Nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng Công thương Việt Nam

Tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng Công thương Việt Nam: DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT NHTM Ngân hàng thương mại DNV&N Doanh nghiệp vừa và nhỏ CBTD Cán bộ tín dụng DN Doanh nghiệp NHCT Ngân hàng Công thương SGDI Sở giao dịch I DANH SÁCH CÁC BẢNG Hình 2.1 Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch I Hình 2.2 Tình hình huy động vốn của Sở giao dịch I Hình 2.3 Tăng trưởng dư nợ cho vay của Sở giao dịch I Hình 2.4 Tăng trưởng dư nợ cho vay DNV&N của Sở giao dịch I Hình 2.5 Cơ cấu dư nợ cho vay DNV&N của Sở giao dịch I theo thành phần kinh tế Hình 2.... Ebook Nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng Công thương Việt Nam

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6 Thay đổi tỷ trọng cho vay DNV&N của Sở giao dịch I theo thời hạn cho vay qua các năm Hình 3.1 Tăng trưởng hồ sơ thông tin khách hàng tại trung tâm thông tin tín dụng – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Bảng 2.1 Tổng vốn huy động của Sở giao dịch I Bảng 2.2 Cơ cấu vốn huy động của Sở giao dịch I Bảng 2.3 Dư nợ cho vay của Sở giao dịch I Bảng 2.4 Cơ cấu dư nợ cho vay của Sở giao dịch I Bảng 2.5 Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay của Sở Giao dịch I Bảng 2.6 Tỷ trọng lợi nhuận của Sở giao dịch I trong toàn bộ hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam. Bảng 2.7 Dư nợ cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I Bảng 2.8 Dư nợ cho vay DNV&N theo thời hạn cho vay của Sở giao dịch I Bảng 2.9 Nợ quá hạn của các DNV&N tại Sở giao dịch I Bảng 2.10 Vòng quay vốn tín dụng đối với DNV&N của Sở giao dịch I Bảng 2.11 Tỷ trọng thu nhập từ cho vay đối với DNV&N trong lợi nhuận cuối năm của Sở giao dịch I LỜI MỞ ĐẦU Sự phát triển ngày càng đa dạng và hoàn thiện của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, đã có tác động lớn, thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề cho quá trình mở cửa và hội nhập. Nhờ hoạt động của hệ thống ngân hàng mà nhu cầu về vốn để duy trì và mở rộng quy mô sản xuất của các thành phần kinh tế trong xã hội luôn được đáp ứng kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra một cách nhanh chóng và hiệu quả. Việc mở cửa hội nhập với nền kinh tế Thế giới, đặc biệt là sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sẽ mang lại ngày càng nhiều những cơ hội cho hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng. Đồng thời cũng đặt ra những thách thức, thậm chí là nguy cơ bị thâu tóm, sáp nhập và phải rút khỏi thị trường nếu không đủ sức cạnh tranh với hệ thống ngân hàng nước ngoài. Với định hướng trở thành một trong những Ngân hàng lớn mạnh hàng đầu của Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam luôn cố gắng tranh thủ thời cơ, tận dụng cơ hội, khắc phục những điểm yếu và phát huy lợi thế so sánh nhằm nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh, phát triển nhanh thị phần - mở rộng quy mô hoạt động một cách hiệu quả và bền vững. Có thể nói lĩnh vực dịch vụ ngân hàng dành cho các doanh nghiệp là thế mạnh truyền thống của Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam. Thời gian vừa qua, Sở Giao dịch đặc biệt chú trọng đẩy mạnh cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ kết hợp với việc phát triển những sản phẩm dịch vụ hết sức đã dạng. Từ chủ trương này, hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng tài trợ hoạt động của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng của Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam cũng đạt được mức tăng trưởng khá khả quan, đóng góp vào sự phát triển nhanh chóng của toàn hệ thống. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng, đặc biệt là cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra của Sở giao dịch I. Với những lý do như trên, em đã quyết định chọn đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình sau một thời gian thực tập tại Sở Giao dịch I. Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I Chương I: Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại 1.1. Cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM 1.1.1. Khái quát về NHTM 1.1.1.1. Khái niệm NHTM Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng của nền kinh tế. Trong nền kinh tế, ngân hàng thường bao gồm nhiều loại hình nhưng trong đó, ngân hàng thương mại luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Để đưa ra một định nghĩa về ngân hàng thương mại, người ta phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính. Mặc dù hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về NHTM nhưng khi phân tích nội dung các định nghĩa đó, người ta dễ dàng nhận thấy các NHTM đều có chung một tính chất, đó là việc nhận tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của ngân hàng. Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/06/2004 có nêu: Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng. Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán khác. Ngày nay, trong thế giới hiện đại, hoạt động của các tổ chức tài chính đặc biệt là các ngân hàng ngày càng phát triển về số lượng và quy mô hoạt động. Người ta phân biệt ngân hàng thương mại với các tổ chức tài chính khác là ở chỗ, NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất và đồng thời cũng chịu sự kiểm soát gắt gao nhất của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh tài chính nào trong nền kinh tế. 1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại a. Huy động vốn Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng của NHTM. Tuy không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng nhưng hoạt động này mang lại nguồn vốn để NHTM có thể thực hiện các hoạt động như cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. Không có nghiệp vụ huy động vốn NHTM sẽ không đủ vốn tài trợ cho hoạt động của mình. Mặt khác, thông qua nghiệp vụ huy động vốn, NHTM có thể đo lường được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng. Từ đó, NHTM có các biện pháp để hoàn thiện hoạt động huy động vốn để giữ vững và mở rộng mối quan hệ với khách hàng. Có thể nói rằng, nghiệp vụ huy động vốn chính là để giải quyết đầu vào cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Huy động vốn của NHTM thực chất là việc ngân hàng nhận tiền gửi của các cá nhân, tổ chức hay các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác. NHTM còn có thể huy động vốn bằng cách phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác theo quy định của Pháp luật để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Huy động vốn của NHTM cũng có thể thực hiện được dưới hình thức các NHTM vay vốn của nhau trên thị trường liên ngân hàng, vay vốn của các tổ chức tín dụng nước ngoài hoặc vay vốn của Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức tái cấp vốn. Theo Nghị định 49/2000/NĐ-CP ngày 12/09/2000 của Chính phủ về tổ chức hoạt động NHTM thì NHTM được phép huy động vốn dưới các hình thức sau: - Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhận và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác. - Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận… - Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các tổ chức tín dụng nước ngoài. - Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. b. Sử dụng vốn Cùng với các hoạt động huy động vốn, NHTM thực hiện các hoạt động sử dụng vốn, tạo nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng nhằm thu lợi nhuận và đảm bảo an toàn. Hoạt động sử dụng vốn của các NHTM rất phong phú và đa dạng về hình thức. Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi 2004, bên cạnh việc cho vay các NHTM còn được sử dụng vốn dưới rất nhiều hình thức khác nhau như: cho thuê tài chính, chiết khấu các giấy tờ có giá, bảo lãnh, bao thanh toán, tài trợ xuất nhập khẩu… Tuy nhiên, trong các hoạt động sử dụng vốn của NHTM thì hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản nhất, thể hiện đặc trưng của NHTM. Hoạt động cho vay của NHTM có nhiều cách phân loại, theo mỗi tiêu chí khác nhau thì có những cách phân loại khác nhau. Dưới đây là một số loại hình cho vay cơ bản: Căn cứ vào thời hạn cho vay, cho vay được phân loại thành: Cho vay ngắn hạn: là loại hình cho vay có thời hạn dưới 12 tháng và chủ yếu được dùng để tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất... Cho vay trung, dài hạn: là loại hình cho vay có thời hạn trên 12 tháng, chủ yếu để thực hiện đầu tư mua sắm tài sản cố định, xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư các dự án mới, đổi mới thiết bị sản xuất… Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng, cho vay được chia thành: Cho vay có tài sản đảm bảo: là loại cho vay mà khách hàng vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba và có sự đồng ý của ngân hàng. Cho vay không có tài sản đảm bảo: là loại cho vay mà việc đảm bảo chỉ dựa hoàn toàn vào uy tín của khách hàng. Nếu căn cứ vào mục đích vay vốn, cho vay có thể được chia thành nhiều loại như: cho vay tiêu dùng, cho vay công nghiệp, cho vay sản xuất nông nghiệp, cho vay thương mại và dịch vụ… Còn nếu căn cứ vào quy mô của khách hàng vay vốn thì cho vay được chia thành: cho vay đối với khách hàng là doanh nghiệp lớn, cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ và cho vay đối với khách hàng cá nhân. Tóm lại, có rất nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại hoạt động cho vay của NHTM. Hoạt động cho vay là một hoạt động cơ bản, đặc trưng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong doanh thu của các NHTM. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng được khẳng định; vì thế tầm quan trọng của hoạt động cho vay đối với DNV&N của NHTM ngày càng được nâng cao và đóng góp tỷ lệ không nhỏ vào thu nhập của NHTM. c. Hoạt động khác Ngoài việc thực hiện vai trò trung gian chuyển vốn từ người thừa vốn sang những người thiếu vốn để sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nền kinh tế, các NHTM còn tạo ra những công cụ tài chính quan trọng thay thế cho tiền làm phương tiện thanh toán là thanh toán bằng séc và mở tài khoản thẻ ATM. Quá trình thanh toán này đưa lại kết quả là phần lớn tiền giao dịch trong nền kinh tế là tiền lưu thông qua hệ thống ngân hàng. Do đó làm cho hoạt động của NHTM gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước cũng như có mối liên hệ quốc tế rộng rãi. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp các hoạt động khác như: - Góp vốn và mua cổ phần: NHTM được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, NHTM còn được góp vốn mua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng liên doanh. - Tham gia thị trường tiền tệ: NHTM được tham gia thị trường tiền tệ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước thông qua các hình thức mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ. - Kinh doanh ngoại hối: NHTM được phép trực tiếp kinh doanh hoặc thành lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế. - Ủy thác và nhận ủy thác: NHTM được ủy thác, nhận ủy thác làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. - Tư vấn tài chính: NHTM được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn trực thuộc ngân hàng. - Cung ứng dịch vụ bảo hiểm, bảo quản vật có giá… 1.1.1.3. Cho vay của NHTM Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó NHTM giao khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích và thời hạn nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho NHTM một bộ hồ sơ vay vốn bao gồm giấy đề nghị vay vốn và các tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều kiện vay vốn. Khách hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp của các tài liệu gửi cho NHTM. NHTM hướng dẫn các loại tài liệu khách hàng cần gửi tùy theo đặc điểm của cụ thể của từng khách hàng, loại cho vay và khoản vay. Thông thường, một bộ hồ sơ vay vốn của khách hàng doanh nghiệp gồm có: Giấy đề nghị vay vốn. Giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của khách hàng như giấy phép thành lập, quyết định bổ nhiệm Giám Đốc, điều lệ hoạt động. Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ, hoặc dự án đầu tư. Báo cáo tài chính của thời kỳ gần nhất. Các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh. Các giấy tờ liên quan khác. Việc vay vốn là nhu cầu tự nguyện của khách hàng và là cơ hội để NHTM cấp tín dụng và thu lợi nhuận từ hoạt động của mình. Tuy nhiên, thông thường khách hàng vay vốn của NHTM phải đảm bảo 2 nguyên tắc: - Thứ nhất, sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Việc sử dụng vốn vào mục đích gì là do 02 bên, NHTM và khách hàng, thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích thỏa thuận là nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ vay sau này. Do vậy, về phía khách hàng, việc sử dụng vốn vay đúng mục đích góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, đồng thời giúp DN đảm bảo khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng. Từ đó, nâng cao uy tín của khách hàng đối với ngân hàng và củng cố quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng. Còn về phía ngân hàng, trước khi cho vay cần tìm hiểu kỹ mục đích vay vốn của khách hàng và kiểm tra xem khách hàng có sử dụng vốn vay đúng mục đích hay không. Điều này là rất quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thu hồi nợ vay sau này. Việc khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích dễ dẫn đến thất thoát và lãng phí khiến vốn vay không tạo ra được dòng tiền trả nợ cho ngân hàng sau này. - Thứ hai, hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Hoàn trả nợ gốc và lãi vay là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động cho vay của NHTM. Điều này xuất phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay. Phần lớn nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng cho vay là vốn huy động từ khách hàng gửi tiền; nên sau một thời gian cho vay nhất định, khách hàng vay tiền phải trả nợ cho ngân hàng để ngân hàng thanh toán cho người gửi tiền. Mặc dù khi tiến hành cho vay, NHTM yêu cầu khách hàng vay vốn phải đảm bảo các nguyên tắc nêu trên nhưng trên thực tế thì không phải khách hàng nào cũng có thể tuân thủ đúng nguyên tắc này. Do vậy, để đảm bảo các nguyên tắc vay vốn, NHTM chỉ xem xét cho vay đối với những khách hàng đã thỏa mãn một số điều kiện nhất định. Theo quy chế cho vay của Ngân hàng Nhà nước ban hành, các điều kiện vay vốn khách hàng cần có bao gồm: Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Có mục đích vay vốn hợp pháp. Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Có phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả. Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính Phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ở nước ta hiện nay, hơn 90% doanh nghiệp trong nền kinh tế là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì thế cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ đang ngày chiếm một tỷ trọng lớn hơn trong hoạt động cho vay đối với nền kinh tế của các ngân hàng thương mại. 1.1.2. Cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM 1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của Doanh nghiệp vừa và nhỏ Nói đến doanh nghiệp vừa và nhỏ là nói đến cách phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay quy mô của các doanh nghiệp. Việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ phụ thuộc vào loại tiêu thức sử dụng quy định giới hạn các tiêu thức phân loại quy mô doanh nghiệp. Điểm khác biệt cơ bản trong khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ giữa các nước chính là việc lựa chọn các tiêu thức đánh giá quy mô doanh nghiệp và lượng hóa các tiêu thức ấy thông qua những tiêu chuẩn cụ thể. Mặc dù có những khác biệt nhất định giữa các nước về quy định các tiêu thức phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ, song khái niệm chung nhất về doanh nghiệp vừa và nhỏ có nội dung như sau: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất – kinh doanh có tư cách pháp nhân kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ theo quy định của từng quốc gia.” Theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Công ty tài chính Quốc tế (IFC), các doanh nghiệp được phân chia quy mô như sau: Doanh nghiệp vô cùng nhỏ (Micro - enterprise): có đến 10 lao động, tổng tài sản không quá 100.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 100.000 USD. Doanh nghiệp nhỏ (Small - enterprise): có không quá 50 lao động, tổng tài sản có trị giá không quá 3.000.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 3.000.000 USD. Doanh nghiệp vừa (Medium - enterprise): có không quá 300 lao động, tổng tài sản có trị giá không quá 15.000.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 15.000.000 USD. Ở Việt Nam, theo Nghị Định số 90/2001 NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính Phủ thì doanh nghiệp vừa và nhỏ được định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã được đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ VND hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Ở Việt Nam, khi nói đến doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam có các đặc điểm sau: Một là, quy mô về vốn thường nhỏ, năng lực cạnh tranh trên thị trường thấp; công nghệ lạc hậu, thủ công. Hai là, doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao động. Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới, các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một trong những nguồn tạo ra nhiều công ăn việc làm nhất và năng động nhất. Ba là, lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là trong những ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Bốn là, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong việc phân bổ các ngành công nghiệp đến nhiều vùng dân cư khác nhau, nhờ đó giảm bớt được khoảng cách phát triển giữa các khu vực khác nhau, các vùng khác nhau trên toàn quốc. Năm là, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp đáng kể vào việc duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, sản xuất ra được các sản phẩm mang đậm bản sắc dân tộc. Hiện nay, doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Đầu năm 2008, cả nước có khoảng 300.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, và các doanh nghiệp này tham gia vào hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế và là nguồn chủ yếu tạo công ăn việc làm cho người lao động. Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế trong những năm tới thì việc thúc đẩy hoạt động của loại hình doanh nghiệp này là hết sức cần thiết. 1.1.2.2. Cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM a. Hình thức cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Căn cứ vào thời hạn cho vay, hình thức cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm cho vay ngắn hạn và cho vay trung, dài hạn. - Cho vay ngắn hạn: Theo các quy định hiện hành, cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng. Thông thường, cho vay ngắn hạn là loại hình cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất của các ngân hàng thương mại, chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp. Cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp thông thường bao gồm 2 loại sau: Cho vay từng lần: là loại hình cho vay có kỳ hạn nợ cụ thể, được ngân hàng xét duyệt cho vay từng lần theo từng đối tượng vay cụ thể như là cho vay để dự trữ nguyên vật liệu, bán thành phẩm… Mỗi lần vay vốn, khách hàng và NHTM thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. Cho vay theo hạn mức tín dụng: là loại cho vay không có kỳ hạn nợ cụ thể gắn với từng lần giải ngân mà chỉ có thời hạn vay cuối cùng và các điều kiện sử dụng vốn vay để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Loại hình cho vay này, NHTM và khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, phụ thuộc vào chiến lược quản trị tài chính và nhu cầu của doanh nghiệp, NHTM có thể cho vay phần lớn nhu cầu vốn hoặc có thể chỉ tham gia một phần nhỏ nhu cầu của doanh nghiệp. - Cho vay trung, dài hạn: theo các quy định hiện hành, cho vay trung, dài hạn là các khoản vay có thời hạn từ 01 năm trở lên, trong đó các khoản vay từ 01 đến 05 năm là cho vay trung hạn, còn từ 05 năm trở lên là cho vay dài hạn. Thông thường các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn trung, dài hạn để thực hiện mua sắm tài sản cố định, đổi mới trang thiết bị sản xuất, mua công nghệ, thực hiện đầu tư các dự án phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án phục vụ đời sống… b. Quy trình cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Quy trình cho vay là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của NHTM trong việc cấp tín dụng, trong đó xây dựng các bước đi cụ thể theo một trình tự nhất định kể từ khi chuẩn bị hồ sơ đề nghị vay vốn cho đến khi khoản cho vay được thu nợ đầy đủ cả gốc và lãi. Đây là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn mang tính chất liên hoàn, theo một trình tự chung và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hiện nay, quy trình cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng tương tự quy trình cho vay chung đối với các loại hình doanh nghiệp, thường bao gồm những nội dung sau: Tiếp nhận hồ sơ vay vốn; Thẩm định phương án vay vốn; Ra quyết định cho vay; Giải ngân; Giám sát, thu nợ và thanh lý hợp đồng vay vốn. - Tiếp nhận hồ sơ vay vốn: Một khoản vay chỉ được thực hiện khi ngân hàng đã tin tưởng chắc chắn vào thái độ sẵn sàng trả nợ và khả năng trả nợ của khách hàng. Để có được một quyết định chính xác về việc có cho vay hay không, NHTM phải phân tích rất nhiều nguồn thông tin có liên quan, và nguồn đầu tiên có được chính là từ hồ sơ đề nghị vay vốn. Đây là giai đoạn chuẩn bị những điều kiện cần thiết để quan hệ vay vốn được thiết lập. Giai đoạn này hình thành đầy đủ các giấy tờ, văn bản chứng tỏ khách hàng có nhu cầu vay vốn thực sự, cũng như chứng minh được tư cách pháp nhân và tính tự nguyện vay vốn của khách hàng. Hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp thông thường gồm có những loại sau: Những tài liệu chứng minh tư cách pháp nhân của khách hàng: giấy phép thành lập, đăng ký kinh doanh, các quyết định bổ nhiệm, điều lệ hoạt động… Những tài liệu liên quan đến phương án vay và khả năng trả nợ của khách hàng: phương án sản xuất kinh