MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Những năm gần đây chúng ta chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của hệ thống ngân hàng từ 4 Ngân hàng thương mại quốc doanh và 15 Ngân hàng thương mại cổ phần và hợp tác xã tín dụng năm 1990, đến năm 2008 con số này đã lên tới 6 ngân hàng quốc doanh và 35 ngân hàng thương mại cổ phần cùng rất nhiều các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính… Với số lượng đông đảo như vậy, các ngân hàng muốn phát triển và thành công thì phải tự xác định cho mình thị trường và đối
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1296 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Láng Hạ - Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội (MB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tượng khách hàng chủ yếu.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm hơn 93% số doanh nghiệp tại Việt Nam, với lĩnh vực hoạt động phong phú, quy mô đa dạng đang là thị trường mang lại nhiều lợi nhuận nhưng cũng đầy rủi ro cho các ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội là ngân hàng lựa chọn chiến lược phát triển ngân hàng bán lẻ tập trung đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ và đã thu được nhiều thành công.
Chi nhánh Láng Hạ là chi nhánh mới đi vào hoạt động của ngân hàng Quân Đội và 100% khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vấn đề lớn nhất của chi nhánh đó là đảm bảo tăng trưởng dư nợ trong khi vẫn đảm bảo chất lượng cho vay với đối tượng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ được xem là có nhiều đặc điểm phức tạp. Yêu cầu trên đặc biệt khó khăn trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế như hiện nay. Do đó, em đã lựa chọn cho đề tài “ Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Láng Hạ - Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội”.
Khoá luận tốt nghiệp được chia làm ba phần chính:
Phần I: Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Phần II: Thực trạng cho vay đối với DNVVN tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội – Láng Hạ
Phần III: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tại chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân Đội – Láng Hạ.
Trong quá trình làm, em xin được chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn PGS.TS Đào Văn Hùng, cùng sự chỉ bảo trong quá trình thực tập của cán bộ tín dụng tại MB Láng Hạ đã giúp em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
CHƯƠNG I.CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚIDOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ.
1.1. Khái niệm và các đặc trưng của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
1.1.1. Khái niệm và phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ:
1.1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Theo Luật doanh nghiệp tại Việt Nam, “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh – tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.”
Có rất nhiều cách phân loại doanh nghiệp. Nếu phân loại theo hình thức sở hữu, ta sẽ có: doanh nghiệp Nhà Nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Còn có thể phân loại doanh nghiệp theo các ngành nghề, lĩnh vực. Nếu phân loại theo quy mô doanh nghiệp, ta sẽ có doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Như vậy, khi nói đến doanh nghiệp vừa và nhỏ là ta đang nói đến các doanh nghiệp được phân loại theo tiêu thức quy mô doanh nghiệp.
Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay ở các nước trên thế giới chỉ mang tính chất tương đối về thời gian lẫn không gian. Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước thì khác nhau và có thể, quy mô doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ, Nhật, Pháp lớn hơn quy mô của doanh nghiệp nhỏ ở Việt Nam, và quy mô của doanh nghiệp vừa và nhỏ của một nước hiện tại có thể lớn hơn quy mô của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại nước đó vào thời kì trước.
Tại Mỹ, doanh nghiệp vừa và nhỏ được định nghĩa như sau: “Là một doanh nghiệp có quyền sở hữu độc lập, hoạt động độc lập và không phải là thành phần nổi trội của một ngành công nghiệp”. Tiêu chuẩn cụ thể doanh nghiệp vừa và nhỏ của Mỹ phụ thuộc vào ngành hoạt động. Ví dụ như trong ngành chế tạo, doanh nghiệp nhỏ nếu số lượng công nhân nhỏ hơn hoặc bằng 250 người, vừa: nếu 250 – 1000 người, lớn: nếu trên 1000 người.
Tại Hàn Quốc, phân chia dựa chủ yếu vào số lượng công nhân làm việc cho cơ sở ấy và tùy thuộc vào ngành nghề kinh doanh. Ví dụ trong ngành chế tạo và khai khoáng thì doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp từ 21-300 công nhân, doanh nghiệp nhỏ là có nhỏ hơn 21 công nhân.
Tóm lại, ở mỗi quốc gia trên thế giới đều có những khái niệm khác nhau và những tiêu chuẩn khác nhau để phân loại như thế nào là một doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng nhìn chung những tiêu thức mà các nước thường sử dụng để làm căn cứ phân loại các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn là các tiêu thức về vốn, lao động hoặc doanh thu. Tùy thuộc vào điều kiện và thời điểm của mỗi nước mà tiêu thức dùng làm phân loại có thể là một hoặc hai trong ba tiêu thức đó.
Ở Việt Nam, theo Nghị Định số 90/2001 NĐ – CP ngày 23/11/2001 của Chính Phủ thì doanh nghiệp vừa và nhỏ được định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là các cơ sở sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật hiện hành, có vốn đăng kí không quá 10 tỉ đồng hoặc có số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.”
1.1.1.2 Phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Công ty tài chính Quốc tế (IFC), các doanh nghiệp vừa và nhỏ được phân chia theo quy mô như sau:
Doanh nghiệp vô cùng nhỏ (Micro – enterprise): có đến 10 lao động, tổng tài sản không quá 100.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 100.000 USD.
Doanh nghiệp nhỏ (Small – enterprise): có không quá 50 lao động, tổng tài sản có giá trị không quá 3.000.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 3.000.000 USD.
Doanh nghiệp vừa (Medium – enterprise): có không quá 300 lao động, tổng tài sản có giá trị không quá 15.000.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 15.000.000 USD.
Ở Việt Nam, không có sự phân chia cụ thể doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ.
1.1.2. Các đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm số lượng đông đảo, rất đa dạng về ngành nghề và quy mô, tuy vậy, có thể kể ra một số đặc điểm nổi bật dễ nhận thấy của các DNVVN:
Thứ nhất, DNVVN có quy mô vốn và năng tài lực chính thấp.
Đây là đặc điểm nổi bật nhất của các DNVVN. Các DNVVN có quy mô vốn ban đầu thấp cho nên khả năng huy động vốn theo đó cũng sẽ không được cao, gây khó khăn trong tiếp cận với tín dụng ngân hàng. Từ vốn ban đầu thấp ảnh hưởng đến quy mô đầu tư trang thiết bị của doanh nghiệp, khả năng đầu tư chiều sâu….và nhiều yếu tố khác.
Thứ hai, DNVVN sử dụng những công nghệ và thiết bị lạc hậu.
Đặc điểm trên cũng xuất phát từ quy mô vốn thấp của các DNVVN. Việc đầu tư công nghệ và thiết bị hiện đại cần sử dụng số vốn lớn. Việc đầu tư nâng cấp các thiết bị máy móc đã lỗi thời cũng cần có khả năng tài chính tốt, cho phép đầu tư lâu dài. Trong khi đó thì ở Việt Nam, nguồn vốn đầu tư vào công nghệ là nguồn vốn mà các DNVVN khó có khả năng tiếp cận được. Ngoài ra, để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao độ như hiện nay, các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương pháp, bí quyết sản xuất. Thế nhưng hầu hết công nghệ đang được sử dụng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam hiện được đánh giá là lạc hậu. Đại đa số những người chủ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa không có kiến thức, thông tin, kinh nghiệm về những vấn đề liên quan đến lựa chọn, mua và chuyển giao công nghệ.
Thứ ba, trình độ quản lý còn thấp.
Các nhà quản lý DNVVN thường chưa được đào tạo bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu hiểu biết đầy đủ về quản trị doanh nghiệp dẫn đến nhiều giám đốc doanh nghiệp không thế lập được kế hoạch tài chính, khhông xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh khả thi…
Ngoài ra thì các DNVVN có nguồn lao động chất lượng được đánh giá là thấp và ít. Nguyên nhân là do các DNVVN không có khả năng thu hút các nhân lực chất lượng cao do điều kiện làm việc và chế độ làm việc ở các DNVVN không đáp ứng được mức lương thưởng như tại các doanh nghiệp lớn.
Thứ tư, khả năng tiếp cận thông tin kém.
Việc thiếu những thông tin về nhu cầu thị trường, về thiết bị, nguyên vật liệu…đã khiến cho sức cạnh tranh của các DNVVN yếu đi. Hơn nữa, hoạt động thiếu thông tin khiến cho quá trình sản xuất kinh doanh không mang tính định hướng chính xác.
Thứ năm, cơ cấu tổ chức đơn giản, bộ máy tổ chức gọn nhẹ, số lượng nhân viên ít.
