MỤC LỤC
Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là trong xu thế hội nhập và phát triển toàn cầu, vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) đã được khẳng định rất rõ ràng rộng rãi khắp nơi ở hầu hết các nước trên thế giới bởi những ưu điểm và đóng góp của nó vào sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu nói chung và của mỗi quốc gia nói riêng.
Trên thực tế cho thấy các DNV&N hiện nay gặp rất nhiều khó khăn lớn, trước mặt là vấn đề về vốn để đổi mới công nghệ, nâng cao chất l
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1256 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp Vừa & nhỏ tại Ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh Quang Trung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ượng sản phẩm. Ở Việt Nam, việc giải quyết khó khăn về vốn cho các DNV&N đã và đang là một vấn đề cấp bách mà Đảng và Nhà nước, bản thân các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng phải quan tâm giải quyết.
Do đó việc nghiên cứu thực trạng tín dụng ngân hàng nhằm tìm ra các giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng cho vay đối với DNV&N là một vấn đề đặt ra hết sức cấp thiết.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Quang Trung được thành lập với nhiệm vụ được giao là huy động nguồn vốn và chiềm lĩnh thị phần trên địa bàn hoạt động. Để thực hiện tốt chiến lược này, ngoài việc giữ vững khách hàng lớn truyền thống thì ngân hàng còn phải mở rộng thị trường đối với khách hàng là DNV&N.
Qua quá trình học tập tại trường Đại học Kinh tế Quốc Dân và thực tập tại chi nhánh, do nhận thức được tính câp thiết và thực tiễn của vấn đề nên em đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp Vừa và nhỏ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Quang Trung”.
Ngoài phần mở bài và kết luận, bài viết gồm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM
Chương II: Thực trạng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHĐT&PT chi nhánh Quang Trung.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHĐT&PT chi nhánh Quang Trung.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo - ThS Nguyễn Thị Thuỳ Dương, các thầy cô giáo, cán bộ khoa Ngân hàng _ Tài chính trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân cũng như Ban lãnh đạo, tập thể cán bộ Phòng Tín dụng II NHĐT&PT chi nhánh Quang Trung đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, cung cấp tài liệu và đóng góp ý kiến thiết thực giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này!
Sinh viên
Vũ Thị Thuỳ Linh
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động cho vay đối với DN vừa và nhỏ của NHTM.
Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trước tiên để hiểu về doanh nghiệp vừa và nhỏ chúng ta cần tìm hiểu khái niệm doanh nghiệp như thế nào. Xuất phát từ các mục đích nhu cầu khác nhau, người ta có quan niệm khác nhau về doanh nghiệp. Theo điều 3 - Luật doanh nghiệp năm 2000 “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại doanh nghiệp, khi đề cập đến các DNV&N là đề cập đến cách phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay qui mô của doanh nghiệp. Mỗi quốc gia khác nhau có đặc điểm kinh tế khác nhau và những đặc trưng riêng biệt nên khái niệm về DNV&N không thể đồng nhất. Do vậy họ sử dụng các tiêu chí khác nhau để phân loại thế nào một doanh nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặt khác, ngay trong một quốc gia, tại các thời điểm, môi trường kinh tế khác nhau mà khái niệm về DNV&N cũng có sự khác nhau. Chính vì vậy, khái niệm DNV&N chỉ mang tính chất tương đối, nó thay đổi theo từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nhất định. Một số quốc gia việc phân loại này chỉ dựa trên số lượng nhân viên (ít hơn hay bằng 250 nhân viên). Một số nước khác sử dụng chỉ tiêu mức Doanh thu hàng năm, và một số nước khác sử dụng các tiêu chí khác nhau đối với các ngành khác nhau.
Ví dụ một số khái niệm DNV&N ở một số nước trên thế giới như tại Malaysia doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có ít hơn 75 công nhân viên, không kể những người làm bán thời gian hoặc có vốn cổ phần không quá 1 triệu USD. Tại Nhật Bản:
Các doanh nghiệp vừa
Khu vực
Quy mô lao động/Vốn
Sản xuất, khai thác và chế biến
<300 người/100 triệu Yên
Ngành bán buôn
<100 người/30 triệu Yên
Bán lẻ và dịch vụ
<50 người/10 triệu Yên
Các doanh nghiệp nhỏ
Khu vực
Quy mô lao động/Vốn
Sản xuất
<20 người
Thương mại và dịch vụ
<5 người
Ở Việt Nam theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNV&N đưa ra tiêu chí phân loại DNV&N như sau “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Từ khái niệm này cho thấy, tuyệt đại đa số doanh nghiệp của chúng ta nằm trong “bảng”. Để hiểu rõ hơn về DNV&N cần biết những đặc điểm nổi bật của nó trong phần tiếp sau đây.
Những đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đặc điểm về cơ cấu tổ chức.
Các DNV&N có những đặc thù riêng về cơ cấu tổ chức đó là qui mô doanh nghiệp nhỏ, cơ cấu tổ chức giản đơn, phân tán, khả năng tổ chức liên kết với nhau và với các doanh nghiệp lớn kém. Quan hệ giữa những người lao động trong doanh nghiệp cũng chặt chẽ theo địa phương, họ hàng gia đình…
Thông thường ở các DNV&N số lượng nhân viên ít, các nhân viên đôi khi đảm nhận nhiều công việc cùng một lúc. Phần lớn các nhà kinh doanh trong DNV&N đảm nhận luôn vị trí của nhà quản trị.
Đại đa số các loại hình DNV&N mang tính chất sở hữu tư nhân dưới hình thức công ty TNHH, Doanh nghiệp liên doanh, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vốn nước ngoài…
Đặc điểm về thị trường:
Có được chỗ đứng trong thị trường hay thị phần kinh doanh là điều kiện tối quan trọng để bất cứ một doanh nghiệp nào tồn tại và phát triển. Chiếm thị phần nhỏ nhưng các DNV&N vẫn giữ vai trò quan trọng không thể thiếu trong cơ chế thị trường.
Những đặc thù về cơ cấu tổ chức đã tạo cho những DNV&N có tính nhạy cảm cao đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, linh hoạt ứng phó nhanh với nhu cầu thị trường nhất là những nhu cầu nhỏ lẻ có tính khu vực, địa phương. DNV&N có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh, tăng giảm lao động dễ dàng và thậm chí chuyển địa điểm cũng dễ dàng hơn các doanh nghiệp lớn. Hơn nữa các DNV&N có khả năng chấp nhận rủi ro, mạo hiểm có thể xảy ra nên chủ doanh nghiệp có thể mạnh dạn đầu tư vào các ngành mới, sản phẩm mới và tìm cách chiếm lĩnh thị trường.
Các DNV&N trợ giúp các doanh nghiệp lớn trong sản xuất kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa, phân phối sản phẩm đáp ứng nhu cầu về hàng hoá tiêu dùng và 1 phần cho xuất khẩu
Đặc điểm về nhu cầu tài chính của DNV&N:
Đối với tất cả các doanh nghiệp nói chung và với DNV&N nói riêng vốn là điều kiện tiên quyết để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như để phát triển. Thông thường nguồn vốn này bao gồm vốn tự có, vốn đi vay của bạn bè, người thân và các nguồn vốn vay ngân hàng hay các tổ chức tín dụng khác. Nguồn vốn đáp ứng cho DNV&N gồm vốn tự có, nguồn vốn phi chính thức và nguồn chính thức. Cũng hợp lý khi cho rằng nguồn tài trợ chính cho khu vực này là các ngân hàng thương mại. Không may, vì các lý do sau đây điều này thường không đúng. Về vấn đề tiếp cận các nguồn vốn, vấn đề “đầu tiên” có ý nghĩa quyết định, các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp khó khăn không nhỏ, nhất là các khoản vay trung hạn, dài hạn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Đặc biệt, các khoản vay có bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các DNV&N ; việc đầu tư vào khu vực DNV&N, do nhận thức chưa thông thoáng, cho nên bị hạn chế rất nhiều. Thông thường sự phát triển của khu vực này được thúc đẩy bởi hạn mức tín dụng do các tổ chức nước ngoài cấp.
Một số trường hợp, DNV&N được hỗ trợ bởi các chương trình đặc biệt của chính phủ ví dụ như bảo lãnh tín dụng. Nhu cầu tài chính của DNV&N thường thuộc 2 loại sau:
Chi phí vốn – Nhà xưởng và thiết bị;
Vốn lưu động
Nhu cầu vốn kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn bao gồm cả ngắn hạn và dài hạn. Nhu cầu vốn ngắn hạn xuất hiện mang tính thời vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt đối với các doanh nghiệp chuyên sản xuất hay cung ứng một sản phẩm nhất định trong thời gian thường là cố định trong năm.Các khoản vay ngắn hạn chủ yếu dựa trên những hợp đồng tiêu thụ sẵn, hoặc các hợp đồng cung cấp đã ký. Quy mô khoản vay thường không lớn nhưng các DNV&N thường vay nhiều lần với thời gian ngắn. Vốn dài hạn dùng để tài trợ tài sản cố định và mở rộng sản xuất. Hầu hết các doanh nghiệp đều muốn mở rộng quy mô hoạt động để trở thành các doanh nghiệp lớn hơn.Trong những năm gần đây tổng dư nợ đối với các DNV&N đã tăng lên nhưng vẫn còn ở mức khiêm tốn.
Ưu điểm nổi bật:
Các DNV&N có khả năng đổi mới công nghệ và khả năng chuyển hướng sản xuất nhanh hơn các doanh nghiệp lớn. Họ có thể đầu tư ít vốn nhưng vẫn có khả năng trang bị công nghệ mới và tương đối hiện đại do vậy thường đạt năng suất và chất lượng cao.Các DNV&N không cần diện tích đất quá lớn để sản xuất tập trung và có khả năng sản xuất phân tán. Do vậy đầu tư ban đầu cho cơ sở vật chất của các doanh nghiệp này cũng không quá tốn kém, tận dụng được nguồn lực phân tán, tạo tính linh hoạt cao trong tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý kinh doanh, các quyết định quản lý được thực hiện nhanh, từ đó góp phần vào tiết kiệm chi phí quản lý doanh nghiệp.
Khi gặp những biến động trở ngại trong sản xuất kinh doanh, DNV&N có khả năng chuyển hướng sản xuất nhanh mà các doanh nghiệp lớn không làm được. Mặt khác hiệu quả kinh tế cao, vốn thu hồi nhanh, tạo ra sự hấp dẫn trong đầu tư sản xuất kinh doanh của nhiều cá nhân ở mọi thành phần kinh tế đầu tư vào khu vực này.
DNV&N tạo điều kiện tự do duy trì cạnh tranh, hoạt động với số lượng đông đảo, thường không có tình trạng độc quyền, dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. Các DNV&N có tính tự chủ cao, không ỷ lại vào sự giúp đỡ của Nhà nước và vì mưu lợi các doanh nghiệp sẵn sàng khai thác cơ hội để phát triển mà không ngại rủi ro. Các DNV&N buộc phải duy trì phát triển nếu không sẽ bị phá sản. Chính điều đó làm cho nền kinh tế sôi động và thúc đẩy việc sử dụng tối đa các tiềm năng của đất nước.
Một số hạn chế của DNV&N:
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật trên đây, các DNV&N còn bộc lộ một số những hạn chế nhất định. Thứ nhất là nguồn tài chính bị hạn chế, nhất là nguồn dùng để mở rộng qui mô doanh nghiệp, do vậy để đáp ứng nhu cầu tín dụng của mình các DNV&N vay vốn chủ yếu từ các tổ chức phi chính phủ, lãi suất cho vay cao hơn nhiều so với vay ngân hàng, không thể đáp ứng được nhu cầu tín dụng của mình
Thứ hai công nghệ được sử dụng trong DNV&N hầu hết vẫn còn lạc hậu, cơ sở sản xuất, trang thiết bị kỹ thuật còn yếu kém. Hơn nữa họ lại ít có khả năng huy động vốn để đầu tư đổi mới công nghệ.
Thứ ba hiện nay đa số các DNV&N hoạt động có hiệu quả mong muốn mở rộng sản xuất kinh doanh đều nằm trong tình trạng thiếu đất để làm mặt bằng. Việc xin cấp đất, hoặc thuê đất của DNV&N bị cản trở bởi hồ sơ, thủ tục khá phức tạp. Tất nhiên có một số địa phương tạo điều kiện tương đối thuận lợi, nhưng đó chỉ là số ít. Trước sức ép của thời buổi “tấc đất tấc vàng”, có chủ doanh nghiệp đã phải thốt lên: “Nghĩ đến chuyện xin cấp đất, thuế đất tôi như nhìn thấy trên con đường có những tấm rào không thể vượt qua”. Làm con đường, chỉ cho người ta đích nhưng lại xây rào quá dày, quá cao thì còn nói chuyện gì nữa”.
Thứ tư sức cạnh tranh còn thấp do tiềm lực tài chính nhỏ, thường bị động trong các quan hệ thị trường, khả năng tiếp thị kém. Chính vì vậy, vị thế của các doanh nghiệp này trên thị trường còn thấp.
Thứ năm là khả năng hạn hẹp trong đào tạo nhân lực & cải tiến công nghệ, trình độ quản lý nói chung bị hạn chế, ít được đào tạo cơ bản, ít có khả năng thuê chuyên gia cao cấp.
Thứ sáu là các DNV&N thường gặp nhiều khó khăn trong việc thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài. Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp này còn bộc lộ nhiều yếu kém: trốn lậu thuế, một số doanh nghiệp trốn đăng kí kinh doanh hoặc đăng kí kinh doanh không đúng ngành nghề, làm hàng giả, hàng dởm, hoạt động phân tán khó quản lý.
Thứ bảy là các DNV&N trong một số trường hợp thường bị động vì phụ thuộc vào xu hướng phát triển của các doanh nghiệp lớn và tồn tại như một bộ phận của doanh nghiệp lớn.
Đặc điểm của DNV&N ở Việt Nam:
Do những lợi thế nhờ quy mô đem lại nên trong nền kinh tế doanh nghiệp lớn thường đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, để cho nền kinh tế phát triển một cách cân đối, toàn diện và bền vững, thì cần phải có các DNV&N. Các DNV&N ở Việt Nam ra đời từ rất sớm, được hình thành cùng với nghề thủ công, làng nghề truyền thống ở nông thôn. Ngoài mang những đặc điểm chung trên đây của DNV&N, DNV&N ở Việt Nam còn có một số đặc điểm riêng, và những hạn chế nội tại sau.
Trước tiên, các DNV&N ở nước ta tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau: công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty liên doanh, các doanh nghiệp tư nhân…Các doanh nghiệp này đều có trình độ khoa học công nghệ chủ yếu vẫn ở mức thấp và chậm tiến bộ so với các nước khác trong khu vực. Tình trạng máy móc thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu đã và đang là nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí trong sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu và ô nhiễm môi trường, đặc biệt là trong sản xuất công nghiệp. Ngay như đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt là lĩnh vực có nhiều khả năng đổi mới công nghệ những vẫn còn gần 50% thiết bị dệt đã sử dụng trên 20 năm và hầu như đã hết khấu hao, 80% số máy dệt là máy dệt thoi khổ hẹp nên chất lượng hàng dệt thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn quốc tế, mới đáp ứng được khoảng 30% nguyên liệu cho may xuất khẩu. Đối với ngành may mặc, thiết bị máy móc của ta lạc hậu từ 5 -7 năm, phần mềm điều khiển lạc hậu từ 15 - 20 năm so với các nước Thái Lan, Trung Quốc. Một bộ phận lớn các DNV&N ở Việt Nam nằm ở các làng nghề, vùng truyền thống nên nó có tính độc đáo và sản phẩm dễ phù hợp với thị trường xuất khẩu như nghề mây tre nan, dệt thổ cẩm, thêu ren…
Thứ hai là tỷ lệ lao động được đào tạo còn thấp hầu như chưa qua đào tạo… Do vậy không đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa. Thậm chí còn có hiện tượng khan hiếm lao động dẫn đến tình trạng tranh giành lao động có chất lượng tại các trung tâm công nghiệp. Người lao động chưa được đào tạo và chuẩn bị tốt về tác phong công nghiệp nên thường phải đào tạo lại để đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp... Điều đó làm tăng đáng kể chi phí về sử dụng lao động. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp còn có chưa quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng lao động.
Thứ ba năng lực và hiệu quả quản lý doanh nghiệp nhìn chung còn thấp, không ít doanh nghiệp chưa xây dựng nôi quy, chưa thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quyền dân chủ cổ đông, của người góp vốn… Các doanh nhân, các nhà quản lý doanh nghiệp còn chưa được đào tạo, chỉ có khoảng hơn 30% chủ doanh nghiệp có bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên, nên còn thiếu hiểu biết đầy đủ để quản lý doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Một số doanh nghiệp có vị thế độc quyền chậm cải tiến quản lý, hạ giá thành, minh bạch đối với khách hàng cũng như trong nội bộ doanh nghiệp. Luật phá sản doanh nghiệp không phát huy được tác dụng đào thải các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, làm ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh, làm cho mức độ rủi ro trong kinh doanh cao, tổ chức sản xuất chưa hợp lý (ví dụ như ngành may mới chỉ huy động được khoảng 60% năng lực máy móc thiết bị hiện có).
