Nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV)

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN * * * PHAN THỊ BÌNH CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP XÂY LẮP TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Hà Nội, Năm 2010 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN * * * PHAN THỊ BÌNH CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP XÂY LẮP TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính Ngân hàng NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ĐỨC HƯỞNG Hà Nội, Năm 2010 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BIDV: Ngân hàng Đầu tư

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1585 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và Phát triển Việt Nam CBTD: Cán bộ tín dụng DNXL: Doanh nghiệp xây lắp SXKD: Sản xuất kinh doanh NHTM: Ngân hàng thương mại TCTD: Tổ chức tín dụng DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ 1. Sơ đồ 2.1- Mô hình tổ chức hệ thống BIDV 32 2. Sơ đồ 2.2- Cơ cấu bộ máy quản lý của BIDV 33 3. Bảng 2.3- Kết quả kinh doanh giai đoạn 2007-2009 34 4. Bảng 2.4- Cơ cấu nguồn vốn huy động của BIDV giai đoạn 2007-2009 35 5. Bảng 2.5- Một số chỉ tiêu quy mô và cơ cấu tín dụng của BIDV 37 6. Bảng 2.6- Cơ cấu dư nợ tín dụng theo ngành nghề 38 7. Bảng 2.7- Nợ quá hạn, nợ xấu của BIDV 39 8. Bảng 2.8- Thu dịch vụ ròng của BIDV giai đoạn 2007-2009 40 9. Bảng 2.9- Tình hình dư nợ của DNXL giai đoạn 2007-2009 44 10. Bảng 2.10- Tỷ lệ nợ quá hạn của DNXL giai đoạn 2007-2009 45 11. Bảng 2.11- Phân loại nợ quá hạn của DNXL theo thời gian 46 12. Bảng 2.12- Nhóm nợ 48 13. Bảng 2.13- Nợ xấu của DNXL 49 14. Bảng 2.14- Tỷ lệ dư nợ DNXL có TSBĐ 50 15. Bảng 2.15- Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng đối với DNXL 51 16. Bảng 2.16- Quy mô lợi nhuận từ hoạt động cho vay đối với DNXL 52 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là Ngân hàng thương mại Nhà nước có bề dày lâu đời nhất trong hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam. Qua chặng đường 53 năm xây dựng và trưởng thành, từ một ngân hàng chuyên ngành có nhiệm vụ chủ yếu là cấp phát, cho vay và quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế thuộc kế hoạch nhà nước, đến nay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã trở thành Ngân hàng thương mại Nhà nước hàng đầu Việt Nam, hoạt động theo mô hình tổng công ty nhà nước hạng đặc biệt với tính hệ thống cao. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã khẳng định được vai trò chủ lực và thế mạnh trong việc cho vay vốn phục vụ đầu tư phát triển, góp phần Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Doanh nghiệp xây lắp từ lâu đã là khách hàng truyền thống của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, dư nợ đối với loại hình doanh nghiệp này luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ của Ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp xây lắp còn tồn tại nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và thu nhập của ngân hàng. Một trong những biểu hiện của tình trạng trên là tỷ lệ nợ quá hạn cao, nợ xấu còn ở mức cao…Chính vì vậy, việc chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân dẫn đến hạn chế trên, từ đó đề ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp là việc cần thiết. Xuất phát từ mong muốn trên, đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” đã được tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu - Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp xây lắp của Ngân hàng thương mại. - Từ lý thuyết nghiên cứu kết hợp với thực trạng hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam để đánh giá những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: Trong bài viết chỉ xét trên giác độ ngân hàng và tập trung nghiên cứu chất lượng cho vay dưới giác độ cho vay đối với các doanh nghiệp xây lắp để phục vụ hoạt động thi công xây lắp tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong giai đoạn 2007-2009. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp thống kê kinh tế, điều tra chọn mẫu, tổng hợp so sánh một cách logic để làm sáng tỏ các vấn đề đặt ra nhằm tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với các doanh nghiệp xây lắp. 5. Kết cấu của Luận văn Ngoài lời mở đầu và kết luận, Luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp của ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam CHƯƠNG 1: CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP XÂY LẮP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp của Ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của doanh nghiệp xây lắp 1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp xây lắp Để hiểu một cách đầy đủ về doanh nghiệp xây lắp, trước tiên chúng ta cần đưa ra định nghĩa về lĩnh vực hoạt động thi công xây lắp. Hoạt động thi công xây lắp được hiểu một cách cơ bản là những công việc thuộc quá trình xây dựng và lắp đặt thiết bị các công trình, hạng mục công trình. Công trình xây dựng là sản phẩm của công nghệ lắp đặt gắn liền với đất (bao gồm cả khoảng không, mặt nước, mặt đất, mặt biển, thềm lục địa) được tạo thành bởi vật liệu xây dựng, thiết bị và lao động. Doanh nghiệp xây lắp là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký ngành nghề kinh doanh trong lĩnh vực thi công, xây lắp. DNXL có hai lĩnh vực hoạt động chủ yếu là (1) hoạt động tìm kiếm hợp đồng xây dựng và (2) hoạt động bàn giao công trình hoàn thành và thanh quyết toán hợp đồng xây dựng với chủ đầu tư công trình. Các Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp có trách nhiệm: - Đăng ký hoạt động xây dựng tại các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. - Chịu trách nhiệm trước pháp luật và Chủ đầu tư về các nội dung đã cam kết trong hợp đồng, bao gồm cả số lượng, chất lượng, tính chính xác của sản phẩm theo thời gian thực hiện hợp đồng, có quy định và hướng dẫn sử dụng công trình trước khi bàn giao công trình xây dựng, thực hiện bảo hành chất lượng sản phẩm xây dụng và công trình theo quy định. - Thực hiện chế độ bảo hiểm công trình xây dựng, thực hiện an toàn lao động, bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình xây dựng. Thông tin rộng rãi về năng lực hoạt động của doanh nghiệp để Chủ đầu tư biết và lựa chọn. 1.1.1.2. Đặc trưng của doanh nghiệp xây lắp So với các ngành sản xuất khác, ngành XDCB có những đặc điểm về kinh tế - kỹ thuật riêng biệt, thể hiện rất rõ nét ở sản phẩm xây lắp và quá trình tạo ra sản phẩm của ngành. Những đặc điểm riêng của ngành và đặc điểm sản phẩm xây lắp sẽ chi phối công tác tổ chức quản lý, điều hành. Việc nghiên cứu nắm rõ các đặc điểm này, giúp Ngân hàng đưa ra những quyết định chính xác, nắm rõ được những hạn chế và đề ra những phương án khắc phục nhằm nâng cao chất lượng cho vay, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Về sản phẩm xây lắp - Sản phẩm xây lắp có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc: Mỗi sản phẩm đều có thiết kế riêng theo yêu cầu của nhiệm vụ thiết kế, mặc dù sản phẩm xây lắp có thể giống nhau về hình thức song về kết cấu, quy phạm thì không giống nhau hoàn toàn nếu xây dựng ở những địa điểm khác nhau, nên mặc dù có thể sản xuất hàng loạt theo mẫu thiết kế thống nhất nhưng chi phí xây dựng không thống nhất. Bên cạnh đó, với đặc điểm quy mô (thể tích) lớn và phức tạp của sản phẩm xây lắp dẫn đến chu kỳ sản xuất dài, vốn đầu tư bỏ vào để xây dựng dễ bị ứ đọng, gây lãng phí, hoặc ngược lại nếu thiếu vốn sẽ làm công tác thi công bị gián đoạn, kéo dài thời gian xây dựng. Do đó, từ đặc điểm này, yêu cầu công tác quản lý tài chính phải có kế hoạch, tiến độ thi công, dự toán cụ thể cho từng công trình, từng hạng mục công trình và dự toán chi tiết theo thiết kế tổ chức thi công, có biện pháp kỹ thuật thi công tốt để rút ngắn thời gian xây dựng, tiết kiệm vật tư, lao động, tiết kiệm chi phí quản lý để hạ giá thành xây dựng. - Sản phẩm xây lắp có tính chất cố định, nơi sản xuất gắn liền với nơi tiêu thụ sản phẩm: Các tư liệu sản xuất (các máy móc, thiết bị thi công, công nhân,...) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này làm khó khăn cho công tác tổ chức sản xuất. Việc bố trí các công trình tạm phục vụ thi công (lán trại, kho tàng…) phối hợp với các phương tiện, máy móc thiết bị nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp và tốn kém. Do đó, để giảm thiểu lãng phí, thất thoát trên đòi hỏi trước khi khởi công xây dựng công trình phải làm thật tốt công tác chuẩn bị đầu tư và chuẩn bị xây dựng; hiệu quả kinh doanh sẽ phụ thuộc rất lớn vào trình độ tổ chức quản lý của đơn vị xây lắp. - Sản phẩm xây lắp chịu ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, khí hậu, địa chất, thuỷ văn... Chất lượng và giá cả (chi phí xây dựng) sản phẩm xây lắp phụ thuộc trực tiếp của các điều kiện tự nhiên. Các Doanh nghiệp xây lắp không thể lường trước được hết những khó khăn do tác động của thời tiết, khí hậu. Rủi ro xảy ra tác động tới tiến độ thi công công trình, giá thành công trình, thậm chí cả chất lượng công trình. Do đó, các doanh nghiệp xây lắp phải lập tiến độ thi công, tổ chức thi công hợp lý, có phương án sử dụng cũng như bảo quản nguyên, nhiên vật liệu để tránh bị tác động xấu của các điều kiện tự nhiên và quản lý hiệu quả chi phí. - Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu), do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp không thể hiện rõ. Đối tượng hạch toán chi phí cụ thể trong xây lắp là các hạng mục công trình, các giai đoạn của hạng mục hay nhóm hạng mục. Do đó, DNXL phải lập dự toán chi phí và tính giá thành theo từng hạng mục công trình hay giai đoạn của hạng mục công trình. - Sản phẩm xây lắp liên quan đến nhiều ngành khác nhau trong quá trình xây dựng và sử dụng: Tài sản cố định của các ngành khác nhau là sản phẩm của ngành xây lắp. Do vậy, chất lượng sản phẩm xây lắp liên quan đến chất lượng đầu tư của các ngành và hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế. b. Đặc điểm về tổ chức quản lý và sản xuất kinh doanh - Hoạt động kinh doanh của DNXL là hoạt động mang tính đặc thù, sản phẩm của họ là những công trình xây dựng (từ công trình xây dựng công nghiệp đến dân dụng, cầu đường, cơ sở hạ tầng, xây lắp điện…), các DNXL chỉ sản xuất những sản phẩm mà chủ đầu tư đặt hàng và được tiêu thụ khi chủ đầu tư chấp thuận theo các điều kiện đã ký kết. Hoạt động sản xuất kinh doanh của DNXL phần nào phụ thuộc vào khả năng phát triển, đầu tư và mở rộng của nền kinh tế, nếu đầu tư của nền kinh tế tăng trưởng cao thì thị trường tiêu thụ của DNXL có khả năng được mở rộng. Trên cơ sở đó, hoạt động cho vay của Ngân hàng đối với khách hàng DNXL để tham gia thi công các công trình phục vụ cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế cũng có khả năng mở rộng. - Kết quả sản xuất kinh doanh của DNXL được thực hiện khi các công trình xây lắp (sản phẩm xây lắp) được chủ đầu tư chấp thuận và thanh toán, và chỉ khi đó DNXL mới có khả năng trả nợ ngân hàng. Vì vậy, quan hệ tín dụng giữa DNXL và Ngân hàng, hay nói cách khác chất lượng cho vay đối với DNXL sẽ phụ thuộc lớn vào mối quan hệ giữa chủ đầu tư (bên A) và DNXL (bên B), mối quan hệ này thể hiện ở: Chất lượng thực hiện công trình, phương thức nghiệm thu thanh toán của chủ đầu tư, tiến độ xây dựng, nguồn vốn xây dựng cơ bản của chủ đầu tư… c. Về tình hình tài chính của doanh nghiệp xây lắp - Nhu cầu vốn lưu động thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh: Do tính chất hoạt động của DNXL nên cơ cấu vốn có đặc thù riêng khác với ngành công nghiệp và các ngành khác, cụ thể là nhu cầu vốn lưu động (vốn kinh doanh doanh ngắn hạn) cho hoạt động SXKD chiếm tỷ trọng lớn nhất. Các Ngân hàng thường cho vay các DNXL chủ yếu để tài trợ vốn lưu động phục vụ thi công các công trình. Đối với nhu cầu đầu tư mới, thay thế và cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất, Ngân hàng chỉ tham gia tài trợ một phần, phần còn lại các DNXL phải bỏ vốn tự có của mình. - Tốc độ chu chuyển vốn trong các DNXL thường không cao: Do đặc điểm xây dựng một đơn vị sản phẩm đòi hỏi phải bỏ nhiều chi phí, thời gian thi công kéo dài dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn sản xuất ở các hạng mục công trình thi công dở dang. Khi công trình hoàn thành, công tác nghiệm thu, quyết toán và thanh toán còn phải phụ thuộc vào chủ đầu tư. Các DNXL thường xuyên bị chiếm dụng vốn trong thời gian dài nên tốc độ quay vòng vốn lưu động thường rất thấp, nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho thi công lớn. Trong khi đó vốn chủ hữu chiếm tỷ lệ nhỏ trên tổng nguồn vốn nên để đủ vốn hoạt động, các DNXL phải huy động vốn bên ngoài mà chủ yếu là vốn vay ngân hàng. - Khả năng tự chủ về tài chính thấp: Thực tế hiện nay, vốn chủ sở hữu của DNXL thường chỉ chiếm khoảng 5-20% trong tổng nguồn vốn, còn lại là vốn vay ngân hàng và vốn chiếm dụng khác. Do đó gánh nặng về chi phí lãi vay lớn gây áp lực đến hiệu quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Lợi nhuận đạt được không cao nên khả năng bổ sung vốn chủ sở hữu và đầu tư nâng cao năng lực sản xuất thi công thường hạn chế. Trong khi đó, do sản lượng thi công tăng lên cùng với yêu cầu cao về chất lượng công trình đòi hỏi phải có những thiết bị thi công hiện đại nên nhu cầu vốn (cả vốn lưu động và vốn đầu tư trung dài hạn) ngày càng tăng. Vì vậy, các DNXL phải vay ngân hàng ngày càng nhiều để tài trợ cho nhu cầu vốn của mình. - Ngoài ra, trong thực tế hiện nay, để phát triển hoạt động, tăng năng lực tài chính, hiệu quả kinh doanh nhiều DNXL không chỉ hoạt động dưới hình thức nhà thầu thi công mà còn tiến hành đầu tư các dự án đầu tư bất động sản, thủy điện, kinh doanh nhà hàng khách sạn… Do đó, nhu cầu vốn vay của các doanh nghiệp này ngày càng tăng cả về vốn ngắn hạn và trung dài hạn; các ngân hàng khi thẩm định, tài trợ vốn cho DNXL cũng phải chú trọng đến tính chất hoạt động đa ngành, đa nghề của DNXL để quyết định mức cho vay, điều kiện cho vay phù hợp. 1.1.2. Cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp của Ngân hàng thương mại 1.1.2.1. Những nét đặc thù trong hoạt động cho vay đối với DNXL Xuất phát từ đặc trưng hoạt động của Doanh nghiệp xây lắp, nghiệp vụ cho vay phục vụ thi công xây lắp cũng có những đặc điểm riêng: Thứ nhất, DNXL với vai trò Nhà thầu thi công có nhu cầu vay vốn lưu động để thanh toán các chi phí phát sinh cho Nhà cung cấp đầu vào khi dòng tiền chủ đầu tư thanh toán cho các Nhà thầu và dòng tiền Nhà thầu phải thanh toán cho các Nhà cung cấp là không trùng khớp nhau. Đối tượng cho vay vốn lưu động phục vụ thi công xây lắp là những chi phí trực tiếp liên quan và phục vụ cho doanh nghiệp thực hiện các Hợp đồng thi công xây lắp, cụ thể như sau: - Chi phí nguyên vật liệu phục vụ thi công xây lắp: cát, đá sỏi, thuê xe vận chuyển, xi măng, sắt thép và các chi phí nguyên vật liệu khác. - Chi phí nhân công: Lương Cán bộ nhân viên, công nhân xây dựng, nhân công thuê ngoài và các chi phí nhân công khác. - Chi phí thuê thiết bị máy móc thi công, chi phí sửa chữa nhỏ thiết bị, công cụ phân bổ vào công trình. - Chi phí ban đầu triển khai thi công công trình như: Chi phí lán trại, chuyển máy móc thiết bị và các chi phí khác. - Chi phí chung. - Thanh toán cho nhà thầu phụ (B’) trong trường hợp khách hàng là Nhà thầu chính. - Các chi phí khác phục vụ thi công công trình xây lắp trong dự toán xây lắp công trình. Thứ hai, việc cho vay phải căn cứ trên cơ sở Hợp đồng giao nhận thầu xây lắp đã được ký kết giữa Bên nhận thầu và Bên giao thầu; Bên giao thầu có thể chính là Chủ đầu tư hoặc là người được Chủ đầu tư ủy quyền. Đồng thời, để xác định doanh số cho vay đối với một công trình cần dựa vào các yếu tố: Giá trị hợp đồng xây lắp công trình; Vốn tự có và huy động khác tham gia vào công trình là bao nhiêu? Lợi nhuận định mức của công trình là bao nhiêu? vốn chủ đầu tư ứng trước tiền là bao nhiêu?... từ đó xác định doanh số cho vay đối với một công trình. Xuất phát từ đặc điểm này, để đảm bảo chất lượng khoản vay, quản lý được rủi ro tín dụng, các ngân hàng thường phải thực hiện cho vay theo từng công trình, đánh giá hiệu quả kinh doanh, khả năng trả nợ của từng công trình để đưa ra quyết định cho vay hay không. Thứ ba, Thời gian cho vay vốn lưu động thường kéo dài hơn thời gian cho vay của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khác (Doanh nghiệp thương mại, sản xuất kinh doanh khác). Vì đặc điểm của ngành xây lắp là thời gian thi công, nghiệm thu, thanh toán và quyết toán của công trình thường kéo dài, vòng quay vốn lưu động của các doanh nghiệp xây lắp thường lâu hơn vòng quay vốn lưu động của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khác. Thứ tư, Nguồn trả nợ vay ngân hàng của DNXL là nguồn vốn thanh toán giá trị khối lượng hoàn thành công trình, do vậy trước khi cho vay, ngân hàng phải xác định rõ nguồn vốn thanh toán của từng công trình về cơ cấu nguồn vốn (vay Ngân hàng, Vốn tự có, nguồn vốn khác), thời gian thanh toán, điều kiện thanh toán. Sau khi cho vay phải theo dõi chặt chẽ tiến độ thi công, kiểm soát dòng tiền thanh toán để thu hồi nợ vay. Vì vậy, ngoài DNXL, ngân hàng phải tăng cường mối liên hệ đối với Chủ đầu tư, thường xuyên tiến hành đối chiếu công nợ giữa Chủ đầu tư và Nhà thầu để biết được nguồn thu của Công trình. Ngoài ra, để bám sát nguồn tiền thanh toán công trình, Ngân hàng cho vay có thể yêu cầu Chủ đầu tư thực hiện chuyển tiền thanh toán cho nhà thầu thi công về tài khoản tiền gửi của Nhà thầu tại Ngân hàng cho vay. Biên bản xác nhận chuyển tiền về tài khoản của khách hàng tại Ngân hàng có thể ký giữa hai bên đó là Khách hàng và Chủ đầu tư và xuất trình Biên bản đó cho Ngân hàng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp để đề phòng Khách hàng và Chủ đầu tư ký lại Xác nhận chuyển tiền thì Biên bản xác nhận chuyển tiền sẽ được ký 3 Bên giữa Ngân hàng, Khách hàng và Chủ đầu tư. Thứ bảy, khi cho vay phải thường xuyên kiểm tra tình hình thi công công trình, tiến độ thi công, thanh toán có đúng theo quy định trong Hợp đồng giao nhận thầu hay không để từ đó phát hiện ra những khó khăn vướng mắc và có biện pháp ứng xử kịp thời. Chất lượng cho vay đối với DNXL sẽ phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn xây dựng của chủ đầu tư (Bên A) thanh toán cho nhà thầu thi công và chất lượng công trình, phương thức nghiệm thu thanh toán của chủ đầu tư, tiến độ xây dựng... 1.1.2.2. Các hình thức cho vay DNXL Hoạt động cho vay đối với DNXL của ngân hàng có nhiều hình thức đa dạng, việc phân loại chỉ có tính chất tương đối. Tuỳ thuộc vào tiêu thức phân loại mà có thể chia ra các hình thức cho vay khác nhau. a. Căn cứ vào thời hạn cho vay Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng với ngân hàng vì liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của hoạt động tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Dựa vào căn cứ này, có thể phân chia cho vay đối với DNXL thành các loại như sau: * Cho vay ngắn hạn: Là các khoản cho vay có thời hạn đến 12 tháng. Cho vay ngắn hạn đối với DNXL thường bao gồm hai loại sau: - Cho vay từng lần (cho vay theo món): + Đối tượng áp dụng: Đối với khách hàng có quan hệ không thường xuyên, có nguồn thu không ổn định và một số khách hàng có nhu cầu vay theo món khác như vay bù đắp thiếu hụt tài chính tạm thời, vay bắc cầu… + Mức cho vay thường được xác định như sau: Mức cho vay = Chi phí cần thiết cho SXKD - Vốn tự có - Vốn khác Chi phí cần thiết cho SXKD = Giá trị hợp đồng thi công xây lắp - Khấu hao cơ bản - Thuế - Lợi nhuận định mức + Mức trả nợ và kỳ hạn trả nợ có thể được xác định dựa trên cơ sở từng chu kỳ sản xuất kinh doanh, hoặc khả năng thu tiền tại thời điểm gần nhất của khách hàng. - Cho vay theo hạn mức tín dụng: + Đối tượng áp dụng: Đối với các khách hàng có sản xuất kinh doanh ổn định, có hiệu quả và có quan hệ vay thường xuyên, tín nhiệm với ngân hàng và có nhu cầu vay vốn theo hạn mức. CF SX cần thiết trong năm KH Vốn tự có Các khoản Hạn mức TD = ------------------- - và coi như - huy động Vòng quay VLĐ tự có khác Chi phí SX = Tổng giá trị sản lượng - Khấu hao - Thuế - Lợi nhuận Cần thiết (doanh thu thuần) theo KH cơ bản định mức + Việc xác định thời hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ, mức trả nợ phải căn cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, vòng quay vốn lưu động, dòng tiền của doanh nghiệp để xác định thời hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ phù hợp. Đối với cho vay thường xuyên thì mức trả nợ được xác định dựa vào mức độ luân chuyển, chu kỳ sản xuất, và do ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau. + Trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng cho vay theo hạn mức, khách hàng có thể vừa rút vốn vay, vừa trả nợ tiền vay song phải đảm bảo số dư nợ không được vượt hạn mức tín dụng đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng hạn mức. * Cho vay trung dài hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở lên. Trong đó các khoản cho vay có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng là cho vay trung hạn, thời hạn từ 60 tháng trở lên là cho vay dài hạn. Cụ thể: + Cho vay trung hạn đối với DNXL: Từ trên 12 tháng đến 60 tháng tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, máy móc thiết bị thi công... + Cho vay dài hạn đối với DNXL: Từ trên 60 tháng trở lên tài trợ cho các công trình xây dựng đầu tư cơ sở hạ tầng như nhà, sân bay, cầu đường, cấp nước đô thị... có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu. Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển vốn của DNXL - Cho vay vốn lưu động: Là hình thức cho vay để tài trợ cho tài sản lưu động của DNXL như chi phí nguyên vật liệu phục vụ thi công xây lắp, chi phí nhân công, chi phí thuê thiết bị máy móc thi công, chi phí sửa chữa nhỏ thiết bị, công cụ phân bổ vào công trình... - Cho vay vốn cố định: Là hình thức cho vay để tài trợ cho tài sản cố định của DNXL như phương tiện vận tải, máy móc thiết bị thi công, văn phòng, trụ sở... c. Căn cứ vào hình thức bảo đảm tiền vay - Cho vay không có bảo đảm (cho vay tín chấp): Là loại hình cho vay mà ngân hàng cho vay chủ yếu dựa vào uy tín của khách hàng, không đòi hỏi phải có tài sản bảo đảm. - Cho vay có bảo đảm: Là loại hình cho vay mà ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba hoặc bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. 