LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, thực hiện quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá và đẩy mạnh cải cách kinh tế nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhanh, có hiệu quả và bền vững, nước ta bước đầu đã đạt được những thành tựu to lớn như: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát được kiềm chế, đời sống nhân dân được cải thiện,… Để đạt được thành công như vậy, sự đóng góp của các thành phần kinh tế là rất quan trọng, đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nền kinh tế thị trường hiện nay
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1216 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) khu vực Cầu Giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của nước ta là môi trường thích hợp cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mở rộng và phát triển. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã và đang khẳng định vai trò quan trọng của mình trong sự phát triển đất nước.
Nhận thấy tiềm năng phát triển của DNNQD, các NHTM đã phải thay đổi chính sách cho vay của mình, từ ưu tiên cho vay các Doanh nghiệp quốc doanh sang mở rộng cho vay Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đi đôi với việc tăng số lượng các khoản cho vay đối với DNNQD, các NHTM cũng phải quan tâm đến chất lượng của các khoản vay đó.
NHCT khu vực Cầu Giấy là một chi nhánh cấp I của NHCT Việt Nam, mới thành lập từ năm 2001 nhưng đã và đang là một ngân hàng hoạt động rất hiệu quả ở khu vực quận Cầu Giấy. Số lượng khách hàng tìm đến vay ngân hàng là DNNQD cũng tăng dần qua các năm. Dư nợ cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng tăng, đặt ra một vấn đề cho NHCT Cầu Giấy là chất lượng các khoản cho vay DNNQD có thực sự tốt ? Nhận thức được sự phát triển của DNNQD và tầm quan trọng của hoạt động cho vay của ngân hàng, qua quá trình thực tập ở NHCT Cầu Giấy, em quyết định chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHCT khu vực Cầu Giấy”.
CHƯƠNG I: CHẤT LƯỢNG CHO VAY DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Tổng quan về Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.1.1.Khái niệm DNNQD
Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), nền kinh tế nước ta đã có nhiều chuyển biến rõ rệt với sự phân chia các thành phần kinh tế thành sáu loại cơ bản. Đó là: Kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, nếu xét theo hình thức sở hữu thì nền kinh tế Việt Nam gồm có hai loại hình doanh nghiệp chính là DNQD và DNNQD.
Theo Luật doanh nghiệp 2005 thì: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, đăng ký kinh doanh theo qui định của Pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh.
DNNN hay DNQD là loại hình doanh nghiệp dựa trên sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất là chủ yếu, bao gồm các đơn vị kinh tế mà toàn bộ số vốn thuộc về Nhà nước hoặc Nhà nước chiếm một phần khống chế. DNNN hoạt động với mục đích chủ yếu là cung cấp các dịch vụ công cộng phục vụ sự nghiệp phát triển xã hội và phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế tạo nên sự cân đối cần thiết.
DNNQD bao gồm các đơn vị kinh tế cơ sở do tư nhân ( bao gồm một hoặc một tập thể cá nhân) bỏ vốn đầu tư dưới mọi hình thức, nhằm mục đích chủ yếu là lợi nhuận và chịu sự chi phối của chủ đầu tư. Các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này hết sức đa dạng, tạo ra các thành phần kinh tế khác nhau như kinh tế cá thể, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và được tổ chức dưới hình thức Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Hợp tác xã, Kinh tế hộ gia đình, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…
1.1.2.Các loại hình DNNQD
Có nhiều cách phân loại DNNQD song nếu phân theo loại hình doanh nghiệp thì DNNQD bao gồm:
Doanh nghiệp tư nhân
Theo điều 141 Luật doanh nghiệp 2005 thì Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân là chủ và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp tư nhân là một đơn vị kinh doanh do một cá nhân bỏ vốn ra thành lập và làm chủ. Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Công ty TNHH
Theo Luật doanh nghiệp 2005 thì có hai loại hình Công ty TNHH:
+ Công ty TNHH có hai thành viên trở lên: là loại hình doanh nghiệp mà các thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.
+ Công ty TNHH một thành viên: là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu. Chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Công ty cổ phần
Tại điều 77, Luật doanh nghiệp 2005, Công ty cổ phần là một tổ chức có tư cách pháp nhân. Đây là loại hình Công ty có tính tổ chức cao, hoàn thiện về vốn, hoạt động mang tính xã hội cao, chịu trách nhiệm bằng tài sản của Công ty. Các thành viên chỉ chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của Công ty trong phạm vi số vốn họ đã góp cho công ty. Vốn điều lệ của Công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
Công ty hợp danh
Theo Luật doanh nghiệp 2005, điều 130 thì Công ty hợp danh là doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của Công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Công ty trong phạm vi số vốn góp vào Công ty.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp liên doanh, các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của cá nhân, tổ chức là người nước ngoài với các đặc điểm cơ bản. Thứ nhất, tài sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể thuộc sở hữu một phần hay toàn bộ của chủ thể nước ngoài. Thứ hai, các doanh nghiệp này luôn luôn xuất hiện vai trò của các chủ đầu tư là người nước ngoài. Thứ ba, doanh nghiệp và các chủ đầu tư vào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong kinh doanh.