Thứ tư năng lực thị trường của các doanh nghiệp còn yếu, không có chiến lược sản xuất kinh doanh dài hạn cũng như chưa có kế hoạch chi tiết dài hạn về phát triển thị trường, thiếu hiểu biết đầy đủ pháp luật về thương mại quốc tế và các nước… Nhiều doanh nghiệp chưa xây dựng được chiến lược kinh doanh, chưa tiến hành nghiên cứu thị trường nên không biết rõ về khách hàng và các đối thủ cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Khả năng thiết kế và triển khai tạo mẫu mã sản phẩm còn yếu, sức cạnh tranh của sản phẩm chưa cao, tính rủi ro còn nhiều. Vì vậy, khả năng xuất khẩu trực tiếp còn hạn chế và thường phải xuất khẩu gián tiếp qua nước thứ 3. Do chưa nhận rõ vai trò của thương hiệu nên hầu hết các doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc xây dựng và bảo hộ thương hiệu. Những năm gần đây, số doanh nghiệp đăng ký thương hiệu Việt Nam tuy có tăng nhưng vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với số doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong thực tế.Trong số 100000 nhãn hiệu được bảo hộ ở nước ta thì số doanh nghiệp trong nước đăng ký chỉ chiếm có 20%. Năm 2001 chỉ có 2085 nhãn hiệu trong nước được đăng ký trong khi đến năm 1999 đã có 25000 nhãn hiệu nước ngoài đăng ký ở Việt Nam. Theo kết quả thăm dò, trong số các doanh nghiệp được hỏi có đến 74% các doanh nghiệp đầu tư dưới 5% cho thương hiệu, 20% số doanh nghiệp không hề chi cho việc xây dựng thương hiệu. Tình trạng đó dẫn đến những thua thiệt lớn của một số doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu trên thị trường nước ngoài, chỉ đến khi các thượng hiệu có tên tuổi của ta đứng trước nguy cơ bị mất nhãn hiệu, bị “đăng ký” mất tại một số nước trên thế giới thì các doanh nghiệp Việt Nam mới bừng tỉnh. Ví dụ như các nhãn hiệu: Petro, Trung Nguyên bị lấy mất tên ở Mỹ, Vinataba bị mất tên ở Campuchia…
Số lượng DNVVN chiếm trên 90% trong tổng số DN, song tổng số vốn cho sản xuất, kinh doanh mới chỉ bằng 30% so với tổng vốn của các doanh nghiệp trong cả nước. Điều này một mặt phản ánh khả năng thu hút vốn vào sản xuất, kinh doanh của các DNVVN còn thấp, mặt khác cho thấy các DNVVN chưa được quan tâm đầu tư vốn để mở rộng sản xuất. DNVVN giải quyết nhu cầu vốn chủ yếu dựa vào thị trường tài chính phi chính thức, ít tiếp cận được các nguồn tín dụng chính thức thông qua các tổ chức tín dụng do hạn chế về tài sản đảm bảo và thiếu các điều kiện khác.
Một vấn đề khác nữa cũng hay được nhắc khi nói tới các DNV&N của chúng ta là, thường phải chịu thiệt thòi, phải gánh chịu những thông lệ và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng ở thị trường trong nước; khả năng tiếp xúc thương mại, tiếp cận với thị trường trong nước và quốc tế rất khó khăn; điều kiện tiếp cận với thông tin về văn bản, pháp luật, thị trường, tiến bộ công nghệ... còn tản mạn và hạn chế.
Trên đây là một số những hạn chế của các DNV&N nói chung và DNV&N ở Việt Nam nói riêng. Xác định tầm quan trọng của DNV&N đối với phát triển kinh tế đất nước theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, 5 năm trở lại đây, Chính phủ đã có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao nhất hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình kinh tế này, trong nhiều năm qua, thông qua nhiều cải cách về cơ chế, chính sách, Nhà nước ta đã khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho DNVVN phát triển. Có thể thấy rõ, hệ thống pháp luật, môi trường kinh doanh đang dần được cải thiện và ngày càng có chuyển động tích cực. Các DNV&N ngày càng được hưởng nhiều chính sách ưu đãi và bình đẳng hơn, tình trạng phân biệt, đối xử so với các DNNN giảm nhiều. Đặc biệt, ở một số yếu tố quan trọng, có tính chất sống còn với sự tồn tại và phát triển của các DNV&N như việc tiếp cận với các nguồn vốn, công nghệ, đất đai, lao động, thông tin thị trường đã được mở thông thoáng hơn rất nhiều so với những năm trước đây. Đó là các Luật điều chỉnh như Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Hợp tác xã… và các văn bản dưới luật như Nghị định số 02/2000/NĐ- CP; Nghị định số 90/2001 NĐ-CP ngày 23/11/2001 đã định nghĩa rõ loại hình DNVVN cũng như nêu rõ những giải pháp hỗ trợ cũng như nhiều biện pháp thúc đẩy phát triển DNVVN như: thành lập Hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN, thành lập Uỷ ban xúc tiến DNVVN; thành lập Cục Phát triển DNVVN…Chính phủ cũng đang có những chương trình hỗ trợ phát triển DNVVN với nguồn vốn từ ngân sách như: chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực; Chương trình hỗ trợ kỹ thuật; Chương trình trợ giúp xúc tiến xuất khẩu; Chương trình hỗ trợ thông tin… Bên cạnh đó, các tổ chức quốc tế cũng có nhiều hỗ trợ cho phát triển DNVVN của Việt Nam như: Uỷ ban Châu Âu, Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản, Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB), Công ty Tài chính Quốc tế và nhiều tổ chức phi Chính phủ khác…Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, hành lang pháp lý, môi trường kinh doanh như hiện nay chưa đáp ứng được với xu thế phát triển rất nhanh, rất đa dạng của các DNV&N. Và điều đó đã trở thành thách thức lớn, thậm chí còn là lực cản trong tiến trình phát triển của doanh nghiệp giai đoạn hiện nay và những năm tới, các doanh nghiệp cần chủ đông tìm ra hướng giải quyết cho mình đồng thời phải phối hợp với sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng.
Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế.
Thực tế, các DNV&N không chỉ nhiều hơn về số lượng mà còn cho thấy tính linh hoạt và hiệu quả kinh tế xã hội tổng thể ngày một cao. Các DNV&N đã được thừa nhận là đóng vai trò đặc biệt quan trọng vì nhiều lý do:
Thứ nhất: Về số lượng các DNV&N chiếm ưu thế tuyệt đối. Ở nước ta con số này là 90% tổng số các doanh nghiệp, Nhật Bản và Đức là 99%
Thứ hai: Sự phát triển của các DNV&N góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng GNP của mỗi nước. Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã cho thấy nó là phương tiện có hiệu quả để giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm số lượng lớn trong tổng số doanh nghiệp và đã đóng góp vào thu nhập quốc dân ngày càng cao.
Trước khi ban hành Luật Doanh nghiệp vào năm 2000, số doanh nghiệp (vào năm 1999) trên toàn quốc chỉ là 27.700 doanh nghiệp tư nhân, 4.740 doanh nghiệp Nhà nước và 1.076 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong số doanh nghiệp đăng ký hàng năm chỉ từ 3.000 - 5.000 doanh nghiệp trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên năm 2000 số doanh nghiệp đã đăng ký là 14.442 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký là 13.851 tỷ đồng; con số tương ứng năm 2001 là 19.659 doanh nghiệp và 25.504 tỷ đồng. Năm 2003, tổng số DNVVN toàn quốc là 120.000 trong đó Doanh nghiệp vừa nhỏ ngoài quốc doanh chiếm 96% còn DNVVN thuộc nhà nước chiếm khoảng 3,5%. Sự lớn mạnh của khối doanh nghiệp này rõ ràng đã tạo những cơ hội lớn cho việc mở rộng việc làm.
Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là khu vực nông nghiệp, nông thôn…ở nhiều nước trên thế giới, DNVVN đã có mức đóng góp tới 50% GDP, Việt Nam hiện nay có khoảng 120.000 DNVVN, đóng góp khoảng 27% GDP, 31% sản lượng công nghiệp, tới 67% vào nguồn thu ngân sách từ thuế và tạo việc làm cho 26% tổng số lao động của cả nước.
Việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ rõ ràng đã tạo được cơ hội phát huy nội lực, huy động được tối đa các nguồn tiền nhàn rỗi trong công chúng vào phát triển sản xuất kinh doanh.
Thứ ba: DNV&N có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực và tồn tại như một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế mỗi nước. Nó là một bộ phận hữu cơ gắn bó chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, có tác dụng hỗ trợ, bổ sung, thúc đẩy doanh nghiệp lớn phát triển, bổ sung các nhu cầu của nền kinh tế xã hội.
Thứ tư: Các DNV&N cung cấp cho xã hội một khối lượng hàng hóa đáng kể. Nó đáp ứng tích cực nhu cầu tiêu dùng xã hội ngày càng phong phú, đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đa dạng về ngành nghề, tính nhạy cảm với thị trường cao có nhiều thuận lợi trong việc sản xuất và cung cấp nhiều loại sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu trong nước đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu.