1.1.2.2. Quy trình cho vay DNXL Qui trình cho vay là tổng hợp các nguyên tắc, qui định của ngân hàng trong việc cho vay. Trong đó xây dựng các bước đi cụ thể theo một trình tự nhất định, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Quy trình tín dụng được bắt đầu từ khi cán bộ tín dụng bộ phận quan hệ trực tiếp với khách hàng tiếp nhận hồ sơ khách hàng và kết thúc khi tất toán thanh lý hợp đồng tín dụng, được tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Nhận và kiểm tra hồ sơ vay vốn của khách hàng Khi một khách hàng có nhu cầu đề nghị ngân hàng cung cấp các sản phẩm tín dụng, cán bộ tín dụng trao đổi với khách hàng, tìm hiểu sơ bộ về ngành nghề sản xuất kinh doanh của khách hàng, nhu cầu vay, mục đích vay vốn…từ đó CBTD xác định xem liệu dự án, phương án vay vốn đó có nằm trong phạm vi và khả năng tổ chức của khách hàng hay không, đề xuất vay vốn có phù hợp với chiến lược phát triển, chính sách tín dụng của ngân hàng không. Nếu phù hợp, CBTD hướng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ vay vốn, đầu mối tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra tính đầy đủ, hợp pháp, hợp lệ của các tài liệu trong hồ sơ. Thông thường hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp gồm có: - Đề nghị vay vốn - Hồ sơ pháp lý của doanh nghiệp (Quyết định thành lập, điều lệ doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, mã số thuế, các quyết định bổ nhiệm các chức danh…) - Hồ sơ về khoản vay (hồ sơ về tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn hoặc người bảo lãnh; hồ sơ về dự án, phương án vay vốn…). - Hồ sơ về bảo đảm tiền vay Qua các hồ sơ trên, ngân hàng bước đầu có những thông tin sơ bộ về khách hàng để từ đó bắt đầu tiến hành việc thẩm định cho vay. Bước 2. Thẩm định trước khi cho vay * Thẩm định khách hàng vay vốn Cán bộ tín dụng thẩm định khách hàng vay vốn theo những nội dung sau: - Tìm hiểu và phân tích về khách hàng, tư cách và năng lực pháp lý, năng lực điều hành, quản lý sản xuất kinh doanh, mô hình tổ chức, bố trí lao động trong doanh nghiệp. - Thẩm định đánh giá năng lực tài chính của khách hàng. - Phân tích quan hệ tín dụng của khách hàng với ngân hàng mình và với các TCTD khác. - Chấm điểm và xếp loại khách hàng * Thẩm định dự án/phương án vay vốn của khách hàng Đây là bước quan trọng nhằm đưa ra kết luận về tính khả thi hiệu quả về mặt tài chính của phương án sản xuất kinh doanh/dự án đầu tư, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra để phục vụ cho việc quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay. Đối với cho vay ngắn hạn: - Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kỳ trước - Khả năng tăng trưởng doanh thu, sản lượng kỳ này - Tình hình nghiệm thu, thanh quyết toán các công trình đã thi công kỳ trước. - Kế hoạch bố trí vốn của các công trình dự kiến thi công ký tới. - Tính toán khả năng tham gia vốn tự có, huy động các nguồn vốn kinh doanh ngắn hạn khác của DNXL. Đối với cho vay trung dài hạn: - Đánh giá sơ bộ dự án đầu tư: Mục tiêu đầu tư Sự cần thiết đầu tư Quy mô vốn đầu tư: tổng vốn đầu tư, cơ cấu vốn đầu tư Phương án tiêu thụ sản phẩm Dự kiến tiến độ triển khai thực hiện dự án - Đánh giá thị trường mục tiêu và khả năng tiêu thụ sản phẩm - Đánh giá khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào của phương án/dự án - Đánh giá các nội dung về phương diện kỹ thuật, tổ chức quản lý thực hiện - Thẩm định tổng vốn đầu tư và tính khả thi phương án nguồn vốn - Xác định nhu cầu vốn đầu tư theo tiến độ thực hiện dự án - Đánh giá hiệu quả về mặt tài chính của dự án. - Đánh giá rủi ro của dự án * Phân tích đánh giá các biện pháp bảo đảm tiền vay Bảo đảm tiền vay là việc khách hàng dùng các loại tài sản của mình hoặc của bên thứ ba để cầm cố, thế chấp, bảo lãnh nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ với ngân hàng. Tài sản bảo đảm là cơ sở để xác lập trách nhiệm người vay, được coi là nguồn trả nợ thứ hai trong cho vay. Cần lưu ý không coi đây là điều kiện duy nhất để quyết định cho vay, không xem là phương tiện duy nhất để bảo đảm an toàn vốn vay. Việc thẩm định bảo đảm tiền vay phải đảm bảo các nội dung chính sau: - Kiểm tra tình trạng thực tế của tài sản bảo đảm tiền vay. - Phân tích, thẩm định bảo đảm tiền vay: Tuỳ thuộc vào loại tài sản bảo đảm mà kiểm tra các yếu tố thích hợp (về nguồn gốc pháp lý, giấy tờ về quyền sở hữu...) và định giá bảo đảm tiền vay. Bước 3. Xét duyệt cho vay, ký hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay. Sau khi thẩm định, cán bộ tín dụng phải ra quyết định chấp thuận hay không chấp thuận cho vay, lập tờ trình trình lãnh đạo phê duyệt. Việc quyết định cho vay trên cơ sở các thông tin thu thập, phân tích từ khâu thẩm định, ngoài ra còn phải dựa trên các thông tin thu thập được từ thị trường và các cơ quan có liên quan, chính sách tín dụng của ngân hàng, khả năng nguồn vốn của ngân hàng… - Ký kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, giao nhận giấy tờ và tài sản bảo đảm. Sau khi thực hiện các công việc này, cán bộ tín dụng chuyển hồ sơ đã được phê duyệt và toàn bộ tài liệu cho bộ phận quản lý giải ngân. - Làm thủ tục giao, nhận giấy tờ và tài sản bảo đảm tiền vay Bước 4. Giải ngân, theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn vay - Giải ngân: Là việc phát tiền vay cho khách hàng trên cơ sở mức cho vay đã cam kết theo hợp đồng tín dụng. Trước khi thực hiện giải ngân như phê duyệt, CBTD quản lý giải ngân phải xác nhận rằng các tài liệu và điều kiện đã được đáp ứng đầy đủ. CBTD quản lý giải ngân chịu trách nhiệm nhận hồ sơ kèm chứng từ thanh toán của khách hàng, kiểm tra các căn cứ phát tiền vay theo qui định. Việc phát tiền vay phải đảm bảo nguyên tắc có hàng hoá, dịch vụ đối ứng, phù hợp với mục đích vay vốn, có hoá đơn, chứng từ cung cấp hàng hoá, dịch vụ của bên bán hàng… - Kiểm tra và giám sát khoản vay là quá trình thực hiện các bước công việc sau khi cho vay nhằm hướng dẫn, đôn đốc người vay sử dụng vốn đúng mục đích, đảm bảo hiệu quả và hoàn trả nợ gốc, lãi vay đúng hạn, đồng thời thực hiện các biện pháp thích hợp nếu người vay không thực hiện đầy đủ, đúng hạn các cam kết. Việc kiểm tra giám sát có thể được thực hiện định kỳ hoặc đột xuất, một lần hoặc nhiều lần tuỳ theo độ an toàn của khoản vay. Bước 5. Thu nợ, lãi, phí và xử lý phát sinh - Theo dõi trả nợ gốc, lãi, phí: CBTD theo dõi việc thu nợ, thu lãi, phí (nếu có) theo từng hợp đồng tín dụng đã ký. Định kỳ thống kê các khoản vay đến hạn trả. - Xử lý các phát sinh trong quá trình cho vay: + Trả nợ trước hạn: CBTD xem xét yêu cầu trả nợ trước hạn của khách hàng hoặc yêu cầu khách hàng trả nợ trước hạn trong các trường hợp sau: Khách hàng cân đối được nguồn vốn trả nợ trước hạn theo qui định trong hợp đồng tín dụng; bám sát quá trình luân chuyển vốn của khách hàng, nếu vật tư hàng hóa hình thành từ vốn vay kết thúc quá trình luân chuyển có thể yêu cầu khách hàng trả nợ trước hạn; phát hiện khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích. + Gia hạn. + Chuyển nợ quá hạn. + Xử lý thu hồi nợ quá hạn. + Xử lý các phát sinh khác: giãn nợ, khoanh nợ, xóa nợ. + Phát mại tài sản cầm cố, thế chấp. Bước 6. Thanh lý hợp đồng tín dụng Khi khoản cho vay được thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi vay thì coi như nghĩa vụ của khách hàng với ngân hàng đã được thực hiện, ngân hàng sẽ làm thủ tục thanh lý hợp đồng tín dụng, giải chấp tài sản, lập biên bản giao nhận tài sản (nếu có), đồng thời tất toán khoản vay, chuyển hồ sơ cho vay vào lưu trữ. 1.2. Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp của Ngân hàng thương mại 1.2.1 Khái niệm chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp Chất lượng cho vay đối với DNXL của ngân hàng thương mại là một thuật ngữ phản ảnh mức độ an toàn và khả năng sinh lời của hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp mang lại cho ngân hàng; đồng thời nó cũng phản ảnh sự thỏa mãn của khách hàng là DNXL về nhu cầu vốn, thời gian đáp ứng, tiện ích… trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Để đánh giá chất lượng cho vay đối với DNXL của ngân hàng thương mại một cách hoàn toàn chính xác là một công việc không dễ bởi nó đòi hỏi phải xem xét trên nhiều mặt, thông qua sự tổng hợp kết quả phân tích nhiều chỉ tiêu khác nhau. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu, phân tích chất lượng cho vay đối với DNXL nhằm phục vụ hoạt động thi công xây lắp dưới giác độ của ngân hàng: + Chất lượng cho vay trước hết được đánh giá qua tính an toàn của khoản cho vay hay khả nă._.ng hoàn trả nợ vay của khách hàng. Vốn cho vay ra phải được hoàn trả đầy đủ, đúng hạn. + Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, thu nhập từ hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của ngân hàng, do đó ngoài việc đảm bảo an toàn vốn vay thì việc gia tăng lợi nhuận là mục tiêu mà các NHTM luôn hướng tới. Vì vậy Ngân hàng phải xem xét sao cho cân bằng giữa lợi nhuận thu được và rủi ro dự kiến xảy ra. + Chất lượng cho vay còn được đánh giá trên cơ sở vốn vay của ngân hàng hỗ trợ và thúc đẩy các DNXL phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó, tín dụng ngân hàng góp phần mở rộng khách hàng, mở rộng thị phần để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh dịch vụ, tối ưu hoá lợi nhuận ngân hàng. 1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay đối với DNXL 1.2.2.1. Các chỉ tiêu định tính - Cho vay DNXL được thực hiện theo đúng qui trình cho vay: Qui trình cho vay là tổng hợp các nguyên tắc, qui định của ngân hàng trong việc cho vay. Việc thực hiện đúng qui trình cho vay hay không sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến tính an toàn và khả năng sinh lời của khoản vay, do đó, đây là một tiêu thức để đánh giá chất lượng cho vay của ngân hàng. - Thời gian xét duyệt một khoản cho vay đối với DNXL kể từ khi tiếp nhận hồ sơ: Các DNXL thường xuyên phải vay vốn ngân hàng (nhất là vốn ngắn hạn) để đáp ứng nhu cầu vốn thu mua nguyên nhiên vật liệu, trả lương công nhân… phục vụ cho việc thi công công trình. Vì vậy, thời gian xét duyệt các khoản cho vay cũng là nhân tố ảnh hưởng đến tiến độ hoàn thành công trình, đến khả năng thực hiện hợp đồng, khả năng hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh của DNXL. - Mức độ hài lòng của DNXL đối với hoạt động cho vay của ngân hàng. 1.2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng - Tổng dư nợ cho vay DNXL và tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay DNXL: Chỉ tiêu tổng dư nợ cho vay DNXL phản ánh quy mô cho vay đối với DNXL, là con số tuyệt đối nói lên quy mô của hoạt động này tại ngân hàng. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay DNXL lại thể hiện khả năng mở rộng quy mô và các hình thức cho vay qua các thời kỳ. Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay DNXL được tính theo công thức: Dư nợ kỳ n – Dư nợ kỳ (n-1) Tốc độ tăng trưởng dư nợ DNXL= x 100% Dư nợ kỳ (n-1) Nếu tổng dư nợ cho vay DNXL cao cho thấy ngân hàng đã tạo được uy tín đối với các DNXL, đã và đang mở rộng thị phần trong ngành XDCB và có khả năng tiếp thị khách hàng DNXL tốt hơn. Tuy nhiên tăng trưởng cho vay đối với DNXL phải phù hợp với khả năng về vốn, quản lý rủi ro cũng như các nguồn lực về con người, công nghệ của ngân hàng. Việc tăng trưởng dư nợ cho vay đối với DNXL vượt quá khả năng của ngân hàng sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro và việc ngân hàng không đủ điều kiện nguồn lực để kiểm soát chặt chẽ các khoản vay sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng hoạt động cho vay. - Tỷ trọng dư nợ cho vay DNXL/ Tổng dư nợ Đây là chỉ tiêu khá quan trọng, phản ánh vị trí của hoạt động cho vay đối với DNXL trong hoạt động cho vay chung của ngân hàng. Tổng dư nợ cho vay đối với DNXL cao và tăng trưởng cho thấy ngân hàng đã và đang mở rộng thị phần trong ngành xây lắp. Ngược lại, dư nợ cho vay đối với DNXL qua các năm giảm chứng tỏ chính sách thu hẹp tín dụng đối với doanh nghiệp xây lắp của ngân hàng. Chỉ tiêu tổng dư nợ đối với DNXL cần xem xét kết hợp với chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ DNXL/tổng dư nợ để đánh giá đầy đủ hơn về tình hình tăng trưởng cho vay DNXL. Bởi vì chỉ tiêu dư nợ cho vay mới chỉ phản ánh sự tăng trưởng tuyệt đối nhưng nếu dư nợ cho vay DNXL tăng với tốc độ thấp hơn tổng dư nợ thì tỷ trọng này lại giảm. Điều này còn phụ thuộc chủ yếu vào chính sách cho vay của ngân hàng giai đoạn đó là mở rộng hay thu hẹp cho vay DNXL. - Tỷ lệ nợ quá hạn của DNXL Tỷ lệ nợ quá hạn của DNXL = Dư nợ quá hạn DNXL /Tổng dư nợ DNXL Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN : “nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn”. Một khoản vay không trả đầy đủ, đúng hạn như thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng thì trở thành nợ quá hạn. Theo thời gian, Nợ quá hạn được chia thành: nợ quá hạn dưới 90 ngày; nợ quá hạn từ 90 - 180 ngày; nợ quá hạn từ 180 - 360 ngày; nợ quá hạn trên 360 ngày. Theo khả năng thu hồi, có thể chia nợ quá hạn thành nợ quá hạn có thể thu hồi (nợ quá hạn thông thường), nợ quá hạn có thể thu hồi một phần (nợ khó đòi) và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi. Tỷ lệ nợ quá hạn là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng, phản ánh những rủi ro trong hoạt động tín dụng mà ngân hàng phải đối mặt. Nếu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao cho thấy sự an toàn của các khoản vay không được bảo đảm, rủi ro là lớn làm đình trệ quá trình luân chuyển vốn, như vậy sẽ khiến ngân hàng không hoàn thành được nhiệm vụ hỗ trợ cho các hoạt động, dự án hay các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, phải thừa nhận sự tồn tại của nợ quá hạn là tất yếu, không thể tránh khỏi trong hoạt động tín dụng; Ngân hàng phải chấp nhận nợ quá hạn, cố gắng kiểm soát tỷ lệ này ở mức độ hợp lý. Tỷ lệ nợ quá hạn được xem là cao hay thấp cần so sánh với tỷ lệ chung của ngành và tỷ lệ chấp nhận của chính ngân hàng. Theo các nghiên cứu và khuyến nghị của WorldBank thì tỷ lệ nợ quá hạn có thể chấp nhận được là dưới 3%, có nghĩa rằng đó là mức tối đa đặt ra cho các nhà quản lý chú ý cân bằng giữa rủi ro và hiệu quả của khoản cho vay. - Lãi treo: Càng thấp càng tốt. Tương tự như chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn, chỉ tiêu này cũng thể hiện chất lượng và hiệu quả của công tác cho vay DNXL. Chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng cho vay DNXL càng thấp và ngược lại. Tỷ lệ này cao có nghĩa là số lãi cho vay đến hạn trả chưa thu được từ các dự án là cao dẫn đến chất lượng thu nợ lãi thấp, ảnh hưởng đến hoạt động khác của Ngân hàng. Lãi treo và nợ quá hạn cao là một trong các biểu hiện của chất lượng thẩm định, cho vay đầu tư dự án kém. Quá trình tìm hiểu các dự án thiếu thông tin minh bạch, cán bộ thẩm định thiếu kinh nghiệm cũng như tìm hiểu không kỹ càng về khả năng tài chính, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, dự án. Tất cả dẫn đến các quyết định cho vay và giải ngân sai, khiến cho nguồn vốn bị sử dụng không hiệu quả, gây lãng phí và tổn thất. Nghiên cứu và cải thiện 2 chỉ tiêu này là nhiệm vụ quan trọng của Ngân hàng, không chỉ giúp ngân hàng hoạt động tốt hơn mà còn tạo môi trường đầu tư xuất nhập khẩu hiệu quả và minh bạch hơn. - Tỷ lệ nợ xấu của DNXL Tỷ lệ nợ xấu DNXL = Dư nợ xấu DNXL/tổng dư nợ DNXL Nợ xấu là các khoản nợ được xếp từ nhóm 3 đến nhóm 5 theo định quyết định 493 của Ngân hàng Nhà nước. Cụ thể: Nợ dưới tiêu chuẩn (nợ nhóm 3) bao gồm: các khoản nợ mà tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi. Nợ nghi ngờ (nợ nhóm 4): là các khoản nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất cao. Nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5): là các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi, mất vốn. Tỷ lệ nợ xấu càng thấp càng tốt. Tuy nhiên, rủi ro là tất yếu của quá trình kinh doanh, do vậy, ngân hàng luôn chấp nhận một mức rủi ro nhất định và thường xuyên kiểm soát các khoản nợ xấu, nợ có vấn đề để có những biện pháp xử lý kịp thời khi có rủi ro xảy ra. Ngân hàng tiến hành phân loại nợ và kiểm soát đối với các khoản nợ dưới chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn - đây là những khoản nợ xấu của ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần quan tâm đến các khoản nợ đặc biệt lưu ý (nợ nhóm 2) vì khi có biến động bất lợi xảy ra đối với hoạt động cho vay của ngân hàng, các khoản này dễ bị chuyển thành nợ xấu. - Tỷ lệ dự phòng: Là tỷ số giữa phân bổ dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm của DNXL so với tổng dư nợ cho vay các DNXL: Tỷ lệ phân bổ dự phòng RRTD hàng năm của DNXL(%) = Dự phòng RRTD hàng năm của DNXL x 100% Tổng dư nợ DNXL Hàng năm các Ngân hàng đều phải trích dự phòng rủi ro tín dụng đối với các khoản nợ để đề phòng trường hợp rủi ro tín dụng xảy ra. Tùy vào các nhóm nợ, giá trị TSĐB mà tỷ lệ trích dự phòng rủi ro là khác nhau. Theo QĐ 493, Các tổ chức tín dụng phải tiến hành trích dự phòng rủi ro bao gồm Dự phòng chung và dự phòng cụ thể. Dự phòng chung được trích lập và duy trì bằng 0,75% tổng giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 theo phân loại nợ tại Điều 6 hoặc Điều 7 QĐ 493. Dự phòng cụ thể được trích như sau: tỷ lệ dự phòng được trích lập theo các nhóm nợ như sau: Nhóm 1: 0% Nhóm 2: 5% Nhóm 3: 20% Nhóm 4: 50% Nhóm 5: 100% Tỷ lệ dự phòng các NHTM cần phải thực hiện ở mức càng thấp càng tốt. Việc nghiên cứu chỉ tiêu này có ý nghĩa quan trọng đối với đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng. - Tỷ lệ dư nợ cho vay đối với DNXL có tài sản bảo đảm Tỷ lệ dư nợ cho vay DNXL có tài sản bảo đảm = Dư nợ cho vay DNXL có tài sản bảo đảm /Tổng dư nợ DNXL Tỷ lệ này càng cao càng tốt. Tài sản bảo đảm của các DNXL chủ yếu là máy móc thiết bị thi công, phương tiện vận tải, giá trị nhà xưởng, khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành… Tài sản bảo đảm không phải là căn cứ duy nhất để ngân hàng xem xét cho vay. Tuy nhiên đây là một trong những công cụ để nâng cao trách nhiệm đối với nghĩa vụ trả nợ của người vay và giảm bớt tổn thất cho ngân hàng khi rủi ro xảy ra. Do vậy, Ngân hàng cần xây dựng quy trình định giá, kiểm tra tài sản bảo đảm dành riêng cho tài sản bảo đảm đối với DNXL nhằm đảm bảo an toàn vốn vay. - Lợi nhuận và tỷ trọng lợi nhuận từ hoạt động cho vay đối với DNXL/ tổng lợi nhuận từ hoạt động cho vay của ngân hàng Chất lượng cho vay đối với DNXL ngoài yêu cầu an toàn còn cần tạo ra lợi nhuận. Nếu một khoản cho vay chỉ thu được gốc mà không thu được lãi thì sẽ không tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, không bù đắp được những chi phí mà ngân hàng bỏ ra để huy động vốn và các chi phí khác. Do vậy, việc phân tích chỉ tiêu lợi nhuận và tỷ trọng lợi nhuận từ hoạt động cho vay đối với DNXL/ tổng lợi nhuận từ hoạt động cho vay của ngân hàng có ý nghĩa quan trọng đối với đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng. Việc phân tích các chỉ tiêu này giúp ta đánh giá được khả năng sinh lời từ hoạt động cho vay đối với DNXL của ngân hàng trong tổng lợi nhuận từ hoạt động cho vay, qua đó thấy được tầm quan trọng của nó để từ đó có biện pháp nâng cao chất lượng của hoạt động này. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp của Ngân hàng thương mại 1.3.1. Các nhân tố chủ quan Đây là nhóm các nhân tố từ phía ngân hàng cho vay, liên quan đến tổ chức quản lý hoạt động cho vay đối với DNXL của Ngân hàng thương mại. Nó có vai trò quan trọng, trực tiếp ảnh hưởng đến chât lượng cho vay đối với DNXL. - Chính sách cho vay của ngân hàng Chính sách cho vay của một ngân hàng là hệ thống các chủ trương, đường lối liên quan đến việc mở rộng hoặc hạn chế cho vay trong từng thời kỳ để đạt được mục tiêu đã được hoạch định, hạn chế rủi ro và bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay, đồng thời tuân thủ tốt qui định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước. Một chính sách cho vay đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động cho vay trên cơ sở mở rộng và nâng cao được chất lượng cho vay. Mỗi NHTM đều có đặc điểm riêng, vì vậy muốn chất lượng cho vay nói chung và chất lượng cho vay đối với DNXL nói riêng được nâng cao phải xây dựng chính sách cho vay phù hợp với ngân hàng mình trong từng giai đoạn cụ thể. - Quy trình cho vay Đây là những trình tự, những giai đoạn, những bước, công việc cần phải thực hiện theo một thủ tục nhất định trong việc cho vay bắt đầu từ việc tiếp nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng đến khi thu nợ nhằm bảo đảm an toàn vốn vay. Quy trình cho vay hợp lý sẽ giúp cán bộ tín dụng có được chuẩn mực trong hoạt động của mình. Do đó, Chất lượng cho vay đối với DNXL sẽ phụ thuộc vào việc lập ra một qui trình cho vay đối với DNXL đảm bảo tính khoa học vừa nhanh chóng, thuận tiện, vừa đảm bảo thực hiện đầy đủ nghiêm túc các bước của quy trình. - Chất lượng thông tin Thông tin rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng, nó là cơ sở để xem xét quyết định cho vay và theo dõi, quản lí khoản cho vay. Hoạt động cho vay đối với DNXL thường gặp khó khăn trong việc thu thập thông tin về năng lực tài chính, năng lực quản lý kinh doanh của doanh nghiệp…dẫn đến việc đánh giá sai về khách hàng hoặc bị khách hàng lừa đảo, lợi dụng. Chính vì vậy việc nắm bắt được nhiều thông tin chính xác, kịp thời là một yếu tố quan trọng trong việc phân tích, nhận định thị trường, khách hàng… để đưa ra các quyết định đúng đắn. Chất lượng cho vay đối với DNXL chỉ có thể được nâng cao khi ngân hàng có những nguồn thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời để dự đoán và đề ra các biện pháp ngăn ngừa phòng chống rủi ro. - Công tác kiểm tra, kiểm soát cho vay Công tác kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động cho vay đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, Ban lãnh đạo ngân hàng sẽ nắm được tình hình hoạt động kinh doanh đang diễn ra trong lĩnh vực cho vay DNXL, những thuận lợi, khó khăn cũng như việc chấp hành những qui định pháp luật, nội dung, qui chế, chính sách kinh doanh, thủ tục tín dụng từ đó giúp Ban lãnh đạo có những đường lối, chủ trương đúng đắn, giải quyết những khó khăn, vướng mắc, phát huy những nhân tố thuận lợi, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Chất lượng cho vay DNXL phụ thuộc vào việc chấp hành những quy chế, thể lệ, chính sách và mức độ kịp thời phát hiện sai sót cũng như những nguyên nhân dẫn đến sai sót lệch lạc trong quá trình thực hiện các khoản cho vay. - Trang thiết bị, công nghệ ngân hàng Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, vấn đề trang thiết bị, công nghệ là một trong những điều kiện tiên quyết để ngân hàng nâng cao sức cạnh tranh trong mọi hoạt động. Nó là công cụ, phương tiện thực hiện tổ chức, quản lí, kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Đặc biệt với sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin hiện nay các trang thiết bị tin học đã giúp cho ngân hàng có được thông tin về các DNXL, thị trường trong tương lai...và xử lí thông tin nhanh chóng kịp thời, chính xác, thiết lập tốt mối liên hệ chặt chẽ giữa các phòng ban, bộ phận. Trên cơ sở đó có quyết định cho vay đúng đắn nhanh chóng, thúc đẩy nghiệp vụ tín dụng diễn ra mạnh mẽ với chất lượng cao hơn. - Chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng Đây có thể coi là yếu tố quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của không chỉ hoạt động cho vay DNXL mà cả sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Cán bộ tín dụng là đối tượng liên quan trực tiếp đến các khâu của quy trình cho vay từ khi tiếp nhận hồ sơ, thẩm định đến khi tất toán khoản vay, thanh lý hợp đồng vì vậy tất cả các nhân tố từ trình độ chuyên môn nghiệp vụ đến phẩm chất đạo đức của cán bộ cho vay DNXL đều có ảnh hưởng đến chất lượng cho vay DNXL của ngân hàng. Nếu cán bộ tín dụng có kiến thức vững vàng về lĩnh vực xây lắp, có khả năng đưa ra những nhận định sát thực về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính cũng như thẩm định hiệu quả và tính khả thi của dự án, phương án vay vốn của các khách hàng là DNXL sẽ giúp ngân hàng hạn chế được những rủi ro, nắm bắt được những cơ hội tốt để cho vay và tất yếu sẽ dẫn đến nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng. Ngược lại, nếu cán bộ tín dụng hạn chế về năng lực chuyên môn có thể đánh giá không đúng về khách hàng, không nhận thấy những rủi ro tiềm ẩn hay dấu hiệu bất thường trong hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của khách hàng và do vậy có thể ra quyết định cho vay sai lầm, mang lại rủi ro cho ngân hàng. Ngoài ra, bộ phận cho vay thường là nơi trực tiếp thẩm định dự án vay vốn và khả năng trả nợ của khách hàng cũng như trực tiếp kiểm tra kho hàng, tài sản thế chấp, kiểm tra sử dụng vốn vay, là đầu mối tiếp xúc với khách hàng nên nếu đạo đức nghề nghiệp không tốt sẽ nảy sinh những tiêu cực, vụ lợi cá nhân, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng món vay và khả năng thu hồi nợ của ngân hàng. Vì vậy, vấn đề đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, đặc biệt là cán bộ tín dụng càng phải được coi trọng trong việc nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng. 1.3.2. Các nhân tố khách quan Đây là các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài, nằm ngoài phạm vi kiểm soát của ngân hàng. Các nhân tố này có ảnh hưởng nhất định tới chất lượng cho vay đối với DNXL. * Khách hàng vay vốn Khách hàng có vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cho vay nói chung và cho vay DNXL nói riêng bởi họ là người cung cấp hồ sơ về khoản vay và là người trực tiếp sử dụng khoản vay để đưa vào sản xuất kinh doanh, thực hiện chi trả cho ngân hàng. Tính xác thực, khách quan, trình độ lập kế hoạch kinh doanh, dự án đầu tư và cung cấp những thông tin liên quan của khách hàng và việc khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả hay không ảnh hưởng lớn đến quyết định cho vay và chất lượng của khoản vay. Để đạt được điều đó bản thân khách hàng cũng cần phải chú trọng đến nhiều khía cạnh khác nhau như: trình độ, đạo đức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp... Đối với các DNXL đòi hỏi một đội ngũ quản lý có trình độ, trách nhiệm cao với công việc, một hệ thống quản lý có trật tự nhằm thuận lợi trong việc điều động những vị trí khác nhau trong khi tiến hành thi công một công trình xây dựng cơ bản nhiều hạn ngạch, nhiều công đoạn. Những sự thay đổi của thị trường đầu vào, đầu ra, của công nghệ, thị hiếu trong từng giai đoạn cụ thể không được tính toán trước có thể gây ra các sự cố bất ngờ cho kế hoạch thi công và là nguyên nhân chính làm giảm chất lượng sử dụng vốn vay. Tìm kiếm được một cơ chế quản lý phù hợp, một biện pháp quản lý linh hoạt, có khoa học trong việc thi công xây lắp sẽ đảm bảo khá chính xác hiệu quả của dự án, phương án sản xuất kinh doanh và ngược lại. Ngoài ra, trình độ và đạo đức của người lãnh đạo cũng có tác động rất lớn đến việc sử dụng vốn vay cũng như mong muốn trả nợ của doanh nghiệp từ đó tác động đến chất lượng của khoản tín dụng. * Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Chủ trương đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước là kim chỉ nam định hướng cho mục tiêu phát triển trong ngắn hạn cũng như dài hạn của Ngân hàng. Căn cứ vào chủ trương, đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước, Ngân hàng dựa vào các chỉ tiêu, cơ cấu của ngành xây dựng, DNXL sẽ xây dựng kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh của mình. Mục tiêu phát triển của Ngân hàng không thể nằm ngoài mục tiêu phát triển chung của đất nước. * Sự phát triển của nền kinh tế Một nền kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng hoạt động, hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng, có đội ngũ cán bộ có trình độ cao từ đó nâng cao chất lượng các khoản tín dụng. Nền kinh tế phát triển cũng tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp xây lắp làm ăn có hiệu quả, do đó hoạt động cho vay và đi vay của DNXL cũng tăng lên. Ngược lại khi nền kinh tế trì trệ, chậm phát triển thì hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và doanh nghiệp cũng bị thu hẹp, hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, khi nền kinh tế phát triển với tốc độ quá nhanh, nhu cầu đầu tư xây dựng cơ bản tăng lên, dẫn đến sự xuất hiện nhiều DNXL cùng với sự biến động của thị trường bất động sản sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn vay của Ngân hàng. Ngoài ra khi nền kinh tế phát triển sẽ có nhiều Ngân hàng thương mại hình thành, vì vậy mỗi Ngân hàng cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh, từ đó các điều kiện tín dụng sẽ được nới lỏng nhằm thu hút khách hàng nhiều nhất. * Môi trường pháp lý Bất cứ một thành phần kinh tế nào khi hoạt động trong nền kinh tế của Việt Nam đều phải tuân theo pháp luật của nước Việt Nam. Và các DNXL cũng như các NHTM cũng phải nằm trong khuôn khổ pháp lý. Nếu môi trường pháp lý thể hiện được sự đồng bộ, nhất quán, ổn định thì mới có thể tạo điều kiện thuân lợi cho các ngân hàng thúc đẩy chất lượng tín dụng. Một hệ thống pháp luật tiên tiến sẽ giúp cho các DNXL có điều kiện phát triển, làm cho giao dịch giữa Ngân hàng và khách hàng được diễn ra dễ dàng. Ngược lại nếu hệ thống văn bản pháp lý không đồng bộ sẽ gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc cho vay vốn và khó khăn cho DNXL trong việc làm ăn và đi vay vốn của Ngân hàng. * Môi trường xã hội- chính trị Chính trị xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện để kinh tế phát triển, tạo điều kiện cho việc đầu tư, phát triển, xây dựng đất nước. Ngược lại, trong tình hình chính trị xã hội không ổn định thì không chỉ riêng các doanh nghiệp mà cả các ngân hàng cũng khó có thể yên tâm tập trung vào đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, đặc biệt là mở rộng cho vay và đảm bảo chất lượng cho vay. Hơn nữa, sự bất ổn về chính trị xã hội sẽ dẫn đến mất lòng tin của dân chúng cũng như các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng nói chung và cho vay đối với DNXL nói riêng. CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP XÂY LẮP TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 2.1. Tổng quan về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được thành lập theo quyết định 177/TTg ngày 26/04/1957 của Thủ tướng Chính phủ. Trong quá trình hoạt động và trưởng thành, Ngân hàng được mang các tên gọi khác nhau phù hợp với từng thời kỳ xây dựng và phát triển của đất nước: - Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam từ ngày 26/4/1957 - Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam từ ngày 24/6/1981 - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam từ ngày 14/11/1990 Từ khi thành lập cho đến khi chính thức mang tên là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam như hiện nay, ngân hàng đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển gắn với tên gọi và chức năng nhiệm vụ khác nhau. Trong suốt thời kỳ từ năm 1957 đến năm 1989, nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng là cấp phát, cho vay và quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế thuộc kế hoạch nhà nước. Đầu những năm 90, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước, chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nhiệm vụ của BIDV được thay đổi cơ bản: Tiếp tục nhận vốn ngân sách để cho vay các dự án thuộc chỉ tiêu kế hoạch nhà nước; Huy động các nguồn vốn trung dài hạn để cho vay đầu tư phát triển; kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực xây lắp phục vụ đầu tư phát triển. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1995 mới là mốc đánh dấu sự chuyển đổi cơ bản của BIDV: Được phép kinh doanh đa năng tổng hợp như một ngân hàng thương mại, giữ vai trò chủ lực trong lĩnh vực đầu tư và phát triển, góp phần xây dựng đất nước, phát triển kinh tế. Đến nay, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã trở thành một trong năm ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam với qui mô không ngừng mở rộng và tăng trưởng bền vững, tạo ra tiền đề để bước vào giai đoạn mới với những đổi mới rất cơ bản và những kết quả quan trọng như: - Là Ngân hàng chủ lực trong phục vụ đầu tư phát triển, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam luôn giữ vai trò quan trọng - là Ngân hàng hàng đầu trong việc cung ứng vốn đầu tư phát triển cho nền kinh tế, góp phần công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. - Cùng với các Ngân hàng quốc doanh Việt Nam là lực lượng chủ lực thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. - Kinh doanh đa năng tổng hợp, hiệu quả cao, an toàn hệ thống, tuân thủ pháp luật và chủ động hội nhập quốc tế. Làm đầy đủ nghĩa vụ với Ngân sách nhà nước. - Chiếm thị phần đáng kể trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam và tiếp tục gia tăng. - Xây dựng được nền tảng công nghệ thông tin, ban đầu đáp ứng được hoạt động Ngân hàng, làm cơ sở tiếp tục đổi mới công nghệ Ngân hàng để nâng cao sức cạnh tranh. - Tạo dựng và củng cố được một hệ thống kế toán trong sạch làm cơ sở cho quản trị điều hành. - Đã tạo dựng và dịch chuyển được cơ cấu tài sản theo hướng bền vững, hợp lý, củng cố và xây dựng được nền tài chính lành mạnh. Về mô hình tổ chức, BIDV được tổ chức thành 4 khối: Khối ngân hàng với 108 chi nhánh cấp 1 và 1 sở giao dịch tại tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước; Khối công ty gồm 5 công ty độc lập; Khối liên doanh gồm 05 Ngân hàng và Công ty; Khối đơn vị sự nghiệp (gồm Trung tâm Công nghệ thông tin và Trung tâm đào tạo). Có thể mô tả sơ bộ cơ cấu tổ chức, sơ đồ bộ máy quản lý của BIDV thông qua 02 sơ đồ sau: Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức 108 CHI NHÁNH CÔNG TY BẢO HIỂM BIDV (BIC) SỞ GIAO DỊCH CHI NHÁNH CÔNG TY LIÊN DOANH THÁP BIDV Trụ sở chính tại Hà Nội NGÂN HÀNG LIÊN DOANH VIỆT NGA Trụ sở chính tại Hà Nội KHỐI NGÂN HÀNG KHỐI LIÊN DOANH NGÂN HÀNG LIÊN DOANH LÀO-VIỆT (LAO-VIET BANK) Trụ sở chính tại Vientiane, CHDCND Lào CÔNG TY QUẢN LÝ NỢ VÀ KHAI THÁC TÀI SẢN (BAMC) KHỐI CÔNG TY CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH II (BLC II) CÔNG TY CHỨNG KHOÁN (BSC) CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH (BLC) 1 SỞ GIAO DỊCH TRUNG TÂM CÔNG NGHỆ THÔNG TIN (BITC) TRUNG TÂM ĐÀO TẠO (BTC) KHỐI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM CÔNG TY LIÊN DOANH QUẢN LÝ ĐẦU TƯ BIDV-VP (BVIM) Trụ sở chính tại Hà Nội theo hệ thống HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ (Chủ tịch, các uỷ viên HĐQT) BAN ĐIỀU HÀNH (TGĐ, Các PTGĐ) Trưởng các Ban, phòng tại Hội sở chính Ban Kiểm soát Kế toán trưởng Đơn vị thành viên hạch toán độc lập Các Sở giao dịch, Chi nhánh Các đơn vị sự nghiệp Các Liên doanh Giám đốc Phó Giám đốc Phó Giám đốc Trung tâm Tổng Giám đốc, PTGĐ Liên doanh Giám đốc Trung tâm HĐQT Liên doanh Phòng, ban Liên doanh Phòng ban Trung tâm Phòng ban Chi nhánh, CN cấp 2 HĐQT Công ty Giám đốc, Phó GĐ Công ty Phòng, ban Công ty, Chi nhánh Sơ đồ 2.2: Cơ cấu bộ máy quản lý của BIDV 2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 2.1.2.1. Kết quả kinh doanh Phát huy những thành tựu đã đạt được trong nhiều năm, trong giai đoạn 2007-2009 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tiếp tục đạt được tốc độ tăng trưởng khả quan. Tổng tài sản đến 31/12/2009 đạt 296.432 tỷ đồng, tăng 20% so với 31/12/2008. Lợi nhuận trước thuế năm 2009 là 2.817 tỷ đồng, tăng 42% so với 31/12/2008. Bảng 2.3. Kết quả kinh doanh giai đoạn 2007-2009 Đvt: triệu đồng TT Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 1 Tổng tài sản 204.511 246.494 296.432 2 Tổng vốn chủ sở hữu 11.635 13.466 17.639 3 Lợi nhuận sau thuế 1.531 1.979 2.817 (Nguồn: Báo cáo thường niên 2007 – 2009 của BIDV) Cùng với việc tăng tổng tài sản thì vốn chủ sở hữu của BIDV cũng được bổ sung tương ứng; Tính đến 31/12/2009, tổng vốn chủ sở hữu của ngân hàng là 17.639 tỷ đồng, trong đó vốn điều lệ là 10.498 tỷđ; hệ số CAR của Ngân hàng theo báo cáo tài chính quốc tế đạt 7,55%, theo báo cáo tài chính chuẩn mực Việt Nam là 9,53%. 