Lợi thế mang lại của đặc điểm này đó là DNVVN linh hoạt, dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường:
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể giữ những vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số vai trò tương đồng như sau:
Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp (Ở Việt Nam chỉ xét các doanh nghiệp có đăng ký thì tỷ lệ này là trên 93%). Vì thế, đóng góp của họ vào tổng sản lượng và tạo việc làm là rất đáng kể.
Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế, các doanh nghiệp nhỏ và vừa là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. DNVVN cũng đóng vai trò hỗ trợ hoạt động cho các doanh nghiệp lớn. Chi phí của các doanh nghiệp lớn có thể giảm đáng kể nếu họ biết sử dụng một cách linh hoạt và hiệu quả các DNVVN trong quá trình sản xuất. Vì thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa được ví là thanh giảm sốc cho nền kinh tế.
Làm cho nền kinh tế năng động: vì doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động. Quy mô nhỏ khiến mô hình tổ chức của DNVVN gọn nhẹ, rất dễ thích nghi với thay đổi của thị trường, dễ dàng chuyển đổi khi có biến động thị trường.
Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh.
Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì doanh nghiệp nhỏ và vừa lại có mặt ở khắp các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào thu ngân sách, vào sản lượng và tạo nhiều công ăn việc làm ở địa phương.
DNVVN tạo điều kiện duy trì tự do cạnh tranh trên thị trường, tránh tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp lớn do, DNVVN hoạt động với số lượng lớn, tham gia vào các ngành nghề rất đa dạng.
Nhìn chung, doanh nghiệp vừa và nhỏ được thừa nhận là đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển của các nước có nền kinh tế phát triển nói chung và các nước đang phát triển nói riêng, trong đó có Việt Nam.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là một nhân tố góp phần làm kinh tế phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và sẽ góp phần quan trọng để xoá đói giảm nghèo, tạo sự cấu thành mới cho phát triển kinh tế Việt Nam.
1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ:
1.2.1. Khái niệm về cho vay:
1.2.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại:
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Chức năng cơ bản nhất của ngân hàng thương mại cũng là đặc điểm cơ bản đó là việc nhận tiền gửi để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh của ngân hàng.
Theo luật các tổ chức tín dụng sửa đổi được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/06/2004:
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.”
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán khác.”
Các hoạt động của cơ bản của ngân hàng thương mại bao gồm có: huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động khác. Trong đó, hoạt động sử dụng vốn rất đa dạng và phong phú là hoạt động kinh doanh tạo lợi nhuận cho ngân hàng thương mại.
Hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại có thể kể đến như: cho thuê tài chính, chiết khấu các giấy tờ có giá , bảo lãnh, bao thanh toán, tài trợ xuất nhập khẩu, cho vay....Tuy nhiên, trong các hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại thì hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản, thể hiện đặc trưng của ngân hàng thương mại.
1.2.1.2. Khái niệm hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại:
Theo quyết định số 1627/2007/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng Nhà Nước về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thì: “ Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Thời hạn nhất định ở đây chính là thời hạn cho vay.”
Cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) là hình thức ngân hàng cấp vốn cho các DNVVN trên cơ sở các doanh nghiệp này đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về điều kiện tín dụng của ngân hàng như: điểm tín dụng, vốn, uy tín, tính khả thi của vốn vay... Các DNVVN với nhiều hạn chế về trình độ quản lý, vốn, năng lực tài chính đang phải cố gằng rất nhiều để tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng.
Cho vay DNVVN là phương thức tín dụng của ngân hàng theo tiêu thức đối tượng khách hàng. Đây là loại hình doanh nghiệp chiếm đa số và rất đa dạng trong các khách hàng của các ngân hàng thương mại (NHTM), do đó, các NHTM cũng tập trung khai thác, tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho đối tượng khách hàng trên hơn.
1.2.2. Các phương thức cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Hoạt động cho vay đối với DNVVN cũng như các loại hình doanh nghiệp khác rất đa dạng với các tiêu chí phân loại khác nhau. Sau đây là một số phương thức cho vay cơ bản:
Căn cứ vào tính chất nghiệp vụ, cho vay được phân loại thành:
Cho vay thấu chi: là nghiệp vụ ngân hàng cho DNVVN vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định. Hình thức vay trên đang dần được sử dụng phổ biến hơn với các DNVVN có quan hệ tín dụng thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến nhất đối với các DNVVN. Nguồn tín dụng ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ kinh doanh. Nghiệp vụ cho vay đơn giản và doanh nghiệp có thể kiểm soát từng lần vay.
Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ mà theo đó ngân hàng thỏa thuận cung cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Đây cũng là phương thức cho vay mà ngân hàng thường chỉ áp dụng với các khách hàng có mối quan hệ thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay mà theo đó ngân hàng cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa của doanh nghiệp. Hình thức cho vay như trên rất ít được sử dụng với các DNVVN.
- Cho vay trả góp: là hình thức cho vay theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Hình thức cho vay này khá hợp lý đối với các DNVVN và thường được áp dụng kết hợp với các hình thức cho vay khác.
- Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian, thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Hình thức vay này ít được các ngân hàng áp dụng với các DNVVN.
Căn cứ vào thời hạn cho vay, ngân hàng phân loại cho vay thành cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn. Trong đó, các DNVVN chủ yếu sử dụng cho vay ngắn hạn cho các khoản vay dưới 12 tháng và chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn.
1.3. Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ:
1.3.1. Quan điểm vể chất lượng cho vay:
Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động mang lại doanh thu chủ yếu cho các ngân hàng thương mại, do đó, chất lượng cho vay luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở các ngân hàng. Hiện nay, các vị trí khác nhau thì có những quan điểm khác nhau về chất lượng cho vay.
Theo quan điểm của khách hàng, các khoản cho vay có chất lượng phải là các khoản có vốn vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn, có lãi suất và kỳ hạn hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thủ tục đơn giản, thuận tiện nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc tín dụng và quy chế cho vay.
Theo quan điểm sự phát triển vĩ mô của nền kinh tế, chất lượng cho vay thể hiện ở hoạt động cho vay có phục vụ cho sản xuất và lưu thông hàng hóa hay không, góp phần giải quuyết công ăn việc làm, tạo được sự hài hòa giữa hoạt động cho vay với chính sách phát triển của Chính Phủ...
Theo quan điểm của ngân hàng thương mại, chất lượng cho vay thể hiện trên hai mặt cơ bản: mức độ an toàn của khoản vay và hiệu quả kinh tế của khoản vay.
Mức độ an toàn của khoản vay: được thể hiện qua chỉ tiêu về khả năng hoàn trả của khách hàng. Một khoản vay chứa đựng nhiều nguy cơ không trả được nợ thì được coi là khoản vay có chất lượng kém.
Hiệu quả kinh tế của khoản vay: đó là khả năng sinh lời mà khoản vay mang lại để đảm bảo sự phát sự tồn tại và phát triển bền vững của ngân hàng. Thông qua hoạt động cho vay này, các doanh nghiệp nhận tiền vay sẽ được hỗ trợ về vốn để mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm...đóng góp vào sự phát triển chung của toàn xã hội.
Một cách khái quát, chất lượng cho vay chính là sự đáp ứng về số lượng và chất lượng đối với nhu cầu vay vốn của khách hàng và đảm bảo các yếu tố an toàn và lợi nhuận đối với ngân hàng. Khoản vay được coi là có chất lượng tốt khi nó mang lại lợi ích kinh tế cho cả khách hàng và ngân hàng và cho cả xã hội. Tức là vốn đưa vào kinh doanh tạo ra số tiền lớn đủ để trang trải chi phí, trả được gốc và lãi cho ngân hàng và có lợi nhuận đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế.
1.3.2. Sự cần thiết của nâng cao chất lượng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Việc nâng cao chất lượng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò quan trọng đối với cả bản thân doanh nghiệp, ngân hàng cũng như toản xã hội. Để thấy được sự cần thiết của nâng cao chất lượng cho vay, ta hãy xem xét ý nghĩa và vai trò của việc nâng cao chất lượng cho vay của các DNVVN.
1.3.2.1. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Đối với các doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng, chất lượng cho vay cao tức là khoản vay chính đáng của doanh nghiệp được đáp ứng một cách kịp thời, nhanh chóng, quá trình giải ngân phù hợp với yêu cầu kinh doanh, chi phí vay vốn thấp, thủ tục nhanh gọn và hiệu quả sử dụng vốn cao.
Khi nhận được vốn tài trợ phù hợp của ngân hàng, DNVVN có thể đầu tư theo mục đích vay vốn nhằm cải thiện công nghệ, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng suất....từ đó đem lại thu nhập cao hơn cho doanh nghiệp, nâng cao mức sống của công nhân. Do đó, các DNVVN luôn muốn chọn cho doanh nghiệp một ngân hàng có chất lượng cho vay tốt.
