Tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản tại Ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh quảng Trị: ... Ebook Nâng cao chất lượng cho vay đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản tại Ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh quảng Trị
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1432 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản tại Ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh quảng Trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
¶
Năm 2007 đã ghi dấu nhiều sự kiện vàng của đất nước. Đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này đã mở ra cánh cửa hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều cơ hội đan xen không ít thách thức. Trong môi trường như vậy, một yêu cầu khách quan, cấp bách là phải nâng cao năng lực tài chính cho các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, đặc biệt là các NHTM Nhà nước chủ lực để có thể cạnh tranh được với các NHTM nước ngoài là vấn đề hết sức thực tế và đang được quan tâm.
Triển khai thực hiện Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện các cam kết quốc tế liên quan tới lĩnh vực Ngân hàng, thời gian qua hoạt động hội nhập quốc tế trong lĩnh vực Ngân hàng đã được triển khai tích cực với những bước đi phù hợp với mức độ phát triển và đặc thù của hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Hoạt động hội nhập quốc tế ngày càng được tăng cường, mở rộng và đi vào thực chất hơn. Mục đích của hội nhập quốc tế ngành Ngân hàng được xác định là nhằm tranh thủ thêm vốn, công nghệ, trình độ quản lý, mở rộng thị trường, tăng cường hợp tác tiền tệ Ngân hàng để xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh, một hệ thống Ngân hàng Việt Nam có sức cạnh tranh hiệu quả, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để làm được điều đó đòi hỏi các NHTM phải có năng lực tài chính vững mạnh. Tuy nhiên, một thực tế đáng lo ngại là chất lượng cho vay tại các ngân hàng hiện nay đang có xu hướng giảm sút: nợ quá hạn, nợ khó đòi tăng, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng cơ bản (XDCB). Theo thống kê của ngân hàng nhà nước cuối năm 2006, nợ quá hạn đối với lĩnh vực đầu tư XDCB chiếm 42% tỷ lệ nợ quá hạn. Nhưng không phải vì thế mà ngân hàng giảm doanh số cho vay đối với lĩnh vực này một lĩnh vực góp phần thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao điều kiện về cơ sở, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Như chúng ta đã biết, một trong những mục tiêu của ngân hàng là tối đa hoá lợi nhuận. Do đó, nó đòi hỏi ngành ngân hàng phải có giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đối với đầu tư XDCB.
Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển (ĐT và PT) Việt Nam tiền thân là ngân hàng cấp phát vốn cho xây dựng vì thế khách hàng chủ yếu và truyền thống của ngân hàng là các doanh nghiệp xây dựng. Tình hình nợ quá hạn, nợ khó thu hồi của doanh nghiệp xây dựng đang là vấn đề nhức nhối đối với ngân hàng, đặc biệt trong tình hình giá cả đầy biến động như hiện nay.
Nhận thức được điều này, trong quá trình thực tập tại ngân hàng ĐT và PT chi nhánh Quảng Trị, đề tài:
“Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản tại ngân hàng Đầu Tư và Phát triển chi nhánh Quảng Trị” là một trong những vấn đề quan trọng hiện nay của ngân hàng.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm ba chương:
Chương I: Khái quát chung về chất lượng cho vay của NHTM đối với
lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
Chương II: Thực trạng chất lượng cho vay của ngân hàng ĐT và PT chi nhánh Quảng Trị đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng ĐT và PT
chi nhánh Quảng Trị đối đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY
CỦA NHTM ĐỐI VỚI LĨNH VỰC ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
1.1 Khái quát về lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
1.1.1 Khái niệm lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
Đầu tư là hoạt động bỏ vốn vào các lĩnh vực kinh tế xã hội để mong thu được lợi ích trong tương lai. Đầu tư hay hoạt động đầu tư là việc huy động các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn. Nguồn lực bỏ ra đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, tài sản vật chất khác. Biểu hiện bằng tiền tất cả các nguồn lực đã bỏ ra trên đây được gọi là vốn đầu tư. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá,...), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật,…) và nguồn nhân lực. Có nhiều cách phân loại đầu tư:
* Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại người ta phân chia thành: Đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư tài sản vật chất và nguồn nhân lực.
* Để phục vụ cho việc lập và thẩm định dự án đầu tư người ta thường quan tâm đến các loại đầu tư sau: Đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, đầu tư trong nước, đầu tư ra nước ngoài, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đầu tư theo chiều sâu, đầu tư cơ bản.
Trong đó, đầu tư XDCB là hoạt động đầu tư để tạo ra các tài sản cố định và tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội. Đầu tư XDCB nhằm tạo ra các công
trình xây dựng theo mục đích của người đầu tư. Đó là một hoạt động kinh tế.
Trong hoạt động đầu tư, các nhà đầu tư phải quan tâm đến các yếu tố: sức lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động. Khác với đối tượng lao động (nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm...) các tư liệu lao động (như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiên vận tải,...) là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, biến đổi nó theo mục đích của mình. Bộ phận quan trọng nhất trong các tư liệu lao động là các tài sản cố định. Đó là các tư liệu lao động chủ yếu được sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình sản xuất kinh doanh như máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, nhà xưởng, các công trình kiến trúc, tài sản cố định vô hình... Thông thường một tư liệu lao động được coi là một tài sản cố định phải đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn cơ bản: Phải có thời gian sử dụng tối thiểu và phải đạt giá trị tối thiểu ở một mức quy định. Tiêu chuẩn này được quy định riêng đối với từng nước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với giá cả của từng thời kì.
Những tư liệu lao động không đủ các tiêu chuẩn quy định trên được coi là những công cụ lao động nhỏ, được mua sắm bằng nguồn vốn lưu động. Tài sản cố định được chia thành hai loại: tài sản cố định có hình thái vật chất (tài sản cố định hữu hình) và tài sản cố định không có hình thái vật chất (tài sản cố định vô hình). Để có được tài sản cố định, chủ đầu tư có thể thực hiện bằng nhiều cách như: xây dựng mới, mua sắm, đi thuê,...
1.1.2 Đặc điểm của lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
* Sản phẩm của đầu tư XDCB là những công trình như nhà máy, công trình công cộng, nhà ở, cầu cống, sân bay, cảng biển... thường gắn liền với đất đai, kết tinh từ các thành quả khoa học - công nghệ. Đó là kết quả của nhiều ngành, nhiều tổ chức kinh tế xã hội như chủ đầu tư, doanh nghiệp xây dựng, các cơ quan tư vấn thiết kế, các công ty cung ứng vật tư thiết bị, các tổ chức dịch vụ ngân hàng, tài chính, các cơ quan quản lí của Nhà nước. Điều đó cho ta thấy muốn thành lập một dự án thành công tốt phải có sự phối hợp liên ngành, liên cơ quan và luôn nằm dưới sự quản lí của Nhà nước.
* Các công trình đầu tư xây dựng thường có vốn lớn. Vì vậy, chiến lược đầu tư xây dựng luôn là trọng điểm của Nhà nước. Chỉ riêng phần xây lắp những công trình bình thường, nhỏ cũng vài trăm triệu, lớn tới hàng chục tỷ đồng.
* Đầu tư xây dựng luôn gắn liền với sự phát triển của ngành kinh tế và mức sống của nhân dân. Khi kinh tế xã hội phát triển kéo theo sản xuất xây dựng phát triển đặc bịêt trong lĩnh vực xây dựng công nghiệp và xây dựng dân dụng.
* Trong sản xuất xây dựng, người đầu tư và người sử dụng sản phẩm không phải là người thực hiện xây dựng. Trong đó luôn tồn tại những hợp đồng A - B và luôn cần hoạt động đầu tư giám sát.
* Sản phẩm xây dựng là những công trình gắn liền với địa điểm nhất định (bất động sản) do đó xây dựng chịu tác động của nhiều yếu tố địa phương. Địa điểm sản xuất luôn thay đổi, lực lượng sản xuất luôn phải di động, cơ cấu tổ chức xây lắp luôn phải thay đổi cho phù hợp với công trình làm tăng những chi phí gián tiếp.
* Đầu tư XDCB mang tính xã hội và thay đổi theo thời gian, nó chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán, trình độ văn hóa và quan điểm của người sử dụng.
