức là xếp loại tín dụng theo dấu hiệu rũi ro từ thấp đến cao. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục tín dụng, dự trù quỹ cho các khoản tín dụng rũi ro cao, đánh giá chất lượng tín dụng... - Phân tín dụng có thể theo ngành kinh tế như tín dụng công nghiệp, nông nghệp, thương mại dịch vụ hoặc theo đối tượng tài trợ như hàng hoá, bất động sản hoặc theo mục đích vay vốn như tiêu dùng, sản xuất... - Theo luật các tổ chức tín dụng, các tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của ngân hàng nhà nước. Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hang ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nợ ). Về mặt pháp lý thì ngân hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền. Như việc ngân hàng bỏ ra một khoản tiền ở hiện tại để thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi như hoạt động tín dụng. Trong hình thức này ngân hàng ứng tiền trước cho người bán hàng, song thực chất là đã thay thế người mua trả tiền trước cho người bán. Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định này, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng. Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu: Doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Khi lập các báo cáo tài chính ( thời điểm), cho vay được ghi dưới hình thức dư Nợ - cụm từ dư Nợ nằm ở phía tài sản đều được hiểu là số tiền ngân hàng đang cho vay đến thời điểm tính. Đối với chiết khấu thương phiếu, cho thuê tài chính cũng được các ngân hàng ghi như vậy. Riêng đối với các cam kết bảo lãnh được ghi ở ngoại bảng, khi ngân hàng phải thực hiện việc chi trả tiền thay cho khách hàng thì mới ghi vào nội bảng. Trong các hình thức cấp tín dụng trên, cho vay là một hoạt động thường xuyên nhất của bất cứ một ngân hàng nào và là khoản mục tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng. 1.1.1.3 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Hoạt động cho vay là hoạt động cấp vốn cho khách hàng tiêu biểu nhất trong hoạt động tín dụng của ngân hàng gắn với nhiệm vụ cho vay của một NHTM. Nó gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển, với hình thức cho vay chủ yếu ban đầu là các khoản cho vay ngắn hạn, dựa trên quá trình luân chuyển của hàng hóa với lãi suất thấp hơn lợi nhuận được tạo ra do các nhà buôn sử dụng khoản vốn đó. Ngày nay, hoạt động cho vay của NHTM đã phát triển với nhiều sản phẩm có hình thức càng mới và đa dạng hơn phù hợp với nhu cầu phong phú của khách hàng như: - Cho vay thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. - Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có đủ điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. - Cho vay theo hạn mức: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. - Cho vay luân chuyển: Là nghiệp cụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. Đây là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định xem có cho vay nữa hay không - Cho vay trả góp: Là hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận 1.1.2 Cho vay hộ sản xuất của ngân hàng thương mại 1.1.2.1 Đặc điểm của hộ sản xuất - Khái niệm hộ sản xuất: Hộ sản xuất theo liên hợp quốc: “ Hộ là những người cùng chung sống chung dượi một mái nhà, cùng ăn và có chung một ngân quỹ”. Theo nhà nghiên cứu kinh tế Harris ( Viện nghiên cứu phát triển ĐH tổng hợp Susex - London -Anh ) Hộ là đơn vị tự nhiên tạo nguồn lao động”. Hộ sản xuất được hiểu một cách chi tiết mà phân lớn các nhà kinh tế thường dùng, hộ là một đơn vị kinh tế mà các thành viên đều dựa trên cơ sở kinh tế chung, các nguồn thu nhập do các thành viên tạo ra được sử dụng chung, quá trình sản xuất được tiến hành một cách độc lập. Hộ sản xuất cũng là một đơn vị tự tổ chức và phân công lao động, hộ gia đình sống ở nông thôn làm nông nghiệp thì gọi là nông hộ hay hộ sản xuất nông nghiệp. Một hộ sản xuất xác định là một đơn vị kinh tế tự chủ, được nhà nước giao đất quản lý và sử dụng vào sản xuất kinh doanh và được phép kinh doanh trên một số lĩnh vực nhất định do nhà nước quy định. Hiện nay, trong các văn bản pháp luật ở Việt nam hộ được xem như là một chủ thể trong các quan hệ dân sự do pháp luật quy định và được xác lập như là một đơn vị mà các thành viên có cùng hộ khẩu, chung tài sản và các hoạt động sản xuất, làm ăn kinh tế chung. Trong thực tế đời sống, đã có sự nhầm lẫn khi dùng một số thuật ngữ khác để thay thế hoặc chỉ thuật ngữ “hộ sản xuât” như là “ hộ kinh tế”, “hộ”và nhất là “hộ gia đình”. Giữa hộ sản xuất và hộ gia đình được phân biệt với nhau qua ba tiêu chí: (1) Có quan hệ hôn nhân, huyết thống và thân tộc (2) Cư trú chung (3) Có chung cơ sở kinh tế Hộ sản xuất thì có đầy đủ cả ba tiêu chi trên, còn hộ gia đình không nhất thiết có (2),(3). Vì có những người cùng một gia đình như lớn lên đi làm việc ăn kiếm sống ở xa quê hương không tham gia vào các hoạt động sản xuất hàng ngày của gia đình. Đất nước ta đang trong quá trình CNH, HĐH đất nước và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, nhà nước đang xây dựng nền kinh tế đa thành phần nhằm huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia vào qua trình này, nên vay trò của hộ sản xuất đang là nhân tố quan trọng. Nhất là ở nông thôn hộ sản xuất chiếm đa số. Để phù hợp với xu thế phát triển chung, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước phát triển kinh tế nông thôn. Là một ngân hàng thương mại lớn nhất hiện nay và để thuận tiện cho các cán bộ tín dụng trong hoạt động tín dụng hàng ngày ở từng địa bàn nhất là ở nông thôn trong cả nước. NHN0&PTNT Việt Nam đã ban hành phụ lục số 1 kèm theo quyết định 499A tháng 9 năm 1993, theo đó khái niệm hộ sản được hiểu: “Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất của mình” thành phần chủ yếu của hộ sản xuất bao gồm: hộ nông dân, hộ gia đình xã viên, hộ tư nhân, cá thể, hộ trang trại, nông lâm trường viên. Hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất lớn ỏ nông thôn. Là một chủ thể kinh tế có đa dạng về hình thức tổ chức sản xuất, phân công lao động, hoạt động sản xuất trên nhiều kĩnh vực và ngành nghề kinh tế như gia công các sản phẩm công nghiệp, sản xuất các ngành nghề truyền thống, thủ công, thương mại - dịch vụ, nhất là trong hoạt động nông nghiệp như chăn nuôi trồng trọt, nuôi trồng thuỷ hải sản và kết hợp với các nghề phụ. - Qua các khái niệm được đưa ra trên các góc độ khác nhau và thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh ta cũng rút ra một số nét đặc trưng cơ bản của hộ sản xuất sau: Thứ nhất: Hộ sản xuất là một tổ chức sản xuất độc lập mà trong đó mỗi thành viên là những người có quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân, họ vừa là chủ thể sản xuất vừa là người lao động trực tiếp, quá trình sản xuất chủ yếu dựa vào lao động gia đình là chính, kết hợp với quan hệ đổi công giữa các hộ với nhau. Các thành viên trong hộ có sự phối hợp mật thiết trên cơ sở cộng đồng sở hữu về tài sản, thu nhập và phân phối thu nhập. Tính huyết thống và truyền thống gia đình làm cho các thành viên lao động một các tự giác. Thứ hai: Hộ sản xuất là tổ chức sản xuất có quy mô nhỏ, có khả năng tự điều chỉnh và thay đổi các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách linh hoạt khi gặp khó khăn về giá cả, thị trường. Các hộ sản xuất có thể chuyển hướng sản xuất với các đối tượng phù hợp với điều kiện thiên nhiên môi trường, lao động, lấy thu nhập từ các đối tượng này đầu tư vào các đối tượng khác. Chính vì vậy, hộ sản xuất có khả năng tồn tại bền bỉ kéo dài qua các phương thức sản xuất và hình thái kinh tế của xã hội. Thứ ba: Hộ sản xuất là chủ thể kinh tế có hình thức tổ chức rất phù hợp với ngành sản xuất nông nghiệp. Đối tượng của ngành này là cây trồng, vật nuôi là những cơ thể sống nhạy cảm với sự chăm sóc của con người, không những bằng sức lao động mà còn bằng sự cầm mẫn từ khi bắt đầu sản xuất đến khi thu hoạch sản phẩm. Các nước có nền kinh tế nông nghiệp như nước ta, hộ sản xuất nông nghiệp ở nông là chủ yếu và khai thác tốt các lợi thế của từng địa phương. Thứ tư: Quy mô sản xuất nhỏ, khép kín trong phạm vi gia đình là chủ yếu, sản xuất thường manh mún, phân tán. Đa sống là canh tác thuần nông nhất là ở các nước đang phát triền, thường tập trung là trồng lúa, hoa màu kết hợp chăn nuôi, tư liệu sản xuất nhỏ, công cụ thô sơ, kỹ thuật canh tác dựa vào kinh nghiệm và chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi thời tiết môi trường tự nhiên ... Do vậy, năng suất lao động thường thấp không ổn định, mặt khác phụ thuộc vào phong tục từng vùng. Song bản chất cơ bản của họ gắn liền với đồng ruộng, bản làng ... Thứ năm: Trong sản xuất, khi đầu tư chi phí đầu tư thường là thấp và rải đều cho nhiều đối tượng. Ngược lại, khi có nhu cầu vốn đầu tư thì tập trung nên dẫn đến thiếu vốn. Do vậy, muốn mở rộng quy mô sản xuất, thực hiện thâm canh, áp dụng các kỹ thuật công nghệ vào sản xuất .... thường các hộ phải vay vốn từ những người thân quen, làng xóm hoặc vay nặng lãi. - Xuất phát từ các đặc điểm của hộ sản xuất, người ta phân loại hộ sản xuất và đặc trưng của từng loại như sau: - Hộ sản xuất loại I bao gồm các loại sau: + Hộ chuyên sản xuất Nông, Lâm, Ngư, Diêm nghiệp có tính chất tự sản xuất, tự tiêu thụ sản phẩm và do các nhân làm chủ hộ, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ kết quả kinh doanh + Hộ cá thể tư nhân làm kinh tế gia đình + Hộ là những thành viên nhận khoán các tổ chức kinh tế hợp tác, các doanh nghiệp nhà nước, các nông trường lâm trường nhận đất rừng làm trang trại. - Hộ sản xuất loại II: Bao gồm các hộ sản xuất kinh doanh theo luật định có những đặc trưng sau: +Được cấp giấy phép kinh doanh hoặc giấy phép thành lập do cơ quan có thẩm quyền Nhà nước cấp + Có giấy phép kinh doanh do trọng tài kinh tế Nhà nước cấp. + Có vốn điều lệ ( nếu là công ty), vốn đầu tư ban đầu (nếu là doanh nghiệp tư nhân) cao hơn vốn pháp định. Hộ sản xuất loại II bao gồm các hộ sau: +Hộ tư nhân +Hộ là hợp tác xã +Công ty cổ phần, công ty TNHH Với cách phân loại trên thì hộ loại I là hộ sản xuất bao trùm nhất trong hoạt động kinh tế ở nông nghiệp nông thôn. Trong khi ở Việt Nam, nông thôn vẫn là khu vực kinh tế tập trung nhiều dân số nhất với hơn 80%, nhu cầu vốn đầu tư vào sản xuất của từng hộ thì không lớn lắm như tổng nhu cầu vốn cho sản xuất của cả toàn bộ chủ thể trong nền kinh tế lại rất lớn. Đó chính là thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng và cho đầu tư cho vay của các ngân hàng thương mại hiện nay. 1.1.2.2 Cho vay hộ sản xuất của ngân hàng thương mại Nguồn vốn cho vay của ngân hàng có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp và hoạt động kinh tế nói chung và đối với hộ sản xuất cũng vậy. Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh các hộ sản xuất lại thiếu vốn để phát triển sản xuất hàng hoá, nhất là các hộ sản xuất nông nghiệp ở nông thôn hiện nay. Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, nếu Nhà nước không có sự giúp đỡ về vốn đến từng hộ sản xuất họ không có đủ điều kiện đầu tư phát triển sản xuất hàng hoá và tình trạng phân hoá giàu nghèo cùng với tình trạng cho vay nặng lãi sẽ tăng lên ở nông thôn. Do đó, nguồn vốn cho vay của ngân hàng lại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Đối với ngân hàng cho vay hộ sản xuất là nhằm hỗ trợ cho các hộ sản xuất vốn trong việc mua nguyên liệu, phân bón, xây dựng chuồng trại, trang thiết ._.bị sản xuất và thức ăn phục vụ cho sản xuất. Trên cơ sở nhu cầu vay vốn, ngân hàng cung cấp vốn cho từng hộ sản xuất, giúp họ tận dụng khai thác mọi tiềm năng đất đai, lao động và tài nguyên thiên nhiên từ đó cho ra đời ngày càng nhiều hơn, phong phú hơn hàng hoá để cung cấp cho sản xuất, tiêu dùng, cho xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội. Ngân hàng khi cho các hộ vay vốn đều yêu cầu phải thực hiện đúng các nguyên tắc cho vay như hoàn trả lãi cho ngân hàng đầy đủ và đúng hạn cả gốc và lãi đúng hạn, mục đính vay phải chính đáng. Nên các hộ đòi hỏi phải tính toán hiệu quả phương án sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, tìm kiếm các biện pháp nâng cao sản xuất và tiêu thu sản phẩm làm ra để sau khi trả gốc và lãi cho ngân hàng các hộ vẫn có lợi nhuận nhất định nuôi sống gia đình, tích luỹ thêm vốn cho tái mở rộng sản xuất. Để tạo vốn cho hộ sản xuất, ngân hàng đưa ra nhiều hình thức cho vay đáp ứng nhu cầu khách hàng và giám sát việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng. Có nhiều hình thức khác nhau, nhưng đối với hộ sản xuất thường có các hình thức phổ biến sau: a. Các hình thức cho vay hộ sản xuất a1. Cho vay trực tiếp: đây là phương pháp cho vay phổ biến nhất và được thực hiện thông qua mạng lưới các chi nhánh của ngân hàng. Ở đây, các hộ sản xuất có nhu cầu vay vốn sẽ đến trực tiếp các chi nhánh ngân hàng trên địa bàn. Ngân hàng sẽ tiến hành các hoạt động tổ chức thiết lập quan hệ tín dụng trực tiếp với khách từ khâu đầu tiên đến khâu kết thúc khoản vay. Như việc xem xét năng lực pháp lý, năng lực tài chính, mục đính và mức vốn thực sự, kiểm tra, thẩm định các thông tin khách hàng cung cấp đến việc giải ngân, thu gốc và lãi được thực hiện trực tiếp tại chi nhánh. Hình thức cho vay này có ưu điểm: Có cán bộ ngân hàng trực tiếp làm việc với khách hàng qua các khâu nên ngân hàng có điều kiện thu thập thêm nhiều thông tin về khách hàng và hoạt động của khách hàng trong từng thời kỳ, Nên biết được những khó khăn, thuận lợi của khách hàng trong quá trình sử dụng vốn vay để từ đó tư vấn, tìm các giải pháp tháo gỡ những khó khăn cho các hộ và cũng có được những biện pháp kịp thời nhằm hạn chế các rũi ro đối khoản vay. Đồng thời, nắm bắt được những nhu cầu mới của các hộ để tư vấn cho ngân hàng cung cấp các dịch mới cho khách hàng, cũng như đưa ra các chính sách tốt sát với thực tế của từng địa bàn. Tạo được mối quan hệ bền vững với khách hàng, nâng cao uy tín ngân hàng để thiết lập quan hệ truyền thống với khách. Như nó có hạn chế là ngân hàng cơ sở phải dàn trải nhân viên và cũng chỉ đáp ứng được một phần đông các hộ khá và trung bình, các hộ cận nghèo ít có cơ hội được vay vốn phát triển kinh tế. Cũng như là tốn nhiều thời gian và chi phí cho khoản vay. a.2 Cho vay gián tiếp: Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó để hạn chế những khó khăn của phương pháp trên, ngân hàng cũng nên phát triển hình thức này. Đây là hình thức cho vay mà có sự tham gia của các tổ chức trung gian thực hiện một vài khâu của hoạt động cho vay. Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Nhất là ở các vùng nông thôn khi mà các hộ sản xuất phân bố rộng lớn trên nhiều làng xã cách xa nhau, điều kiện về giao thông đi lại rất khó khăn trong khi quy mô khoản vay của từng hộ lại nhỏ. Trong trường hợp như vậy, cho vay gián tiếp qua trung gian có thể giúp tiết kiệm được chi phí cho vay (phân tích, giám sát, thu nợ …) và cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ sản xuất có nhu cầu vay vốn được tiếp cận và sử dụng nguồn vốn ngân hàng. Cho vay gián tiếp thường được thực hiện thông qua các trung gian như tổ vay vốn, các hội, nhóm hoặc qua các doanh nghiệp, người bán lẻ… như sau: - Cho vay hộ sản xuất gián tiếp qua các tổ vay vốn, thông qua các tổ chức kinh tế -xã hội: HTX sản xuất, các doanh nghiệp nhà nước ( nông trường, trang trại ), các tổ chức xã hội như: Hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội thanh niên, hội làm vườn. Cho vay qua tổ vay vốn:Tổ vay vốn do các thành viên là hộ gia đình, cá nhân tự nguyện thành lập, có nhu cầu vay vốn, cùng cư trú tại thôn, xóm (khóm, ấp) để tiến hành hoạt động sản xuất. Được thành lập với thủ tục chặt chẻ từ việc thống nhất danh sách tổ viên, bầu lãnh đạo tổ sau khi đã có đơn của các tổ viên, thông qua quy ước hoạt động, trình chính quyền cơ sở công nhận cho phép hoạt động. Để được vay vốn cũng phải thuân thủ các thủ tục vay nhất định: Tổ viên gửi cho tổ trưởng giấy đề