2.1.2.2. Hoạt động huy động vốn Nguồn vốn huy động đến 31/12/2009 là 252.259 tỷ đồng, tăng 47.984 tỷ đồng so với 31/12/2008, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng huy động vốn năm 2009 là 23%, giảm 30% so với năm 2008. Bảng 2.4. Cơ cấu nguồn vốn huy động của BIDV giai đoạn 2007 - 2009 Đơn vị: Tỷ đồng Năm Chỉ tiêu 2007 2008 2009 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Tổng nguồn vốn huy động 168.299 100 204.275 100 252.259 100 Tiền gửi 135.355 80 164.811 81 187.280 74 Tiền vay 11.980 7 24.334 12 36.829 15 Phát hành giấy tờ có giá 20.964 12 15.130 7 28.150 11 Thị phần huy động vốn (%) 16,2 13,3 12,4 (Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2007 – 2009 của BIDV) Năm 2009 thị trường tiền tệ có nhiều khó khăn, phức tạp và cạnh tranh quyết liệt. Trong năm để chặn đà suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, NHNN thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, đồng thời Chính phủ thực hiện gói chính sách kích cầu hỗ trợ lãi suất. Quy mô tín dụng tăng lớn hơn quy mô tăng trưởng nguồn vốn dẫn đến khó khăn trong thanh khoản, áp lực cạnh tranh chia sẻ thị phần khiến các ngân hàng suy giảm tốc độ tăng trưởng huy động vốn. Trong tình hình chung của nền kinh tế, các chỉ tiêu về tăng trưởng tiền gửi, huy động vốn năm 2009 của BIDV đều giảm so với năm 2009. Tuy nhiên, Ngân hàng đã chấp hành nghiêm túc các qui định của Ngân hàng nhà nước, bám sát diễn biến thị trường trong nước và quốc tế để có quyết sách kịp thời, hiệu quả đảm bảo giữ được nền vốn, đáp ứng các yêu cầu an toàn về thanh khoản theo quy định của NHNN và đáp ứng đủ nguồn vốn cho các hoạt động kinh doanh. Cụ thể là: - Triển khai các sản phẩm dịch vụ huy động vốn đa dạng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng như triển khai tiết kiệm dự thưởng, phát hành giấy tờ có giá, triển khai sản phẩm ổ trứng vàng, sản phẩm tiết kiệm rút dần… - Triển khai ký kết thoả thuận hợp tác toàn diện với một số tập đoàn, tổng công ty lớn về huy động vốn, kết hợp với tín dụng và cung cấp dịch vụ… - Đa dạng hoá đối tượng khách hàng - Giao quyền chủ động và linh hoạt cho giám đốc chi nhánh trong thực hiện lãi suất phù hợp với mặt bằng lãi suất huy động trên địa bàn kết hợp với nhiều hình thức khuyến mại cho khách hàng. - Cơ cấu lại mạng lưới theo hướng nâng cao hiệu quả kinh doanh. - Tăng cường quảng bá thương hiệu, khẳng định uy tín của BIDV trên thị trường tiền tệ. 2.1.2.3. Hoạt động tín dụng Trong những năm gần đây, thị phần tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam luôn đứng thứ hai trong toàn hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam và đã khẳng định vị thế của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Ngân hàng đã nhận được sự đánh giá cao của Chính phủ trong công tác tài trợ vốn cho các chương trình kinh tế lớn, trọng điểm của đất nước và đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho các ngành kinh tế giàu tiềm năng phát triển như thủy điện, khai khoáng…Đồng thời ngân hàng còn thiết lập quan hệ kinh doanh toàn diện và chọn lọc với các Tập đoàn, Tổng công ty lớn thông qua các thỏa thuận hợp tác. Bên cạnh đó, công tác kiểm soát tín dụng luôn được thực hiện một cách toàn diện trên các mặt quy mô, tổng dư nợ, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu tín dụng theo hướng nâng cao chất lượng, an toàn, hiệu quả, bền vững. Năm 2009, thực hiện chỉ đạo của hệ thống về thực hiện các chương trình kích cầu của Chính phủ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, BIDV tập trung cho vay theo các chương trình hỗ trợ lãi suất, cho v._. hoạt động thi công xây lắp. Chức năng được qui định trong Quyết định thành lập, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy phép đầu tư (đối với doanh nghiệp hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài) của khách hàng. - Đối với hồ sơ về khoản vay: Đặc điểm của nghiệp vụ cho vay vốn lưu động phục vụ thi công xây lắp là vốn vay phải được chi trả cho những chi phí hình thành nên giá trị công trình trên cơ sở Hợp đồng thi công xây lắp. Trước khi cho vay, DNXL đã ký hợp đồng thi công xây lắp. Do đó, hồ sơ về khoản vay nhất thiết phải có các tài liệu sau: + Đối với các dự án thuộc phạm vi điều chỉnh của Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng cần phải có Quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu hoặc quyết định chỉ định thầu theo quy định của Quy chế đấu thầu. + Hợp đồng thi công xây lắp ký giữa khách hàng vay vốn và Chủ đầu tư. Ngoài các tài liệu trên, tùy từng đối tượng khách hàng cụ thể, cán bộ tín dụng có thể đề nghị DNXL xuất trình bổ sung các tài liệu khác để nắm bắt thông tin về công trình, dự án. Đó là các tài liệu sau : + Quyết định đầu tư dự án của cấp có thẩm quyền + Tài liệu chứng minh nguồn vốn thanh toán công trình của chủ đầu tư: Nguồn vốn theo kế hoạch XDCB hàng năm: Quyết định của UBND tỉnh Trái phiếu Chính phủ: Thông báo của Bộ tài chính, hoặc Bộ KHĐT. Nguồn tự có, nguồn vốn khấu hao: Quyết định của HĐQT doanh nghiệp hoặc Tổng công ty hoặc cam kết của Chủ đầu tư. Nguồn vốn tín dụng: Hợp đồng tín dụng hoặc Bảo lãnh, cam kết của bên tài trợ dự án công trình + Tổng Dự toán công trình được cấp có thẩm quyền theo quy định của Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng duyệt. Nếu công trình chưa có tổng dự toán được duyệt nhưng trong quyết định đầu tư đã quy định mức vốn của từng hạng mục thì ngân hàng chỉ cho vay khi hạng mục cho vay đã có dự toán hạng mục được cấp có thẩm quyền duyệt. Tại bước 2: Thẩm định các điều kiện tín dụng Thực hiện theo quy trình tín dụng ngắn hạn hiện nay của ngân hàng. Tuy nhiên, đối với cho vay thi công xây lắp, cán bộ tín dụng cần thẩm định kỹ về nguồn vốn đầu tư cho công trình, dự án. Trước khi cho vay phải thẩm định kỹ toàn diện tình hình hoạt động của DNXL: Phân tích tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình quan hệ với các tổ chức tín dụng khác, xếp loại khách hàng, phân tích điểm mạnh điểm yếu, cơ hội, thách thức của Doanh nghiệp, phân tích năng lực đấu thầu. Ngoài ra, do DNXL hiện nay có xu hướng hoạt động đa ngành đa nghề (đầu tư bất động sản, thủy điện…) nên Đánh giá khả năng tham gia vốn tự có, tính toán mức giới hạn cho vay hợp lý đối với từng công trình xây lắp nhằm đảm bảo DNXL không chiếm dụng được vốn kinh doanh ngắn hạn để đầu tư dài hạn. * Đối với phần cho vay theo hạn mức trong xây lắp, cách tính hạn mức cần cụ thể theo những nội dung sau: + Đánh giá, phân tích tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của năm trước, trong đó lưu ý đánh giá về chi phí sản xuất kinh doanh dở dang của doanh nghiệp để xác định nguyên nhân làm phát sinh khối lượng dở dang, từ đó loại ra chi phí của các công trình thi công kém chất lượng, kéo dài; khối lượng thi công vượt dự toán, khối lượng hoàn thành từ lâu không được nghiệm thu do chủ đầu tư không có nguồn thanh toán… nhằm đánh giá thực chất tình hình tài chính của doanh nghiệp. + Xem xét, phân tích các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh năm tới của doanh nghiệp: Giá trị sản lượng, doanh thu kế hoạch, các khoản thuế phải nộp, lợi nhuận định mức, khấu hao cơ bản dự kiến trích trong năm, vốn được chủ đầu tư ứng trước, vốn tự có và tự huy động, hạn mức vay ở các ngân hàng khác. + Tính vòng quay vốn lưu động của năm trước làm căn cứ xác định vòng quay vốn lưu động năm kế hoạch để xác định hạn mức tín dụng; trong đó: Phải loại trừ các khoản phải thu khó đòi ra khỏi tài sản lưu động dự trữ bình quân và khoản chiết khấu ra khỏi doanh thu. + Sản lượng kế hoạch phải được lập trên cơ sở: Các hợp đồng thi công chuyển tiếp từ năm trước, các hợp đồng thi công đã ký trong năm, các hợp đồng thi công dự kiến sẽ ký. Từ đó đưa ra một sản lượng tính vay hợp lý cho doanh nghiệp (vì có thể không xác định hạn mức tín dụng cho toàn bộ sản lượng kế hoạch của khách hàng). Cần đặc biệt quan tâm đến nguồn vốn thanh toán của các công trình vì đây chính là nguồn tài chính đảm bảo hoàn trả vốn vay cho ngân hàng khi tài trợ vốn cho các nhà thầu thi công các công trình này. Chỉ cho vay và tính toán hạn mức đối với các công trình (hoặc hạng mục công trình) có kế hoạch và nguồn doanh nghiệp phải có đủ năng lực thi công công trình. - Các Chi nhánh tăng cường bổ sung tối đa các biện pháp bảo đảm tiền vay kể cả bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba (nhất là tài sản riêng của các cá nhân là lãnh đạo doanh nghiệp), cầm cố quyền đòi nợ giá trị xây lắp hoàn thành…tiến tới thực hiện đúng tỷ lệ dư nợ có tài sản bảo đảm theo qui định về chính sách khách hàng hiện hành của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. * Đối với điều kiện tài sản bảo đảm: Các Chi nhánh cần yêu cầu khách hàng bổ sung tối đa các biện pháp bảo đảm tiền vay kể cả tài sản riêng của các cá nhân là lãnh đạo doanh nghiệp và tài sản của bên thứ ba khác, bổ sung giá trị cầm cố quyền đòi nợ giá trị xây lắp hoàn thành…nhằm nâng dần tỷ lệ dư nợ có tài sản bảo đảm. Tại bước 3: Xét duyệt cho vay, ký hợp đồng tín dụng, ký hợp đồng bảo đảm tiền vay. Đối với trường hợp tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ giá trị khối lượng xây lắp hoàn thành: Chỉ chấp nhận đối với các hợp đồng có điều khoản về nguồn vốn thanh toán rõ ràng hợp pháp và khi thanh toán, số tiền thanh toán được chuyển khoản trực tiếp về tài khoản của bên bảo đảm mở tại Chi nhánh, không chấp nhận đối với các hợp đồng mà bên B (đơn vị thi công) là nhà thầu phụ không được thanh toán trực tiếp từ bên A (chủ đầu tư, chủ dự án, Ban quản lý…). Riêng phần giao nhận giấy tờ, hồ sơ tài sản bảo đảm phải có đủ các tài liệu sau: hợp đồng thi công xây lắp (bản gốc); Tài liệu xác định nguồn vốn thanh toán; Quyết định phê duyệt quyết toán công trình hoặc biên bản nghiệm thu và bảng tính giá trị khối lượng xây lắp (hạng mục hoặc công trình) đã hoàn thành có các thành phần ký xác nhận đủ điều kiện thanh toán theo quy định hiện hành (bản gốc); Giấy đề nghị cầm cố có xác nhận của bên A; Hợp đồng cầm cố quyền đòi nợ giá trị xây lắp hoàn thành phải được ký ba bên Chủ đầu tư, DNXL và Ngân hàng. Tại bước 4: Giải ngân, theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn vay Việc quản lý giải ngân cho vay phải thực hiện theo từng công trình, đảm bảo doanh số cho vay tối đa đối với mỗi công trình không vượt giới hạn cho phép. Lưu ý trong nghiệp vụ cho vay phục vụ thi công xây lắp, việc giải ngân được thực hiện trên cơ sở chi tiết dự toán dự thầu được duyệt hoặc dự toán công trình (đối với trường hợp chỉ định thầu) được duyệt để cho vay đúng đối tượng. Phần kiểm tra trước khi phát vay: Lưu ý kiểm tra khả năng thanh toán của Chủ đầu tư, kiểm tra nguồn vốn cho công trình. Phần kiểm tra sau khi phát vay: Lưu ý việc theo dõi tiến độ thi công, thanh, quyết toán công trình. 