* Thời gian xây dựng một công trình tương đối dài và ở ngoài trời nên chịu tác động của thời tiết, thị trường nên quá trình sản xuất khá rõ rệt. Việc tổ chức thực hiện xây dựng đòi hỏi phải luôn năng động, chính xác và nhạy cảm, đôi khi còn có một phần may rủi.
* Sản xuất xây dựng cần nhiều lao động sống, mà lao động lại là nguồn tài nguyên quý hiếm nên bài toán sử dụng lao động luôn luôn đặt ra với mọi phương án thi công.
* Công nghệ xây dựng biến đổi chậm, thị trường cạnh tranh khá tự do nên rất gay gắt.
1.1.3 Vai trò của lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản đối với nền kinh tế
Thứ nhất, đầu tư XDCB đã góp phần phát triển nhanh kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước trong thời gian qua đã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kinh tế - xã hội ở các vùng, ngành trong cả nước; quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng nông thôn và nông nghiệp, các vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kinh tế - xã hội ngày càng được phát triển, hoàn thiện, làm thay đổi diện mạo của nhiều địa phương trong cả nước, một số đô thị mới ra đời; nhiều khu công nghiệp được hình thành; nhiều sân bay, bến cảng được hiện đại hóa; giao thông đường bộ (quốc lộ, tỉnh lộ) phát triển mạnh; giao thông nông thôn được cải thiện; vận tải đường sắt được nâng cấp; bệnh viện và trạm y tế đạt tiêu chuẩn cao hơn; các trường đại học, cao đẳng, trung học dạy nghề và các trường trung học phổ thông được xây dựng khang trang hơn; các trường trung học cơ sở, tiểu học ở các vùng, kể cả các vùng khó khăn đang nhanh chóng được kiên cố hóa.
Thứ hai, đầu tư XDCB góp phần phát triển kinh tế. Tốc độ và quy mô đầu tư XDCB tăng đã góp phần quan trọng vào tăng tốc độ GDP hàng năm, tăng cường tiềm lực nền kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thứ ba, đầu tư XDCB đã góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng đáng kể năng lực sản xuất mới. Trong những năm qua, công tác XDCB đã tập trung vào những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội. Các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, thuỷ điện, bưu chính, viễn thông, nông nghiệp, nông thôn, khoa học và giáo dục - đào tạo, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng; tăng dần và cơ cấu lại ngành dịch vụ; giảm dần tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản. Trong từng ngành cũng tiếp tục có sự chuyển dịch về cơ cấu. Nhiều dự án, công trình hoàn thành đi vào sử dụng đã tăng thêm năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Dầu khí, điện lực, bưu chính viễn thông... đã trở thành những ngành công nghiệp, dịch vụ mũi nhọn của đất nước.
Thứ tư, lĩnh vực xây dựng đã tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người lao động. Một trong những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta là làm sao giảm thiểu tối đa số người thất nghiệp. Doanh nghiệp trong lĩnh vực XDCB đã phần nào tạo điều kiện cho người trong độ tuổi lao động có công ăn việc làm ổn định. Nếu các chuyên gia xây dựng như tư vấn, thiết kế, giám sát... cần có trình độ cao thì tổ thi công cũng cần nhiều công nhân “chay”, một nguồn lao động có khá nhiều trong xã hội. Điều này đã góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp, giảm bớt chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân cư, đảm bảo an ninh trật tư trong vùng miền.
1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
1.2.1 Khái niệm và nguyên tắc cho vay của ngân hàng
1.2.1.1 Khái niệm
Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, hoạt động cho vay được hiểu:
“Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó NHTM giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc lẫn lãi ”.
1.2.1.2 Các nguyên tắc cho vay
Cho vay là hoạt động đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng nhưng đồng thời nó cũng mang lại nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, để đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời đòi hỏi các ngân hàng phải bám sát các quy định của ngân hàng Nhà nước một cách chặt chẽ. Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN có hai nguyên tắc cho vay:
Thứ nhất: Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Nguyên tắc này đòi hỏi khách hàng phải cam kết sử vốn vay đúng mục đích đã ghi trong hợp đồng tín dụng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định của ngân hàng cấp trên.
Thứ hai, hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Đây là điều kiện quan trọng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Để đáp ứng cho vay, ngân hàng phải huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế và dân cư với một lãi suất nhất định và ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi đã cam kết. Do đó, ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện cam kết này. Vì lí do nào đó, khách hàng không hoàn trả hay hoàn trả chậm gốc hoặc lãi thì ngoài việc khách hàng chịu lãi phạt khách hàng còn khó khăn trong lần vay sau.
1.2.2 Vai trò nguốn vốn của ngân hàng đối với lĩnh vực đầu tư XDCB
Nguồn vốn ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nó là “bà đỡ” của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp XDCB nói riêng. Như ta đã biết, đặc điểm của ngành xây dựng là sau khi nghiệm thu công trình nhà đầu tư mới quyết toán. Vậy trong khoảng thời gian chờ quyết toán đó, các nhà thầu sẽ xoay xở vốn ở đâu khi đại đa số các doanh nghiệp XDCB là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với vốn ít, công nghệ thiếu thốn. Điều tất yếu là các doanh nghiệp đó lại gõ cửa các ngân hàng để vay vốn.
Ngân hàng cho các doanh nghiệp xây dựng vay không chỉ để mua nguyên vật liệu, trả lương công nhân... mà còn đầu tư mua sắm máy móc, trang thiết bị phục vụ cho quá trình thi công nhanh, hiệu quả, nâng cao năng suất lao động, tăng lợi nhuận, tạo uy tín cho doanh nghiệp. Nhờ có nguồn vốn ngân hàng mà các doanh nghiệp XDCB đã nắm bắt thời cơ trong các khâu lập dự án, đấu thầu, thi công công trình một cách nhanh chóng.
Giả sử rằng, lĩnh vực XDCB không có mặt nguồn vốn của ngân hàng thì các công trình có được hoàn thành hay không và hiệu quả của nó sẽ như thế nào? Hầu hết các công trình xây dựng đều cần đến nguồn vốn ngân hàng, không có một công trình nào xây dựng mà nhà đầu tư không vay vốn ngân hàng. Vậy vốn ngân hàng là chiếc cầu nối quan trọng giữa doanh nghiệp với thị trường, tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp XDCB. Đến nay, không một doanh nghiệp nào phủ nhận vai trò quan trọng của vốn ngân hàng.
1.2.3 Phân loại cho vay đối với lĩnh vực đầu tư XDCB
Phân loaị cho vay có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng. Liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Có nhiều tiêu chí để phân loại cho vay song đối với lĩnh vực đầu tư XDCB chủ yếu có một số cách phân loại sau:
Thứ nhất, căn cứ vào thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận đồng vốn đầu tiên cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Theo quyết địng số 1627/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, thời hạn cho vay được phân thành:
+ Tín dụng ngắn hạn: Là khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng.
+ Tín dụng trung hạn: Là khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng.
+ Tín dụng dài hạn: Là khoản vay có thời hạn cho vay từ 60 tháng trở lên.
Tổ chức tín dụng và khách hàng căn cứ vào thời gian xây dựng, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng để thoả thuận thời hạn
cho vay.
Các khoản vay không xác định trước thời hạn như vay luân chuyển, khách hàng thoả thuận với ngân hàng về việc ngân hàng được quyền trích tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có tiền. Việc xác định trước thời hạn thu nợ trong trường hợp này có thể gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm.
Trong XDCB, các công trình cho vay chủ yếu là công trình của Nhà nước vì thế nó được cấp vốn hàng năm theo dự toán của ngân sách Nhà nước. Có thể năm nay Nhà nước bố trí được vốn cho công trình này nhưng năm sau chưa chắc phân bổ được. Vì thế cho vay ngắn hạn là một trong những giải pháp nhằm tránh rủi ro và đó là hình thức cho vay chủ yếu ở ngân hàng.
Thứ hai, cho vay theo tài sản đảm bảo
Cho vay là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn nhất song nó chứa đựng nhiều rủi ro nhất vì thế trong nhiều trường hợp ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng. Lí do vì rủi ro luôn ẩn chứa trong quá trình xây dựng. Doanh nghiệp có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng vì các công trình chưa được thanh toán vốn hay thanh toán chậm. Những biến cố không mong đợi đó có thể gây ra cho ngân hàng những tổn thất lớn. Chính vì vậy, trừ những khách hàng có uy tín cao, còn lại phần lớn khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng của ngân hàng. Đặt yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, ngân hàng muốn có nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ hoạt động cho vay không đảm bảo trả nợ.