nghị vay vốn và các giấy tờ khác theo quy định, tổ trưởng nhận hồ sơ của tổ viên, tổ chức họp bình xét điều kiện vay vốn, sau đó tổng hợp danh sách tổ viên có đủ điều kiện vay vốn, đề nghị ngân hàng cho xét vay, từng tổ viên ký hợp đồng tín dụng trực tiếp với ngân hàng tại nơi cho vay. Ngân hàng cho vay qua các hội, nhóm như Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội phu nữ các thôn xóm, các xã, huyện … Các tổ chức trung gian này thường liên kết các thành viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu hỗ trợ lẫn nhau, bão vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy, việc phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói giảm nghèo luôn được các trung gian này quan tâm. Ngân hàng chủ yếu chuyển một vài khâu trong hoạt động cho vay qua các trung gian này thực hiện như thu lãi các thành viên, thu nợ gốc, phát tiền vay, giám sát việc sử dụng vốn …Tổ chức trung gian này cũng có thể đứng ra tín chấp cho các thanh viên vay như thường ít, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay . Điều này rất thuận tiện khi người vay không có tài sản thế chấp. Để bù vào phần chi phí của trung gian, ngân hàng trích phần thu nhập để lại cho trung gian, hàng năm ngân hàng phải tiến hàng ký hợp đồng dịch vụ với các trung gian và quy định mức phí và trách nhiệm của các bên. -Cho hộ sản xuất vay thông qua các doanh nghiệp, hợp tác xãc(HTX) sản xuất cung ứng các nguyên liệu đầu vào như giống cây trồng, vật nuôi nông nghiệp - thuỷ sản, các thức ăn, phân bón, các vật liệu xây dựng và trang thiết bị phục vụ sản suất hoặc thực hiện thu mua các sản phẩm mà các hộ sản xuất làm ra trên từng địa phương. Ngân hàng nơi cho vay ký hợp đồng với doanh nghiệp, các HTX làm dịch vụ vay vốn cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn.Doanh nghiệp phải có hợp đồng cung ứng vật tư, tiền vốn, tiêu thụ sản phẩm cho các hộ sản xuất. Việc cho vay này hạn chế được các hộ sử dụng vốn sai mục đích, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất của các hộ. Ngân hàng cho vay thông qua các tổ chức trung gian này với mục đích giúp cho ngân hàng tạo các kênh chuyển vốn vay đến hộ sản xuất một cách rộng khắp và quy mô lớn. Đối tượng vay vốn của các tổ chức trung gian này thường là hộ nghèo, thiếu vốn sản xuất nhưng không đủ tài sản đảm bảo, họ có sức lao động, có ý trí vươn lên. Qua đó tạo điều kiện cho các hộ này được vay vốn phát triển sản xuất theo hướng hàng hoá lớn. Một vấn đề nữa là cho vay vốn tới hộ thông qua phương pháp này ngân hàng thực hiện được trách nhiệm đối với Nhà nước là xoá đói, giảm nghèo tạo sự phát triển đồng đều trong sản xuất nhất là ở nông thôn hiện nay. Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bới rũi ro, chi phí cho hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ những khuyết điểm nhất định. Nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình và nếu ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữa lấy tiền của các hộ cho riêng mình sử dụng vào mục đích khác. Khả năng tổ chức hoạt động của các tổ, hội, nhóm chưa được đồng đều và chặt chẻ còn phụ thuộc ở người tổ trưởng tốt hay chưa tốt. Các HTX, doanh nghiệp có thể lợi dụng để cung ứng hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho các hộ sản xuất. Chúng ta cũng có thể hình dung cho vay gián tiếp thông qua 2 sơ đồ sau: Cho vay gián tiếp qua các tổ chức trung gian (1) (2) Trung gian: Tổ, Đội, Hội, Nhóm Hộ sản xuất Ngân hàng TM (3) (3) (1)Phân tích tín dụng trước khi cho vay (2)Ngân hàng phát tiền vay trực tiếp cho khách hàng (3)Các tổ chức trung gian thu nợ hộ cho ngân hàng Cho vay gián tiếp thông qua HTX, Doanh nghiệp Ngân hàng TM Doanh nghiệp,HTX Hộ sản xuất (3) (1) (2) (1)Ngân hàng kí hợp đồng tín dụng với hộ sản xuất (2)Hộ sản xuất mua nguyên liệu cho sản xuất, cây giống, con giống… (3)Doanh nghiệp,HTX tập trung hoá đơn bán hàng gửi lên ngân hàng đề nghị thanh toán. Sau đó ngân hàng thu nợ của hộ sản xuất b, Quy trình cho vay hộ sản xuất,gồm 3 bước như sau: - Phân tích tín dụng Phòng tín dụng của ngân hàng chịu trách nhiệm về phân tích tín dụng và đưa ra những đánh giá chất lượng đối với hầu hết các đơn xin vay. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, khi xem xét một đơn xin vay, phòng tín dụng phải trả lời thoả đáng 3 câu hỏi sau: (1).Người xin vay có đáng tin cậy không? Sao bạn biết? (2).Liệu hợp đồng tín dụng có thể được cấu trúc để bảo vệ an toàn cho ngân hàng và người gửi tiền cũng như tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng món vay một cách hiệu quả không? (3).Liệu ngân hàng có quyền đối với tài sản và thu nhập của khách hàng trong trường hợp khoản vay có vấn đề và liệu ngân hàng có thể thu hồi vốn nhanh chóng với rủi ro và chi phí thấp được không? Khách hàng cho vay có đáng tin cậy hay không? Câu hỏi này phải được xem xét trước tiên là khách hàng có thể thanh toán được khoản vay đúng hạn hay không? Người ta tiến hành nghiên cứu chi tiết sáu khía cạnh của một đơn xin vay: tính cách, năng lực, dòng tiền mặt, tài sản thế chấp, các điều kiện và tự kiểm soát một cách nghiêm túc. Liệu một hợp đồng có được cấu trúc hoàn chỉnh hay không? Hợp đồng tín dụng phải có được cấu trúc hoàn chỉnh để thoả mãn yêu cầu của cả khách hàng và ngân hàng. Cán bộ tín dụng phải chịu trách nhiệm