Ngày nay trong thực tế tiêu dùng xã hội, có những mặt hàng mà người tiêu dùng chỉ có nhu cầu ít và cá biệt song chất lượng, chủng loại mẫu mã, kiểu cách không ngừng thay đổi. Trong trường hợp này các doanh nghiệp lớn không thể đáp ứng được, trái lại các DNV&N do có qui mô sản xuất nhỏ, có khả năng điều chỉnh hoạt động, dễ chuyển đổi cơ cấu kinh doanh ngay cả khi gặp khó khăn và năng động trong kinh doanh hơn các doanh nghiệp lớn nên có thể đáp ứng những nhu cầu nói trên của người tiêu dùng một cách nhanh chóng, thuận tiện. Đặc biệt, có những hàng hóa người tiêu dùng có nhu cầu không thể sản xuất ở các doanh nghiệp có qui mô lớn, kỹ thuật hiện đại mà chỉ có thể sản xuất bằng lao động thủ công, phân tán đến từng cơ sở sản xuất nhỏ và hộ gia đình.
Ở Việt Nam, với những lợi thế so sánh về nguyên liệu từ nông - hải sản để sản xuất hàng hoá xuất nhập khẩu, lợi thế về ngành nghề thủ công truyền thống đã tạo ra khả năng vô cùng to lớn cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia sản xuất, gia công chế biến, đại lý khai thác các sản phẩm cho xuất khẩu. Để cung cấp các sản phẩm xuất khẩu này, các doanh nghiệp quy mô lớn do hạn chế về khu vực địa lý và phương pháp tổ chức sản xuất nên chưa thích ứng để chiếm lĩnh thị trường. Các doanh nghiệp lớn muốn phát triển thị trường phải sử dụng các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm vệ tinh thu mua nguyên liệu, chế biến, đóng gói và thực hiện các công đoạn khác. Không những thế, có các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thu hút được công nghệ, tổ chức sản xuất kinh doanh nhiều loại sản phẩm và tham gia xuất khẩu trực tiếp với thị trường nước ngoài. ở nước ta hiện nay, doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp khoảng 70% giá trị kim ngạch xuất khẩu, chủ yếu là các hàng nông thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ, may mặc, giầy da.
Thứ năm: Các DNV&N góp phần thu hút lao động, tạo ra nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Theo số liệu thống kê, Singapo mỗi năm thu hút khoảng 35,2% lao động. ở Malaixia là 48,8%, ở Hàn quốc là 37,2%, ở Nhật Bản là 55,2% và ở Hồng Kông là 59,3%. Hàng năm nước ta có khoảng hơn 1 triệu người đến tuổi lao động, ước tính các DNV&N giải quyết khoảng 26% lao động cả nước. ở Việt Nam có khoảng 7,8 triệu lao động được thu hút vào làm việc ở trong các DNV&N. Đây là một cách phát triển góp phần giải quyết sức ép thất nghiệp đang ngày càng gia tăng do dân số đông ở nước ta.
Với việc giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động, DNV&N đã tạo ra nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên cho dân cư, góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập các bộ phận dân cư, tạo ra sự phát triển tương đối đồng đều giữa các vùng của Đất nước và cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Khả năng sản xuất phân tán nên có thể khai thác, phát huy các nguồn lực tại chỗ của các địa phương, các nguồn tài chính của dân cư trong vùng, đặc biệt là sử dụng lao động tại chỗ vừa tạo việc làm vừa tạo nguồn thu nhập cho dân cư trong vùng góp phần giảm bớt khoảng cách thu nhập và mức sống giữa các vùng trong cả nước.
Thứ sáu: Các DNV&N tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển có hiệu quả hơn. Sự tham gia của rất nhiều các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào sản xuất kinh doanh làm cho số lượng và chủng loại sản phẩm sản xuất tăng lên rất nhanh. Kết quả là làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường, tạo ra sức ép lớn buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới mặt hàng, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường mới. Cùng với việc phát triển các DNV&N là sự xuất hiện ngày càng nhiều của các nhà sáng lập kinh doanh. Đây là lực lượng rất cần thiết để góp phần làm thúc đẩy nền kinh tế ở Việt Nam phát triển.
Thứ bảy: Các DNV&N đóng góp vào thu ngân sách Nhà nước:
Nhờ việc tăng nguồn hàng xuất khẩu cho các quốc gia, các DNV&N đã góp phần tăng thu Ngân sách Nhà nước. Ngày nay, mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các quốc gia trên thế giới phát triển rộng rãi đã làm cho các sản phẩm truyền thống trở thành một nguồn hàng xuất khẩu quan trọng. Việc phát triển các DNV&N đã tạo ra khả năng thúc đẩy khai thác tiềm năng của ngành nghề truyền thống ở các địa phương mỗi nước như các ngành nghề thủ công mỹ nghệ… Bên cạnh đó sự tạo lập, phát triển các DNV&N một cách dễ dàng sẽ làm gia tăng số lượng doanh nghiệp và gia tăng khả năng cung ứng sản phẩm và lao động dịch vụ cho xã hội. Cùng với điều đó sẽ làm tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Mặc dù, đóng góp của mỗi DNV&N không lớn nhưng với số lượng đông đảo, DNV&N cũng đóng góp một phần đáng kể cho ngân sách Nhà nước.
Ở Việt Nam, các DNV&N hàng năm cũng đóng góp một khoản đáng kể cho Ngân sách Nhà nước thông qua các khoản thuế, phí, lệ phí, chiếm khoảng 65 – 70% tổng thu Ngân sách Nhà nước. NHư vậy, các DNV&N đã đóng góp vào thu Ngân sách Nhà nước một lượng đáng kể, đóng vai trò quan trọng trong nề kinh tế.
Cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các phương thức cho vay của NHTM đối với DN vừa và nhỏ.
Cho vay từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn của ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh.
Cho vay theo hạn mức: đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Cho vay thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Để được thấu chi khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng ). Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể kí séc, lập ủy nhiệm chi, mua thẻ… vượt quá số dư tiền gửi để chi trả ( song trong hạn mức thấu chi ). Khi khách hàng có tiền nhập vào tài khoản tiền gửi ngân hàng thu nợ gốc và lãi.
Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và bắt đầu thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để cho vay nữa hay không tùy mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng theo dó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng thỏa thuận. Cho vay trả góp thường đượ._.c áp dụng cho những khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng hóa lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án hoặc thu nhập hàng kì của người tiêu dùng ).
Cho vay gián tiếp: phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó ngân hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, Hội, nhóm như nhóm sản xuất, hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ…Các hội này thường liên kết các thành viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy, việc phát triển kinh tế, làm giàu, xóa đói giảm nghèo luôn được các tổ chức này rất quan tâm.
Vai trò của vốn vay ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đối với doanh nghiệp, vốn kinh doanh chủ yếu dựa vào vay vốn các tổ chức tín dụng và vốn cổ phần. Tuy nhiên, để phát hành cổ phiếu, trái phiếu đòi hỏi doanh nghiệp phải có qui mô lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả và có uy tín trên thị trường, hơn nữa thị trường vốn của chúng ta hiện chưa hoàn chỉnh, hệ thống tổ chức tài chính trung gian chưa đủ mạnh... Do đó, có thể nói tín dụng là một “kênh” chủ yếu để cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là DNV&N. Đây là một lợi thế để các ngân hàng đẩy mạnh cho vay DNV&N thể hiện vai trò:
Trung gian thu hút vốn và tài trợ vốn của ngân hàng thương mại.: Vai trò của các ngân hàng trong việc cung cấp vốn cho các doanh nghiệp này hiện nay và tương lai là hết sức quan trọng. Ngân hàng thương mại có đầy đủ khả năng thực hiện tốt nhiệm vụ, vai trò của mình bởi những lý do sau đây:
Một là, các ngân hàng có khả năng huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế và trong mọi tầng lớp dân cư để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế cũng như cho các DNV&N. Việc thực hiện việc đa dạng hóa các hình thức huy động vốn thích hợp, khuyến khích người dân gửi tiền và ngân hàng làm cho nguồn vốn của kinh doanh của ngân hàng thương mại tăng trưởng nhanh qua các năm. Việc vốn ngân hàng tăng liên tục trong các năm, song khả năng hấp thụ vốn ngân hàng của các doanh nghiệp còn rất hạn chế, các DNV&N lại càng gặp khó khăn hơn trong việc tiếp cận đồng vốn của ngân hàng do bị ràng buộc bởi những thể chế tín dụng, cũng như môi trường pháp lý chưa đồng bộ nên dẫn đến tình trạng ngân hàng thì ứ đọng vốn không cho vay được trong khi các doanh nghiệp thì thiếu vốn trầm trọng.