Căn cứ vào tài sản đảm bảo có hai loại cho vay sau:
* Cho vay có tài sản đảm bảo: là loại tín dụng mà khi cho vay ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải có tài sản đảm bảo như cầm cố, thế chấp hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
* Cho vay không có tài sản đản bảo: là loại cho vay không có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc không có sự tham gia bảo lãnh của bên thứ ba mà dựa trên lòng tin, uy tín của khách hàng để cho vay. Theo cách này thương áp dụng đối với khách hàng truyền thống, có uy tín, có tình hình tài chính vững mạnh.
Thứ ba, căn cứ vào mục đích vay vốn
Mỗi khoản vay của khách hàng đều có một mục đích nhất định, ảnh hưởng đến quyết định cho vay của ngân hàng như thời gian, số tiền cho vay, thời hạn trả nợ... Theo căn cứ trên chia thành các loại:
* Cho vay tiêu dùng: Ngân hàng cho khách hàng vay tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu mua sắm các hàng hoá lâu bền như nhà cửa, xe, đồ gỗ sang trọng, nhu cầu du lịch... đối với lượng khách hàng rộng lớn. Nguồn trả nợ cho ngân hàng là nguồn thu nhập khá ổn định của khách hàng.
* Cho vay kinh doanh, sản xuất: Gồm cho vay theo lĩnh vực thương mại - dịch vụ; lĩnh vực xây dựng, lĩnh vực công - nông nghiệp.
Thứ tư, căn cứ vào phương thức cho vay
Đây là cách phân loại phổ biến của các NHTM. Theo cách thức này các doanh nghiệp trong lĩnh vực XDCB thường có một số cách vay sau:
* Cho vay từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên không có điều kiện để được cấp thấu chi. Các công trình khi nào xác định được nguồn vốn thì chủ đầu tư mới vay vốn ngân hàng để thi công. Mỗi lần vay, khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân và thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách thành mỗi hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau. Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả. Nếu thấy có vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nỗi theo thời điểm tính lãi.
* Cho vay theo hạn mức: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận với khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên tài sản, cơ sở kế hoạch xây dựng, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kì khách hàng có thể vay trả nhiều lần, song dư nợ không vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng quy định hạn mức cuối kì. Dư nợ trong kì có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên, đến cuối kì khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kì không được vượt quá hạn mức. Phương án này áp dụng đối với khách hàng vay thường xuyên, khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ do đó tạo chủ động trong quản lí ngân quỹ cho khách hàng. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
* Cho vay theo dự án đầu tư: Là hình thức ngân hàng cho khách hàng vay để thực hiện dự án đầu tư phát triển. Mỗi doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh là cơ sở quan trọng để ngân hàng quyết định cho vay nhằm thực hiện dự án. Mức cho vay được xác định:
Mức
cho vay
=
Tổng nhu cầu
vốn dự án
-
Vốn tự có của chủ dự án tham gia vào dự án
-
Vốn khác
(nếu có)
* Cho vay theo hạn mức thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép các nhà doanh nghiệp xây dựng được chi trội (vượt mức) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoản thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là mức thấu chi. Các khoản chi vượt quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Thấu chi trên cơ sở thu - chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn, linh hoạt, phần lớn không có tài sản đảm bảo, thường sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
* Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: là hình thức cho vay mà ngân hàng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng và mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
1.2.4 Quy trình cho vay đối với lĩnh vực đầu tư XDCB
Quy trình cho vay được bắt đầu khi cán bộ tín dụng bộ phận quan hệ trực tiếp tiếp nhận hồ sơ khách hàng và kết thúc khi tất toán thanh lí hợp đồng tín dụng, được tiến hành theo ba bước:
- Thẩm định trước khi cho vay.
- Kiểm tra, giám sát trước khi cho vay.
- Kiểm tra, giám sát, thu hồi nợ sau khi cho vay.
Sơ đồ dưới đây tóm tắt quy trình tiếp nhận vốn vay, quy trình đánh giá và thẩm định:
Sơ đồ 1.1: Quy trình tiếp nhận vốn vay, đánh giá và thẩm định
Yêu cầu bổ sung thêm thông tin
Chuyển sang quy trình thẩm định tín dụng
Hỗ trợ khách hàng hoàn thiện hồ sơ nếu cần thiết
Cung cấp mẫu hồ sơ
Phỏng vấn
Từ chối
Đánh giá sơ bộ
Hoãn/yêu cầu thêm thông tin
Đạt yêu cầu
Không đạt
Không đạt
Kiểm tra lịch sử quan hệ tín dụng
Đạt yêu cầu
Kiểm tra hồ sơ
Chấp nhận hồ sơ
Đạt yêu cầu
1.3 Chất lượng cho vay của ngân hàng đối với lĩnh vực đầu tư XDCB
1.3.1 Khái niệm chất lượng cho vay của ngân hàng đối với lĩnh vực đầu tư XDCB
Chất lượng cho vay được hiểu theo đúng nghĩa là vốn vay ngân hàng sẽ đáp ứng kịp, thời đầy đủ vốn cho lĩnh vực XDCB và được đưa vào quá trình sản xuất để tạo ra số tiền lớn hơn, hoàn trả đủ cho ngân hàng cả gốc lẫn lãi theo thoả thuận, trang trải đủ chi phí và có lợi nhuận, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội.
Theo cách hiểu trên, nếu ta xét chất lượng cho vay của ngân hàng đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực XDCB thường tính trên ba giác độ là: NHTM, doanh nghiệp XDCB và nền kinh tế.
Thứ nhất, chất lượng cho vay xét trên giác độ của ngân hàng
Chất lượng cho vay thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo đúng định hướng của ngân hàng. Đồng thời phải thực hiện nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi, đảm bảo sự cạnh tranh trên thị trường. Chất lượng cho vay phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lí và có sự gia tăng, đồng thời dư nợ ngày càng tăng trưởng, doanh số thu nợ lớn, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng quy định và đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn hạn, trung và dài hạn của nền kinh tế.
Thứ hai, chất lượng cho vay xét trên giác độ khách hàng
Sự am hiểu về khách hàng sẽ làm cho ngân biết rõ nhu cầu tín dụng của khách hàng, đảm bảo nhu cầu hợp lí về vốn của họ. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, chất lượng là yêu cầu hàng đầu. Vì vậy, chất lượng cho vay là sự đáp ứng yêu cầu hợp lí của khách hàng - mà ở đây là doanh nghiệp trong lĩnh vực XDCB, đồng thời lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản không phiền hà, thu hút được khách hàng, góp phần làm lành mạnh tài chính doanh nghiệp.
Thứ ba, chất lượng cho vay xét trên giác độ nền kinh tế.
Có thể nói hoạt động cho vay trong những năm gần đây đã phản ánh rõ nét sự năng động của nền kinh tế khi chuyển sang cơ chế mới.
Hoạt động cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, làm gia tăng nguồn sản phẩm cho xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác khả năng tiềm ẩn trong nền kinh tế, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển.
1.3.2 Ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng cho vay đối với ngân hàng và lĩnh vực đầu tư XDCB
* Đối với ngân hàng
Thứ nhất, nâng cao chất lượng tín dụng đối với ngân hàng là một tất yếu và khách quan trong nền kinh tế thị trường: NHTM là loại hình doanh nghiệp chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Mục tiêu kinh doanh của ngân hàng cũng như các loại hình doanh nghiệp khác hoạt động trong cơ chế thị truờng đó là lợi nhuận.
Cho vay là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng, song phần lớn rủi ro và mất an toàn đều phát sinh ở đây. Vì vậy biện pháp để duy trì sự tồn tại và phát triển của ngân hàng là đảm bảo cho hoạt động cho vay lành mạnh. Việc nâng cao chất lượng tín dụng trong hoạt động cho vay giúp cho các ngân hàng đảm bảo sự an toàn trong hoạt động, tăng lợi nhuận và giúp ngân hàng xây dựng hình ảnh, uy tín, khẳng định vị thế của mình, tăng sự cạnh tranh trên thị trường.