doanh, kế hoạch trả nợ, các hợp đồng liên quan… Những tài liệu liên quan đến bảo đảm tiền vay (nếu có). Các giấy tờ khác. Giai đoạn này, NHTM bước đầu có những thông tin sơ bộ về khách hàng, để từ đó bắt đầu tiến hành việc thẩm định cho vay đối với khách hàng. - Thẩm định phương án vay vốn của khách hàng: là quá trình phân tích khách hàng dựa trên những dữ liệu do khách hàng cung cấp và những dữ liệu khác mà ngân hàng thu thập được. Sau khi nhận được hồ sơ khách hàng đầy đủ, CBTD tiến hành thẩm định khách hàng theo những trình tự sau: Kiểm tra hồ sơ vay vốn và mục đích vay vốn: CBTD kiểm tra tính xác thực, hợp pháp, hợp lệ của các giấy tờ, văn bản trong danh mục hồ sơ khách hàng và kiểm tra tính hợp pháp của mục đích vay vốn. Điều tra, thu thập, tổng hợp thông tin về khách hàng và phương án sản xuất kinh doanh/ dự án đầu tư. Kiểm tra, xác minh thông tin. Thực hiện phân tích ngành: CBTD thực hiện phân tích và đánh giá triển vọng trong tương lai của doanh nghiệp với tình hình thị trường hiện tại. Phân tích, thẩm định khách hàng vay vốn: CBTD thẩm định tư cách, năng lực pháp lý, năng lực điều hành, năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, mô hình tổ chức, bố trí lao động trong doanh nghiệp và thực hiện phân tích, đánh giá tình hình hoạt động, khả năng tài chính của doanh nghiệp. Dự kiến lợi ích của ngân hàng nếu khoản vay được phê duyệt: CBTD tính toán lãi, và các lợi ích có thể thu được nếu như khoản vay được phê duyệt, dựa trên số tiền giải ngân, thời hạn và lãi suất dự tính. Phân tích, thẩm định phương án sản xuất kinh doanh/ dự án đầu tư: CBTD tập trung phân tích, đánh giá về khía cạnh hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của phương án sản xuất kinh doanh/ dự án đầu tư. - Ra quyết định cho vay: Việc ra quyết định chấp thuận hay không chấp thuận một khoản vay là một công việc rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình kinh doanh của NHTM. Ngoài các thông tin được chuyển từ các giai đoạn trước thì việc quyết định cho vay còn phụ thuộc vào các yếu tố sau: Các thông tin thu thập được thị trường và các bên có liên quan. Nguồn cho vay của Ngân hàng. Chính sách tín dụng của Ngân hàng. Tài sản đảm bảo của khách hàng. - Giải ngân: là việc giao tiền cho khách hàng trên cơ sở mức cho vay đã cam kết theo hợp đồng tín dụng. Thông thường, giai đoạn này NHTM tiến hành giải ngân theo nguyên tắc: phải có hàng hóa đối ứng, phù hợp với mục đích vay của hợp đồng tín dụng. Để đảm bảo việc giải ngân đúng mục đích, cần phải theo dõi thường xuyên tình hình tồn kho của khách hàng và các chứng từ liên quan đến việc trả tiền cho người bán hàng. - Giám sát, thu nợ và thanh lý hợp đồng vay vốn: Mục tiêu của việc giám sát là kiểm tra việc thực hiện các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Thông thường, giám sát bao gồm các nội dung sau: Xem xét khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích không. Theo dõi việc thực hiện các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Kiểm soát mức độ rủi ro của khoản vay thông qua việc kiểm soát sử dụng vốn vay. Theo dõi việc thực hiện quy trình tín dụng áp dụng trong NHTM. Đến thời hạn trả nợ, nếu khoản vay được thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi thì coi như nghĩa vụ của khách hàng với ngân hàng đã được thực hiện xong. NHTM lúc này sẽ làm thủ tục giải chấp tài sản thế chấp hoặc giải tỏa tài sản cầm cố đồng thời tất toán khoản vay và chuyển hồ sơ khách hàng sang lưu trữ. 1.2. Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp và nhỏ của NHTM 1.2.1. Khái niệm chất lượng cho vay Hoạt động cho vay của NHTM đóng một vai trò quan trọng đối với việc phát triển kinh tế. Với chức năng là một trung gian tài chính, NHTM thực hiện điều chuyển vốn từ những người thừa vốn sang những người thiếu vốn để sản xuất kinh doanh. Hoạt động cho vay của NHTM có hiệu quả thì sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo động lực phát triển kinh tế. Vậy thế nào là một khoản vay có chất lượng đối với NHTM? Đối với NHTM, một khoản vay có chất lượng là một khoản vay thu được đầy đủ cả nợ gốc và lãi, đúng thời hạn và đem lại hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Hay có thể nói rằng một khoản vay có chất lượng là khi vốn vay được khách hàng sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, tạo ra số tiền lớn hơn số tiền ban đầu; qua đó, ngân hàng thu hồi được nợ gốc và lãi còn doanh nghiệp thì trả được nợ ngân hàng, bù đắp chi phí và thu được lợi nhuận. NHTM là một trung gian tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Vì thế, khi xem xét chất lượng cho vay, NHTM thường xem xét 2 yếu tố: mức độ an toàn và hiệu quả kinh tế của khoản vay. - Mức độ an toàn của khoản vay (khả năng trả nợ của khách hàng): Một chỉ tiêu mà các NHTM luôn rất quan tâm trước khi quyết định cho vay đối với khách hàng là khả năng hoàn trả khoản vay của khách hàng. Một khoản vay không trả được nợ hay chứa đựng nhiều nguy cơ không trả được nợ thì được coi là khoản vay có chất lượng kém và ngược lại. Sự khác nhau cơ bản giữa một khoản vay tốt và một khoản vay kém chất lượng được thể hiện trước hết là ở việc hoàn trả khoản vay. Như ta đã biết, nguồn vốn của NHTM chủ yếu là nguồn huy động từ dân cư và các tổ chức trong nền kinh tế; còn nguồn vốn tự có của ngân hàng thì chỉ chiếm một tỷ trọng rất thấp trong tổng nguồn vốn. Nếu một NHTM mà có nhiều khoản vay không được hoàn trả thì rất có nguy cơ ngân hàng đó sẽ rơi vào tình trạng thất thoát vốn kinh doanh, mất khả năng thanh toán và nặng hơn nữa là dẫn đến phá sản. - Hiệu quả kinh tế của khoản vay: Thông qua hoạt động cho vay của NHTM, các doanh nghiệp trong nền kinh tế sẽ được hỗ trợ về vốn để tiến hành mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và đóng góp vào tăng trưởng GDP cũng như là phát triển kinh tế nước nhà. Ngoài chỉ tiêu mức độ an toàn thì một khoản vay có chất lượng cần phải được xem xét cả về hiệu quả kinh tế mà khoản vay đó mang lại. Hiệu quả của khoản vay được thể hiện chính là ở việc DN thu được lợi nhuận và hoàn trả được nợ gốc và lãi vay ngân hàng. Tóm lại, đối với NHTM chất lượng cho vay được cấu thành bởi 2 yếu tố: mức độ an toàn và hiệu quả kinh tế của khoản vay. Để đánh giá chất lượng cho vay, các NHTM thường xem xét một số chỉ tiêu sau. 1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Chất lượng hoạt động cho vay được phản ánh chủ yếu thông qua các chỉ tiêu sau: 1.2.2.1. Chỉ tiêu dư nợ cho vay và tỷ trọng dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng dư nợ Dư nợ cho vay của một NHTM bao gồm tổng số dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Dư nợ cho vay là một số tuyệt đối, phản ánh doanh số cho vay của NHTM trong một thời kỳ, thường là 01 năm. Tổng dư nợ cho vay thấp chứng tỏ hoạt động cho vay của ngân hàng đó kém. Tuy nhiên, tổng dư nợ của NHTM mà cao thì cũng chưa hoàn toàn phản ánh được chất ._.lượng hoạt động cho vay của ngân hàng đó tốt. Cùng với chỉ tiêu dư nợ cho vay, NHTM còn sử dụng thêm chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ cho vay đối với DNV&N khi xem xét đến chất lượng cho vay đối với DNV&N. Dư nợ cho vay DNV&N Tỷ trọng dư nợ cho vay DNV&N = --------------------------------- x 100% Tổng dư nợ Chỉ tiêu này là một số tương đối, cho biết trong tổng dư nợ của ngân hàng thì hoạt động cho vay DNV&N đóng góp bao nhiêu. 