Thứ hai, ngân hàng thương mại Việt Nam có một hệ thống chi nhánh rộng khắp đã tạo ra nhiều kênh cung cấp vốn tín dụng lan tỏa trực tiếp đến các DNV&N trong cả nước.
Thứ ba, với mục tiêu đa dạng hóa các hình thức cho vay, sử dụng vốn linh hoạt NHTM đủ khả năng cung cấp vốn cho các DNV&N.
Đứng về phía các doanh nghiệp khi nhận được đồng vốn tài trợ của ngân hàng với nghĩa vụ phải hoàn trả lại gốc là lãi lại cho ngân hàng, thì họ phải có trách nhiệm sử dụng đồng vốn này một cách hiệu quả để có tích lũy cũng như để có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Chính điều này yêu cầu các doanh nghiệp phải thường xuyên đầu tư vào nâng cao công nghệ, dây truyền sản xuất, cải tiến và nâng cao chất lượng cũng như thường xuyên phải đa dạng hóa các mẫu mã, nâng cao năng suất, giảm giá thành.... Bằng cách phải nỗ lực học hỏi, phải tiếp nhận tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ. Nhưng để làm được điều này thì các doanh nghiệp phải có vốn, và ngân hàng lại là tổ chức cung cấp tín dụng tốt nhất, nó sẽ góp phần cung cấp một phần số vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp để có thể kinh doanh và đứng vững trên thị trường.
Như vậy, ngân hàng với vai trò trung gian của mình sẽ thực sự là người bạn của các doanh nghiệp, chủ thể kinh tế nói chung, đặc biệt đối với các DNV&N nói riêng, giúp đỡ các DNV&N mở rộng qui mô, cải tiến kỹ thuật, huy động các nguồn nhân lực, vật lực vào quá trình sản xuất kinh doanh với năng suất và chất lượng hơn trước.
Tín dụng ngân hàng góp phần phát huy các ngành nghề truyền thống, là công cụ tài trợ cho các ngành nghề kinh tế kém phát triển, và mũi nhọn:
Ngày nay, Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì cần phải tổng hợp sự nỗ lực của toàn dân trong mọi lĩnh vực đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Điều đó đòi hỏi tất cả các khu vực kinh tế đều phải cố gắng hết mình, phải tạo ra được sự phát triển bền vững, trong đó phải để đến sự phát triển của các DNV&N vì như ta biết trong tổng số các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay các doanh nghiệp này chiếm đến trên 90%. Tuy nhiên các doanh nghiệp này sản xuất vẫn còn ở tình trạng thấp kém, chưa phát triển hết tiềm năng của nó, điều này do rất nhiều nguyên nhân và một trong những nguyên nhân và thiếu vốn. Chính vì thế, tín dụng ngân hàng sẽ là một hình thức hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, kĩ thuật đưa công nghệ tiên tiến vào sản xuất sẽ góp phần khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao chất lượng mẫu mã các sản phẩm đặc biệt những sản phẩm truyền thống của những làng nghề truyền thống: làm đồ kỹ nghệ, làm giấy, làm nón, làm đồ gỗ.... đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, đem lại thu nhập, tạo đà cho sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.
Tín dụng ngân hàng có vai trò hỗ trợ ban đầu để hình thành các DNV&N:
Ngân hàng không những hỗ trợ cho DNV&N trong quá trình hoạt động và phát triển mà còn hỗ trợ họ ngay từ khi mới hình thành và đi vào hoạt động ban đầu, nếu như không có sự hỗ trợ của ngân hàng thì các DNV&N gặp nhiều khó khăn thậm chí không thành lập được. Nhận biết điều này rất rõ đối với loại hình là công ty cổ phần, một số cổ đông đã đi vay vốn của ngân hàng để góp vốn cổ phần hình thành nên vốn điều lệ....
Hoạt động cho vay của ngân hàng thúc đẩy các DNV&N hoạt động có hiệu quả hơn, nâng cao khả năng cạnh tranh:
Như chúng ta biết hoạt động cho vay phải được dựa theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi do đó sẽ kích thích các doanh nghiệp sử dụng đồng vốn có hiệu quả hơn. Các DNV&N khi quyết định vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh thì họ đều phải tuân thủ theo nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi theo đúng hợp đồng đã thỏa thuận. Do vậy, họ phải cân nhắc tính toán kỹ lưỡng việc bỏ những đồng vốn của mình làm sao có hiệu quả nhất: một mặt vẫn phải trả được nợ, đồng thời cũng phải tạo ra được đồng lãi để đảm bảo tiếp quá trình hoạt động và có tích lũy để mở rộng. Đó chính là các doanh nghiệp đang tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Nhờ vậy ngân hàng đã góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế của các DNV&N để đảm bảo sản xuất có hiệu quả. Thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển.
Tín dụng ngân hàng góp phần ổn định chính trị giải quyết công ăn việc làm
Tạo ra công ăn, việc làm đó là một trong những thế mạnh của các DNV&N. Các DNV&N hiện đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động- nhất là ở nông thôn tăng thêm mỗi năm, đồng thời còn tiếp nhận số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước dôi ra qua việc cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê, phá sản doanh nghiệp hiện đang được triển khai.
Các chỉ tiêu đo lường chất lượng cho vay đối với DN vừa và nhỏ.
Chất lượng của khoản vay được đo lường theo các chỉ tiêu về khả năng thu hồi vốn, khả năng sinh lãi cho ngân hàng. Một khoản vay chất lượng và hiệu quả khi khoản tín dụng đó đem lại lợi nhuận cho cả ngân hàng và khách hàng. Tức là ngân hàng có thể thu được cả nợ gốc và lãi theo đúng như hợp đồng tín dụng, còn các doanh nghiệp sử dụng vốn vay theo đúng mục đích đã định và đem lại lợi nhuận cho mình.
Xét về khả năng sinh lãi cho ngân hàng: chúng ta xem xét các chỉ tiêu sau
Doanh số cho vay: tỷ trọng doanh số cho vay DNV&N trong tổng doanh số cho vay của ngân hàng. Doanh số cho vay lớn thể hiện số lượng cũng như quy mô khoản vay đối với DNV&N là lớn.
Vòng quay vốn: là một chỉ tiêu đánh giá tần suất sử dụng vốn của ngân hàng trong một thời kỳ.
Vòng quay vốn tín dụng = Doanh số thu nợ/Dư nợ bình quân
Nếu vòng quay vốn càng lớn thì ngân hàng sẽ có một số nhân tiền lớn, do vậy lãi thu được từ vốn vay cao hơn tức là đồng vốn sử dụng hiệu quả hơn và ngược lại.
Sử dụng chỉ tiêu này còn có tác dụng dự báo xem lĩnh vực đầu tư này có hiệu quả không để xác định định hướng cho kỳ tới.
Xét về khả năng thu hồi vốn, và tổn thất:
Hệ số nợ quá hạn = (Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ)*100%
Chỉ tiêu này dùng để phản ánh tình hình nợ khó đòi, nợ quá hạn, để có những biện pháp xử lý. Nếu tỷ lệ này quá cao thì sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình hoạt động của ngân hàng
Tỷ lệ vốn có khả năng tổn thất = (Nợ quá hạn khó đòi/Tổng dư nợ)*100%
Tỷ lệ này phản ánh, đánh giá tỷ lệ vốn có nguy có bị mất.
Ngoài ra còn được thể hiện qua những chỉ tiêu: khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng, mức độ an toàn tín dụng,...
Doanh số cho vay cao, hệ số nợ quá hạn, tỷ lệ vốn có khả năng tổn thất thấp chứng tỏ chất lượng cho vay đối với DNV&N cao và ngược lại
Về mặt xã hội, người ta có thể đánh giá hiệu quả của công tác cho vay thông qua các chỉ tiêu sau: (Thông qua đơn vị tiếp nhận đồng vốn của ngân hàng tác động đến nền kinh tế)
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Sự gia tăng số hộ giàu, giảm số hộ nghèo
- Góp phần giải quyết công ăn việc làm
- Nâng cao mức thu nhập cho người dân.
- Sự đóng góp chung vào quá trình tăng trưởng phát triển kinh tế của đất nước. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
- Giảm bớt sự chênh lệnh giữa nông thôn và thành thị....
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các nhân tố chủ quan.
* Từ phía ngân hàng
+ Chính sách tín dụng: chính sách tín dụng bao gồm các quy định của ngân hàng như giới hạn mức cho vay với khách hàng, kỳ hạn của khoản tín dụng, lãi suất cho vay và mức lệ phí, các hình thức cho vay được thực hiện, sự bảo đảm và khả năng thanh toán nợ, hướng giải quyết các khoản nợ có vấn đề. Chính sách tín dụng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay, nó giúp cho cán bộ tín dụng thực hiện cho vay đúng với yêu cầu của ngân hàng. Toàn bộ hoạt động cho vay như thế nào đều do chính sách đề ra, vì vậy nên chính sách tín dụng cần được xây dựng hợp lý, đúng đắn mang tính linh hoạt cao. Với mức lãi suất đa dạng phù hợp với phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẻ làm tăng hiệu quả vốn vay.