Thứ hai, chất lượng tín dụng của các ngân hàng quốc doanh chưa cao. Thực tế cho thấy, các NHTM quốc doanh hiện nay năng lực tài chính yếu, chất lượng và hiệu quả kinh doanh thấp, trình độ chuyên nghiệp về quản trị điều hành và công nghệ thấp, rủi ro lớn. Nếu không nâng cao chất luợng cho vay thì sẽ dần dần bị “loại khỏi cuộc chơi” của guồng quay nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, nâng cao chất lượng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các NHTM trong nền kinh tế hội nhập. Việc hội nhập khu vực, tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá với các thoả thuận song phương và đa phương: AFTA, APEC, WTO... là một vấn đề tất yếu khách quan đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và các NHTM nói riêng. Trong bối cảnh thực hiện những điều khoản của tiến trình tự do hoá, hội nhập quốc tế như vậy làm thách thức của các NHTM phải đối mặt trở nên khóc liệt hơn. Xu hướng tự do hoá thương mại và mở cửa của thị truờng tài chính cũng như nền kinh tế Việt Nam sẽ dẫn đến những thay đổi cơ chế và môi trường hoạt động, gây tác động tới ngân hàng. Sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng, cạnh tranh giữa các NHTM trong nước và nước ngoài. Do đó, việc nâng cao chất lượng tín dụng là một yêu cầu cấp thiết buộc các ngân hàng phải thực hiện để có thể đứng vững trên thị trường.
* Đối với khách hàng
Hiện nay, các NHTM có xu hướng chuyển sang cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ bởi vì chính sách lãi suất không còn là động lực chính để thu hút khách hàng do các NHTM có mặt bằng lãi suất tương đương nhau. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng cho vay là yêu cầu khách quan và cũng là xu thế phát triển chung của hoạt động tín dụng trong giai đoạn hiện nay.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế, cung phải đáp ứng với cầu. Vì vậy, hoạt động của doanh nghiệp phải đạt hiệu quả kinh tế nhất định mới có thể đứng vững trong cạnh tranh. Để đáp ứng tốt các yêu cầu thị trường, doanh nghiệp không chỉ nâng cao chất lượng lao động, cũng cố hoàn thiện cơ chế quản lí kinh tế, chế độ hạch toán kế toán mà còn phải không ngừng cải tiến thiết bị máy móc để đạt hiệu quả thi công cao. Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng vốn lớn vượt quá khả năng vốn tự có của các doanh nghiệp xây dựng. Để giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường. Hiệu quả nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cấp cho các doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình xây dựng, từ đó tạo cho doanh nghiệp có chổ đứng vững chắc trong cạnh tranh. Nâng cao chất lượng tín dụng còn làm cho doanh nghiệp giảm được thời gian và chi phí, thủ tục nhanh gọn, đáp ứng kịp thời nguồn vốn.
* Đối với nền kinh tế
Vốn là yếu tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia và ngược lại khi nền kinh tế ngày càng phát triển tạo ra nhiều vốn. Khi ngân hàng tăng chất lượng cho vay sẽ góp phần thực hiện các mục tiêu của Nhà nước, tạo cân bằng xã hội, giải quyết công ăn việc làm cho xã hội, góp phần đưa nền kinh tế ngày càng phát triển.
1.3.3 Các chỉ tiêu đo lường chất lượng cho vay của ngân hàng đối với lĩnh vực đầu tư XDCB
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng, chiếm tỉ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Đặc biệt cho vay lĩnh vực XDCB lại càng rủi ro hơn. Vì thế, để đánh giá chất lượng hoạt động cho vay của NHTM đối với lĩnh vực XDCB, người ta thường xem xét trên một số giác độ sau:
1.3.3.1 Chỉ tiêu định lượng
* Quy mô cho vay
Quy mô hoạt động cho vay của ngân hàng dùng phản ánh tình hình hoạt động cho vay của ngân hàng về số lượng được thể hiện thông qua các chỉ tiêu cụ thể như: doanh số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ cho vay của ngân hàng tại một thời điểm cụ thể. Để đánh giá quy mô của ngân hàng thay đổi như thế nào thì cần phải theo dõi, so sánh các chỉ tiêu trên theo trật tự thời gian.
Dư nợ
cho vay
cuối kỳ
=
Dư nợ
cho vay
đầu kỳ
+
Doanh số
cho vay
trong kỳ
-
Doanh số
thu nợ
trong kỳ
Doanh số cho vay trong kì là tổng số tiền ngân hàng cho khách hàng vay thực tế trong kì. Doanh số cho vay và tốc độ tăng trưởng của nó phản ánh quy mô và xu hướng hoạt động cho vay của ngân hàng là mở rộng hay thu hẹp. Hoạt động cho vay của ngân hàng là mở rộng khi tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay dương và ngược lại.
Doanh số thu nợ trong kì là tổng các khoản thu nợ phát sinh trong kì.
Dư nợ cho vay là số tiền mà ngân hàng đang cho vay tính đến một thời điểm cụ thể.
Nếu tổng dư nợ thấp chứng tỏ ngân hàng không mở rộng được hoạt động cho vay, không thu hút được đông đảo khách hàng, chất lượng cho vay thấp. Nhưng tổng dư nợ cao thì chưa chắc chất lượng cho vay cao vì dư nợ ch._.o vay tiềm ẩn nhiều rủi ro tín dụng. Do vậy, phải xem xét tổng dư nợ trong mối quan hệ với việc phân tích các yếu tố chủ quan và khách quan có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng, để có thể đánh giá đúng đắn, chính xác, khoa học.
* Nợ qúa hạn và tỷ lệ nợ quá hạn
Rủi ro tín dụng là rủi ro phức tạp nhất, quản lý và phòng ngừa nó rất khó khăn, nó có thể xảy ra bất cứ đâu, bất cứ lúc nào. Một rủi ro nào đó từ phía người vay cũng có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Rủi ro ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay của ngân hàng nói riêng và toàn bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung. Do đó, quản lý rủi ro cần được quan tâm, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Để đo lường rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM người ta thường quan tâm tới một số chỉ tiêu đánh giá: quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn.
Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hoạt động cho vay của ngân hàng. Nó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng ở hiện tại và tương lai. Nợ quá hạn của trong lĩnh vực đầu tư XDCB là một phần hay toàn bộ số dư nợ (cả gốc lẫn lãi) của khách hàng đã đến hạn thanh toán với ngân hàng nhưng khách hàng không thanh toán được mà vẫn chưa được ngân hàng xử lí cho điều chỉnh kì hạn nợ, gia hạn nợ, xoá nợ...
Khi một món nợ không trả được vào kì hạn nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn trong đầu tư XDCB là tỷ lệ phầm trăm giữa nợ quá hạn trong lĩnh vực đầu tư XDCB và tổng dư nợ đối với lĩnh vực XDCB của ngân hàng tại một thời điểm nhất định. Thời điểm này thường là cuối tháng, cuối quý hay cuối năm.
Tỷ lệ nợ quá hạn
trong lĩnh vực đầu tư XDCB
=
Nợ quá hạn trong lĩnh vực đầu tư XDCB
*
100%
Tổng dư nợ trong lĩnh vực đầu tư XDCB
Tỷ lệ nợ quá hạn tại một thời điểm nhất định cũng ảnh hưởng đến thu nhập và tính thanh khoản của ngân hàng. Nếu tỷ lệ này vượt quá giới hạn nhất định thì ngân hàng sẽ gặp rủi ro mất vốn. Điều này có nghĩa nợ quá hạn càng thấp thì chất lượng cho vay càng cao. Theo thông tư Bộ Tài Chính số 49/2004/TT-BTC ngày 04 tháng 06 năm 2004 hướng dẫn chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của các tổ chức tín dụng: các ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% tổng dư nợ hàng năm được xếp loại A nghĩa là chất lượng tín dụng tương đối tốt, từ 5% - 8% xếp loại B và từ 8% trở lên xếp loại C nghĩa là chất lượng tín dụng yếu kém. Các NHTM luôn cố gắng duy trì tỷ lệ này ở mức thấp nhất có thể.