1.3.2.2. Đối với Ngân hàng thương mại:
Cho vay là một trong những hoạt động sinh lời quan trọng nhất của các NHTM. Khi ngân hàng tìm cách nâng cao chất lượng cho vay tức là ngân hàng tìm cách mở rộng hoạt động cho vay một cách đảm bảo, để có thể vừa mở rộng vừa thu hồi lãi và gốc đúng hạn. Nghĩa là nâng cao chất lượng cho vay sẽ làm tằng doanh thu cho ngân hàng. Nhờ đó, ngân hàng có thể tiếp tục mở rộng tín dụng cũng như các dịch vụ khác.
Nâng cao chất lượng cho vay cũng giúp tăng uy tín của ngân hàng, từ đó thu hút được khách hàng mới, tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Đó cũng là mục tiêu phát triển bền vững của các ngân hàng thương mại, cạnh tranh bằng cách nâng cao chất lượng dịch vụ. Do đó, nâng cao chất lượng cho vay là xu thế phát triển tất yếu của các NHTM.
1.3.2.3. Đối với nền kinh tế:
Khi các NHTM nâng cao chất lượng cho vay, tức là mở rộng cho vay đã đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế. Những khoản cho vay chất lượng tốt này lại tạo ra lợi nhuận cho xã hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Hoạt động nâng cao chất lượng cho vay đã góp phần thực hiện các mục tiêu của Nhà Nước, góp phần đưa kinh tế càng ngày càng phát triển vững mạnh hơn.
Như vậy, việc nâng cao chất lượng cho vay của NHTM đối với các DNVVN là thực sự cần thiết và mang lại những ý nghĩa to lớn không chỉ đối với các NHTM, bản thân các DNVVN mà còn đóng góp cho cả xã hội.
1.3.3. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay:
Chất lượng cho vay đối với DNVVN là một khái niệm vừa cụ thể (thông qua các chỉ tiêu định lượng có thể tính toán được như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn...) lại vừa trừu tượng (thể hiện ở khả năng thu hút khách hàng, đóng góp vào nền kinh tế..). Từ đó, để đánh giá chất lượng cho vay của NHTM đối với các DNVVN, người ta chia làm 2 nhóm chỉ tiêu: chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng.
1.3.3.1. Các chỉ tiêu định tính :
Khó có thể đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể cho các chỉ tiêu định tính. Do đó, tùy vào mỗi ngân hàng khác nhau sẽ tự xác định tiêu chí cho các chỉ tiêu định tính. Có thể kể đến vài chỉ tiêu như sau:
- Tuân thủ theo cơ sở pháp lý, nguyên tắc và quy trình tín dụng:
Hoạt động cho vay có chất lượng phải tuân thủ các quy định pháp luật của Nhà Nước: luật các tổ chức tín dụng, các quy chế cho vay, các văn bản của Ngân hàng Nhà Nước và các văn bản có liên quan.
Khi tiến hành hoạt động cho vay, phải luôn đảm bảo tuân thủ các quy trình cho vay, nguyên tắc cho vay vì nó giúp phòng ngừa rủi ro, đánh giá được chất lượng cho vay. Hoạt động tín dụng của NHTM dựa trên một số nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hóa trong các qui định của ngân hàng Nhà Nước và các NHTM. Có thể kể đến ba nguyên tắc cơ bản:
Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn và lãi với thời gian xác định đã thỏa thuận trong hợp đồng cho vay
Khách hàng phải cam kết sử dụng vốn cho vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng
Ngân hàng chỉ được tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả.
Nếu ngân hàng thực hiện đúng theo quy trình cho vay, thì ngân hàng có thể đánh giá đúng tình hình tài chính của khách hàng, từ đó, giúp đưa ra quyết định tài trợ hợp lý, đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro cho ngân hàng.
- Chính sách quản trị điều hành đứng đắn, chiến lược phát triển phù hợp với yêu cầu cạnh tranh, phát triển kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ cụ thể.
Chỉ tiêu trên được thể hiện trong chính sách tín dụng của ngân hàng. Chính sách tín dụng cho ta biết về cương lĩnh tài trợ của ngân hàng, hướng dẫn chung cho cán bộ, nhân viên ngân hàng tăng cường chuyên môn và tạo sự thống nhất. Chính sách tín dụng của ngân hàng cũng cho biết được chiến lược phát triển tín dụng của ngân hàng.
- Mức độ thỏa mãn như cầu tài trợ của khách hàng và chi phí cho vay:
Chất lượng cho vay của ngân hàng với khách hàng được cho là tốt khi mà ngân hàng có khả năng đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay vốn hợp lý của khách hàng. Để đảm bảo yêu cầu trên, ngân hàng cần có hệ thống đánh giá, dự báo, phân tích nhu cầu của khách hàng thật chính xác, từ đó nâng cao chất lượng cho vay. Đồng thời, việc đáp ứng nhu cầu vốn hợp lý của khách hàng một cách nhanh chóng giúp làm tăng thêm uy tín của ngân hàng.
- Đóng góp của hoạt động cho vay của ngân hàng vào sự phát triển kinh tế - xã hội:
Thông qua cho vay đối với các DNVVN thì các ngân hàng đã đóng góp vào sự phát triển chung của kinh tế - xã hội, tăng việc làm, thúc đẩy sản xuất... Tuy nhiên, đây là một chỉ tiêu khó có thể đánh giá chính xác.
1.3.3.2. Các chỉ tiêu định lượng:
Vì các chỉ tiêu định tính rất khó xác định hiệu quả thực hiện nên người ta thường sử dụng các chỉ tiêu định tính làm các chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá chất lượng của hoạt động cho vay. Đây là các chỉ tiêu rất quan trọng với các NHTM, thông qua các chỉ tiêu này, ngân hàng có thể xác định một cách tương đối chính xác về chất lượng cho vay đối với các DNVVN của ngân hàng. Do đó, việc tính toán cần đảm bảo sự chính xác và đầy đủ.
Doanh số cho vay đối với DNVVN:
Doanh số cho vay dối với DNVVN thể hiện tổng lượng vốn mà ngân hàng đã cho các DNVVN vay trong một thời kỳ cụ thể. Nó được tính bằng cách cộng dồn các khoản cho vay trong một thời kỳ. Con số này thể hiện xu hướng hoạt động cho vay đối với DNVVN là tăng hay giảm.
Ngoài sử dụng giá trị tuyệt đối để cho thấy xu hướng cho vay với DNVVN, ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu về tỷ lệ tăng trưởng doanh số cho vay qua các năm:
Tỷ lệ tăng trưởng DSCV =
Dư nợ cho vay đối với DNVVN:
Chỉ tiêu trên phản ánh số vốn của ngân hàng đang cho các DNVVN vay tại một thời điểm cụ thể. Nó được tính trên số dư cuối kỳ trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng.
Cùng với chỉ tiêu doanh số cho vay, chỉ tiêu trên cũng dùng để đánh giá mức độ tăng trưởng tín dụng đối với DNVVN của ngân hàng. Đây là chỉ tiêu mà ngân hàng phải theo dõi thường xuyên để biết tình hình sử dụng vốn của khách hàng. Nếu dư nợ cuối kỳ thấp và có xu hướng giảm, nó phản ánh chất lượng cho vay thấp. Vì hoạt động cho vay không thu hút khách hàng, không được mở rộng. Tuy nhiên, dư nợ với DNVVN cuối kỳ cao cũng chưa thể đánh giá là chất lượng cho vay với DNVVN tốt được. Chỉ tiêu này còn phải kết hợp với các chỉ tiêu khác để đánh giá một cách toàn diện.
Tỷ lệ tăng trưởng DNCV =
Nếu cả hai chỉ tiêu trên đối với DNVVN cùng cao và với tốc độ tăng trưởng của hai chỉ tiêu này đều cùng dương thì chứng tỏ ngân hàng đang có tăng trưởng trong cho vay đối với DNVVN, sản phẩm cho vay của ngân hàng đã có uy tín và thu hút khách hàng. Qua đó, nhu cầu về vốn của DNVVN được ngân hàng đáp ứng tốt. Mặc dù vậy, để xét xem chất lượng cho vay đối với DNVVN có thực sự tốt, ta vẫn cần xét thêm đến các chỉ tiêu về thu nợ khác.