trước cả khách hàng vay vốn, những người gửi tiền và những cổ đông của ngân hàng. Họ phải tìm được câu trả lời chính xác để thoả mãn yêu cầu của tất cả các bên. Cán bộ tín dụng phải phác thảo một hợp đồng tín dụng đáp ứng được nhu cầu vay vốn với kế hoạch hoàn trả thích hợp. Vì các hộ sản xuất là chủ yếu có nhu cầu nhỏ, trình độ hiểu biết về tài chính thấp hơn so với các khách hàng là doanh nghiệp nên cán bộ tín dụng phải tư vấn, tính toán kỹ các phương án sản xuất để xác định được nhu cầu vốn thực của các hộ, từ đó tư vấn cho họ và hoàn thiện phương án sản xuất, và hợp đồng tín dụng. Một hợp đồng tín dụng được cấu trúc hoàn chỉnh là phải bảo vệ được ngân hàng và những người mà ngân hàng đại diện ( thường là người gửi tiền, các cổ đông), hạn chế hoạt động có thể đe doạ đến khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Quá trình thu hồi vốn cho vay bao gồm thời điểm và địa điểm phải được xác định rõ ràng trong hợp đồng tín dụng. Ngân hàng có thể các thu hồi được vốn bằng tài sản thế chấp khi kháck hàng không trả được không? Quy định tài sản thế chấp thực hiện nhằm hai mục tiêu của người cho vay: Thứ nhất, nếu người vay không có khả năng hoàn trả, ngân hàng có quyền thu giữ và bán tài sản để thu hồi lại khoản tiền đã cho vay. Thứ hai, việc thế chấp sẽ tạo ra lợi thế tâm lý cho người cho vay. Bởi vì các tài sản cụ thể đã bị thế chấp cho khoản vay nên người vay sẽ cảm thấy cần phải làm việc tích cực hơn để thanh toán khoản nợ của mình và tránh mất những tài sản giá trị đó. Tuy nhiên, các tài sản thế chấp của các hộ thường có giá trị nhỏ. Cán bộ tín dụng phải coi việc bán tài sản thế chấp thu nợ là một việc bất đắc dĩ và cuối cùng. Mà ngân hàng có thể phải gia hạn nợ, tư vấn cho các hộ trong việc tiêu thụ sản phẩm để vượt qua khó khăn đó hoặc cho hộ vay thêm vốn để tổ chức lại lại động sản xuất mới tạo ra được thu nhập nuôi sống gia đình và trả nợ cho ngân hàng. - Ngân hàng kí hợp đồng tín dụng và giải ngân cho các hộ Sau khi đã phân tích tín dụng kĩ càng, ngân hàng sẽ quyết định cho vay hoặc không cho vay.Nếu cho vay thì sẽ kí hợp đồng tín dụng với khách hàng và tiến hành phát tiền cho người vay. Ngân hàng phải thường xuyên theo dõi khoản cho vay để đảm bảo khách hàng sẽ thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi như đã cam kết vào các thời điểm đã định. Với các khoản cho vay thương mại lớn cán bộ tín dụng phải đến kiểm tra công việc kinh doanh của khách hàng định kỳ, đồng thời xem xét khách hàng có cần dịch vụ nào của ngân hàng nữa không. Tư vấn cho các hộ về thông tin về thị trường, từ đó có giúp họ định hướng trong sản xuất. - Ngân hàng tiến hành thu lãi và nợ gốc Hàng tháng cán bộ kế toán sẽ cho bộ phận tín dụng tổ chức thực hiện sao kê các khoản nợ đến hạn, quá hạn, lập thông báo gửi đến các tổ, nhóm, hội cho các thành viên biết hoặc trực tiếp cho các hộ biết, chuyển, xử lý bằng nghiệp vụ ngân hàng để thu nợ đến hạn và thu hồi nợ quá hạn hoặc xử lý rủi ro bất khả kháng, xử lý tài sản đảm bảo (nếu có). Quy trình cho vay phải chặt chẻ như thời gian phải ngắn, tạo điều kiện để các hộ có thể có vốn kịp thời cho hộ tiến hành đầu tư sản xuất kịp với thời vụ nhất là ở nông thôn. Như vừa đảm bảo tốt chất lượng cho các khoản vay hộ sản xuất của ngân hàng. 1.2 Chất lượng cho vay hộ sản xuất của ngân hàng thương mại 1.2.1 Khái niệm chất lượng cho vay hộ sản xuất của ngân hàng thương mại Ngày nay trong nền kinh tế thị trường một sản phầm nào sản xuất ra đều phải là những sản phẩm có giá trị nhằm thoả mãn những nhu cầu nào đó của người sử dụng. Có nghĩa là các sản phẩm này đều phải có chất lượng nhất định. Các nhà kinh tế cho rằng: chất lượng là sự phù hợp mục đích của người sản xuất và người sử dụng về một loại hàng hoá nào đó hay chất lượng là một sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu của khách hàng mong muốn. Ngân hàng thương mại là tổ chức hoạt động kinh doanh tiền tệ. Sản phẩm của ngân hàng là những dịch vụ cao cấp đặc biệt vô hình và chất lượng của sản phẩm này khách hàng có thể đánh giá và nhận xét được khi đã sử dụng dịch vụ đó. Hoạt động cho vay là một loại hình dịch vụ đặc biệt mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng, nó được thiết lập dưa trên sự tin tưởng và tín nhiệm. Chất lượng cho vay là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng và đảm bảo được an toàn và phát triển bền vững của ngân hàng. Chất lượng cho vay không chỉ là chất lượng của các khoản cho vay của ngân hàng thương mại. Các khoản cho vay có chất lượng khi vốn vay được khách hàng sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, tạo ra số tiền lớn hơn, thông qua đó ngân hàng thu hồi được gốc và lãi, còn doanh nghiệp có thể trả được nợ, bù đắp chi phí và thu được lợi nhuận. Mà khoản vay đó vừa tuân thủ đúng các nguyên tắc, quy định của pháp luật quy định vừa tạo ra hiệu quả kinh tế lại tạo được hiệu quả xã hội. Chất lượng cho vay hộ sản xuất cũng là sự đáp ứng yêu cầu của các hộ, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, nhưng còn phải phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ nhất định. Chất lượng cho vay hộ sản xuất được thể hiện bằng việc giải quyết mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng và với xã hội. -Đối với hộ sản xuất: Việc cho vay phải phải phù hợp với