Ngoài ra, để đánh giá hoạt động cho vay an toàn hay không, ngân hàng có thể xem xét tỷ lệ giữa cho vay có TSĐB trên tổng dư nợ.
* Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi
Nợ khó đòi là các khoản nợ qúa hạn và kèm theo một số chỉ tiêu khác như quá hạn một thời kì gia hạn nợ hoặc không có TSĐB hoặc có TSĐB nhưng không bán được, con nợ thua lỗ triền miên, phá sản.
Tỷ lệ nợ khó đòi cho vay XDCB được tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa nợ khó đòi cho vay XDCB với tổng dư nợ cho vay XDCB.
Tỷ lệ nợ khó đòi cho vay
XDCB
=
Nợ khó đòi cho vay XDCB
*
100%
Tổng dư nợ cho vay XDCB
Tỷ lệ nợ khó đòi càng cao chứng tỏ khả năng thu hồi nợ của ngân hàng càng cao, chất lượng cho vay tốt.
* Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển vốn tín dụng trong hoạt động cho vay XDCB.
Vòng quay
vốn tín dụng
=
Doanh số thu nợ XDCB
Dư nợ bình quân XDCB
Vòng quay tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay của ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kì sản xuất kinh doanh. Với một số vốn nhất định nhưng vòng quay vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, mặt khác ngân hàng có vốn để đầu tư vào các lĩnh vực khác. Như vậy chỉ tiêu này càng cao phản ánh tình hình tổ chức quản lí tín dụng tốt, chất lượng tín dụng cao.
* Chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì hoạt động kinh doanh phải có lãi. Mục tiêu quan trọng của NHTM là lợi nhuận trên cơ sở đảm bảo an toàn. Muốn có lợi nhuận cao thì doanh thu phải lớn hơn chi phí. Để tăng lợi nhuận, ngân hàng phải tìm mọi biện pháp tăng thu đồng thời giảm chi nghiệp vụ của mình. Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, việc tăng thu thông qua biện pháp tăng lãi suất cho vay là không có thể thực hiện được, bởi vì hầu hết các ngân hàng ra sức cạnh tranh nhau thông qua việc định ra lãi suất cạnh tranh. Vì vậy, giảm chi phí nghiệp vụ, thủ tục đơn giản, thuận tiện cho khách hàng và phong cách phục vụ tốt là biện pháp khả thi hơn cả.
Để đánh giá được lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay XDCB so với tổng lợi nhuận cho vay của ngân hàng, ta dùng tỷ lệ:
Lợi nhuận từ hoạt động cho vay XDCB
Tổng lợi nhuận cho vay
Tỷ lệ này càng cao phần nào chứng tỏ chất lượng tín dụng của các khoản vay XDCB càng cao.
Trên đây là một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng. Dựa vào các chỉ tiêu này, ta có thể nhận định được chất lượng tín dụng của ngân hàng là cao hay thấp. Tuy nhiên, ta cần xem xét trong một thời gian dài để thấy được khuynh hướng biến động của nó, từ đó có thể đưa ra những nhận xét, đánh giá chính xác hơn.
1.3.3.2 Chỉ tiêu định tính
Sản phẩm ngân hàng cung cấp cho khách hàng là sản phẩm vô hình, là một loại dịch vụ tiện ích. Để đánh giá được chất lượng dịch vụ, nó phụ thuộc vào mức độ thoả mãn của khách hàng khi sử dụng dịch vụ. Sản phẩm dịch vụ của ngân hàng có những đặc điểm hết sức khác biệt so với các sản phẩm của ngành sản xuất khác. Chúng không tồn tại dưới dạng vật chất mà tồn tại dưới dạng dịch vụ được thực hiện thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng. Trong cho vay, sản phẩm mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng là quyền sử dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định do khách hàng và ngân hàng có thoả thuận trước. Do đó, ngân hàng quan tâm tới nhu cầu của khách hàng, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ, tin cậy với khách hàng và đổi mới trang thiết bị phục vụ khách hàng.
Việc đưa ra các chỉ tiêu định lượng để đánh giá chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng không phải là dễ dàng. Thông thường vấn đề này thường được xem xét ở một số chỉ tiêu như sau:
- Thủ tục, trình tự cho vay của ngân hàng có đơn giản, thuận tiện cho khách hàng không? Khoản cho vay có kịp thời cung ứng cho khách hàng khi khách hàng cần không? Đặc biệt là quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng có thân thiện, trên cơ sở tin cậy và tương trợ với nhau không?
- Lãi suất cho vay của ngân hàng có phù hợp không? Bản thân khách hàng là người đi vay, phải trả lãi cho ngân hàng, đây là một khoản chi phí để sử dụng vốn vay. Nếu chi phí này cao hơn chi phí khả năng sinh lời của dự án mà khách hàng đầu tư thì ắt hẳn sẽ khó khăn trong việc hoàn trả. Mặt khác, để mở rộng mối quan hệ với khách hàng, các NHTM có thể đưa ra các mức lãi suất hấp dẫn để thu hút khách hàng đến với mình. Do đó, ngân hàng phải quan tâm đến vấn đề này, lãi suất ngân hàng đưa ra phải linh hoạt vừa đảm bảo thu hút khách hàng vừa đảm bảo lợi nhuận của ngân hàng và mức lãi suất của thị trường trong từng thời kì.
- Khả năng áp dụng công nghệ hiện đại trong quy trình nghiệp vụ của ngân hàng cao hay thấp? Khoa học công nghệ phát triển kéo theo sự biến đổi to lớn trên nhiều lĩnh vực và toàn bộ đời sống xã hội, không ngoại trừ hoạt động ngân hàng. Chương trình hiện đại hoá hoạt động ngân hàng đã được quan tâm trong những năm qua. Chính điều này đã tạo điều kiện cho ngân hàng tiến hành hoạt động của mình nhanh chóng, chính xác, giảm bớt thời gian xử lí nghiệp vụ và tạo lòng tin với khách hàng sẽ được cung cấp những dịch vụ tốt nhất.
1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng đối với lĩnh vực đầu tư XDCB
Chất lượng cho vay có ý nghĩa rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Để quản lí tốt chất lượng cho vay nói chung và đối với lĩnh vực đầu tư XDCB nói riêng, đòi hỏi các ngân hàng phải hiểu rõ tác động của những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay và đo lường mức độ ảnh hưởng của nó. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay đối với lĩnh vực đầu tư XDCB trên thực tế có rất nhiều nhưng chủ yếu gồm hai nhân tố sau:
1.4.1 Nhân tố chủ quan
* Về phía ngân hàng
- Chiến lược kinh doanh của ngân hàng: luôn thể hiện các mục tiêu dài hạn cơ bản của một ngân hàng, là sự lựa chọn đường lối hoạt động và phân bổ của các nguồn lực cần thiết để đạt được các mục tiêu này. Không có chiến lược kinh doanh, ngân hàng sẽ luôn bị động và ảnh hưởng tới các hoạt động của ngân hàng. Đặc biệt, các kế hoạch phân bổ nguồn lực ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng như hoạt động Marketing, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực.
- Chính sách cho vay của NHTM: Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của ngân hàng. Với tầm quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện với một chính sách rõ ràng, được xây dựng và hoàn thiện theo nhiều năm, đó là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng bao gồm hạn mức cho vay, lãi suất, kì hạn của các khoản vay, hình thức cho vay... Có thể nói chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Bất kì một chính sách tín dụng nào của NHTM trong nền kinh tế đều phải đạt ba mục tiêu: lợi nhuận, an toàn và sự lành mạnh của các khoản tín dụng. Nếu ngân hàng có chính sách cho vay đúng đắn, hợp lí, chặt chẽ, đồng bộ với mức lãi suất thích hợp, hình thức cho vay đa dạng sẽ tạo cho cán bộ tín dụng có phương hướng triển khai hoạt động cho vay một cách thuận lợi, nhanh chống, tiết kiệm thời gian, chi phí và công sức, góp phần hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng cho vay trong lĩnh vực XDCB.
- Chất lượng công tác thẩm định: Trong quy trình cho vay đối với lĩnh vực XDCB, có thể nói thẩm định là một khâu quan trọng nhất. Đó là việc phân tích một cách khách quan, toàn diện các thông tin, số liệu cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoàn trả của khách hàng. Do đó, cán bộ ngân hàng phải thẩm định chính xác, khoa học tính khả thi của dự án, thẩm định khách hàng và thẩm định tài sản đảm bảo trước khi ra quyết định cho vay. Nếu cán bộ ngân hàng không thực hiện nghiêm túc khâu thẩm định sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hoàn trả của khách hàng sau này, dẫn đến rủi ro rất lớn.