Doanh số thu nợ với DNVVN:
Chỉ tiêu này phản ánh lượng vốn đã cho DNVVN vay và đã được hoàn trả trong một thời kỳ cụ thể. Nó được xác định bằng cách cộng dồn các khoản thu nợ trong một thời kỳ. Doanh số cho vay lớn thì cần kèm với doanh số thu nợ cao thì mới đảm bảo chất lượng cho vay. Nếu doanh số thu nợ thấp thể hiện dư nợ quá hạn lớn, khả năng thu hồi vốn và lãi thấp thì chất lượng tín dụng là kém.
Tỷ lệ nợ quá hạn đối với DNVVN:
Chỉ tiêu này phản ánh rõ nhất về chất lượng cho vay đối với DNVVN của ngân hàng. Mức độ an toàn của hoạt động cho vay đối với DNVVN cũng được phản ánh qua chỉ tiêu này. Do đó, đây là chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá chất lượng cho vay với DNVVN của các NHTM:
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = ------------------ 100%
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn cao phản ánh nguy cơ mất vốn của ngân hàng, đồng thời là nguy cơ giảm thu nhập của ngân hàng, thậm chí có thể dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh khoản nếu tỷ lệ này quá cao. Vì vậy, khi ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ được đánh giá là chất lượng cho vay thấp. Tuy nhiên, khi ngân hàng có tỷ lệ này thấp thì cũng chưa thể kết luận là chất lượng cho vay đối với DNVVN là tốt. Ta vẫn phải kết hợp với các chỉ tiêu khác để đánh giá chất lượng cho vay DNVVN của ngân hàng. Vì khi tỷ lệ này thấp, có thể ngân hàng đang theo đuổi chính sách cho vay an toàn, ít rủi ro với khách hàng DNVVN nên không mở rộng cho vay nhiều với loại hình này nên tỷ lệ tăng trưởng dư nợ và doanh số sẽ thấp.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các khoản nợ quá hạn của các DNVVN. Có thế là nguyên nhân xuất phát từ phía doanh nghiệp như trình độ quản lý sản xuất yếu kém, công nghệ lạc hậu.....hoặc do sự thay đổi của các nguyên nhân khách quan như: sự bất ổn của nền kinh tế, sự thay đối chính sách kinh tế....Nguyên nhân cũng có thể xuất phát từ trình độ đánh giá, phân tích yếu kém của cán bộ tín dụng khi phân tích các khoản vay không có khả năng hoàn trả ngay từ khi xét hồ sơ tín dụng.
Nhìn chung, các nguyên nhân trên đều đánh giá được khi tỷ lệ nợ quá hạn các DNVVN cao thì chất lượng cho vay của ngân hàng đương nhiên là thấp.
Quyết định 493/2005/ QĐ- NHNN ngày 22/04/2005 đã quy định về phân loại nợ, trích lập, dự phòng rủi ro của các tổ chức tín dụng. Các khoản nợ quá hạn gồm có: nợ cần chú ý, nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn.
Tỷ lệ nợ xấu của các DNVVN:
Nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu = ---------------------- 100%
Tổng dư nợ
Nợ xấu bao gồm: nợ dưới tiêu chuẩn, nợ khó đòi và nợ có khả năng mất vốn. Chỉ tiêu này bổ sung cho chỉ tiêu trên bởi nếu xét chỉ tiêu nợ quá hạn thì các khoản nợ quá hạn thì phần lớn có thể là nợ cần chú ý, ngân hàng có thể cơ cấu lại các món nợ.
Vòng quay vốn tín dụng :
Doanh số thu nợ DNVVN
Vòng quay vốn tín dụng = ------------------------------------ x 100%
Dư nợ bình quân DNVVN
Đây là một chỉ tiêu các NHTM thường tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn cho vay và chất lượng cho vay trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Nếu vòng quay càng lớn thì ngân hàng sẽ có số vốn lớn và từ đó mà thu lãi được tù vốn vay cũng cao hơn. Điều này đồng nghĩa với việc sử dụng vốn hiệu quả hơn. Khả năng quay vòng vốn của các DNVVN càng nhanh, ngân hàng càng có thể đáp ứng được nhiều và kịp thời nhu cầu cho vay với các DNVVN có nhu cầu về vốn. Do vậy, chỉ tiêu này càng cao kết hợp với các chỉ tiêu khác dẫn đến chất lượng cho vay đối với DNVVN càng cao.
Tóm lại, khi đánh giá chất lượng cho vay đối với DNVVN của ngân hàng, cần xét một cách tổng quát các chỉ tiêu định tính và định lượng. Các chỉ tiêu định lượng cũng cần được xem xét trong mối quan hệ mật thiết với nhau chứ không thể xét từng chỉ tiêu. Nếu ngân hàng có chất lượng cho vay tốt, các chỉ tiêu cũng sẽ đều thể hiện chất lượng vay tốt như: xu hướng tăng về dư nợ, doanh số cho vay và khả năng thu nợ tốt, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu thấp và không có, cũng như quay vòng vốn nhanh...Để có các chỉ tiêu trên, các quy trình cho vay cũng phải thực hiện chính xác. Và từ kết quả chất lượng cho vay như trên, uy tín ngân hàng cũng được nâng cao, thu hút thêm khách hàng.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay đối với DNVVN:
Khi nói đến chất lượng tín dụng, ngoài quan tâm đến các chỉ tiêu phản ánh chất lượng, các ngân hàng cũng rất quan tâm đến những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay. Nó sẽ cho thấy những nhân tố tác động tích cực hay tiêu cực đến chất lượng cho vay với DNVVN. Từ đó, dựa trên thực trạng chất lượng cho vay, các NHTM sẽ có những biện pháp nhằm điều chỉnh, hạn chế các tác động tiêu cực, nâng cao những tác động tích cực ._.và qua đó, nâng cao chất lượng cho vay của NHTM.
Có thể chia các nhân tố tác động đến chất lượng cho vay đối với các DNVVN thành các nhân tố khách quan và chủ quan. Trong đó, nhân tố chủ quan bao gồm các nhân tố từ phía khách hàng và nhân tố từ phía ngân hàng.
1.4.1. Các nhân tố khách quan:
Hoạt động của các NHTM chịu ảnh hưởng rất lớn từ các nhân tố thuộc về môi trường khách quan như môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, chính trị - xã hội.... Hoạt động cho vay cũng chịu những tác động từ những nhân tố này.
Môi trường kinh tế:
Môi trường kinh tế là nhân tố vĩ mô có những tác động đáng kể đến chất lượng cho vay đối với các DNVVN. Nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển tốt, tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng hoạt động, thuận lợi hơn cho hoạt động cho vay phát triển, các khoản vay sẽ có chất lượng cao hơn.
Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, mất đi sự hài hòa và ổn định sẽ gây khó khăn cho cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp. Các DNVVN là các doanh nghiệp chịu nhiều khó khăn nhất khi nền kinh tế khủng hoảng, hoạt động kinh doanh bị thu hẹp, hoạt động cho vay sẽ gặp khó khăn. Nhu cầu vốn cho vay trong thời kỳ này giảm và nếu vốn tín dụng đã được thực hiện cũng khó có thể sử dụng có hiệu quả hoặc trả nợ đúng hạn cho ngân hàng.
Môi trường pháp lý:
Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động cho vay nói chung và cho vay với DNVVN nói riêng. Chủ trương chính sách của Chính Phủ, ngân hàng Nhà Nước về hoạt động tín dụng, hỗ trợ với các DNVVN sẽ có những tác động trực tiếp đến hiệu quả cho vay đối với các DNVVN. Có thể kể đến những quy định về đảm bảo tiền vay, tỷ lệ an toàn vốn, trích lập dự phòng....đều là các quy định nhằm hạn chế rủi ro các khoản cho vay của ngân hàng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng.
Pháp luật còn tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh để đạt được hiệu quả cao, đồng thời cũng tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng. Các ngân hàng và doanh nghiệp tuân thủ đúng các quy định của pháp luật thì hiệu quả và lợi ích sẽ được đảm bảo.
Nếu môi trường pháp lý được đảm bảo thì doanh nghiệp và ngân hàng sẽ có môi trường thuận lợi cạnh tranh và phát triển. Trong khi đó, nếu hệ thống pháp luật còn nhiều kẽ hở sẽ dẫn đến tình trạng lách luật của doanh nghiệp, khiến ngân hàng không có được đánh giá chính xác về doanh nghiệp gây ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Môi trường chính trị - xã hội:
Môi trường chính trị - xã hội tạo nên sự ổn định cho hoạt động sản xuất – kinh doanh. Nền kinh tế cần có sự ổn định về chính trị - xã hội là nền tảng thu hút các nhà đầu tư, tạo môi trường phát triển hơn cho các DNVVN. Sự bất ổn về chính trị tác động đến những khoản cho vay thông qua tác động đến tình hình sản xuất kinh doanh của các DNVVN, từ đó làm chất lượng cho vay giảm. Ngoài ra, nền kinh tế dù có phát triển mà tiềm tàng nhiều rủi ro và khó lường trước được.