+ Quy trình cho vay: quy trình cho vay là quy định các bước cần thiết phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ, bảo đảm an toàn vốn tín dụng được bắt dầu từ khi phân tích nhu cầu vốn cho đến khi thu nợ vay cả vốn và lãi. Một quy trình cho vay không rõ ràng sẽ làm khó khăn cho án bộ tín dụng cũng như đối với khách hàng vay, làm mất nhiều thời gian và chi phí. Vì vậy nếu một quy trình rõ ràng thì tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn nhanh chóng, kịp thời sẻ làm tăng hiệu quả vốn vay.
+ Chất lượng nhân sự: chất lượng nhân sự thể hiện ở trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, kiến thức tổng hợp, trách nhiệm với công việc và đạo đức của cán bộ tín dụng. Khách hàng đánh giá ngân hàng qua cán bộ tín dụng, cán bộ tín dụng là hình ảnh của ngân hàng. Vì vậy cán bộ tín dụng phải tạo niềm tin và sự hài lòng là một yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng đến với ngân hàng
* Các nhân tố từ phía doanh nghiệp
Đây là nhân tố tác động quan trọng tới hiệu quả vốn vay của các ngân hàng. Chất lượng vốn vay không chỉ phụ thuộc vào ngân hàng mà còn phụ thuộc vào người sử dụng vốn vay.
+ Phương án sản xuất kinh doanh của dự án vay vốn
Một dự án mà phương án sản xuất kinh doanh không khả thi, khả năng tạo lợi nhuận thấp thì món vay đó không hiệu quả, rủi ro xảy ra đối với doanh nghiệp làm tổn thất vốn của ngân hàng. Ngược lại, một phương án kinh doanh tốt sẽ đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và doanh nghiệp cũng sẻ hoàn thành nghĩa vụ đối với ngân hàng.
+ Công tác kế toán của DNV&N: một trong những điều kiện đẻ ngân hàng xét duyệt cho vay là tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các báo cáo tài chính là tài liệu để ngân hàng xem xét tình hình của doanh nghiệp và theo dõi quá trình sử dụng vốn vay. Nếu các báo cáo lập không chính xác sẻ gây khó khăn cho ngân hàng khi thẩm định hồ sơ vay vốn.
+ Trình độ quản lý của DNV&N: trình độ quản lý doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sử dụng vốn vay. Trình độ quản lý tốt sẻ cho kết quả kinh doanh tốt. Hiện nay các DNV&N ở nước ta có trình độ quản lý còn kém, công tác quản lý sơ hở cho nên làm ăn không hiệu quả, gây thất thoát vốn, mất khả năng thanh toán dẩn đến phá sản. Đôi khi tổn thất của ngân hàng là do đạo dức của người kinh doanh. Người vay vốn ngân hàng làm những việc trái với những thoả thuận trong hợp đồng cho vay gây khó khăn cho ngân hàng.
Nguyên nhân khách quan
- Môi tường pháp lý:
Trong những năm gần đây, Nhà nước có những chính sách hổ trợ và phát triển kinh tế ngoài quốc doanh nên ngân hàng có thêm thị phần để mở rộng cho vay. Nhưng thực tế, chưa có nhiều chủ trương chính sách ưu đãi đối với DNV&N. Các điều kiện cho vay là hàng rào ngăn cản các DNV&N tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng.
Hiện nay, môi trường pháp lý cho ngành ngân hàng còn nhiều vấn đề tranh cãi như là giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất và sử lý tài sản thế chấp tại ngân hàng. Những nguyên nhân này đã gây khó khăn khi xử lý tài sản thế chấp và giải toả các khoản nợ khó đòi.
- Môi trường kinh doanh
Hiện nay, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng, khó dự đoán, thiếu tính ổn định, gây tâm lí lo lắng cho các nhà đầu tư.
Môi trường kinh tế này có tác dộng rất lớn tới các chính sách của Ngân hàng cũng như việc ra quyết định vay vốn đầu tư cảu các doanh nghiệp. Nó tác động tới tác động tới hiệu quả cho vay của ngân hàng thông qua các biến số kinh tế như tỷ giá, lạm phát tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất… Các chỉ tiêu này tác động đến khả năng cho vay, đồng thời tác động trực tiếp lên chi phí của ngân hàng.
Vì thế để đánh giá một yếu tố thuộc môi trường vĩ mô tác động như thế nào tới hiệu quả cho vay của mình thì các ngân hàng phải phân loại được các khách hàng chủ yếu mà mình phục vụ, từ đó có chiến lược phù hợp.
Bên cạnh đó, những biến động về kinh tế, chính trị trong khu vực và thế giới cũng gây ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp và ngân hàng vì nó ảnh hưởng toàn nền kinh tế khi có sự tác động đến cán cân thương mại, hối đoái, biến động trên thị trường....
Trước những nhân tố có thể xảy ra bất cứ lúc nào, buộc các ngân hàng, cũng như những doanh nghiệp phải theo dõi thường xuyên những biến động để có những giải pháp hữu hiệu nhất góp phần nâng cao hoạt động của mình.
Chương 2: Thực trạng cho vay DN vừa và nhỏ tại NHĐT&PT chi nhánh Quang Trung.
Khái quát về hoạt động của NHĐT&PT chi nhánh QT
Lịch sử hình thành và phát triển của NHĐT&PT chi nhánh QT
Ngân hàng đầu tư & phát triển ( NHĐT&PT) Việt Nam (BIDV) được thành lập vào ngày 26/04/1957, là một doanh nghiệp nhà nước đặc biệt, với chức năng chủ yếu ban đầu là cấp phát theo công trình và dự án nhà nước. Trải qua gần 50 năm, giờ đây BIDV đã phát triển thành một trong những ngân hàng thương mại lớn nhất ở Việt Nam hoạt động kinh doanh đa năng trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng, phục vụ các khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, phục vụ cho đầu tư phát triển từ các nguồn vốn của Chính Phủ, các tổ chức kinh tế tài chính – tín dụng trong và ngoài nước. Ngân hàng đã trải qua 3 giai đoạn phát triển chính với các tên gọi khác nhau phù hợp với từng thời kỳ cũng như mục tiêu hoạt động tương ứng:
Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam từ ngày 26/01/1957.
Ngân hàng Đầu tư và xây dựng Việt Nam từ ngày 26/04/1981
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam từ ngày 14/01/1990
Ngày 01/04/2005 Ngân hàng đầu tư và phát triển Quang Trung chính thức công bố khai trương Chi nhánh cấp I thứ 76 thuộc khối Ngân hàng của BIDV tại dịa diểm 53 Quang Trung- Hà Nội. Sự ra đời hoạt động của chi nhánh Ngân hàng Quang Trung là một bước cụ thể hoá của chiến lược phát triển đến 2010, kế hoạch kinh doanh 2005-2007 của BIDV nhằm thực hiện chuyển dịch cơ cấu khách hàng, cơ cấu sản phẩm dịch vụ Ngân hàng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Chi nhánh ngân hàng đầu tư & phát triển Quang Trung hoạt động theo mô hình Ngân hàng bán lẻ, cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng đa năng trên nền công nghiệp hiện đại để thoả mãn nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng tiện ích cao cho khách hàng. Nhiệm vụ của ngân hàng đầu tư & phát triển Quang Trung là cung ứng vốn, dịch vụ cho khu vực dân doanh, cụ thể là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong tương lai Ngân hàng đầu tư và phát triển Quang Trung sẽ tiến tới trở thành một trong những chi nhánh đầu tiên đưa các sản phẩm dịch vụ mới của BIDV đến với khách hàng.
Cơ cấu tổ chức của NHĐT&PT chi nhánh Quang Trung.
Mô hình NHĐT&PT Quang Trung bao gồm ban giám đốc và 13 phòng ban, tổ khác, với số nhân viên 153 cán bộ được thể hiện qua sơ đồ sau:
Ban giám đốc:
- Giám đốc: chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng, chịu trách nhiệm trước NHĐT&PT Việt Nam về hoạt động chung của ngân hàng và quản lý hoạt động của các phòng ban.
- Phó giám đốc: giúp giám đốc chỉ huy điều hành các chức năng quản trị theo sự phân công và uỷ quyền của giám đốc, đồng thời chịu trách nhiệm trước giám đốc về nhiệm vụ được giao.Cụ thể:
+ Phó giám đốc thứ nhất chịu trách nhiệm quản lý hoạt động tín dụng.