- Công tác kiểm tra, kiểm soát sau khi cho vay: Kèm theo việc cấp tín dụng, ngân hàng phải kiểm tra, kiểm soát sau khi cho vay một cách chặt chẽ. Công việc này bao gồm việc kiểm tra nội bộ và kiểm tra giám sát khách hàng.
Kiểm soát nôi bộ sẽ giúp cho cán bộ điều hành công việc đúng quy định pháp luật, phát hiện kịp thời các sai sót, lệch lạc trong hoạt động tín dụng, từ đó có các biện pháp khắc phục kịp thời. Bên cạnh đó, việc kiểm tra, kiểm soát nội bộ sẽ giúp cho ngân hàng hoạt động thông suốt và có hiệu quả.
Kiểm tra, giám sát khách hàng: sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ hay không? Quá trình xây dựng có những thay đổi bất lợi gì, có đấu hiệu lừa đảo hay không... Quá trình này cho phép ngân hàng thu thập thêm thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt, cho thấy chất lượng tín dụng được đảm bảo. Ngược lại, khi chất lượng các khoản vay bị đe doạ, ngân hàng cần có các biện pháp xử lí kịp thời. Ngân hàng được quyền chủ động thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng, ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung thêm tài sản thế chấp hoặc giảm số tiền vay... khi cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Đối với ngân hàng, đây là bước nguy hiểm. Do vậy, tài trợ cho các dự án gắn liền với việc kiểm soát khách hàng để ngăn chặn ý đồ sử dụng tiền vay không đúng mục đích của khách hàng.
- Chất lượng, trình độ cán bộ nhân viên ngân hàng: Trong quá trình trước, trong và sau khi giải ngân, cán bộ tín dụng đóng vai trò khá quan trọng. Họ là người tiếp xúc trực tiếp, hướng dẫn khách hàng vay vốn, phân tích khách hàng, kiểm tra, kiểm soát khách hàng.
Do đó, cán bộ tín dụng ngoài việc giỏi chuyên môn, nghiệp vụ thì cần phải năng động sáng tạo và đặc biệt có tư cách đạo đức tốt. Ví như, khi khách hàng không trả được nợ theo đúng hạn, khách hàng cấu kết với cán bộ tín dụng để thực hiện việc đảo nợ. Như thế khách hàng vừa trả được nợ và cán bộ tín dụng không bị kỷ luật. Việc làm như vậy sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc quản lí rủi ro.
* Về phía khách hàng
- Năng lực nội tại của khách hàng: Năng lực nội tại của khách hàng bao gồm năng lực quản lí và năng lực tài chính. Đây là nhân tố quyết định đến việc khách hàng sử dụng vốn vay có hiệu quả hay không?
Năng lực quản lí : Năng lực quản lí của khách hàng tốt tác động đến tiến độ thi công các công trình, quản lí và sử dụng vốn tốt, giảm được chi phí trong xây dựng, doanh nghiệp làm ăn có lãi. Ngược lại, nếu năng lực của khách hàng có hạn, họ không dự đoán được những biến động trên thị trường như thời gian đầu năm 2008 sự tăng giá sắt thép, xăng dầu đột ngột, cộng thêm với sự tăng mức lãi suất cho vay của ngân hàng kéo theo nhiều công trình bị ngưng lại, giảm tiến độ thi công, điều đó làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Năng lực tài chính: Năng lực tài chính thể hiện ở số vốn tự có và số vốn tham gia vào quá trình thi công. Bên cạnh đó, ngân hàng còn đánh giá năng lực tài chính của khách hàng thông qua các nhóm chỉ tiêu tài chính như nhóm chỉ tiêu khả năng thanh toán, chỉ tiêu sinh lời... Năng lực tài chính của khách hàng vay càng cao thì khả năng thu hồi vốn vay càng lớn, chất lượng cho vay tăng.
- Đạo đức, uy tín của khách hàng: Trong quá trình hợp tác, chữ tín là cơ sở tạo lập, thúc đẩy, duy trì quan hệ làm ăn lâu dài. Nếu một doanh nghiệp làm ăn có uy tín, sử dụng vốn đúng mục đích, có thiện chí trả nợ cho ngân hàng thì chất lượng cho vay được nâng cao. Đạo đức của người đi vay cũng ảnh hưởng đến tính chính xác của những thông tin mà họ cùng cấp cho cán bộ ngân hàng. Khi khách hàng vay vốn ngân hàng, cán bộ tín dụng luôn kiểm tra lịch sử vay vốn của khách hàng để quyết định có nên cho vay hay không. Nếu khách hàng không trung thực, hoàn trả vốn và lãi không đúng theo hợp đồng tín dụng thì sẽ xảy ra rủi ro đạo đức.
1.4.2 Nhân tố khách quan
+ Môi trường pháp lí: Hoạt động của ngân hàng mang lại nhiều lợi nhuận nhưng cũng hàm chứa nhiều rủi ro. Chính vì vậy, sự điều hành khắt khe cũng quản lí chặt chẽ của Nhà nước thông qua các quy định, nghị định cụ thể là rất cần thiết đối với hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật không đầy đủ, không phù hợp, thiếu đồng bộ, chặt chẽ hay các văn bản dưới luật còn nhiều mâu thuẫn sẽ kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp và ngân hàng. Ví như, Ngân hàng ĐT và PT Việt Nam tiền thân là ngân hàng cấp phát vốn cho doanh nghiệp xây dựng, khi kinh tế đất nước chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị truờng có sự quản lí của Nhà nước thì ngân hàng ĐT và PT trở thành đơn vị cho vay chủ yếu trong lĩnh vực XDCB. Mấy năm trước, tỷ lệ nợ quá hạn trong lĩnh vực XDCB tăng nhưng khi có công văn số 95/CV-TĐV1 của ngân hàng ĐT và PT Việt Nam nên phần nào đảm bảo an toàn tín dụng cho vay đối với XDCB.
- Môi trường kinh tế: Điều kiện kinh tế là nhân tố khách quan thể hiện qua sự tăng trưởng kinh tế tốt đẹp hoặc trì trề của nền kinh tế. Nền kinh tế đang ở thời kì thuận lợi, giá cả ổn định, cạnh tranh lành mạnh sẽ tác động tích cực đến tiến độ thi công của các công trình, nhiều dự án công trình mới được xây dựng. Đặc biệt, những chủ đầu tư nước ngoài hay tư nhân sẽ ký kết nhiều hợp đồng, dự án hơn. Điều đó làm nhu cầu vay vốn ngày càng cao, khả năng trả nợ cao, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng đối với lĩnh vực XDCB.
- Môi trường chính trị - xã hội: Môi trường chính trị - xã hội là một điều kiện vô cùng quan trọng trong việc tạo lòng tin đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư dài hạn. Các điều kiện xã hội như phong tục tập quán, thói quen, trình độ dân trí, trật tự an ninh xã hội, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đó cũng ảnh hưởng đến quá trình đầu tư, thi công dự án, kéo theo đó là ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.
- Môi trường tự nhiên: Thiên tai, địch hoạ là những biến cố ngẫu nhiên nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Chính những rủi ro không lường trước này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động cho vay và dẫn đến rủi ro là khách hàng không có khả năng trả được nợ. Trong lĩnh vực xây dựng, điều kiện tự nhiên tác động đến tiến độ thi công các công trình rất lớn. Nhiều công trình phải thi công theo mùa như các công trình thuỷ lợi phải xây xong trước mùa mưa. Mưa lũ làm cho sắt thép rỉ rét ảnh hưởng đến chất lượng công trình.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
ĐT VÀ PT CHI NHÁNH QUẢNG TRỊ ĐỐI VỚI LĨNH VỰC
ĐẦU TƯ XDCB
2.1 Giới thiệu chung về ngân hàng ĐT và PT chi nhánh Quảng Trị
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng ĐT và PT chi nhánh Quảng Trị được thành lập ngày 26/4/1987. Nó là một đơn vị thành viên của ngân hàng ĐT và PT Việt Nam, có trụ sở tại số 29 đường Hùng Vương - Thị xã Đông Hà - Quảng Trị.