1.4.2. Các nhân tố chủ quan:
1.4.2.1. Từ phía khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Nhân tố tác động từ phía khách hàng là đặc điểm chung của các khoản cho vay khi đã được cấp cho khách hàng. Tuy nhiên, ở khách hàng là DNVVN thì các nhân tố tác động tới chất lượng cho vay này phụ thuộc nhiều vào đặc điểm của bản thân DNVVN.
Quy mô vốn và năng lực tài chính của DNVVN:
Các DNVVN thường có quy mô vốn nhỏ và năng lực tài chính là không lớn nên không có quá nhiều khả năng tăng quy mô vốn chủ sở hữu. Cũng do sự hạn hẹp về vốn nên DNVVN thường không có sự đầu tư hợp lý, có xu hướng đầu tư vào tài sản cố định nên thiếu vốn lưu động để tiền hành sản xuất kinh doanh. Việc đánh giá khả năng tài chính đối với các doanh nghiệp khi cho vay là quy trình tất yếu, tuy nhiên, nó sẽ khiến cho các DNVVN có năng lực tài chính yếu kém khó khăn hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn cho vay. Hay nếu ngân hàng cấp vốn thì cũng sẽ gặp nhiều rủi ro.
Tuy nhiên, việc các DNVVN có quy mô sản xuất nhỏ thường giúp các doanh nghiệp dễ thích nghi với những biến động thị trường hơn là các doanh nghiệp lớn. Các DNVVN thuận lợi hơn trong việc chuyển đổi sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường.
Nhìn chung, vốn chủ sở hữu và năng lực tài chính của DNVVN đủ lớn sẽ tạo điều kiện chắc chắn hơn giúp các DNVVN tránh được nguy cơ phá sản do mất khả năng thanh toán các khoản nợ của ngân hàng, hạn chế mức thấp nhất tổn thất với ngân hàng khi doanh nghiệp không có khả năng trả nợ, góp phần nâng cao chất lượng cho vay với các DNVVN.
Trình độ quản lý của các DNVVN:
Hoạt động quản lý và điều hành là một trong những hoạt động quyết định dẫn đến thành công của doanh nghiệp (dự án). Khi xem xét cho vay, ngân hàng cũng cần xem xét kỹ lưỡng về trình độ quản lý của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, ở các DNVVN, trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp còn rất thấp. Phần lớn cấp quản lý không được đào tạo bài bản và hệ thống nên luôn tiềm ẩn rủi ro khi cho các doanh nghiệp này vay vốn, làm giảm chất lượng cho vay của ngân hàng.
Phương án sản xuất kinh doanh:
Đây luôn là một trong các nhân tố đầu tiên được ngân hàng xem xét khi quyết định cho vay đối với các doanh nghiệp nói chung. Phương án kinh doanh có khả thi cao thì mới có khả năng tạo ra lợi nhuận lớn, ít rủi ro và khả năng trả nợ của doanh nghiệp đảm bảo. Khách hàng cần luôn đảm bảo việc sử dụng vốn vay là đúng mục đích. Như vậy, nếu phương án vay vốn của khách hàng là khả thi và khách hàng sử dụng đúng mục đích thì chất lượng tín dụng sẽ được đảm bảo.
Uy tín của các khách hàng DNVVN:
Nếu doanh nghiệp đã có quan hệ lâu dài và uy tín với ngân hàng thì ngân hàng sẽ có đảm bảo hơn về việc thu hồi lãi và gốc, đảm bảo chất lượng khoản vay.
Đạo đức, uy tín của khách hàng luôn có ảnh hưởng đến độ xác thực trong thông tin cung cấp cho cán bộ thẩm định của ngân hàng, tác động tới quyết định cho vay của ngân hàng và từ đó ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng. Doanh nghiệp có thể lừa đảo ngân hàng thông qua gian lận về số liệu, giấy tờ, quyền sở hữu, mục đích sử dụng vốn vay...Tính trung thực, đạo đức của khách hàng DNVVN quyết định nhiều đến chất lượng cho vay của ngân hàng.
Ngoài các yếu tố trên, còn nhiều nhân tố xuất phát từ các DNVVN ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng như: vị trí của doanh nghiệp trên thị trường, tính nghiêm túc của các doanh nghiệp trong việc thực hiện các chế độ kế toán hiện hành, tài sản đảm bảo cho vay có tính hợp lý....Nhìn chung, khi đã cấp vốn vay cho doanh nghiệp thì việ đảm bảo an toàn của khoản vốn đó không chỉ phụ thuộc vào sự giám sát của ngân hàng mà phụ thuộc rất lớn vào chính khách hàng của ngân hàng.
1.4.2.2. Từ phía ngân hàng:
Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng của một ngân hàng là hệ thống quan điểm, chủ trương, định hướng, quy định đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Nó phản ánh cương lĩnh tài trợ của ngân hàng, là hướng dẫn chung cho các cán bộ tín dụng và nhân viên ngân hàng, tạo sự thống nhất trong hoạt động tín dụng.
Chính sách tín dụng của ngân hàng có vai trò cân bằng giữa mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và hạn chế rủi ro, đảm bảo tăng trưởng tín dụng và đầu tư an toàn theo đúng chiến lược phát triển của ngân hàng. Do đó, việc hoạch định chính sách tín dụng có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của ngân hàng. Đưa ra được chính sách tín dụng hợp lý sẽ thu hút khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động cho vay trên cơ sở phân tán rủi ro, quản lý được các hiện tượng nợ xấu, hạn chế rủi ro tín dụng....góp phần nâng cao chất lượng công tác cho vay với DNVVN.
Thông tin tín dụng:
Thông tin tín dụng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hoạt động tín dụng. Các quá trình trong quy trình cho vay đều cần có thông tin đầy đủ để ngân hàng có thể ra quyết định, kiếm soát hoạt động sử dụng vốn của doanh nghiệp. Đây chính là nguyên liệu đầu vào cho quá trình cho vay bao gồm: các thông tin về hoạt động kinh doanh, môi trường kinh doanh, đối thủ cạnh tranh, môi trường kinh tế...
Để hoạt động cho vay đạt hiệu quả cao thì hệ thống thông tin cần chính xác và kịp thời. Nếu thông tin không đầy đủ hoặc không chính xác sẽ gây đến các quyết định sai lầm trong hoạt động tài trợ, ảnh hưởng đến chất lượng cho vay.
Đối với các DNVVN, nguồn thông tin của các doanh nghiệp thường khó tiếp cận hơn đối với các doanh nghiệp lớn, và có tiếp cận được thì cũng không thể đảm bảo những thông tin đó là chính xác. Vì thế, ngân hàng cần chủ động xây dựng hệ thống thông tin của riêng mình, để có những đánh giá chính xác nhất về doanh nghiệp. Ngân hàng có đảm bảo được thông tin để đánh giá về doanh nghiệp là chính xác và kịp thời thì mới có thể đảm bảo chất lượng cho vay đối với các doanh nghiệp đó.
Trình độ của cán bộ tín dụng:
Chính sách tín dụng và quy trình tín dụng chỉ ra phương châm hoạt động và các bước hoạt động cho vay của mỗi ngân hàng. Tuy nhiên, việc thực hiện chúng lại phụ thuộc vào các cán bộ tín dụng. Do đó, trình độ của cán bộ tín dụng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của hoạt động cho vay.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có số lượng lớn, rất đa dạng về quy mô và hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, cán bộ tín dụng phải có đủ năng lực để phân tích, đánh giá chính xác khách hàng vay vốn ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Muốn như vậy, cán bộ tín dụng phải có năng lực và được đào tạo kĩ lưỡng, liên tục và toàn diện.
Việc cho vay đối với DNVVN gặp nhiều khó khăn hơn các doanh nghiệp khác do những đặc điểm của DNVVN như khó tiếp cận số liệu, tiếm ẩn nhiều rủi ro về quản lý...nên đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có kinh nghiệm hơn, có những biện pháp thu thập thông tin liên quan đến DNVVN sáng tạo và linh hoạt. Cho vay đối với DNVVN cũng đòi hỏi nhân viên tín dụng tập trung hơn, theo dõi kiểm soát sát sao hơn.
Nhân viên tín dụng phải tiếp xúc thường xuyên với những biến động liên quan nhiều lĩnh vực, ngành nghề, gặp gỡ nhiều khách hàng và đối mặt với nhiều cám dỗ. Do đó, nhân viên tín dụng cần được tuyển chọn cẩn thận, bố trí hợp lý, quan tâm rèn luyện về kiến thức, nghiệp vụ cũng như về đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp.
Nhân viên tín dụng hoạt động có hiệu quả, đánh giá chính xác về doanh nghiệp, đưa ra quyết định tài trợ chính xác và giám sát chặt chẽ trong quá trình giải ngân sẽ giúp ngân hàng nâng cao chất lượng cho vay, và mang lại uy tín cho ngân hàng. Trong khi đó, nếu nhân viên tín dụng chưa đủ trình độ đánh giá khách hàng, bỏ qua những khách hàng tiềm năng hay quyết định tài trợ cho các dự án không đủ chất lượng sẽ làm suy giảm chất lượng tín dụng của ngân hàng, gây thiệt hại về doanh thu cho ngân hàng và làm giảm uy tín của ngân hàng.
Như vậy, nhân viên tín dụng là nhân tố quan trọng và tác động trực tiếp đến chất lượng cho vay của ngân hàng.Đây là nhân tố cần được chú trọng, đầu tư rèn luyện để nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng.
Chất lượng công tác thẩm định, kiểm tra và kiểm soát:
Thẩm định là khâu phân tích trước khi cấp tín dụng của quy trình tín dụng. Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng mà nội dung chủ yếu là thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng và đánh giá thông tin về khả năng hoàn trả của khách hàng, tính khả thi của dự án, thẩm định tài sản đảm bảo....Việc thẩm định cần tiến hàng đúng trình tự theo quy trình tín dụng, nếu không thì sẽ có thể gây đến các rủi ro cho ngân hàng. Nhìn chung, đây là khâu quan trọng trong việc quyết định chất lượng cho vay của khoản vay.
Kiếm tra và kiểm soát là các khâu sau khi cấp tài trợ, giúp cho ngân hàng có những thông tin về tình hình kinh doanh, sử dụng vốn của khách hàng. Việc thực hiện công tác kiểm tra và kiểm soát chặt chẽ giúp ngân hàng nhanh chóng phát hiện các sai phạm của doanh nghiệp nếu có để có thể sửa chữa, từ đó tạo điều kiện nâng cao chất lượng cho vay.
CHƯƠNG II.THỰC TRẠNG VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI – LÁNG HẠ.
2.1. Khái quát về ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội – Láng Hạ:
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của MB Láng Hạ:
Chi nhánh NHTMCP Quân Đội Láng Hạ là chi nhánh cấp 2 thuộc hệ thống NHTMCP Quân Đội. Chi nhánh được thành lập ngày 26/12/2005 tại địa chỉ 233- Láng Hạ. Tuy mới chỉ có 3 năm hoạt động nhưng chi nhánh Láng Hạ được đánh giá là một chi nhánh hoạt động hiệu quả, đặc biệt là về tăng trưởng tín dụng. MB Láng Hạ được giao cho những nhiệm vụ sau:
Nhận tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn bằng Việt Nam Đồng và ngoại tệ.
Huy động vốn dưới mọi hình thức bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ (tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu…)
Cho vay ngắn, trung và dài hạn với mọi thành phần kinh tế, cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, hùn vốn, liên doanh, liên kết, hợp tác, đồng tài trợ.
Bảo lãnh: Dự thầu, thực hiện hợp đồng, bảo lãnh công trình, thanh toán…bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn trong và ngoài nước.
Làm ngân hàng đại lý, ngân hàng phục vụ cho đầu tư phát triển từ các nguồn vốn của Chính Phủ, các tổ chức tài chính, kinh tế, các đoàn thể, các cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và nhân sự:
Chi nhánh gồm 4 phòng ban: phòng khách hàng doanh nghiệp, phòng khách hàng cá nhân, phòng thanh toán quốc tế, phòng kế toán giao dịch với tổng số cán bộ nhân viên là 24.
Mỗi phòng ban có những chức năng và nhiệm vụ như sau:
2.1.2.1. Phòng khách hàng doanh nghiệp:
Chức năng:
Phòng khách hàng doanh nghiệp là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp, để khai thác vốn bằng VNĐ và ngoại tệ; đồng thời thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của MB.
Nhiệm vụ:
- Khai thác nguồn vốn bằng VNĐ và ngoại tệ từ khách hàng là các doanh nghiệp.
- Thực hiện tiếp thị, hỗ trợ, chăm sóc khách hàng, tư vấn cho khách hàng về các sản phẩm của MB; Tín dụng, đầu tư, chuyển tiền, mua bán ngọa tệ, thanh toán xuất nhập khẩu, thẻ, dịch vụ ngân hàng điện tử…; Nghiên cứu đưa ra các đề xuất về cải tiến sản phẩm dịch vụ hiện có, cung cấp những sản phẩm dịch vụ mới phục vụ cho khách hàng là doanh nghiệp.
- Thẩm định, xác định, quản lý các giới hạn tín dụng cho các khách hàng có nhu cầu giao dịch về tín dụng và tài trợ thương mại, trình cấp có thẩm quyền quyết định theo quy định của MB.
- Thực hiện nghiệp vụ tín dụng và xử lý giao dịch: Nhận và xử lý đề nghị vay vốn, bào lãnh và các hình thức cấp tín dụng khác; Thẩm định khách hàng, dự án, phương án vay vốn, bảo lãnh và các hình thức cấp tín dụng khác theo thẩm quyền và quy định của MB; Đưa ra các đề xuất chấp thuận/ từ chối đề nghị cấp tín dụng, cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng trên cơ sở hồ sơ và kết quả thẩm định; Kiểm tra giám sát chặt chẽ trong và sau khi cấp các khoản tín dụng. Phối hợp với các phòng liên quan thực hiện thu gốc, thu lãi, thu phí đầy đủ, kịp thời đúng hạn, đúng hợp đồng đã ký; Theo dõi quản lý các khoản cho vay bắt buộc, tìm biện pháp thu hồi khoản cho vay này;
- Quản lý các khoản tín dụng đã được cấp; Quản lý tài sản đảm bảo theo qui định của MB.
- Cung cấp hồ sơ, tài liệu, thông tin của khách hàng cho phòng quản lý rủi ro để thẩm định độc lập và tái thẩm định theo quy định của MB.
- Cập nhật, phân tích thường xuyên hoạt động kinh tế, khả năng tài chính của khách hàng đáp ứng yêu cầu quản lý tín dụng.
- Thực hiện chấm điểm xếp hạng tín dụng đối với khách hàng có nhu cầu quan hệ giao dịch và đang có quan hệ giao dịch tín dụng với chi nhánh.
- Thực hiện phân loại nợ cho từng khách hàng theo quy định hiện hành, chuyển kết quả phân loại nợ cho tổ quản lý nợ có vấn đề để tính toán trích lập dự phòng rủi ro.
2.1.2.2 Phòng khách hàng cá nhân:
Chức năng:
Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các các nhân, để khai thác vốn bằng VNĐ và ngoại tề; Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của MB. Trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các khách hàng là cá nhân.
Nhiệm vụ:
- Khai thác nguồn vốn bằng VNĐ và ngoại tệ từ khách hàng là các cá nhân theo qui định của NHNN và MB.
- Thực hiện tiếp thị, hỗ trợ, chăm sóc khách hàng, tư vấn cho khách hàng về các sản phẩm của NHTMCP Quân Đội; Tín dụng, đầu tư, chuyển tiền, mua bán ngoại tệ, thanh toán xuất nhập khẩu, thẻ, dịch vụ ngân hàng điện tử…; Làm đầu mối bán các sản phẩm dịch vụ của NHTMCP Quân Đội đến khách hàng là các khách hàng cá nhân. Nghiên cứu đưa ra các đè xuất về cải tiến sản phẩm dịch vụ hiện có, cung cấp những sản phẩm dịch vụ mới phục vụ cho khách hàng là các cá nhân.
- Thực hiện nghiệp vụ tín dụng và xử lý giao dịch: Nhận và xử lý đề nghị vay vốn, bào lãnh và các hình thức cấp tín dụng khác; Thẩm định khách hàng, dự án, phương án vay vốn, bảo lãnh và các hình thức cấp tín dụng khác theo thẩm quyền và quy định củaMB; Đưa ra các đề xuất chấp thuận/ từ chối đề nghị cấp tín dụng, cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng trên cơ sở hồ sơ và kết quả thẩm định; Kiểm tra giám sát chặt chẽ trong và sau khi cấp các khoản tín dụng. Phối hợp với các phòng liên quan thực hiện thu gốc, thu lãi, thu phí đầy đủ, kịp thời đúng hạn, đúng hợp đồng đã ký; Theo dõi quản lý các khoản cho vay bắt buộc, tìm biện pháp thu hồi khoản cho vay này.