nhu cầu vốn thực tế của các hộ về lãi suất (giá cả sản phẩm), kỳ hạn, hình thức vay, phương thức thanh toán, trình tự và thủ tục vay thuận tiện vẫn đảm bảo được nguyên tắc cho vay và các điều kiện do ngân hàng quy định. Tạo điều kiện giúp các hộ có thêm vốn bổ sung thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh. -Đối với sự phát triển của xã hội: Việc cho vay phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá góp phần giải quyết việc làm, khai thác được tiềm năng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt các mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng kinh tế. Đảm bảo chất lượng cho vay là điều kiện để ngân hàng làm tốt chức năng trung gian tài chính. Đảm bảo chất lượng vay hộ sản xuất tạo điều kiện cho ngân hàng làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, cho vay góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế. Nâng cao chất lượng cho vay sẽ làm giảm tối thiểu lượng tiền thừa trong lưu thông góp phần hạn chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, tạo điều kiện phát triển nền sản xuất của cả nước tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động,giảm các hộ đói nghèo góp phần ổn định an ninh xã hội. -Đối với ngân hàng thương mại: Phạm vị, mức độ giới hạn của cho vay phải phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng, đảm bảo được nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi, hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh và trong cạnh tranh. Vì vậy nếu phủ nhận tối đa hoá lợi nhuận sẽ dẫn đến hoạt động không có hiệu quả với mục tiêu kinh doanh có lợi nhuận. Việc cho vay đáp ứng được các mục tiêu của ngân hàng thì không những chỉ mang lại lợi nhuận từ các nghiệp vụ cho vay mà còn tại điều kiện cho ngân hàng mở rộng hoạt động, tăng thu nhập từ các dịch vụ khác, ngoài ra nó còn thể hiện tiềm lực của ngân trên thị trường đó. Chất lượng công tác cho vay làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các ngân hàng do tạo thêm nguồn vốn từ việc vòng quay vốn tín dụng và thu hút được nhiều khách hàng với hình thức sản phẩm, dịch vụ tạo ra một hình ảnh tốt về biểu tượng và uy tín của ngân hàng cùng với sự trung thành của khách hàng. Nên việc củng cố và nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất là cần thiết khách quan vì sự tồn tại lâu dài của các ngân hàng. Chính vi vậy quản lý chất lượng cho vay hộ sản xuất hiện đang được ngân hàng thương mại quan tâm. Để quản lý tốt đã đưa ra những tiêu chí để đánh giá chất lượng khoản vay hộ sản xuất. 1.2.2 Chỉ tiêu đánh gía chất lượng cho vay hộ sản xuất của ngân hàng thương mại 1.2.2.1 Dư nợ quá hạn Trong các chỉ tiêu đánh giá và xết loại ngân hàng thương mại mà NHNN Việt Nam ban hành, chỉ tiêu dư nợ qua hạn là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động của ngân hàng và có thang điểm cao nhất. Một ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn thấp ( 2%) thì ngược lại là ngân hàng đó bị từ điểm tuỳ theo từng mức khác nhau và bị đánh giá là chất lượng hoạt động kém. Như vậy, nợ quá hạn là một chỉ tiêu quan trọng nhất và phản ánh rõ nét chất lượng công tác cho vay. Dư nợ quá hạn hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyết đối phán ánh số tiền ngân hàng đã cho hộ sản xuất vay mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Ngân hàng thường sử dụng chỉ tiêu tương đối, tỷ lệ nợ quá hạn tỷ lệ phấn trăm giữa dư nợ quá hạn so tổng dư nợ cho vay trong một thời kỳ nhất định. Dư nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100% Tổng dư nợ cho vay Hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng mang lại cho ngân hàng thu nhất cao nhất như lại tiềm ẩn rũi ro cao nhất, ảnh hưởng lớn tới sự an toàn và hiệu quả hoạt động kinh doanh của toàn ngân hàng. Nên việc đảm bảo các khoản cho vay thu hồi được vốn đúng hạn là rất quan trọng và thể hiện ở tỷ lệ này càng thấp thì càng tốt. Theo tiêu chuẩn, ngân hàng có tỷ lệ quá hạn càng nhỏ hơn 2% được coi là tốt, còn lớn hơn 2% được coi là chưa tốt. Chỉ tiêu nợ quá hạn có thể được đánh giá chi tiết cho từng danh mục cho vay cụ thể như: Dư nợ quá hạn cho vay ngắn hạn - Tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn = x 100% Tổng dư nợ cho vay ngắn hạn Dư nợ quá hạn cho vay trung & dài hạn - Tỷ lệ nợ quá hạn trung = x 100% và dài hạn Tổng dư nợ cho vay trung & dài hạn 1.2.2.2 Tỷ lệ nợ khó đòi Nợ quá hạn là chỉ phán ánh tổng quá chất lượng khoản vay, như một chỉ tiêu không kém phần quan trọng khi đánh gía chất lượng khoản vay mà ngân hàng có khả năng không thu hồi được là tỷ lệ nợ khó đòi hay nợ xấu. Tổng dư nợ khó đòi Tỷ lệ nợ khó đòi = x 100% Tổng dư nợ quá hạn Chỉ tiêu này càng gần bằng không càng tốt. 1.2.2.3 Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng Doanh số thu nợ trong kỳ Vòng quay vốn tín dụng = x 100% Dư nợ bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh trong một khoảng thời gian nhất định vốn cho vay của ngân hàng quay vòng được bao nhiêu lần. Số vòng quay vốn tín dụng càng cao thể hiện tốc độ luân chuyển vốn nhanh. Như chỉ tiêu này được sử dụng không nhiều, vì nó có những nhược điểm chưa phản ánh chính xác chất lượng khoản vay nhất là các khoản vay trung và dài hạn có thời gian dài mà thời kỳ đánh giá lại từng năm. Và nếu vòng quay tăng lên so với kỳ trước có nghĩa dư nợ trong kỳ giảm và vốn ngân hàng sẽ bị ứ đọng. Nên nó chỉ có ý nghĩa khi đánh giá cho những khoản cho vay ngắn hạn. 1.2.2.3 Hệ số sinh lời bình quân của đồng vốn cho vay Các NHTM là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ nên lợi nhuận là mục tiêu quan trọng. Tỷ lệ sinh lời của đồng vốn mà ngân hàng cho vay là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả thực sự của hoạt động cho vay. Ngân hàng cho các hộ sản xuất quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định với điều kiện họ phải trả cho ngân hàng một mức phí (lãi suất). Mức lãi suất đó chính là mức sinh lời của khoản vốn đó trong khoảng thời gian đó. Như để đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng trong một năm được thể hiện qua chỉ tiêu hệ số sinh lời bình quân của đồng vốn cho vay trong 1 năm. Tổng lãi thu được từ nghiệp vụ cho vay Hệ số sinh lời bình quân của = x 100% một đồng vốn cho vay Dư nợ bình quân Chỉ tiêu này cho biết bình quân 1 đồng vốn cho vay trong kỳ có mức sinh lời bao nhiêu phần trăm. Chỉ tiêu này càng cao phản ánh mức sinh lời càng tốt. 1.2.2.4 Một số chỉ tiêu khác Trên đây là các chỉ tiêu phán ánh chất lượng khoản vay của ngân hàng và nó được định lượng được. Cho vay cũng được coi là một sản phẩm dịch vụ của các NHTM cho khách hàng. Các sản phẩm này là đặc biệt, nó mang tình vô hình, khó tách biệt và tính không ổn định tạo nên chất lượng sản phẩm lại càng khó xác định ngay cả khi khách hàng đang sử dụng chúng. Tính vô hình làm cho trong kinh doanh ngân hàng phải dựa trên cở sở lòng tin vững chắc. Do quá trình cung cấp và tiêu thụ sản phẩm dịch vụ lại xãy ra đồng thời, đặc biệt là có sự tham gia trực tiếp của khách hàng và quá trình này lại phải thực hiện theo một quy trình thống nhất không tách ra từng công đoạn. Và sản phẩm được cầu thành từ nhiều yếu tố như trình độ, kỹ thuật công nghệ, khách hàng và được thực hiện trong những không gian khác nhau tạo nên tính không đồng nhất sản phẩm. Tất cả các yếu tố này đan xen và chi phối tới chất lượng công tác cho vay của ngân hàng. Do vậy, cán bộ tín dụng phải luôn tuân thủ các nguyên tắc cho vay, các quy trình thủ tục pháp lý do ngân hàng đưa ra trong công tác cho vay. Phải luôn coi chất lượng cho vay quan trọng hơn việc mở rộng cho vay, tức là đảm bảo an toàn cho khoản vay và các biện pháp bảo vệ an toàn khoản vay như có tài sản đảm bảo với những khoản vay lớn. 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay hộ sản xuất của ngân hàng thương mại Quản lý chất lượng khoản cho vay luôn là một công việc rất khó khăn đối ngân hàng. Để quản lý được tốt, cần phải phân biệt được những nhân tố ảnh hưởng tới nó. Ta có thể khái quát các nhân tố ảnh hưởng đó theo sơ đồ sau: Sơ đồ các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay hộ sản xuất Chất lượng cho vay hộ sản xuất Các nhân tố khách quan: -Sự ổn định & phát triển KTXH - Môi trường pháp luật - Môi trường văn hoá – xã hội Các nhân tố chủ quan: - Chính sách tín dụng - Quy trình cho vay - Hệ thống thông tin khách hàng - Kiểm soát nội bộ - Trang thiết bị phục vụ hoạt động CV - Công tác tổ chức 1.3.1 Các nhân tố khách quan: Một là: Môi trường pháp luật. Hoạt động ngân hàng luôn đặt dưới một hệ thống các quy định pháp luật chặt chẻ và giám sát chặt chẻ của các cơ quan chức năng của Chính phủ. Do đó, một đất nước có hệ thống pháp lý hoàn tiện và đồng bộ sẽ góp phần giúp cho ngân hàng trong việc nâng cao chất lượng hoạt động nói chung và nâng cao chất lượng hoạt động cho vay nói riêng. Còn ngược lại nếu môi trường pháp lý lỏng lẻ, không đồng bộ sẽ đẩy ngân hàng trước những thách thức, khó khăn có thể đẩy ngân hàng trước nhiều rũi ro lớn nhất là trong hoạt động tín dụng, cho vay. Môi trường pháp luật sẽ cho phép hay cấm ngân hàng mở rộng, phát triển các hình thức cho vay mới, cho vay các khách hàng có chất lượng thấp. Và qua đó ngân hàng sẽ quy định ra các nguyên tắc, điều kiện hợp đồng, quy trình và chính sách cho vay phù hợp và nâng cao được chất lượng hoạt động cho vay. Một ví dụ tiêu biểu ở nước ta hiện nay đang có sự mâu thuẩn giữa bộ luật Dân sự mới được sửa đổi bổ sung năm 2005 và Luật các tổ chức tín dụng về điều khoản quy định mức lãi suất tối đa trong các hợp đồng vay vốn của ngân hàng, điều này vô tình đã đẩy các hợp đồng tín dụng của ngân hàng trước những rũi ro pháp lý và đẩy hoạt động cho vay khó có thể kiểm soát được chất lượng. Hai là: các nhân tố văn hoá - xã hội Môi trường pháp luật sẽ tạo điều kiện cho các hộ phát triển sản xuất, tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng và đối với ngân hàng kiểm soát và nâng cao chất lượng hoạt động cho vay. Chất lượng cho vay của ngân hàng còn phụ thuộc các nhân tố văn hoá – xã hội như truyền thống văn hoá, tâm lý con người, trình độ dân trí … Nếu người dân có trình độ nhận thức cao sẽ có nhiều hiểu biết về pháp luật, dịch vụ ngân hàng nên sẽ đòi hỏi cao về chất lượng cao hơn và sẽ hiểu biết hơn về những biến động của thị trường để giúp họ lựa chọn các phương án sản xuất tổt, sử dụng vốn ngân hàng có hiệu quả. Người dân có tâm lý bao cấp, ỉ lại ngân hàng có thể phải đưa ra các điều kiện về tài sản đảo bảo để nhằm bảo đảm an toàn cho khoản vay. Ba là: sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Hoạt động của ngân hàng có chất