Được thành lập trong thời kì cơ chế tập trung, với lúc đầu 30 cán bộ công nhân viên, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, hoạt động chủ yếu chỉ mang tính phụ thuộc vào Nhà nước, Nhà nước bao cấp hoàn toàn nên kết quả hoạt động kinh doanh còn yếu. Đến năm 1990, nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có điều tiết của Nhà nước, hoạt động của ngân hàng càng trở nên khó khăn: gánh chịu việc xử lí tồn động nặng nề của cơ chế cũ; tình hình tài chính mất cân đối; nợ quá hạn khó đòi cao do tổ chức tài chính làm ăn thua lỗ; lạm phát cao; lãi suất thực âm; tỷ giá ngoại tệ còn bao cấp. Nhưng trong quá trình phát triển, với sự cải cách trong lĩnh vực ngân hàng của Đảng và Nhà Nước, sự chỉ đạo sát sao của UBND tỉnh Quảng Trị và sự phấn đấu không ngừng của cán bộ công nhân viên nên đã đưa ngân hàng thoát khỏi những khó khăn bước đầu.
Mấy năm trước, hoạt động chủ yếu của chi nhánh là kinh doanh tiền tệ, tín dụng cho các hộ nông dân sản xuất. Nhưng những năm gần đây, Quảng Trị cùng với cả nước đã mở cửa hội nhập nên tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng phát triển. Đối tượng khách hàng của chi nhánh ngày càng phong phú, không chỉ trên lĩnh vực nông nghiệp mà cả lĩnh vực công - thương nghiệp - dịch vụ, không chỉ cá nhân mà các đơn vị, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Quá trình phát triển của ngân hàng không những làm cho ngân hàng mở rộng về quy mô mà cả mở rộng lĩnh vực hoạt động. Chí nhánh đã thành lập thêm hai phòng giao dịch: phòng giao dich chợ Đông Hà (năm 2005) và phòng giao dịch Vĩnh Linh (năm 2006). Sự triển khai thành công dự án hiện đại hoá ngân hàng vào ngày 6/6/2006 đã đánh dấu sự phát triển về ứng dụng công nghệ ngân hàng trong hoạt động kinh doanh. Dự án tạo điều kiện thuận lợi để đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ ngày càng hiện đại, đáp ứng nhu cầu của thị trường và quá trình hội nhập quốc tế.
Cùng với sự phát triển đó, số lượng cán bộ, công nhân viên ngày càng tăng. Tính đến cuối năm 2007 là 89 người. Trong đó 90% cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng. Ngân hàng nhận thức được con người là nhân tố quyết định mọi thành công, ngân hàng ĐT và PT Quảng Trị thực hiện phương châm “mỗi cán bộ BIDV phải là một lợi thế trong cạnh tranh” về cả năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức nên những năm gần đây, ngân hàng luôn chú trọng đến công tác tuyển dụng, đào tạo, họp báo trao đổi kiến thức, nghiệp vụ, luôn đảm bảo những quyền lợi hợp pháp của người lao động, không ngừng chăm lo, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, công nhân viên.
Chính vì thế, chi nhánh đã có một đội ngũ tương đối năng động, nhiệt tình, trình độ chuyên môn khá cao. Đây là nhân tố quyết định giúp ngân hàng sẵn sàng cạnh tranh với bảy ngân hàng khác trên cùng địa bàn.
Cũng là thành viên tích cực của cộng đồng, ngân hàng ĐT và PT chi nhánh Quảng Trị luôn quan tâm đến cộng đồng, tham gia tích cực vào các chương trình xã hội, chương trình từ thiện xoá đói, giảm nghèo, khắc phục thiên tai, quỹ khuyến học, quỹ ủng hộ nạn nhân chất độc màu da cam…
Trải qua hơn 20 năm xây dựng và trưởng thành, từ một ngân hàng khởi đầu với nhiều khó khăn, đến nay chi nhánh ngày càng khẳng định vị trí vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường, đứng vững và phát triển trong cơ chế mới và đã trở thành ngân hàng lớn trong tỉnh.
2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của từng phòng, ban trong ngân hàng
* Phòng Tín dụng 1 (Phòng tín dụng doanh nghiệp)
- Bộ phận quan hệ trực tiếp với khách hàng, thiết lập, duy trì và mỡ rộng các mối quan hệ với khách hàng doanh nghiệp, giám sát tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, phân tích khách hàng vay thay quy trình nghiệp vụ, đánh giá tài sản đảm bảo nợ vay, tổng hợp ý kiến tham gia của các đơn vị chức năng có liên quan, đề xuất hạn mức tín dụng đối với khách hàng, lập báo cáo tín dụng.
- Bộ phận hỗ trợ tác nghiệp: Quản lý khoản vay, nhập dữ liệu về các khoản vay và hệ thống chương trình phần mềm ứng dụng của ngân hàng. Đảm bảo cơ sở dữ liệu về khách hàng vay trong hệ thống luôn chính xác, cập nhật. Xem xét định kỳ và áp dụng các quy trình hướng dẫn nội bộ về quản trị tác nghiệp các khoản vay.
* Phòng Tín dụng 2 (Phòng tín dụng cá nhân): Phòng tín dụng 2 cũng có chức năng, nhiệm vụ như phòng tín dụng 1 nhưng đối với khách hàng là cá nhân.
* Phòng dịch vụ khách hàng: Xử lý các giao dịch với khách hàng như giải ngân vốn vay trên cơ sở hồ sơ giải ngân được duyệt; mở tài khoản tiền gửi, xử lý các yêu cầu của khách hàng về tài khoản. Thực hiện giao dịch nhận tiền gửi và rút tiền bằng nội, ngoại tệ của khách hàng. Tiếp nhận thông tin phản hồi từ khách hàng và thực hiện công tác tiếp thị sản phẩm dịch vụ đến khách hàng. Lập báo cáo hoạt động theo nghiệp vụ quy định.
* Phòng Tiền tệ - Kho quỹ: Thực hiện nghiệp vụ tiền tệ - kho quỹ như quản lý nghiệp vụ của chi nhánh; thu chi tiền mặt; quản lý vàng, bạc, kim đá quý; quản lý chứng chỉ có giá, hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố; thực hiện xuất nhập tiền mặt để đảm bảo thanh toán tiền mặt cho chi nhánh; thực hiện các dịch vụ tiền tệ, kho quỹ cho khách hàng.
* Phòng kế hoạch - Thẩm định: Tổ chức thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường, phân tích môi trường kinh doanh, xây dựng và theo dõi, kiểm tra chính sách, kế hoạch, chiến lược kinh doanh. Tổ chức quản lý, huy động vốn, cân đối vốn và các quan hệ vốn của ngân hàng ĐT và PT chi nhánh Quảng Trị. Nghiên cứu phát triển, lựa chọn, ứng dụng sản phẩm mới về huy động vốn, hướng dẫn, phổ biến, lưu trữ các văn bản pháp quy, văn bản chế độ. Thẩm định và góp ý kiến về quyết định cấp tín dụng cho các dự án cho vay, bảo lãnh, các khoản tín dụng ngắn hạn vượt mức phán quyết của trưởng phòng tín dụng. Quản lý danh mục và theo dõi hoạt động tín dụng.
* Phòng kế toán - Tài chính: Tham mưu cho giám đốc trong việc thực hiện đúng chế độ kế toán hiện hành theo các quy định của Nhà nước đảm bảo hạch toán nhanh chống, chính xác, kịp thời. Đồng thời tổ chức công tác hạch toán kinh doanh tiền tệ, tín dụng và quản lí ngân quỹ trong toàn chi nhánh. Phối hợp với các phòng ban trong việc lập, phân tích báo cáo tổng hợp theo định kì, phục vụ các quyết định tài chính quan trọng, giúp việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của cấp trên dễ dàng. Lập các kế hoạch xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị. Tổ chức, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra công tác hạch toán kế toán, chế độ báo cáo kế toán của các phòng, đơn vị trực thuộc. Hậu kiểm tra chứng từ thanh toán của các phòng và chi nhánh. Nộp thuế, trích lập và quản lý và sử dụng các quỹ.