3.2.3. Tăng cường quản lý, giám sát quá trình sử dụng vốn vay của các DNXL - Các Chi nhánh làm việc trực tiếp và thông báo tới khách hàng điều kiện, cách thức cho vay hỗ trợ phục vụ thi công xây lắp của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Trong đó cần cụ thể hoá một số vấn đề, các điều kiện công trình nhận thầu cần đảm bảo: Giá trị hợp đồng, nguồn vốn thanh toán (phải có căn cứ xác định kèm theo), thời gian (tiến độ) thực hiện thi công và thanh toán, phương thức thanh toán duy nhất là chuyển khoản về tài khoản của doanh nghiệp tại chi nhánh… - Để kiểm soát việc cho vay, Chi nhánh xác định doanh số cho vay thực tế so với doanh số cho vay tạm tính tại thời điểm giải ngân bằng cách kiểm tra sổ sách, chứng từ kế toán của khách hàng để đối chiếu xác định lại doanh số cho vay thực tế đối với từng công trình so với tình hình khai báo (tạm phân bổ) tại thời điểm giải ngân, đảm bảo doanh số cho vay không vượt quá 80% giá trị nguồn vốn thanh toán của công trình. - Thực hiện cho vay theo từng công trình, Chi nhánh bám sát, nắm bắt tình hình thi công của khách hàng để đôn đốc khách hàng đẩy nhanh tiến độ nghiệm thu, thanh toán theo các điểm dừng kỹ thuật (mốc nghiệm thu theo quy định trong Tiêu chuẩn kỹ thuật, Hợp đồng thi công xây lắp) với Chủ đầu tư, qua đó hạn chế/tránh để khối lượng dở dang của công trình ở mức cao dẫn đến tồn đọng vốn và ảnh hưởng đến khả năng trả nợ, trừ trường hợp các Hợp đồng thi công xây lắp có quyết định thanh toán 1 lần khi bàn giao công trình. - Để cho vay không trùng lắp và đảm bảo quản lý được nguồn thu của khách hàng để thu hồi nợ, chỉ nên xem xét cho đơn vị thi công (bên B) vay vốn để thực hiện các hợp đồng thi công mà Chủ đầu tư (bên A) trực tiếp ký hợp đồng và chuyển nguồn vốn thanh toán về tài khoản của bên B tại BIDV. Trường hợp Tổng công ty/Công ty mẹ trực tiếp ký hợp đồng thi công, sau đó giao lại cho các đơn vị trực thuộc thực hiện thì có thể xem xét cho Tổng công ty/Công ty mẹ vay chuyển cho các đơn vị trực thuộc đó sử dụng hoặc cho các đơn vị được giao thi công vay nếu được Tổng công ty/Công ty mẹ bảo lãnh trả nợ thay. - Định kỳ 3 đến 6 tháng, Chi nhánh cùng khách hàng rà soát phân loại nợ xây dựng cơ bản chưa được thanh toán đối với từng công trình, hợp đồng cụ thể. Trong đó xác định rõ và không cho vay đối với công trình có nợ tồn đọng từ 6 tháng trở lên (tính từ ngày tổ chức nghiệm thu). Đồng thời Chi nhánh phân tích các khoản mục chi phí tạm ứng, chờ phân bổ, các khoản phải thu để xác định đúng kết quả kinh doanh, năng lực tài chính của doanh nghiệp và xếp đúng loại khách hàng theo qui định. Các Chi nhánh tiến hành rà soát đánh giá nguồn thu trong và ngoài xây lắp của khách hàng, kết hợp với việc kiểm tra sử dụng vốn vay để xác định khả năng thu hồi đối với từng khoản vay còn dư nợ. Trường hợp khách hàng có nợ tồn đọng dẫn đến không thanh toán được nợ đến hạn (kể cả sau khi đã gia hạn theo qui định), Chi nhánh tiến hành cơ cấu lại lịch trả nợ phù hợp với nguồn thu, khả năng trả nợ của khách hàng theo qui định 3.2.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng Hoạt động cho vay đối với DNXL là một hoạt động tín dụng khá phức tạp đòi hỏi về trình độ cán bộ tín dụng cao hơn. Thực tế ở BIDV cho thấy thường một cán bộ mới phải mất tối thiểu 3 năm mới có khả năng nắm bắt và triển khai công việc của hoạt động tín dụng đối với DNXL. Để nâng cao chất lượng cho vay đối với DNXL, việc tăng cường đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ tín dụng là đòi hỏi cấp thiết. Cụ thể là BIDV có thể thực hiện các giải pháp như sau: - Trước hết cần xây dựng và thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng theo các tiêu thức sau: Có phẩm chất đạo đức và tư cách tốt; Có ý thức trách nhiệm; Có bản lĩnh vững vàng, trung thực; Có trình độ chuyên môn vững vàng, hiểu biết xã hội, am hiểu thị trường và pháp luật; Có thể lực và khả năng giao tiếp tốt. - Thường xuyên đào tạo và đào tạo lại cán bộ, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là những kiến thức về lĩnh vực xây dựng cơ bản, phân tích tài chính, phòng ngừa rủi ro, đánh giá các biến động của nền kinh tế, các chính sách nhà nước mới ban hành. - Trang bị cho cán bộ tín dụng những kỹ năng nhất định trong giao tiếp cũng như marketing ngân hàng để có thể tiếp thị, thu hút khách hàng đến với ngân hàng. - Tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức để cán bộ tín dụng nhận thức được vai trò và trách nhiệm của mình. - Có các chế độ khen thưởng, đề bạt cán bộ tín dụng, sự quan tâm động viên của lãnh đạo đơn vị đối với cán bộ tín dụng để họ có thể tận tâm với công việc. - Cán bộ tín dụng là người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nên có vai trò rất quan trọng trong việc quảng bá hình ảnh của ngân hàng, tiếp thị, thu hút khách hàng đến với ngân hàng. Vì vậy, ngoài việc trang bị những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ tín dụng cũng cần có kiến thức nhất định về kỹ năng giao tiếp cũng như marketing ngân hàng. - Riêng đối với công tác tuyển dụng mới: Do cán bộ tín dụng cho vay DNXL cần có kiến thức chuyên môn, hiểu biết cụ thể về đặc điểm hoạt động của DNXL, các thông số kỹ thuật của hoạt động thi công xây lắp, nhằm đánh giá đúng năng lực tài chính, tính khả thi của các dự án xây dựng, phương án kinh doanh của doanh nghiệp nên trong thời gian tới BIDV cần có chính sách tuyển dụng hợp lý hơn: Thực hiện tuyển dụng các kỹ sư xây dựng hoặc cử nhân kinh tế xây dựng, những người đã có hiểu biết cơ bản về ngành xây dựng cơ bản; tiến hành đào tạo đội ngũ cán bộ này về lĩnh vực ngân hàng, tài chính trong thời gian khoảng từ 3 đến 6 tháng; Điều này sẽ giúp Ngân hàng rút ngắn thời gian để một cán bộ mới có thể nắm bắt và thực hiện tốt nghiệp vụ tín dụng đối với DNXL và giúp công tác tín dụng đạt hiệu quả cao hơn cả về quy mô cũng như chất lượng. 3.2.5. Tăng cường áp dụng mô hình cho vay khép kín đối với các Doanh nghiệp xây lắp Có thể nói trong hoạt động cho vay thi công xây lắp việc quản lý dòng tiền, giá trị sản lượng thực hiện, giá trị dở dang của công trình, tiến độ nghiệm thu, thanh quyết toán của công trình là cơ sở để đánh giá nguồn thu của công trình còn có khả năng trả nợ ngân hàng hay không. Giá trị sản lượng thực hiện sẽ nhỏ hơn hoặc bằng giá trị hợp đồng và nguồn thu của công trình có khả năng trả nợ được xác định bằng công thức: Giá trị sản lượng thực hiện – giá trị đã được chủ đầu tư thanh toán – dư nợ của công trình. Tuy nhiên luôn phải so sánh giá trị sản lượng thực hiện với giá trị được chủ đầu tư nghiệm thu để khối lượng dở dang ở mức vừa phải. Hoạt động cho vay khép kín đối với các Doanh nghiệp xây lắp có thể hiểu là hoạt động mà Ngân hàng vừa cho vay trung dài hạn đối với Chủ đầu tư để thanh toán cho Nhà thầu thi công và vừa cho vay ngắn hạn đối với các Nhà thầu để thanh toán cho các nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào. Khi tiến hành cho vay các Nhà thầu theo phương thức cho vay khép kín, do Ngân hàng cho vay chủ đầu tư nên nguồn trả nợ hay dòng tiền của nhà thầu được đảm bảo đồng thời các chỉ tiêu cần quan tâm trong cho vay xây lắp nói trên cũng được đảm bảo do Chủ đầu tư vay vốn tại BIDV. Đối với bộ hồ sơ vay vốn của Chủ đầu tư tại Ngân hàng sẽ bao gồm: Giá trị sản lượng được nghiệm thu, giá trị thanh toán, lũy kế khối lượng xây lắp hoàn thành vì vậy về mặt hồ sơ ngắn hạn cũng đầy đủ. Việc áp dụng mô hình tín dụng khép kín đối với các Doanh nghiệp xây lắp làm gia tăng quy mô dư nợ, nguồn trả nợ ngắn hạn được đảm bảo và quay vòng tín dụng an toàn, gia tăng thu phí dịch vụ chuyển tiền, huy động được tiền gửi không kỳ hạn. 3.2.6. Hoàn thiện chiến lược marketting đối với khách hàng Ở mọi thời đại, để thành công ở bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều cần phải có chiến lược marketting nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Trong hoạt động cho vay đối với DNXL cũng vậy, phục vụ tốt khách hàng, marketting khách hàng để họ sử dụng các sản phẩm của Ngân hàng là mục tiêu đầu tiên và là cốt lõi. Đối với các Doanh nghiệp xây lắp hoạt động tốt: Ngân hàng cần xây dựng một chiến lược khách hàng bao gồm giữ vững nền khách hàng hiện có, tạo lập được nền khách hàng tốt chính là phát triển được thị trường tốt làm cơ sở mở rộng kinh doanh. Thực tế cho thấy củng cố nền khách hàng vững chắc không những nâng cao hiệu quả tín dụng mà còn tạo cơ hội phát triển các dịch vụ ngân hàng, làm thay đổi tỷ trọng thu nhập theo hướng tăng dần đóng góp của khu vực dịch vụ. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi khách hàng đối với từng loại dịch vụ khách hàng đang có quan hệ giao dịch với Ngân hàng. Đối với Doanh nghiệp xây lắp hoạt động kém hiệu quả: Thực hiện chiến lược thu hồi dần dư nợ, giảm cho vay tuy nhiên cần phải áp dụng các biện pháp thích hợp như gia hạn nọ, tiếp tục cho vay để thu nợ đảm bảo dư nợ của các Doanh nghiệp khối này sẽ giảm dần. 3.2.7. Nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin trong hoạt động cho vay DNXL Hệ thống thông tin, đặc biệt là hệ thống thông tin tín dụng có vai trò quan trọng và ảnh hưởng lớn đến chất lượng của hoạt động cho vay. Các thông tin này cần chính xác, chân thực, có độ tin cậy cao và có nguồn gốc cụ thể. Để nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin, cán bộ thẩm định cần chú trọng một số vấn đề sau: Đối với thông tin do khách hàng cung cấp cần yêu cầu thông tin đó đã được qua kiểm toán của công ty kiểm toán độc lập hoặc ngân hàng cũng có thể tự thuê công ty kiểm toán độc lập để kiểm toán các báo cáo tài chính của doanh nghiệp cung cấp trước khi đặt mối quan hệ với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng có thể đến trực tiếp nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng để để quan sát và tìm hiểu về những mặt như: hệ thống cơ sở vật chất, hệ thống tổ chức, tính hữu hiệu trong hoạt động và lao động của đội ngũ cán bộ làm công, phong cách làm việc công nghiệp...để có được những thông tin cần thiết hộ trợ cho công tác đánh giá, thẩm định khách hàng vay vốn. Thông tin mà cán bộ thu thập cần được tổng hợp từ nhiều nguồn: khách hàng cung cấp, thông tin nội bộ trong hệ thống ngân hàng, thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, ngoài ra, còn nguồn thông tin về tình hình kinh tế xã hội được cập nhật qua mạng internet. Cán bộ tín dụng cần so sánh, điều chỉnh, tổng hợp một cách logic, khoa học để có được những thông tin chính xác, và đầy đủ phục vụ cho hoạt động cho vay DNXL. Các thông tin thu thập được cần phải lưu trữ thành các file dữ liệu, hoặc bằng văn bản, bằng hình ảnh…để làm cơ sở thống kê phân tích, tổng hợp số liệu về lĩnh vực cho vay DNXL. Bên cạnh đó, cán bộ thẩm định cần thường xuyên phối hợp, trao đổi cập nhật thông tin với nhau nhằm tăng khả năng đánh giá xu hướng vận động của đầu tư và dự đoán những rủi ro có thể xảy ra, đảm bảo các kết luận thẩm định đúng đắn và phù hợp với thực tế. Một quyết định tín dụng thường được dựa trên cơ sở tổng hợp các thông tin về pháp lý khách hàng, năng lực tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, tình hình thị trường đối với sản phẩm của khách hàng, tình hình nền kinh tế và uy tín của khách hàng trong quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng cũng như với đối tác kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây lắp, ngoài các thông tin thông thường về khách hàng và khoản vay, cán bộ tín dụng phải tìm hiểu rõ và cụ thể hơn về công trình mà DNXL vay vốn để thi công, nguồn vốn thanh toán của công trình, tính chắc chắn của nguồn vốn, tiến độ thanh toán của nguồn vốn... Vì vậy, để hệ thống thông tin thực sự là công cụ hỗ trợ cho hoạt động tín dụng thì cần phải tổ chức tốt công tác xây dựng, khai thác và cung cấp thông tin tín dụng. 3.2.8. Hoàn thiện và đổi mới trang thiết bị, công nghệ ngân hàng Để giảm thời gian, chi phí và nâng cao chất lượng của hoạt động tín dụng nói chung và cho vay đối với DNXL nói riêng, ngân hàng cần đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới trang thiết bị trong tổ chức quản lý, khai thác các dữ liệu phục vụ cho công tác tín dụng, thẩm định và phê duyệt tín dụng. Ngân hàng cần tập trung đầu tư, phát triển công nghệ, thực hiện chương trình hiện đại hóa ngân hàng. Đặc biệt với việc đầu tư công nghệ mới, hồ sơ thông tin của khách hàng sẽ được chuẩn hóa, luôn được cập nhật chính xác trong toàn hệ thống. Các chương trình như phần mềm tính điểm khách hàng, quản lý rủi ro sẽ giúp cho cán bộ tín dụng giảm được khối lượng lớn công việc, tiết kiệm thời gian cũng như chi phí cho ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng. 3.2.9. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát cho vay Củng cố và nâng cao chất lượng của hệ thống kiểm tra, kiểm soát tại BIDV đối với các Doanh nghiệp xây lắp là biện pháp phòng ngừa rủi ro hữu hiệu. Cán bộ kiểm tra nội bộ phải hoạt động độc lập với các bộ phận tín dụng trên cơ sở đó có những kiến nghị đánh giá, độc lập trong hoạt động kiểm tra. Định kỳ 6tháng/lần nên tổ chức các đoàn kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng tại Chi nhánh thay cho việc chỉ kiểm tra hoạt động tín dụng khi phát sinh vụ việc vi phạm trong hoạt động tín dụng và khi có các đoàn thanh tra bên ngoài vào kiểm tra. Nội dung kiểm tra đánh giá cần đạt được các vấn đề cơ bản sau: Công tác tuân thủ, chấp hành các quy trình, chính sách tín dụng; kiểm tra vốn vay ngân hàng có được sử dụng đúng mục đích không, tài sản thế chấp có được khách hàng bảo quản và sử dụng theo đúng như cam kết tại hợp đồng cầm cố thế chấp không, tránh trường hợp khách hàng mang tài sản thế chấp đi bán mà ngân hàng không hay biết hoặc khách hàng sử dụng, bảo quản tài sản không đúng qui cách, để hư hỏng gây thiệt hại cho ngân hàng khi phải phát mại tài sản; Tổng rà soát lại dư nợ tín dụng của DNXL để xác định đúng chất lượng tín dụng, nợ có vấn đề, nợ xấu. Xác định số nợ có nguồn thanh toán chắc chắn, số nợ chưa có nguồn thanh toán hoặc nguồn thanh toán không chắc chắn; Xác định rõ nguyên nhân và các vấn đề có liên quan; Có biện pháp xử lý, thu hồi giảm thiểu nợ xấu, nợ có vấn đề. Việc kiểm tra, kiểm soát thường xuyên sẽ giúp cán bộ ngân hàng nắm bắt được những biến động bất thường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng từ đó có biện pháp xử lý kịp thời. Đặc biệt, đối với DNXL, công tác kiểm tra, giám sát sau giải ngân là hết sức cần thiết. Để quản lý được nguồn thu của khách hàng nhằm kịp thời thu hồi nợ, ngân hàng phải thường xuyên bám sát tiến độ thi công và thanh quyết toán các công trình. 3.3. Kiến nghị: 3.3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ - Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động xây lắp: Hiện tại, hệ thống các văn bản pháp lý về xây dựng có quá nhiều, có những văn bản còn chồng chéo lên nhau và chưa cập nhật với thực tế. Do vậy, trong thời gian tới cần có những sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ ban ngành trong việc ra các văn bản luật. Đồng thời thực hiện phân cấp quản lý đầu tư, quy định rõ trách nhiệm của từng khâu trong việc quản lý nhà nước về xây dựng. - Cải cách thủ tục hành chính trong quản lý đầu tư xây dựng Đi đôi với việc phân cấp, cần từng bước thực hiện tách chức năng quản lý sản xuất ra khỏi chức năng quản lý nhà nước của các Bộ, ngành, Ủy ban Nhân dân thành phố trực thuộc Trung ương, nhằm xoá bỏ tình trạng khép kín trong các khâu từ lập, thẩm định, phê duyệt, tổ chức đấu thầu, thi công,... trong cùng một Bộ, ngành và địa phương. Để thống nhất quản lý nhà nước về lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng cần sửa đổi, bổ sung những tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng đã lạc hậu không còn phù hợp; sớm nghiên cứu ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn phù hợp với tiến bộ khoa học, kỹ thuật và thông lệ quốc tế. - Tăng cường rà soát và giám sát chặt chẽ các công trình, dự án đang thực hiện và dự định thực hiện đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước đảm bảo hiệu quả đầu tư. Khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, kiên quyết không quyết định đầu tư đối với các công trình chưa chắc chắn về nguồn vốn, tránh tình trạng các công trình đầu tư dở dang, kéo dài, hoặc không phát huy hiệu quả đầu tư, lãng phí vốn nhà nước. Đồng thời, cần quy định rõ người có thẩm quyền quyết định đầu tư nếu làm sai pháp luật, không hiệu quả phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả do quyết định không đúng gây ra. - Đẩy mạnh công tác giải phóng mặt bằng: + Tiếp tục bổ sung, sửa đổi qui định về giải phóng mặt bằng: Cần có các điều khoản bắt buộc để tái định cư cho người bị thu hồi đất nếu họ có yêu cầu, đồng thời bảo đảm các điều kiện sống cho họ trong thời gian chưa được tái định cư. Đối với đất thu hồi phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh, phải có các điều khoản quy định người nhận đất có trách nhiệm đóng góp kinh phí đào tạo nghề cho đối tượng bị thu hồi đất, hoặc tuyển dụng một số lao động vào làm việc cho doanh nghiệp... + Có các chế tài rõ ràng đối với những đối tượng cản trở công tác giải phóng mặt bằng, ảnh hưởng đến trật tự an ninh xã hội. - Đẩy mạnh hoạt động sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước, lành mạnh hoá tình hình tài chính Hiện nay, phần lớn doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, lỗ luỹ kế lớn và khó khăn về tài chính, có doanh nghiệp đã mất hết vốn nhà nước nên việc khắc phục tình trạng trên là điều không dễ dàng. Trong khi đó, số nợ tồn đọng của các doanh nghiệp này, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản tại các ngân hàng thương mại còn khá lớn. Vì vậy, việc tập trung làm lành mạnh hoá tài chính, xử lý nợ và lỗ luỹ kế của các doanh nghiệp nhà nước nói chung và các DNXL nói riêng là cần thiết nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Trong thời gian tới cần đẩy nhanh tiến độ và hoàn thành sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Các cơ quan ban ngành phải kiên quyết sắp xếp lại đối với những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài, không có khả năng khắc phục, theo các hình thức cổ phần hóa, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, giải thể và phá sản. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần nâng cao vai trò của trung tâm thông tin tín dụng thông qua việc phối hợp với các cơ quan ban ngành khác như Bộ Tài chính, các cơ quan thuế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư… trong việc thu thập và xử lý thông tin về các doanh nghiệp cũng như các chính sách, cơ chế cho vay trong các lĩnh vực có liên quan; đồng thời, cần hình thành các bộ phận chuyên trách cung cấp thông tin từng mặt của các hoạt động kinh tế để có thể cung cấp những thông tin mà ngân hàng cần về doanh nghiệp như tình hình tài chính, thông tin phi tài chính, quan hệ tín dụng của doanh nghiệp với các tổ chức tín dụng…Những thông tin này cần được cập nhật thường xuyên và có sự đảm bảo về pháp lý. - Nâng cao chất lượng công tác thanh tra, giám sát hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Ngân hàng nhà nước cần xử lý kiên quyết các trường hợp sai phạm, đồng thời phối hợp với các bộ ngành có liên quan để có sự phối hợp hỗ trợ kịp thời, tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. - Chính sách thắt chặt hay mở rộng của Ngân hàng nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động của ngân hàng thương mại, các thành phần trong nền kinh tế nói chung và các DNXL nói riêng. Vì vậy, NHNN cần phân tích diễn biến thị trường tiền tệ trong từng thời kỳ để có thể có những dự báo vĩ mô các diễn biến tiền tệ, tín dụng từ đó có những chính sách tiền tệ cho phù hợp. - Ngân hàng nhà nước tiếp tục ban hành các văn bản qui định, hướng dẫn cụ thể các chính sách của nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại trong quá trình tác nghiệp. Trong đó, đối với một số văn bản quy định liên quan trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng thương mại như thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 của NHNN quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Mặc dù hiện thông tư này chỉ bắt đầu có hiệu lực từ 01/10/2010, tuy nhiên, một số nội dung của văn bản này đã thể hiện sự bất cập: Khoản tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức (trừ Kho bạc Nhà nước) không được tính vào nguồn vốn huy động được sử dụng để cấp tín dụng. Trong thực tế, nguồn tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức các ngân hàng là tương đối dồi dào, số dư bình quân rất lớn và khá đều hàng năm; vì vậy, việc không tiếp tục được sử dụng nguồn vốn này để cho vay sẽ làm giảm đáng kể nguồn vốn khả dụng của NHTM, đặc biệt là các ngân hàng lớn như BIDV. Do đó, đề nghị NHNN có những sửa đổi thông tư 13 theo hướng phù hợp với thực tế hoạt động của các NHTM hơn, cụ thể là: Cho phép NHTM được sử dụng từ 30% đến 50% số dư bình quân nguồn tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức để cho vay. KẾT LUẬN Chất lượng hoạt động tín dụng nói chung và chất lượng hoạt động cho vay đối với DNXL là vấn đề mà tất cả các NHTM luôn chú trọng. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam với vai trò ngân hàng chủ lực trong lĩnh vực đầu tư phát triển thì việc nâng cao chất lượng cho vay đối với DNXL là vấn đề tất yếu và cần thiết của ngân hàng. Trong những năm qua, chất lượng cho vay của Ngân hàng đã không ngừng được cải thiện. Song, việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNXL vẫn còn nhiều vướng mắc, tồn tại. Nhận thức được những hạn chế đó, trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu, bám sát mục tiêu, phạm vi nghiên cứu, chuyên đề đã hoàn thành các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, hệ thống hoá được những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng cho vay đối với DNXL của Ngân hàng thương mại. Thứ hai, phân tích thực trạng chất lượng cho vay đối với DNXL tại BIDV. Chỉ ra những hạn chế, tồn tại cần tiếp tục giải quyết. Thứ ba, đề xuất những giải pháp có tính thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng cho vay đối với DNXL tại BIDV đồng thời đưa ra những kiến nghị đối với chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và Ban lãnh đạo BIDV để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Ngân hàng trong quá trình thẩm định tài chính dự án vay vốn SXKD XNK. Với kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế, mặc dù nâng cao chất lượng cho vay đối với DNXL không phải là vấn đề mới nhưng là vấn đề phức tạp; trong khuôn khổ một khóa luận thạc sỹ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, kính mong thầy cô và những người quan tâm góp ý để tác giả tiếp tục hoàn thiện trong tương lai. MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DANH MUC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU TÀI LIỆU THAM KHẢO David Cox (1997), Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội. Fredric S.Mishkin (2001), Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, Hà Nội. Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (2008), Quy định về Chức năng nhiệm vụ, Quy trình cấp tín dụng, Hà Nội. Peter S.Rose (2004), Quản trị ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản tài chính 2004, Hà Nội. 5. TS Phan Thị Thu Hà, TS Nguyễn Thị Thu Thảo (2006), Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản thống kê, Hà nội. 6. Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (2005, 2006, 2007, 2008,2009), Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh. 7. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2005, 2006, 2007, 2008,2009), Báo cáo thường niên. 8. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2008), Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học ngân hàng. 9. TS. Tô Kim Ngọc (2004), Giáo trình lý thuyết tiền tệ - ngân hàng, Nhà xuất bản thống kê. 10. Tạp chí Ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước Việt nam - Các số năm 2006, 2007, 2008 và 2009. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26241.doc