1.2.2.2. Tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = --------------------- x 100% Tổng dư nợ Chỉ tiêu nợ quá hạn là một chỉ tiêu quan trọng mà các NHMT dùng để đánh giá chất lượng hoạt động cho vay. Đối với mỗi khoản vay theo quy định hiện hành thì khi đến kỳ trả nợ, nếu khách hàng không trả được nợ thì sẽ bị chuyển nợ quá hạn và NHTM sẽ tính lãi quá hạn. Nhìn vào tỷ lệ nợ quá hạn ta có thể đánh giá được phần nào chất lượng hoạt động cho vay của một NHTM. Tỷ lệ nợ quá hạn cao thể hiện chất lượng hoạt động cho vay thấp, rủi ro của các khoản vay cao. Ngược lại, tỷ lệ nợ quá hạn thấp thể hiện các khoản vay có tỷ lệ rủi ro thấp, khả năng các khoản vay không được hoàn trả thấp, NHTM thu hồi được nợ gốc và lãi từ khoản vay đảm bảo cho hoạt động kinh doanh không bị gián đoạn. Đối với NHTM, các khoản nợ quá hạn có rất nhiều nguyên nhân. Có thể là do những nguyên nhân từ phía doanh nghiệp như: trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của khách hàng yếu kém, công nghệ sản xuất lạc hậu, doanh nghiệp không thích nghi được với môi trường kinh doanh đầy biến động… hoặc cũng có thể là do những nguyên nhân khách quan như: sự bất ổn của nền kinh tế, sự thay đổi chính sách kinh tế của Nhà nước… Những nguyên nhân trên làm cho doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, có thể bị đình trệ sản xuất và dẫn đến và phá sản; và NHTM không thể tránh khỏi tình trạng bị thất thoát một phần hoặc toàn bộ khoản vay. Trong nền kinh tế, NHTM cũng đều phải huy động vốn từ dân cư và các tổ chức trong nền kinh tế để cho vay; do đó, nếu như ngân hàng có nhiều khoản vay chuyển nợ quá hạn (tỷ lệ nợ quá hạn cao) thì không những làm tăng khả năng mất vốn của ngân hàng mà nặng hơn còn làm giảm đi uy tín của ngân hàng đó và nếu ngân hàng không có biện pháp ngăn chặn thì có thể làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán. Thời gian quá hạn của khoản vay càng dài thì nguy cơ mất vốn của ngân hàng càng lớn (Theo quy định hiện hành, các khoản vay quá hạn trên 360 ngày đều được xem là các khoản nợ khó đòi). Một NHTM mà có tỷ lệ nợ quá hạn càng cao chứng tỏ rằng chất lượng cho vay của ngân hàng đó càng kém. 1.2.2.3. Vòng quay vốn tín dụng Vòng quay vốn tín dụng được xác định theo công thức sau: Vòng quay vốn tín dụng Doanh số thu nợ trong kỳ = --------------------------------------x 100% Dư nợ bình quân trong kỳ Đây là một chỉ tiêu thường được các ngân hàng thương mại tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, giải quyết hợp lý giữa ba lợi ích: Nhà nước, khách hàng và ngân hàng. Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng (thường là một năm). Hệ số này càng tăng phản ánh tình hình tổ chức quản lý vốn tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao 1.2.2.4. Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt cũng hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Chỉ tiêu này cho thấy trong tổng thu nhập của NHTM thì thu nhập từ hoạt động cho vay chiếm tỷ lệ là bao nhiêu. Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay Thu nhập từ hoạt động cho vay = ------------------------------------------- x 100% Tổng thu nhập của Ngân hàng Một khoản vay có chất lượng của NHTM phải là một khoản vay mà được thu hồi đầy đủ cả gốc lẫn lãi, góp phần vào nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Việc phân tích tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay giúp NHTM đánh giá được khả năng sinh lời từ hoạt động cho vay trong tổng doanh thu của ngân hàng, từ đó đánh giá được tình hình cho vay và từ đó NHTM có những biện pháp nâng cao chất lượng cho vay. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM 1.3.1. Nhân tố chủ quan Chất lượng cho vay của NHTM chịu tác động của các nhân tố sau: - Chính sách tín dụng bao gồm hệ thống các quan điểm, chủ trương, định hướng và quy định chỉ đạo hoạt động tín dụng của NHTM, là kim chỉ nam trong hoạt động cho vay của ngân hàng đó. Do đó, việc hoạch định chính sách tín dụng có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của mỗi ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn, phù hợp sẽ thu hút khách hàng đến với ngân hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động cho vay trên cơ sở phân tán rủi ro…Chính vì vậy mà có thể nói rằng chất lượng cho vay của NHTM có tốt hay không phụ thuộc rất lớn vào việc xây dựng chính sách tín dụng của ngân hàng có phù hợp, đúng đắn hay không. - Hệ thống thông tin tín dụng: Hoạt động cho vay của NHTM là một hoạt động không hề đơn giản. Trên thực tế, không phải doanh nghiệp nào cũng sử dụng vốn vay đúng mục đích. Vì thế, hoạt động cho vay của NHTM muốn đạt được hiệu quả cao, an toàn thì cần phải có hệ thống thông tin tín dụng hữu hiệu phục vụ công tác này. Nắm bắt chính xác, kịp thời thông tin là một điều kiện quan trọng trong việc tìm kiếm các cơ hội cho vay cũng như đề phòng rủi ro đối với mỗi khoản vay của NHTM. - Quan điểm của NHTM về khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ: Các NHTM Việt Nam hiện nay chưa đánh giá đúng mức về khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các khoản vay của doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mô thường không lớn nên dẫn đến tình trạng chủ quan, thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát tình hình tài chính và việc sử dụng vốn vay của khách hàng. - Trình độ đội ngũ cán bộ tín dụng: Trình độ cán bộ làm công tác cho vay có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của hoạt động cho vay. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau và rất phức tạp. Nếu một cán bộ tín dụng yếu kém về năng lực hoặc chưa được đào tạo một cách đầy đủ sẽ thiếu khả năng phân tích và đánh giá chính xác khách hàng vay vốn, không bao quát được các điểm yếu cũng như những sai sót của khách hàng. Mặt khác, việc cho vay đối với doanh nghiệp và nhỏ thường gặp khó khăn trong việc ngân hàng không thu thập được đầy đủ các số liệu thống kê của doanh nghiệp. Vì thế rất khó khăn trong việc phân tích, so sánh, đánh giá tình hình doanh nghiệp… dẫn đến việc đánh giá sai về khách hàng hoặc có thể bị lừa đảo, lợi dụng. Thêm vào đó cũng phải kể đến tư cách đạo đức không tốt của một vài cán bộ tín dụng đã câu kết với khách hàng gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi vốn. - Phương pháp quản trị rủi ro: Cho vay là hoạt động chính yếu của ngân hàng. Nếu quản lý tốt giúp cho ngân hàng luôn chủ động kiểm soát được tình hình hoạt động cho vay, duy trì được thu nhập của ngân hàng từ hoạt động này. Ngược lại, nếu NHTM chưa có được cơ cấu quản trị rủi ro đúng đắn, khoa học và chi tiết để đề ra được mức độ rủi ro cho phép với mỗi nhóm khách hàng thuộc các ngành khác nhau thì rất dễ dẫn đến tình trạng không kiểm soát được dư nợ cho vay đối với khách hàng, các khoản nợ quá hạn hay các khoản nợ khó đòi… và từ đó làm ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của NHTM. 1.3.2. Nhân tố khách quan Ngoài những nhân tố khách quan, chất lượng hoạt động cho vay của NHTM còn chịu tác động của những yếu tố khách quan sau: - Một là đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường có đặc điểm chung là quy mô sản xuất kinh doanh không lớn, năng lực tài chính còn hạn chế và đa dạng về loại hình doanh nghiệp. Với quy mô sản xuất nhỏ gọn, ngành nghề đa dạng, công nghệ kỹ thuật không quá phức tạp… các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường dễ dàng thích nghi hơn các doanh nghiệp lớn trước sự biến động của nhu cầu thị trường. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng thuận lợi hơn các doanh nghiệp lớn rất nhiều trong việc chuyển đổi sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường. Chính vì vậy, khả năng khai thác và sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất linh hoạt và thường có điều kiện khấu hao máy móc thiết bị để thu hồi vốn, trả nợ ngân hàng. Tuy nhiên, so với các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiếu thông tin về thị trường, thiếu các chuyên gia phân tích kinh tế, thiếu các dữ liệu đầu vào để tiến hành phân tích kinh tế… nên dẫn đến tình trạng là việc tính toán và triển khai dự án không chính xác với thực tế, gây nên những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng lực tài chính là không lớn nên cơ cấu vốn đầu tư thường không hợp lý. Do sự hạn hẹp về vốn tự có nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường có xu hướng đầu tư vào tài sản cố định, nên dẫn đến thiếu vốn lưu động để tiến hành sản xuất kinh doanh, khả năng thanh toán nhanh bị hạn chế. Bên cạnh đó, nếu vốn tự có của doanh nghiệp ít và lợi nhuận của doanh nghiệp thấp trong khi các khoản nợ đến hạn phải thanh toán quá lớn sẽ làm giảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Từ đó dẫn đến việc không hoàn trả được nợ vay ngân hàng. - Hai là chính sách kinh tế xã hội và môi trường pháp lý: Chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa, ổn định cả về kinh tế và xã hội. Nếu chính sách thông thoáng, thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh, thu hồi được vốn trả nợ ngân hàng. Tuy nhiên, không phải lúc nào chính sách kinh tế của Nhà nước cũng tạo nên sự thông thoáng vì chính sách của Nhà nước không thể cùng một lúc tối ưu mọi phương diện của đời sống kinh tế - xã hội. Tùy từng thời điểm, hoàn cảnh cụ thể mà chính sách của Nhà nước sẽ có tác động khác nhau tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Qua đó ảnh hưởng tới chất lượng cho vay của NHTM. Bên cạnh đó, pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và chất lượng cho vay nói riêng. Pháp luật sẽ tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiến hành thuận tiện và đạt kết quả cao. Nó còn là cơ sở pháp lý để giải quyết mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế. Các DN cũng như ngân hàng phải tuân thủ những quy định nghiêm chỉnh của pháp luật thì hiệu quả và lợi ích sẽ được đảm bảo. Nếu hệ thống pháp luật ban hành không đầy đủ, không đồng bộ, các văn bản dưới luật còn nhiều mâu thuẫn trong khi thực hiện và chưa thật phù hợp với các ban ngành, các đơn vị có liên quan đến hoạt động tín dụng thì có ảnh hưởng tới chất lượng cho vay của NHTM. - Ba là tình hình kinh tế trong khu vực và trên thế giới: Tình hình biến động kinh tế quốc tế sẽ gây ảnh hưởng đến các doanh nghiệp doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Nếu tỷ giá giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tế biến động theo chiều hướng tăng thì sẽ có tác dụng thúc đầy xuất khẩu hàng hóa trong nước nhưng lại làm cho các doanh nghiệp nhập khẩu có thể bị ứ đọng hàng hóa do giá tăng lên, chậm tiêu thụ. Ngược lại, nếu tỷ giá giảm thì lại làm cho hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước do chi phí tăng lên. Từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay ngân hàng, làm giảm sút chất lượng cho vay của NHTM. Chương II: Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam 2.1. Khái quát về Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch I Ngân hàng công thương Việt Nam (Incombank) được thành lập tháng 7 năm 1988 trên cơ sở sát nhập Vụ tín dụng công nghiệp và tín dụng thương nghiệp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Là 1 trong 4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất Việt Nam, Ngân hàng Công thương có tổng tài sản chiếm hơn 25% thị phần trong toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nguồn vốn của ngân hàng luôn tăng trưởng qua các năm, và bắt đầu tăng mạnh từ năm 1996, đạt bình quân hơn 20%/năm, đặc biệt có năm tăng đến 35% so với năm trước. Ngân hàng công thương Việt Nam có mạng lưới kinh doanh trải rộng trên toàn quốc với 2 sở giao dịch (Sở giao dịch I tại Hà Nội và sở giao dịch II tại thành phố Hồ Chí Minh), 130 chi nhánh và trên 700 điểm giao dịch. Ngân hàng hiện có 3 công ty hạch toán độc lập là công ty cho thuê tài chinh, công ty TNHH chứng khoán, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản cùng với 2 đơn vị sự nghiệp là Trung tâm Công nghệ thông tin và Trung tâm đào tạo. Do yêu cầu của việc mở rộng hoạt động kinh doanh, cung ứng dịch vụ trong nền kinh tế thị trường và đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế, ngày 30/12/1998, Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng công thương Việt Nam đã ký quyết định số 134/QĐ – HĐQT – NHCT1 sắp xếp và tổ chức hoạt động Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam theo điều lệ tổ chức và hoạt động của ngân hàng công thương Việt Nam. Đến ngày 1/1/1999, Sở giao dịch chính thức được thành lập, có trụ sở tại số 10 Lê Lai, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, trở thành 1 trong 2 Sở giao dịch của ngân hàng công thương Việt Nam, hạch toán phụ thuộc như một đơn vị thành viên trong hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam. Ngày 20/10/2003, Chủ tịch HĐQT NHCTVN ban hành quyết định số 153/QĐ-HĐQT về mô hình tổ chức mới của Sở giao dịch I theo Dự án hiện đại hoá ngân hàng và công nghệ thanh toán do Ngân hàng thế giới (World Bank) tài trợ. So với ban đầu khi mới thành lập thì hiện nay, Sở giao dịch I đã mang một bộ mặt hoàn toàn mới. Theo điều lệ của Ngân hàng công thương Việt Nam, Sở giao dịch I là đại diện uỷ quyền của Ngân hàng công thương Việt Nam, có quyền tự chủ trong kinh doanh theo phân cấp của Ngân hàng công thương Việt Nam, chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với Ngân hàng công thương Việt Nam. Sở giao dịch I có con dấu riêng và mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam. Sở giao dịch I được ký hợp đồng kinh tế, được chủ động thực hiện các hoạt động kinh doanh, tổ chức nhân sự phân cấp uỷ quyền của Ngân hàng công thương Việt Nam. Sở giao dịch I ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của Ngân hàng công thương Việt Nam. Kể từ khi được thành lập đến nay, Sở giao dịch I đã không ngừng phát triển cả về mặt số lượng và chất lượng, trở thành một trong những ngân hàng hiện đại, đạt hiệu quả cao trong hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam; đã, đang và sẽ đáp ứng phần nào nhu cầu về các dịch vụ ngân hàng – tài chính của nền kinh tế. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức và các hoạt động của Sở giao dịch I 2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam là một doanh nghiệp Nhà nước, có tổ chức nhân sự theo phân cấp uỷ quyền của Ngân hàng công thương Việt Nam. Hiện nay, Sở giao dịch I có 280 cán bộ, trong đó có 16 cán bộ có trình độ trên đại học (chiếm 5,7%), 213 cán bộ có trình độ đại học (chiếm 76%) và số cán bộ còn lại được đào tạo cao đẳng. Ngày 20/10/2003, Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng công thương Việt Nam đã ban hành quyết định số 153/QĐ – HĐQT về mô hình tổ chức mới của Sở giao dịch I theo dự án hiện đại hoá ngân hàng và công nghệ thanh toán do Ngân hàng Thế giới tài trợ. Thực hiện dự án này, 9 phòng ban và một tổ bảo hiểm trước đây của Sở giao dịch I đã được tổ chức lại thành 12 phòng ban và một ban giám đốc gồm 01 Giám Đốc và 04 Phó Giám Đốc. Hình 2.1: Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam BAN GIÁM ĐỐC Phòng tổ chức hành chính Phòng Khách hàng cá nhân Phòng Khách hàng II Phòng Khách hàng I Phòng quản lý rủi ro Phòng kế toán – tài chính Phòng kế toán giao dịch Phòng thanh toán xuất-nhập khẩu Phòng dịch vụ thẻ Phòng thông tin điện toán Phòng tiền tệ - kho quỹ Phòng tổng hợp - tiếp thị 2.1.2.2. Các hoạt động cơ bản a. Sản phẩm dịch vụ của Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam hoạt động như một ngân hàng đa doanh, loại hình sản phẩm dịch vụ của Sở có thể được chia thành các nhóm sau: Nhận tiền gửi Cho vay và bảo lãnh Tài trợ thương mại Dịch vụ thanh toán Dịch vụ ngân quỹ Dịch vụ thẻ và ngân hàng điện tử Hoạt động đầu tư Dịch vụ khác b. Tình hình huy động vốn và cho vay của Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam Phát huy thế mạnh truyền thống, trong những năm qua công tác huy động vốn của Sở giao dịch I vẫn duy trì và phát triển. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trong công tác huy động vốn trên địa bàn, nhưng Sở giao dịch I đã chủ động khai thác các hình thức huy động phong phú như: phát hành kỳ phiếu nội, ngoại tệ với nhiều kỳ hạn, các hình thức tiết kiệm, tiền gửi… từ mọi thành phần trong nền kinh tế, nên đã thu hút được số lượng đông đảo khách hàng. Bảng 2.1: Tổng vốn huy động của Sở giao dịch I (đơn vị: tỷ đồng,%) 2005 2006 2006/2005 2007 2007/2006 Tổng vốn huy động - VND -Ngoại tệ (quy đổi VND) 16.071 13.709 2.362 17.448 14.953 2.495 108,6 109,1 105,6 17.266 14.644 2.622 98,96 97,9 105,1 Tăng trưởng (%) 8,57 -1,04 (Tổng vốn huy động: không bao gồm vốn tự có) (Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam) Hình 2.2: Tình hình huy động vốn của Sở Giao dịch I Trong 2 năm 2006 và 2007, việc huy động vốn của Sở giao dịch I gặp nhiều khó khăn do cạnh tranh huy động vốn giữa các NH ngày càng gay gắt với việc mở rộng màng lưới hoạt động; Các ngân hàng liên tục gia tăng lãi suất huy động trong khi lãi suất huy động vốn của NHCT Việt nam luôn duy trì thấp hơn. Đặc biệt là trong năm qua, các doanh nghiệp có nguồn tiền gửi lớn tại Sở I thực hiện gửi tiền có kỳ hạn theo lãi suất đấu thầu cạnh tranh đã làm lãi suất bình quân đầu vào tăng lên nhiều so với các năm trước ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh của Sở giao dịch I. Bảng 2.2: Cơ cấu vốn huy động của Sở giao dịch I (đơn vị: tỷ đồng) Năm 2005 Năm 2006 2007 Tổng vốn huy động 16.071 17.448 17.266 Tiền gửi doanh nghiệp - Tỷ trọng (%) 10.399 64,7 9.859 56,5 12.183 70,5 Tiền gửi dân cư - Tỷ trọng (%) 3.908 24,3 3.370 19,3 3.432 19,9 Tiền gửi khác - Tỷ trọng (%) 1.764 11 4.219 24,2 1.651 9,6 (Nguồn vốn huy động không bao gồm vốn tự có) (Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam) Như vậy, qua số liệu trên ta thấy: Thứ nhất, Sở giao dịch I huy động vốn chủ yếu từ tiền gửi của doanh nghiệp. Trong 3 năm, tỷ trọng của nguồn này luôn là lớn nhất. Tuy nhiên, đây lại là một nguồn không ổn định do có kỳ hạn ngắn và doanh nghiệp có thể rút vốn bất cứ lúc nào mà không phải báo trước. Đây là một bất lợi cho hoạt động kinh doanh của Sở. Thứ hai, tỷ trọng nguồn vốn từ tiền gửi doanh nghiệp mặc dù trong năm 2006 giảm so với năm 2005, nhưng đến năm 2007 thì lại tăng lên, chiếm đến 70,5% tổng vốn huy động. Việc quá phụ thuộc vào một nguồn vốn huy động là một bất lợi trong công tác huy động vốn của Sở. Cùng với hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng cũng là một hoạt động hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại hiện nay. Các hình thức cho vay Sở cung cấp cho khách hàng gồm có: cho vay ngắn hạn, cho vay trung – dài hạn. Ngoài việc cho vay trực tiếp từ ngân hàng, Sở còn kết hợp với các ngân hàng khác trên địa bàn cấp tín dụng dưới dạng đồng tài trợ. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, Sở giao dịch I đã đơn giản hoá thủ tục cho vay nhằm tạo sự nhanh chóng, thuận tiện cho khách hàng nhưng vẫn đáp ứng đầy đủ các tiêu chí theo quy định. Bảng 2.3: Dư nợ cho vay của Sở giao dịch I (đơn vị: tỷ đồng) Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng vốn huy động 16.071 17.448 17.266 Tổng dư nợ cho vay 2.788 2.776 3.101 Tổng dư nợ cho vay /Tổng vốn huy động 17,35% 16% 18% (Tổng vốn huy động không bao gồm vốn tự có) (Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam) Hình 2.3: Tăng trưởng dư nợ cho vay của Sở giao dịch I Trong 03 năm qua, công tác cho vay của Sở được mở tộng tới mọi đối tượng khách hàng là các Tổng công ty; Công ty liên doanh; Công ty có vốn đầu tư nước ngoài; DNV&N; Khu vực kinh tế tư nhân; Cho vay tiêu dùng… nhằm đa dạng hóa khách hàng theo hướng chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Vốn vay được hướng vào những ngành hàng, mặt hàng chiến lược có triển vọng phát triển bền vững như: lương thực, thực phẩm, dược phẩm, điện lực, dầu khí, viễn thông… và các khoản vay đều phát huy tốt hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, so với năm 2005, dư nợ cuối năm 2006 giảm 12 tỷ (giảm 0,43%) là do: Một số Tổng công ty trả nợ ngân hàng theo kế hoạch chưa vay lại như: Tập đoàn Bưu chính viễn thông giảm dư nợ trên 100 tỷ, Công ty FPT giảm dư nợ 70 tỷ đồng. Nhiều doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa, hoạt động kinh doanh có hiệu quả đã tận dụng vốn tự có để kinh doanh, không vay vốn ngân hàng. Sang năm 2007, dư nợ cho vay cuối năm của Sở đã có bước phát triển đáng kể, tăng 325 tỷ (tăng 11,7%) so với năm 2006, tăng 313 tỷ (11,2%) so với năm 2005, là do: Sở giao dịch I chú trọng đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh đến các DNV&N, cho vay tiêu dùng… là khách hàng có tiềm năng phát triển, tăng trưởng nhanh về số lượng và quy mô, là lực lượng năng động và hiệu quả của nền kinh tế. Năm 2007, Sở giao dịch I được Ngân hàng Công thương chọn làm ngân hàng đầu mối giải ngân dự án vệ tinh VINASAT của Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam, trong đó NHCT tham gia 86 triệu USD. Bảng 2.4: Cơ cấu dư nợ cho vay của Sở giao dịch I (đơn vị: tỷ đồng,%) Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng Dư nợ Trong đó: 2.788 2.776 3.101 Phân theo loại tiền - Dư nợ VND Tỷ trọng 1.889 67,7 1.906 68,7 1.958 63 - Dư nợ ngoại tệ Tỷ trọng 899 32,3 870 31,3 1.143 37 Tổng 100 100 100 Phân theo thành phần kinh tế - Dư nợ cho vay TPKT Quốc doanh Tỷ trọng 2.066 74,1 2.081 74,9 2.341 75.5 - Dư nợ cho vay TPKT Ngoài Qdoanh Tỷ trọng 722 25,9 695 25,1 760 24,5 Tổng (%) 100 100 100 (Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam) Từ hai bảng trên có thể thấy rằng: - Sở giao dịch I chủ yếu cho vay bằng nội tệ, tuy nhiên thì cho vay bằng ngoại tệ vẫn chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong cơ cấu dư nợ của Sở, và đang có xu hướng gia tăng. Đối tượng khách hàng của Ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế quốc doanh, dư nợ đối với khu vực kinh tế này trung bình gấp 3 lần dư nợ đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. - Vốn huy động của ngân hàng chưa được sử dụng có hiệu quả tối đa. Tỷ lệ Dư nợ/ Tổng vốn huy động trong 3 năm đều không vượt quá 20%. Lý giải cho vấn đề này là tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp trong tổng vốn huy động của Sở chiếm tỷ trọng lớn, mà đây là một nguồn không thích hợp để cho vay của ngân hàng như đã nói ở trên. Đây cũng là một vấn đề mà Sở giao dịch I cần quan tâm xem xét để có đề xuất được các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập hiện nay. Mặt khác trong những năm qua, hoạt động cho vay đối với nền kinh tế của Sở đang ngày càng cải thiện rõ rệt về chất, thể hiện: Bảng 2.5: Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động cho vay của Sở Giao dịch I – NHCT Việt Nam (Đơn vị: tỷ đồng, %) Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Nợ quá hạn 7,2 1,5 0 Tổng dư nợ 2.788 2.776 3.101 I. Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ 0,26 0,054 0 Tổng doanh số cho vay 5.193 6.960 7.380 Tổng doanh số thu nợ 4.819 6.971 7.056 II. Tỷ trọng doanh số thu nợ/ doanh số cho vay 92,8 100,16 95,6 (Nguồn: báo cáo hoạt động tín dụng Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam 2005, 2006, 2007) Từ bảng trên nhận thấy, hoạt động cho vay của Sở đang ngày nâng cao về chất, tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ giảm dần cả về tỷ trọng và số tuyệt đối. Đáng chú ý, kết thúc năm 2007, hoạt động cho vay của Sở ghi nhận là không còn nợ quá hạn. Phát huy được thế mạnh của mình, trong 3 năm 2005, 2006 và 2007, lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Sở đã đóng góp một phần không nhỏ trong lợi nhuận hợp nhất của toàn bộ hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam. Bảng 2.6: Tỷ trọng lợi nhuận của Sở giao dịch I trong toàn bộ hệ thống NHCT Việt Nam. (đơn vị: triệu đồng) Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Lợi nhuận của Sở giao dịch I 347.500 343.055 331.500 Lợi nhuận trước thuế toàn hệ thống NHCT VN 423.093 599.639 Tỷ trọng (%) 82 57 (Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam và báo cáo thường niên năm 2005, 2006, 2007 – Ngân hàng công thương Việt Nam) 2.2. Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam 2.2.1. Thực trạng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Trước đây, do những hạn chế trong thể lệ tín dụng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường khó tiếp cận được với nguồn vốn vay của các NHTM. Những trở ngại trong việc thế chấp tài sản đảm bảo, cũng như sự phức tạp của các thủ tục và các điều kiện khác như doanh nghiệp vay vốn phải kinh doanh có lãi trong năm gần nhất, báo cáo tài chính được kiểm toán… đã làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tiếp cận được với nguồn vốn vay ngân hàng hoặc làm cho chi phí vay vốn đội lên rất cao. Nhưng trong những năm gần đây đã có sự chuyển biến tích cực từ phía các cơ quan Nhà nước giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn vay ngân hàng hơn. Nghị định số 178/1999/ NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 29/12/1999 về “bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng” (sau này được thay thế bằng Nghị định số 163/2006/ NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm ), Quyết định số 1627/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước về việc “ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng” đã thực sự không còn sự phân biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với doanh nghiệp quốc doanh. Trong cơ cấu dư nợ cho vay của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn chiếm một tỷ trọng lớn. Các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, uy tín, có năng lực tài chính luôn là những đối tượng tập trung mở rộng tín dụng của Sở. Bảng 2.7: Dư nợ cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I (đơn vị: tỷ đồng,%) Năm 2005 Năm 2006 2006/2005 Năm 2007 2007/2006 Tổng dư nợ cho vay Trong đó: 2.788 2.776 99,6 3.101 111,7 - Dư nợ đối với DNV&N Tỷ trọng 1.461 52,4 1.685 60,7 115,3 1.916 61,8 113,7 - DN quốc doanh Tỷ trọng 1.112 76,1 1.185 70,3 106,6 1.201 62,7 101,4 - DN ngoài quốc doanh Tỷ trọng 349 23,9 500 29,7 143,3 715 37,3 143 Tổng 100 100 100 (Nguồn: báo cáo hoạt động tín dụng của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam 2005, 2006, 2007) Từ bảng trên ta thấy: Dư nợ cho vay hàng năm đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thường chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng Dư nợ của Sở giao dịch I, chiếm khoảng 60 % trong tổng dư nợ và đang có xu hướng tăng lên; trung bình mỗi năm tăng khoảng 13 – 15 %/năm. So với tốc độ tăng trưởng của tổng dư nợ cho vay thì dư nợ cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I có tốc độ tăng trưởng đáng kể, thể hiện: Hình 2.4: tăng trưởng dư nợ cho vay đối với DNV&N của Sở Giao dịch I Mặt khác, có thể thấy rằng trong 03 năm qua, tỷ trọng doanh số cho vay đối với DNV&N khu vực kinh tế quốc doanh có xu hướng giảm. Hình 2.5: Cơ cấu dư nợ cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I theo thành phần kinh tế Từ năm 2005 đến năm 2007, tỷ trọng cho vay đối với DN quốc doanh giảm chỉ còn 62,7%. Lý giải cho điều này chính là sự phát triển rất nhanh về mặt số lượng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội trong những năm qua khi Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực cùng với sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế tạo điều kiện cho các DNV&N mở rộng sản xuất kinh doanh, tiêu thụ được sản phẩm và trả nợ ngân hàng. Bên cạnh đó, dư nợ cho vay đối với DNV&N theo thời hạn cho vay của Sở giao dịch I trong những năm qua đang có những thay đổi rất rõ rệt: Bảng 2.8: Dư nợ cho vay đối với DNV&N theo thời hạn cho vay của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam (đơn vị: tỷ đồng,%) Năm 2005 Năm 2006 2006/2005 Năm 2007 2007/2006 Dư nợ cho vay đối với DNV&N 1.461 1.685 115,3 1.916 113,7 - Cho vay ngắn hạn 1.044 1.328 127,2 1.661 125 Tỷ trọng (%) 71,4 78,8 86,7 - Cho vay trung, dài hạn 417 357 85,6 255 71,4 Tỷ trọng (%) 28,6 21,2 13,3 (Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng Sở Giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam năm 2005, 2006, 2007) Hình 2.6: Thay đổi tỷ trọng cho vay DNV&N của Sở Giao dịch I theo thời hạn cho vay qua các năm Qua bảng trên ta thấy cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I, trên 70% /năm. Hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các DNV&N chủ yếu là để thanh toán các yếu tố đầu vào sản xuất, bổ sung vốn lưu động tạm thời, còn hoạt động cho vay trung, dài hạn chủ yếu là để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất hiện có, xây dựng, mua sắm, đổi mới trang thiết bị… Dư nợ cho vay ngắn hạn đối với DNV&N của Sở trong 3 năm qua có sự tăng trưởng rõ rệt, thể hiện: từ năm 2005 đến năm 2007, tỷ trọng dư nợ cho vay ngắn hạn tăng từ 71,4% lên đến 86,7%. Quy mô cho vay đối với DNV&N của Sở đều tăng qua các năm chứng tỏ rằng Sở đã quan tâm đến vai trò của các DNV&N trong nền kinh tế và nguồn vốn của Sở ngày càng tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tỷ trọng cho vay trung, dài hạn vẫn còn khiêm tốn đã phần nào phản ánh tình trạng cho vay của Sở giao dịch cho các DNV&N trong việc cải tiến, mở rộng, nâng cao trình độ công nghệ, năng lực sản xuất, trang thiết bị máy móc… vẫn còn hạn chế. Về mặt dài hạn, điều này có thể ảnh hưởng không tốt tới khả năng cạnh tranh về chất lượng cho vay của Sở. 2.2.2. Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 2.2.2.1. Dư nợ cho vay và tỷ trọng cho vay đối với DNV&N Theo bảng 2.8 như đã phân tích ở trên, ta có thể thấy rằng hoạt động cho vay đối với DNV&N là một hoạt động quan trọng của Sở. Dư nợ cho vay đối với DNV&N luôn chiếm tỷ trọng cao (khoảng 60%) trong tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Năm 2007, dư nợ cho vay đối với DNV&N đạt 1.916 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay DNV&N ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11197.doc
Tài liệu liên quan