* Phòng Tổ chức - Hành chính: Hướng dẫn thực hiện các chế độ chính sách về trách nhiệm và quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động. Thực hiện công tác hành chính, công tác hậu cần và công tác bảo vệ an ninh, an toàn cho con người, tài sản, tiền bạc của chi nhánh và của khách hàng đến giao dịch tại chi nhánh.
* Phòng kiểm soát nội bộ: Kiểm tra việc thực hiện các quy chế, chế độ tại chi nhánh, thực hiện chức năng kiểm toán tại chi nhánh theo quy chế hoạt động. Hướng dẫn, đôn đốc việc tuân thủ pháp luật và đề xuất các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật trong chi nhánh.
* Phòng điện toán: Quản lý hệ thống máy móc thiết bị tin học, mạng quản trị hệ thống. Hướng dẫn, đào tạo hỗ trợ các đơn vị trực thuộc chi nhánh, vận hành hệ thống tin học phục vụ kinh doanh, quản trị điều hành các chi nhánh.
2.1.3 Chức năng, lĩnh vực hoạt động của ngân hàng
2.1.3.1 Chức năng
Cũng như các ngân hàng khác, ngân hàng ĐT và PT chi nhánh Quảng Trị thực hiện các chức năng:
- Trung gian tài chính: Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
- Tạo phương tiện thanh toán.
- Trung gian thanh toán: Thay mặt khách hàng ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ như thanh toán bằng séc, uỷ nhiện thu, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ... cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Ngân hàng ĐT và PT chi nhánh Quảng Trị thực hiện thanh toán bù trừ với các ngân hàng khác.
2.1.3.2 Các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng
* Dịch vụ gửi tiền:
Nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam đối với các thành phần kinh tế, tổ chức cá nhân với các kì hạn đa dạng, lãi suất linh hoạt; tiết kiệm, kì phiếu, trái phiếu; tiền gửi không kì hạn.
* Thanh toán trong nước: Mở tài khoản cho cá nhân, tổ chức kinh tế; chuyển tiền nhanh, thanh toán trong nước; thu hộ, chi hộ; chi trả kiều hối; dịch vụ chi trả cho người lao động, xuất khẩu.
* Dịch vụ ngân hàng điện tử: Chuyển tiền điện tử; dịch vụ ATM; Homebanking; dịch vụ Smart @ ccount.
* Dịch vụ ngân hàng ngoại hối: Bảo lãnh vay vốn nước ngoài; thanh toán quốc tế với các phương tiện như thư tín dụng, nhờ thu, chuyển tiền; mua bán ngoại tệ; tư vấn thanh toán xuất nhập khẩu; tài trợ uỷ thác; đại lí bảo hiểm.
* Sản phẩm tín dụng: Cho vay ngắn, trung dài hạn các tổ chức kinh tế, cá nhân; cho vay các dự án đầu tư phát triển; cho vay tiêu dùng đối với các cán bộ công nhân viên; tài trợ xuất nhập khẩu; phát hành bảo lãnh các loại; chiết khấu thương phiếu, chứng từ có giá; tư vấn đầu tư thương mại, thẩm định.
2.2 Thực trạng chất lượng cho vay đối với lĩnh vực đầu tư XDCB tại ngân hàng ĐT và PT chi nhánh Quảng Trị
2.2.1 Doanh số cho vay đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thì cho vay đối với khách hàng hoạt động trong lĩnh vực XDCB chiếm số lượng lớn. Trên cơ sở một chính sách tín dụng phù hợp và linh hoạt của ngân hàng, hoạt động cho vay XDCB được tiến hành theo định hướng chung “Tăng cường huy động vốn, tích cực giải quyết tồn tại, phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững”.
Bảng 2.1: Doanh số cho vay đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản qua
thời kì 2005-2007
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số tiền
Tỉ lệ
(%)
Số tiền
Tỉ lệ
(%)
Số tiền
Tỉ lệ
(%)
Doanh số cho vay
385.323
100
509.011
100
697.345
100
Doanh số cho vay XDCB
115.597
30
252.467
42
269.175
38,6
Trong đó
1 Ngắn hạn
86.698
75
199.456
79
273.396
84
2 Trung, dài hạn
28.899
25
53.020
21
52.075
16
(Nguồn:Báo cáo thường niên của chi nhánh NH ĐT và PT Quảng Trị)
Qua bảng số liệu trên ta thấy, quy mô doanh số cho vay của chi nhánh trong thời gian qua ngày càng tăng. Doanh số cho vay không những tăng về số lượng tương đối mà cả phần tuyệt đối. Điều đó thể hiện hoạt động tín dụng của chi nhánh ngày càng đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp xây dựng. Năm 2005, doanh số cho vay chỉ đạt 115.597 triệu đồng (chiếm 30% tổng doanh số cho vay) thì đến năm 2006 đã đạt đến 252.476 triệu (chiếm 42% tổng doanh số cho vay), tăng 54% so với năm 2005. Nhưng đến năm 2007, mặc dù cho vay đối với XDCB tăng từ 252.476 triệu đồng lên đến 325.471 triệu đồng nhưng tỷ lệ doanh số cho vay trong XDCB so với tổng doanh số cho vay của toàn chi nhánh giảm xuống, chỉ chiếm 40%. Điều này phản ánh đúng thực trạng của ngân hàng trong những năm qua, doanh số cho vay tăng theo quy mô chung của nguồn vốn huy động và nhu cầu của nền kinh tế. Riêng năm 2007, ngân hàng thực hiện chính sách “đa dạng hoá lĩnh vực cho vay” nhằm hạn chế rủi ro. Đồng thời, công tác thẩm định đối với các dự án XDCB ngày càng thêm chặt chẽ, rút kinh nghiệm những khoản vay khó đòi trước vì thế tỷ lệ cho vay XDCB so với tổng doanh số
cho vay đã giảm đi 3,4%.
Trong công tác cho vay XDCB thì chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Tỷ lệ cho vay ngắn hạn so với trung và dài hạn trong cho vay XDCB ngày càng tăng, từ 75% (năm 2005) đến 79% (năm 2006) và đạt 84% năm (2007). Thực tế ở hầu hết các ngân hàng cho vay ngắn hạn đối với lĩnh vực xây dựng chiếm phần lớn và vì đặc thù của ngành xây dựng là thi công theo mùa. Đồng thời, để tránh rủi ro do các đơn vị đấu thầu, thanh quyết toán không có khả năng đảm bảo cân đối tài chính, nhiều công trình vẫn được triển khai thi công trong khi chưa xác định được nguồn vốn và kế hoạch bố trí vốn từng năm đã dẫn đến việc kéo dài thời gian thanh quyết toán. Do đó, ngân hàng cho vay trong thời gian ngắn hạn là hợp lí nhất. Các khoản cho vay dài hạn chủ yếu cho vay để mua sắm máy móc, trang thiết bị thi công.
Khách hàng của ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Doanh số cho vay các doanh nghiệp xây dựng ngoài quốc doanh chiếm hơn 90%, doanh nghiệp quốc doanh chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ gần 10%. Điều này phản ánh đúng chính sách tín dụng của ngân hàng ĐT và PT nói chung và của chi nhánh nói riêng là hạn chế cho vay các doanh nghiệp quốc doanh do phần lớn các doanh nghiệp quốc doanh hiện nay làm ăn thua lỗ, trì trệ trong việc trả nợ ngân hàng.
Biểu đồ sau đây thể hiện rõ tình hình cho vay của chi nhánh
Biểu đồ 2.1 Biểu đồ thể hiện doanh số cho vay XDCB
2.2.2 Tình hình dư nợ đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
Dư nợ là chỉ tiêu hàng đầu mà bất kỳ một ngân hàng nào muốn tồn tại và phát triển cũng đều phải quan tâm. Dư nợ phản ánh số tiền khách hàng còn nợ tại một thời điểm. Hiện nay, các ngân hàng trên thế giới nói chung và ngân hàng Việt Nam nói riêng dùng chỉ tiêu tổng dư nợ để phản ánh quy mô tín dụng.
Dự nợ tại ngân hàng ĐT và PT chi nhánh Quảng Trị trong XDCB thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.2: Dư nợ cho vay đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản qua các
thời kì 2005-2007
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số tiền
Tỉ lệ
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7690.doc