- Quản lý các khoản tín dụng đã được cấp; Quản lý tài sản đảm bảo theo qui định của MB.
- Cập nhật, phân tích thường xuyên hoạt động kinh tế, khả năng tài chính của khách hàng đáp ứng yêu cầu quản lý tín dụng.
- Thực hiện chấm điểm xếp hạng tín dụng đối với khách hàng có nhu cầu quan hệ giao dịch và đang có quan hệ giao dịch tín dụng với chi nhánh.
- Thực hiện phân loại nợ cho từng khách hàng theo quy định hiện hành, chuyển kết quả phân loại nợ cho tổ quản lý nợ có vấn đề để tính toán trích lập dự phòng rủi ro.
2.1.2.3 Phòng kế toán giao dịch:
Chức năng:
Là phòng nghiệp vụ các giao dịch trực tiếp với khách hàng: cung cấp các dịch vụ ngân hàng liên quan đến nghiệp vụ thanh toán, xử lý hạch toán các giao dịch. Quản lý và chịu trách nhiệm đối với hệ thống giao dịch trên máy, quản lý quỹ tiền mặt đến từng giao dịch viên theo đúng quy định của nhà nước và NHTMCP Quân Đội. Thực hiện nhiệm vu tư vấn cho khách hàng về sử dụng các sản phẩm ngân hàng.
Nhiệm vụ:
- Phối hợp với phòng thông tin điện toán quản lý hệ thống giao dịch trên máy, thực hiện mở, đóng giao dịch chi nhánh hàng ngày. Nhận các dữ liệu tham số mới nhất từ MB. Thiết lập thông số đầu ngày để thực hiện hoặc không thực hiện các giao dịch.
- Thực hiện các giao dịch trực tiếp với khách hàng:Mở, đóng các tài khoản ( ngoại tệ và VNĐ ); Thực hiện các giao dịch gửi, rút tiền từ tài khoản; Thực hiện các giao dịch mua bán ngoại tệ, tiền mặt, thanh toán và chuyển tiền VND, chuyển tiền ngoại tệ; Thực hiện các giao dịch giải ngân, thu nợ, thu lãi, xoá nợ; Thực hiện nghiệp vụ thấu chi (theo hạn mức được cấp) chiết khấu chứng từ có giá theo quy định.
- Thực hiện kiểm soát sau: Kiểm soát tất cả các bút toán mới và các bút toán điều chỉnh; tra soát tài khoản điều chuyển vốn (ngoại tệ và VNĐ) với trụ sở chính, tra soát với ngân hàng ngoài hệ thống điện chuyển tiền giao dịch của cá nhân và doanh nghiệp; Kiểm tra đối chiếu tất cả các báo cáo kế toán; kiểm soát các giao dịch trong và ngoài quầy theo thẩm quyền, kiểm soát lưu trữ chứng từ, tổng hợp liệt kê giao dịch trong ngày, đối chiếu lập báo cáo và phân tích báo cáo cuối ngày của giao dịch viên theo quy định;
- Thực hiện công tác liên quan đến thanh toán bù trừ, thanh điện tử, thanh toán liên ngân hàng.
- Quản lý thông tin, séc và giấy tờ có giá, các chứng từ gốc...
2.1.2.4 Phòng thanh toán quốc tế:
Chức năng:
Là phòng nghiệp vụ tổ chức thực hiện nghiệp vụ về thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh theo quy định của NHTMCP Quân Đội.
Nhiệm vụ:
Thực hiện nghiệp vụ về thanh toán xuất nhập khẩu theo hạn mức được cấp: Thực hiện các nghiệp vụ phát hành, sửa đổi, thanh toán L/C nhập khẩu, thông báo và thanh toán L/C xuât khẩu; Thực hiện các nghiệp vụ nhờ thu liên quan đến xuất nhập khẩu ( nhờ thu kèm bộ chứng từ, nhờ thu không kèm theo bộ chứng từ, nhờ thu séc thương mại); Phối hợp các phòng khách hàng doanh nghiệp lớn và phòng doanh nghiệp vừa và nhỏ để thực hiện chiết khấu bộ chứng từ, nghiệp vụ biên lai tín khác, bao thanh toán, bao thanh toán tuyệt đối.
2.1.3. Đặc điểm môi trường kinh doanh của MB Láng Hạ:
2.1.3.1. Những thuận lợi:
Chi nhánh được thành lập vào cuối năm 2006, thời điểm tăng cao nhu cầu về dịch vụ ngân hàng. Là một chi nhánh của ngân hàng TMCP Quân Đội – ngân hàng đã có uy tín và lịch sử lâu năm, do đó, mặc dù là chi nhánh cấp 2, nhưng chi nhánh đã nhanh chóng chiếm được lòng tin của các khách hàng và tăng doanh thu liên tục trong các năm qua, đạt được nhiều khen thưởng của ngân hàng.
Địa bàn Láng Hạ là khu vực tập trung nhiều doanh nghiệp với các quy mô khác nhau, đồng thời dân cư đông đúc. Đây là lợi thế của chi nhánh để khai thác được nguồn vốn huy động từ dân cư và nhu cầu vốn từ các doanh nghiệp. Đặc điểm về địa bàn như trên cũng đã quyết định mục tiêu kinh doanh của chi nhánh, đó là tập trung vào các hoạt động tín dụng và huy động vốn.
Chi nhánh có đội ngũ nhân viên 100% trình độ đại học và trên đại học với tuổi đời đều còn rất trẻ, ham học hỏi cũng là một ưu thế cho sự phát triển năng động của chi nhánh.
Ngoài ra, chi nhánh còn được sự hướng dẫn, chỉ đạo sâu sắc từ phía lãnh đạo ngân hàng trong những ngày đầu thành lập. Ngay khi thành lập, chi nhánh luôn đi đầu trong việc áp dụng những công nghệ mới vào hoạt động ngân hàng khi ngân hàng phát động thực hiện.
Tất cả những thuận lợi trên giúp cho chi nhánh Láng Hạ liên tục vượt chỉ tiêu kinh doanh trong những năm qua với những con số ấn tượng.
2.1.3.2. Những khó khăn:
Ngoài những thuận lợi khi chi nhánh được thành lập như đã nêu ở trên, chi nhánh cũng gặp phải không ít những khó khăn:
Khu vực Láng Hạ vốn đã tập trung rất nhiều chi nhánh của các ngân hàng TMCP khác, đây là khu vực có sự cạnh tranh cao đòi hỏi ngân hàng chi nhánh phải liên tục nâng cao chất lượng dịch vụ và tìm kiếm khách hàng. Ngoài ra, đội ngũ nhân viên còn trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm.
Địa bàn cũng không có nhiều doanh nghiệp lớn, hoặc nếu có thì là khách hàng truyền thống của các ngân hàng Nhà Nước thành lập lâu năm trên địa bàn. Các doanh nghiệp nhỏ rất nhiều, nhưng quá đa dạng về ngành nghề và loại hình.
2.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của MB Láng Hạ:
Tuy chỉ mới đi vào hoạt động được 3 năm, nhưng kết quả hoạt động kinh doanh của MB Láng Hạ đã cho thấy tiềm năng phát triển của mình. Sau đây là một số chỉ tiêu quan trọng của MB Láng Hạ:
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh MB - Láng Hạ
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Tổng tài sản
72.568
140.231
245.620
Huy động vốn
71.897
136.604
211.736
Dư nợ
65.662
98.492
201.156
Lợi nhuận trước thuế
5.421
8.200
14.256
(Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh 2006-2008)
Nhận xét chung:
Tốc độ tăng tài sản xấp xỉ so với tốc độ tăng vốn huy động (lần lượt là 194% và 150%). Con số trên cho thấy sự ra tăng đồng đều giữa vốn huy động và các khoản tăng dự phòng vì trên thực tế thì tài sản cố định tăng không đáng kể. Tốc độ tăng tín dụng nhảy vọt ở năm sau là 204% cho thấy tiềm năng phát triển mạnh khi mới đi vào khai thác thị trường tiềm năng của MB Láng Hạ.
Nhìn chung, khi nhìn qua bảng kết quả kinh doanh của MB Láng Hạ, ta thấy được sự phát triển đi lên của hoạt động kinh doanh của chi nhánh trong tất cả các hoạt động. Để làm rõ hơn sự tăng trưởng của từng bộ phận, chúng ta sẽ phân tích cụ thể đối với hai hoạt động cơ bản: huy động vốn và tín dụng.