+ Phó giám đốc thứ hai chịu trách nhiệm quản lý về hoạt động thanh toán quốc tế, hoạt động tài chính, kế toán.
Phòng tín dụng:
- Trực tiếp thực hiện nghiệp vụ tín dụng theo phạm vi được phân công theo đúng pháp quy và quy trình tín dụng (tiếp thị, tìm kiếm khách hàng, dự án, giới thiệu sản phẩm, phẩm tích thông tin, nhận hồ sơ, xem xét quyết định cho vay…) đối với mỗi khách hàng.
- Đầu mối tham mưu dề xuất với giám đốc chi nhánh, xây dựng văn bản hướng dẫn chính sách, phát triển khách hàng...
- Chịu trách nhiệm Marketing tín dụng, bao gồm thiết lập mở rộng, phát triển hệ thống khách hàng, tư vấn cho khách hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ và các vấn đề có liên quan.
- Quản lý hồ sơ tín dụng theo quy định. phối hợp với các phòng khác theo quy trình tín dụng.
Phòng thẩm định:
- Trực tiếp thực hiện công tác thẩm định, tái thẩm định theo quy định của nhà nước và các quy trình nghiệp vụ liên quan (quy trình thẩm định, cho vay và quản lý tín dụng, bảo lãnh…) đối với các dự án, khoản vay, bảo lãnh, đánh giá tài sản bảo đảm công nợ (tính pháp lý, giá trị, tính khả mại…
- Đầu mối tham mưu, đề xuất với Giám đốc chi nhánh xây dựng những văn bản hướng dẫn công tác thẩm định.
- Chịu trách nhiệm quản lý thông tin về kinh tế kĩ thuật, thị trường phục vụ công tác thẩm định đầu tư.
- Tham gia ý kiến về chính sách tín dụng của chi nhánh.
Phòng quản lý tín dụng:
- Trực tiếp thực hiện yêu cầu nghiệp vụ về quản lý tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng của chi nhánh: xác định hạn mức tín dụng, giới hạn tín dụng, xếp loại khách hàng, có ý kiến độc lập về khoản vay, giám sát thực hiện hạn mức và việc chấp hành chính sách, quy chế, quy trình của phòng tín dụng và các phòng liên quan, quản lý danh mục đầu tư của chi nhánh, giám sát đánh giá chất lượng tín dụng, quản lý các khoản nợ xấu.
- Đầu mối tham mưu Giám đốc chi nhánh xây dựng chính sách tín dụng, các văn bản hướng dẫn công tác tín dụng.
- Chịu trách nhiệm về việc thiết lập vận hành hệ thống quản lý rủi ro, an toàn pháp lý trong hoạt động tín dụng.
- Thư ký Hội đồng tín dụng, Hội đồng xử lý nợ.
Phòng dịch vụ khách hàng:
- Trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giao dịch với khách hàng (tiếp xúc, tiếp nhận yêu cầu sử dụng dịch vụ Ngân hàng, hướng dẫn tủ tục giao dịch, mở tài khoản, gửi tiền rút tiền, thanh toán, chuyển tiền..)
- Trực tiếp thực hiện, xử lý, tác nghiệp và hạch toán kế toán giao dịch với khách hàng.
- Đề xuất, tham mưu với giám đốc chi nhánh về chính sách phát triển dịch vụ mới, cải tiến quy trình giao dịch.
- Thực hiện cho vay cầm cố chứng từ có giá do phòng hoặc do Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam phát hành.
Phòng thanh toán quốc tế:
- Thực hiện các giao dịch với khách hàng đúng quy trình tài trợ thương mại và hạch toán kế toán các nghiệp vụ liên quan mà phòng thực hiện trên cơ sở hạn mức cho vay, bảo lãnh đã được phê duyệt, thực hiện nghiệp vụ phát hành bảo lãnh đối ứng theo đề nghị của ngân hàng nước ngoài, thực hiện nghiệp vụ chuyển tiền quốc tế nếu được giao.
- Chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc phát triển và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh doanh đối ngoại của chi nhánh, chịu trách nhiệm về tính đúng đắn, chính xác, đảm bảo an toàn tiền vốn tài sản của ngân hàng, khách hàng trong các giao dịch kinh doanh đối ngoại.
- Tiếp thị, tiếp cận phát triển khách hàng, giới thiệu sản phẩm, thực hiện quản lý thông tin, tham gia ý kiến, phối hợp với các phòng.
Phòng tiền tệ - kho quỹ:
- Trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ về quản lý kho tiền và quỹ nghiệp vụ (tiền mặt, hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, chứng từ có giá, vàng, bạc, đá quý, tài sản do khách hàng gửi giữ hộ…)
- Trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ về quỹ (thu chi, xuất nhập) phát triển các giao dịch ngân quỹ, phối hợp chặt chẽ với phòng Dịch vụ khách hàng thực hiện nghiệp vụ thu chi tiền mặt tại quầy, phục vụ thuận tiện, an toàn cho khách hàng giao dịch một cửa.
Phòng kế hoạch – nguồn vốn:
- Trực tiếp quản lý cân đối nguồn vốn đảm bảo các cơ cấu lớn (kỳ hạn, loại tiền tệ, loại tiền gửi…) và quản lý các hệ số an toàn
Phòng Tài chính - Kế toán:
- Giám sát sự tuân thủ các quy định giúp cho Giám đốc thực hiện công tác quản lý tài chính, tổ chức hạch toán kế toán và thực hiện nhiệm vụ chi tiêu nội bộ tại chi nhánh theo quy định của nhà nước và của NHĐT&PT Việt Nam.
- Thực hiên công tác hậu kiểm đối với toàn bộ hoạt động tài chính kế toán của chi nhánh bao gồm cả chi nhánh cấp 2, phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm theo quy trình luân chuyển và kiểm soát chứng từ, kiểm soát, lưu trữ, bảo quản, bảo mật các loại chứng từ, sổ sách
Phòng điện toán:
- Trực tiếp quản lý mạng, quản trị hệ thống phân quyền truy cập, kiểm soát tại chi nhánh, tổ chức vận hành hệ thống thiết bị tin học.
Phòng tổ chức cán bộ:
- Trực tiếp thực hiện chế độ tiền lương, chế độ bảo hiểm, quản lý lao động, theo dõi thực hiện nội quy lao động, thoả ước lao động tập thể.
Phòng hành chính - quản trị:
- Trực tiếp thực hiện công tác quản lý hành chính văn phòng theo đúng quy định.
Phòng kiểm tra nội bộ:
- Xây dựng trình giám đốc chi nhánh duyệt chương trình, kế hoạch giải pháp kiểm tra nội bộ phù hợp với chương trình kế hoạch chung của hệ thống kiểm tra nội bộ của NHĐT&PT Việt Nam.
Tổ quản lý giải ngân:
- Căn cứ tờ trình đề xuất cấp tín dụng của các Phòng tín dụng đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, dự thảo các hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay theo đúng quy định
- Thực hiện chức năng quản lý giải ngân đối với các hợp đồng tín dụng đã được cấp có thẩm quyền ký duyệt.
Tình hình hoạt động kinh doanh của NHĐT&PT chi nhánh QT
Tình hình hoạt động kinh doanh của NHĐT&PT chi nhánh QT năm 2005
Chi nhánh Quang Trung được thành lập trên cơ sở tách Phòng giao dịch Quang Trung - Sở Giao Dịch đi vào hoạt động từ 1/4/2005, trong năm 2005 Chi nhánh đã đạt một số kết quả sau:
Bảng 1: Bảng tổng hợp kết quả kinh doanh năm 2005
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Đến 31/12/2005
% so với kế hoạch
Chênh lệch so với 31/03/2005
I- Chỉ tiêu tăng trưởng
1- Tổng tài sản
2.136
103%
1.100
2- Tổng huy động cuối kỳ
1.922
106%
1.054
3- Dư nợ tín dụng
320
97%
319
II- Các chỉ tiêu hiệu quả
1- Chênh lệch thu chi (chưa trích DPRR)
12
115%
12
2 - Trích DPRR
3
110%
3
3 - NQH (không kể nợ khoanh, nợ chờ xử lý).
0,1
4 – ROA
0,5
5- Thu dịch vụ ròng
2
100%
2
(Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện công tác năm 2005 và KH năm 2006)
Tình hình hoạt động kinh doanh của NHĐT&PT chi nhánh QT năm 2006
Bảng 2: Bảng tổng hợp kết quả kinh doanh năm 2006
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
KHKD 2006
Ước TH đến 31/12/2006
I- Chỉ tiêu tăng trưởng
1- Tổng tài sản
2.938
3.105
2- Tổng huy động cuối kỳ
2.875
2.910
3- Dư nợ tín dụng
800
800
II- Các chỉ tiêu hiệu quả
1- Chênh lệch thu chi (chưa trích DPRR)
25.5
30
2 - Trích DPRR
3.5
7
3- NQH (không kể nợ khoanh, nợ chờ xử lý).