lượng cao hay thấp: Hoạt động cho vay có chất lượng hay không, rủi ro nhiều hay ít đều có quan hệ gắn bó hữu cơ tới sự phát triển kinh tế của mỗi nước. Khi một đất nước có nền kinh tế tăng trưởng, phát triển bền vững, hoạt động của ngân hàng nhất là hoạt động cho vay ngày càng được mở rộng mang lại nguồn thu cho ngân hàng và ngược lại. Nền kinh tế là một thực thể gồm nhiều hoạt động kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chỉ cần một thay đổi nhỏ của hoạt động này sẽ kéo theo sự thay đổi hàng loạt các hoạt động khác. Hơn nữa, hoạt động của các ngân hàng thương mại có thể coi là “chiếc cầu nối” giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, chính sách kinh tế của nhà nước điều tiết để ưu tiên hay hạn chế sự phát triển của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực nào đó nhằm đảm bảo sự cân đối trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng đến chất lượng công tác cho vay. Mỗi xã hội tồn tại và luôn phát triển đòi hỏi nền kinh tế phải có sự tăng trưởng và phát triển. Một số nước đã sử dụng mức lạm phát vừa phải để tăng trưởng tín dụng, kích thích đầu tư, nhưng giới hạn của mở rộng cho vay có ảnh hưởng đến chất lượng công tác cho vay. Nếu mở rộng quy mô tín dụng quá giới hạn cho phép sẽ xảy ra lạm phát với tốc độ cao, các ngân hàng thương mại sẽ chịu thiệt hại lớn do đồng tiền mất giá (rủi ro lãi suất) chất lượng công tác cho vay sẽ bị giảm. Mức độ phù hợp giữa lãi suất ngân hàng với lợi nhuận của người sản xuất kinh doanh thu được cũng ảnh hưởng đến chất lượng công tác cho vay của ngân hàng. Nếu mức lãi suất cao hơn hoặc bằng lợi nhuận do khách hàng thu được thì họ khó có khả năng trả nợ tiền vay, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất của hộ vay vốn nói riêng và sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung trong trường hợp này tín dụng ngân hàng không còn là đòn bẩy sản xuất phát triển. Như vậy chất lượng ho vay phát triển kinh tế hộ sản xuất cũng bị ảnh hưởng. Do sản xuất mang tính thời vụ và chịu ảnh hưởng trực tiếp của vùng khí hậu nhiệt đới kèm theo mưa nhiều, mưa tập trung vào một khoản thời gian nhất định trong năm gây hạn hán, lũ lụt thêm vào đó là địa hình dốc làm cho đất đai thoái hoá bạc màu nhanh, ở nước ta có nhiều bão ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp. Khí hậu nhiệt đới ẩm kéo theo sâu bệnh, dịch bệnh phát triển nhanh ảnh hưởng đến giống cây trồng, con vật nuôi dẫn đến hoạt động cho vay của ngân hàng không mang lại chất lượng cao 1.3.2 Các nhân tố chủ quan. Một là: Chính sách cho vay. Chính sách cho vay của một ngân hàng thương mại là một hệ thống các biện pháp có liên quan đến việc khuyến khích hoặc hạn chế trong hoạt động cho vay để đạt được mục tiêu của ngân hàng thương mại và hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn trong kinh doanh tín dụng của ngân hàng. Chính sách cho vay phải đảm bảo kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của người gửi tiền, người đí vay và chính bản thân ngân hàng. Việc xây dựng chính sách cho vay phải dựa trên cơ sở khoa học và sự phù hợp trong từng thời kỳ. Một chính sách cho vay đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời từ hoạt động cho vay trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật đường lối chính sách của nhà nước. Điều này có nghĩa là chất lượng tài sản tuỳ thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng của ngân hàng thương mại có đúng đắn hay không. Ở nước ta còn rất nhiều vướng mắc trong việc ban hành chính sách, chế độ cho vay. Việc ban hành còn chưa chặt chẽ, chưa đồng bộ nên khi áp dụng gây nhiều khó khăn trong hoạt động cho vay ảnh hưởng đến chất lượng công tác cho vay. Bất kì một ngân hàng thương mại nào muốn có chất lượng từ công tác cho vay đều phải có chính sách rõ ràng phù hợp với ngân hàng mình. Hai là: công tác tổ chức của ngân hàng. Công tác tổ chức của ngân hàng cần được cụ thể hoá và sắp xếp một cách khoa học đảm bảo sự phối kết hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các phòng ban ngân hàng trong hệ thống cũng như ngân hàng với các cơ quan khác như tài chính, pháp luật… tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng giúp cho ngân hàng theo dõi quản lý sát sao các khoản cho vay, các khoản huy động vốn. Đây là cơ sở tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh và quản lý có chất lượng các khoản vốn vay. Ba là: quy trình cho vay Quy trình cho vay bao gồm những quy định phải thực hiện trong quá trình chovay thu nợ nhằm đảm bảo an toàn tài sản vốn vay bao gồm các giai đoạn: Thẩm định xét duyệt cho vay, kiểm tra giám sát việc sử dụng tiền vay và thu hồi nợ. Thẩm định và xét duyệt cho vay là giai đoạn khởi đầu và có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc đảm bảo an toàn vốn cho vay. Nếu làm tốt giai đoạn này sẽ rất quan trọng đối với việc đảm bảo an toàn vốn cho vay. Nếu làm tốt giai đoạn này sẽ giảm được rủi ro góp phần nâng cao chất lượng công tác cho vay. Khi quyết định cho vay tức là khoản tín dụng được cấp ra ngân hàng phải tiến hành kiểm tra, cán bộ tín dụng phải giám sát và theo dõi chặt chẽ quá trình sử dụng tiền vay của khách hàng. Việc kiểm tra giám sát giúp cho ngân hàng phát hiệ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7704.doc
Tài liệu liên quan