2.1.4.1. Hoạt động huy động vốn:
Có thể nhận thấy hoạt động huy động vốn của MB Láng Hạ phát triển với tốc độ cao, đặc biệt là năm 2007 là 190% và năm 2008 là 155%, đều lớn hơn tốc độ tăng của toàn hệ thống MB. Cơ cấu tiền gửi khá ổn định, trong đó, chiếm ưu thế là tiền gửi có kỳ hạn và chủ yếu là tiền gửi của dân cư (chiếm tỷ trọng trung bình là 70%). Trong năm 2007, tỷ trọng này có giảm xuống còn 67% có thể do sự thay đổi nhiều lần về lãi suất khiến khách hàng không muốn gửi dài hạn. Nhưng tỷ lệ này đã trở về ổn định trong năm 2008.
Các chương trình huy động linh hoạt của MB đã thu hút khách hàng. MB cũng được đánh giá là ngân hàng huy động với lãi suất cao, ổn định với nhiều chương trình dự thưởng hấp dẫn.
Ngoài ra, chi nhánh luôn nhận được sự phản hồi tốt từ khách hàng về thái độ phục vụ của nhân viên giao dịch với sự tận tâm, hướng dẫn nhiệt tình - luôn là tiêu chí trong văn hóa của MB.
Số vốn huy động ngày càng tăng cao của chi nhánh chứng tỏ chi nhánh ngày càng thu hút được khách hàng đến gửi tiền, đồng nghĩa với chi nhánh đã tạo được uy tín với khách hàng trong địa bàn.
Bảng 2.2: Tình hình huy động vốn của MB Láng Hạ
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Tổng số
Tỷ trọng
Tổng số
Tỷ trọng
Tổng số
Tỷ trọng
Tổng số tiền gửi của khách hàng
71.897
100%
136.604
100%
211.736
100%
Tiền gửi không kỳ hạn
19.528
27%
44.915
33%
58.390
28%
Tiền gửi có kỳ hạn
52.369
73%
91.689
67%
153.346
72%
( Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh MB Láng Hạ 2006 - 2008 )
2.1.4.2. Hoạt động tín dụng:
Đối với hoạt động tín dụng, từ những phân tích ưu thế và bất lợi của chi nhánh, chi nhánh đưa ra mục tiêu khách hàng, đó là tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Và dù chỉ mới thành lập được 3 năm, chi nhánh đã gặt hái được những thành công nhất định trong việc tiếp cận các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đến ngày 31/12/2008, tổng dư nợ của chi nhánh đạt 201.156 tỷ đồng tăng 204% so với đầu năm. Về cơ cấu dự nợ, tỷ lệ khách hàng doanh nghiệp có xu hướng tăng rất nhanh trong tổng dư nợ. Điều này chứng tỏ hoạt động hiệu quả của chi nhánh, đi đúng vào đối tượng khách hàng tập trung, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cơ cấu khách hàng doanh nghiệp chiếm đến gần 80% cơ cấu dư nợ năm 2008 và khách hàng doanh nghiệp của chi nhánh là doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 100%.
Bảng 2.3: Cơ cấu dư nợ của MB Láng Hạ
Đơn vị: triệu đồng
2006
2007
2008
Tổng dư nợ
65.662
98.492
201.156
Khách hàng doanh nghiệp
50.418
80.669
164.754
Khách hàng cá nhân
15.244
17.823
36.402
(Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh của MB Láng Hạ 2006 -2008)
Trong năm 2008, tỷ lệ vay ngắn hạn chiếm 74.5%, vay trung hạn chiếm 26.5% và không có vay dài hạn. Chi nhánh tập trung chủ yếu vào đối tượng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ, và với đối tượng doanh nghiệp trên, chi nhánh cũng chỉ tập trung phần lớn vào vay vốn lưu động (vay ngắn hạn).
Thực hiện chỉ đạo của ngân hàng, chi nhánh liên tục giới thiệu tới các doanh nghiệp khách hàng các hình thức vay ưu đãi của ngân hàng như cho vay ưu đãi với doanh nghiệp xây lắp, doanh nghiệp vận tải…
2.1.4.3. Kết quả kinh doanh:
Với các kết quả như trên, tình hình lợi nhuận trước thuế của MB Láng Hạ tăng dần qua các năm và được biểu diễn như sau:
Biểu đổ 2.1: Lợi nhuận trước thuế của MB Láng Hạ
Đơn vị: tỷ đồng
( Nguồn : báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006 -2008 )
Kết quả hoạt động kinh doanh cho thấy tiềm năng của chi nhánh, mặc dù chi nhánh mới thành lập không lâu. Năm thứ hai tốc độ tăng doanh thu là 160%, và đến năm 2008 lên tới 175%. Tốc độ tăng doanh thu cho thấy hiệu quả hoạt động của chi nhánh. Mặc dù tăng cao nhưng tốc độ tăng doanh thu vẫn thấp hơn tốc độ tăng dư nợ cho thấy chi nhánh cần đề ý quản lý chi phí. Chi phí chủ yếu phát sinh ở hoạt động thanh toán quốc tế, đây là hoạt động còn mất nhiều chi phí và chưa mang lại hiệu quả cao cho chi nhánh.
2.2. Thực trạng chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội – Láng Hạ:
Phát triển hoạt động tín dụng của chi nhánh theo đúng đặc điểm địa bàn, nhiệm vụ và định hướng phát triển của ngân hàng phân công, cơ cấu cho vay của chi nhánh Láng Hạ có điểm đặc biệt, đó là 100% doanh nghiệp được nhận tài trợ đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cơ cấu cho vay như vậy giúp ngân hàng tập trung cao vào loại hình cho vay DNVVN, sẽ có điều kiện nâng cao chất lượng cho vay DNVVN hơn. Tuy nhiên, từ đặc điểm của DNVVN là rất đa dạng và phong phú về hoạt động, tổ chức....cũng là khó khăn cho hoạt động cho vay của chi nhánh.
Trước hết, ta nhìn qua các kết quả cho vay đối với DNVVN của MB Láng Hạ.
2.2.1. Cơ cấu cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Tình hình dư nợ cho vay của DNVVN tại MB Láng Hạ qua các năm như sau:
Xét về mặt giá trị tuyệt đối, dư nợ đối với DNVVN của MB Láng Hạ liên tục tăng trong 3 năm thành lập. Điều này nhìn chung thể hiện sự mở rộng cho vay đối với các DNVVN và xu hướng này vẫn đang tiếp tục được phát huy.
Biểu đồ 2.2: Dư nợ cho vay đối với các DNVVN tại MB Láng Hạ Đơn vị: triệu đồng
( Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh MB Láng Hạ 2006-2008)
Năm 2007, dư nợ tăng 160% và đến năm 2008, con số dư nợ đã tăng gấp đôi. Mặc dù năm 2008, nền kinh tế bắt đầu gặp phải những khó khăn do việc tăng lãi suất huy động quá cao của các ngân hàng khiến cho lãi suất cho vay cũng phải tăng theo. Thêm vào đó, nửa năm sau của 2008, các DNVVN đã xuất hiện những dấu hiệu khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, các NHTM cũng gặp khó khăn hơn trong việc mở rộng tín dụng, nhưng chi nhánh Láng Hạ vẫn có con số tăng trưởng đáng chú ý với tốc độ tăng lên tới 204%. Tuy nhiên, tốc độ tăng nhanh về con số của MB Láng Hạ có thể được giải thích bằng việc chi nhánh chỉ mới đi vào hoạt động được hơn 3 năm. Chi nhánh vẫn còn đang trong giai đoạn khai thác thị trường nên khả năng mở rộng còn tốt. Ngoài ra, cũng có thể đánh giá phần nào về khả năng mở rộng cho vay của chi nhánh là tốt, và đã tạo được uy tín với DNVVN trên địa bàn, bước đầu tạo được các khách hàng truyền thống. Để đánh giá cụ thể về chất lượng cho vay đối với các DNVVN hơn nữa, chúng ta còn phải xem xét các chỉ tiêu khác nữa.
Cơ cấu dư nợ đối với DNVVN phân theo kỳ hạn:
Năm đầu khi bước vào thành lập, chi nhánh không có món vay trung hạn nào thì đến năm tiếp theo, vay trung hạn đã tăng lên chiếm 9.42% trong cơ cấu cho vay các DNVVN. Tỷ lệ này tăng lên với tốc độ đáng kinh ngạc, năm 2008 đã tăng 570%, trong khi vay ngắn hạn chỉ tăng với tốc độ 166%. Vay ngắn hạn vẫn chiếm đa số, nhưng tỷ trọng đã giảm dần do sự tăng lên của vay trung hạn. Chi nhanh vẫn không có vay dài hạn.
B._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21308.doc