2.0
0
4- Thu dịch vụ ròng
3.5
4.5
(Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện công tác năm 2006 và KH năm 2007).
Cụ thể các kết quả đạt được trong từng công tác như sau:
Công tác nguồn vốn - huy động vốn:
Công tác huy động vốn:
Trong năm 2005: thực hiện tốt công tác bàn giao nguồn vốn và khách hàng
chuyển sổ từ Sở giao dịch. Tính đến 31/12/2005 nguồn vốn huy động đạt
1922 tỷ đồng tăng 1054 tỷ so với 31/03/2005 trong đó VND đạt 980 tỷ
chiếm 51%; nguồn huy động có thời hạn trên 1 năm là 1430 tỷ đồng, tăng so
với 31/3/2005 là 652 tỷ; huy động dân cư tăng 726 tỷ đạt 1634 tỷ chiếm85%.
Trong năm 2006: tính đến 31/12/2006 nguồn vốn huy động đạt 2.910 tỷ đồng tăng 988 tỷ so với 31/12/2005 trong đó VND đạt 1.979 tỷ chiếm 68%; nguồn huy động có thời hạn trên 1 năm là 2.095 tỷ đồng, chiếm 72%.
Nhìn chung trong năm 2006 Chi nhánh đã giữ vững và tăng trưởng tốt
nguồn vốn, mặc dù trong năm Chi nhánh đã thanh toán khoảng 150 tỷ trái
phiếu BIDV 5 năm và 250 tỷ tiền gửi chứng chỉ của tổ chức nhưng nguồn
vốn huy động của Chi nhánh vẫn đạt được những kết quả đáng khích lệ,
nguồn vốn của Chi nhánh tăng thực 1.388 tỷ đồng
Về cơ cấu nguồn vốn:
Bảng 3: Bảng cơ cấu nguồn vốn
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Tổng nguồn huy động/ Tổng tài sản
89%
93.71%
Huy động ngoại tệ/ Tổng huy động
49%
32%
Huy động ngắn hạn/Tổng huy động
26%
28%
Huy động trung dài hạn/ Tổng huy động
74%
72%
Huy động VND/ Tổng huy động
51%
68%
(Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện công tác năm 2005, 2006 năm 2006,2007)
Công tác điều hành nguồn vốn:
Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, tính toán và đầu tư tiền gửi tại TW để sinh lời. Ước đến 31/12/05, tổng số dư tiền gửi (quy đổi) của Chi Nhánh tại TW là 1.538 tỷ đồng.
Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, tính toán và đầu tư tiền gửi tại TW để sinh lời. Ước đến 31/12/06, tổng số dư tiền gửi (quy đổi) của Chi Nhánh tại TW là 2.112 tỷ đồng.
Công tác tín dụng:
Năm 2005 Chi nhánh chủ yếu tập trung vào việc ổn định tổ chức, xây dựng các quy trình và đạo tạo cán bộ để tạo bàn đạp cho kế hoạch tăng trưởng năm 2006. Về cơ bản, trong năm 2006 Chi nhánh đã thực hiện được các công việc được giao theo kế hoạch.
Số liệu chung:
Tổng dư nợ đến 31/12/2005 đạt 320 tỷ VND, tăng 313 tỷ đồng so với 31/03/2005, đạt 97% kế hoạch năm. Trong đó:
+ Tín dụng ngắn hạn đạt 65 tỷ đồng (cho vay CCGTCG 10,89 tỷ đồng);
+ Tín dụng trung dài hạn thương mại đạt 255 tỷ đồng.
Tổng dư nợ đến 31/12/2006 đạt 800 tỷ VND, tăng 530 tỷ đồng so với 31/12/2005, đạt 100% giới hạn tín dụng được giao. Trong đó:
+ Tín dụng ngắn hạn đạt 416 tỷ đồng (cho vay CCGTCG 20 tỷ đồng);
+ Tín dụng trung dài hạn thương mại đạt 384 tỷ đồng
Cơ cấu tín dụng như sau:
Bảng 4: Bảng cơ cấu tín dụng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Tổng dư nợ / Tổng tài sản
14%
25.76%
Dư nợ ngắn hạn / Tổng dư nợ
20%
52%
Dư nợ trung DH TM/ Tổng dư nợ
80%
48%
Dư nợ VND/ Tổng dư nợ
28%
45%
Dư nợ ngoại tệ / Tổng dư nợ
72%
55%
(Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện công tác năm 2005, 2006 năm 2006,2007)
Công tác thẩm định và quản lý tín dụng:
Thực hiện thẩm định các tài sản đảm bảo phát sinh, tái thẩm định các tài sản đảm bảo của khách hàng cũ. Thực hiện tái thẩm định tờ trình cấp hạn mức tín dụng của Phòng tín dụng và tham gia ý kiến về các khoản vay của Phòng tín dụng.
Dịch vụ:
Thu dịch vụ ròng ước đến hết tháng 12/2005 đạt 2 tỷ VND (đạt 100% kế hoạch được giao năm 2005). Thu dịch vụ ròng ước đến hết tháng 31/12/2006 đạt 4,5 tỷ VND. Trong đó:
Bảng 5: Bảng tình hình thực hiện công tác dịch vụ.
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Lợi nhuận KDNT
875
1.623
Thanh toán
820
2.286
Phí ATM
69
75
Phí bảo lãnh
145
206
Thu ngân quỹ
81
275
Thu khác
10
35
Tổng cộng
2000
4.500
(Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện công tác năm 2005, 2006 năm 2006,2007)
Thanh toán quốc tế:
Năm 2005 doanh số hoạt động ước đạt 5,2 triệu USD, thu dịch vụ thanh toán quốc tế đạt 570 triệu đồng. Năm 2006, phí dịch vụ TTQT không bao gồm phí chuyển tiền ước đạt 1.153 triệu đồng; phí chuyển tiền trong và ngoài nước ước đạt 1.133 triệu đồng.
Kinh doanh ngoại tệ
Doanh số mua bán ngoại tệ trong năm 2005 ước đạt 80 triệu USD; kinh doanh có lãi, đáp ứng và phục vụ kịp thời các loại ngoại tệ khác cho khách hàng đang có quan hệ tín dụng, dịch vụ có nhu cầu thanh toán ra nước ngoài với mức giá hợp lý, cạnh tranh.Thu ròng kinh doanh ngoại tệ ước đạt 875 triệu đồng.
Năm 2006 doanh số mua bán ngoại tệ trong năm ước đạt 190 triệu USD; Thu ròng kinh doanh ngoại tệ ước đạt 1.623 triệu đồng.
Công tác kho quỹ
Trong năm 2005 doanh số thu chi tiền mặt các loại đạt: 1859 tỷ VND; 101 triệu USD; 4 triệu EUR.
Năm 2006 cân đối tiền mặt VNĐ, ngoại tệ, đáp ứng kịp thời nhu cầu chi trả của khách hàng; Thu, chi tiền mặt trong năm đạt 4.500 tỷ VNĐ; 162 triệu USD và 8 triệu EUR.
Công tác tài chính kế toán:
Trong 2 năm 2005, 2006 Ngân hàng đã thực hiện đúng quy định của Nhà nước và của Ngành về chế độ thu chi tài chính, thanh toán kịp thời đúng chế độ các khoản chi tiêu nội bộ; nộp thuế đúng qui định;
Thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát chứng từ, yêu cầu các bộ phận liên quan sửa lỗi kịp thời, đảm bảo an toàn vốn quỹ và tài sản cho chi nhánh, lưu giữ chứng từ theo quy định;
Xây dựng và ban hành Quy định chi tiết về thu nhập chi phí, quy trình kiểm tra kiểm soát và luân chuyển chứng từ Phòng TCKT, hướng dẫn nghiệp vụ thanh toán biên mậu,..
Công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ
- Kiểm tra, giám sát công tác tín dụng, bảo lãnh trong các nghiệp vụ thực hiện trước trong và sau khi cho vay, trích dự phòng rủi ro,...
- Kiểm tra, giám sát công tác tài chính kế toán trong công tác hạch toán, trích khấu hao, chế độ thu chi tài chính,...
- Kiểm tra, giám sát công tác an toàn kho quỹ, công tác huy động vốn, công tác kinh doanh ngoại tệ, công tác huy động vốn và các công tác khác.
- Tuân thủ chế độ báo cáo và kiểm soát nội bộ theo quy định của NHĐT&PT Việt Nam và nhà nước.
Công tác dịch vụ khách hàng:
Trong năm 2005 Chi nhánh đã có 205 DN vừa và nhỏ mở tài khoản mới, 2.167khách hàng cá nhân, phát hành thêm 2.294 thẻ ATM. Tro._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0061.doc