1.1.3. Đặc điểm của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Trong nền kinh tế thị trường, DNNQD đã có cơ hội ngang bằng với DNQD trong việc phát huy khả năng của mình. Cùng với việc mở cửa nền kinh tế và các chính sách mới của Nhà nước đã giúp các DNNQD có được sự phát triển vượt bậc và được đánh giá cao. Như vậy, các đặc điểm của DNNQD hiện nay là:
Thứ nhất, DNNQD được ghi nhận là thành phần kinh tế đang có sự gia tăng nhanh chóng về số lượng và thị phần ngày càng lớn. Năm 1991, một năm sau khi ban hành Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân, cả nước mới chỉ có 414 DNNQD( không kể doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Đến năm 1999, con số này đã tăng lên con số 30500, tính bình quân mỗi năm tăng khoảng 3252 doanh nghiệp tương ứng với tốc độ tăng 32%/năm. Tổng số DNNQD tăng nhanh chóng trong ba năm sau khi Luật doanh nghiệp 1999 có hiệu lực được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1.Số doanh nghiệp đang hoạt động phân theo khu vực kinh tế
Chỉ tiêu
31/12/01
31/12/02
31/12/03
Tổng số
51.680
62.908
72.012
1.Khu vực Nhà nước
5.355
5.364
4.845
2.Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
44.314
55.236
64.526
- Hợp tác xã
3.646
4.104
4.150
- Doanh nghiệp tư nhân
22.777
24.794
25.653
- Công ty hợp danh
5
24
18
- Công ty TNHH
16.291
23.485
30.164
- Công ty cổ phần
1.595
2.829
4.541
3.Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
2.011
2.308
2.641
( Nguồn: Niên giám Thống kê 2004, NXB Thống Kê )
Qua bảng trên, ta thấy rằng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực có số lượng tăng nhanh nhất. DNNN đang giảm dần qua các năm còn khu vực DNNQD đang tăng nhanh với tốc độ tăng bình quân là 25,6% trong giai đoạn 2001-2003, mỗi năm tăng khoảng 25,6% trong đó tăng nhanh nhất là công ty cổ phần 99,3%, công ty TNHH là 49,9%. Mặt khác cũng có thể thấy khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đang chiếm tỷ trọng ngày càng lớn, gấp 10 lần khu vực Nhà nước và gần 25 lần khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt trong những năm gần đây, khi mà Nhà nước đang có chủ trương cổ phần hoá các DNNN hoạt động kém hiệu quả thì số lượng DNNQD tăng lên nhanh chóng là một tất yếu.
Thứ hai, DNNQD có quy mô lao động và quy mô tài chính nhỏ bé. Số doanh nghiệp có vốn dưới 500 triệu đồng chiếm 68,3% tổng số doanh nghiệp, DNNQD có vốn trên 500 triệu đồng chỉ chiếm có 18,9%. Tại thời điểm 31/12/2002, tổng vốn của DNNQD là 237,3 nghìn tỷ đồng, chỉ chiếm 16,5% tổng nguồn vốn khu vực doanh nghiệp mặc dù đã tăng được 44,6%.
Số lao động trong các DNNQD bao gồm 1,7 triệu người, chiếm 36,6% tổng số lao động của toàn khu vực doanh nghiệp. Tại thời điểm 31/12/2002, nếu như số lao động bình quân của một DNNN là 421 người/doanh nghiệp thì DNNQD chỉ có 31 người/doanh nghiệp.
Thứ ba, môi trường kinh doanh chưa thuận lợi, thị trường tiêu thụ chưa được khai thác triệt để, còn nhỏ bé. Mặc dù những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã cố gắng tạo ra một “sân chơi bình đẳng” cho tất cả các doanh nghiệp nhưng vẫn có sự đối xử khác biệt giữa DNNQD và DNNN, ví dụ như chính sách thuế, chính sách về đất đai,…
Các DNNQD chủ yếu hoạt động trong các ngành kinh tế như nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, tuy nhiên thị trường tiêu thụ sản phẩm còn nhỏ bé, chưa ổn định. Nguyên nhân chủ yếu do đầu tư vốn ít, công nghệ lạc hậu, khả năng quản lý kém…
Thứ tư, khả năng huy động vốn của DNNQD hạn chế trong khi nhu cầu về vốn lớn. DNNQD với qui mô tài chính bé nhỏ nên nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất là rất cao, vậy mà khả năng huy động vốn của DNNQD lại thấp, nguồn vốn chủ yếu là tín dụng ngân hàng.
Thứ năm, DNNQD đang được coi là thành phần kinh tế khá năng động với hiệu quả kinh tế tăng cao. Khác với DNQD, các DNNQD phải “tự thân vận động” trong cơ chế thị trường và tìm cách nâng cao hiệu quả sản xuất để thu được lợi nhuận. Chính điều này tạo nên tính tự lực, năng động, sáng tạo và tự chủ trong kinh doanh cho DNNQD.
Từ những đặc điểm của DNNQD, ta thấy rằng đây là một thành phần kinh tế cần được hỗ trợ phát triển vì sự phát triển của thành phần này phù hợp với điều kiện kinh tế Việt Nam, tạo tiền đề phát triển cho toàn bộ nền kinh tế.
1.1.4.Vai trò của DNNQD trong nền Kinh tế thị trường
Những năm gần đây, với sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng, DNNQD đã góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế. Vai trò của DNNQD được khẳng định qua các khía cạnh sau:
Một là, DNNQD ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và là một bộ phận đóng góp quan trọng cho Ngân sách Nhà nước, góp phần tăng thu nhập quốc dân. Năm 2001, thu trong khu vực NQD chiếm 2,6% tổng số thu thì năm tháng đầu năm 2005 con số này đã là 8,17%. Trong khu vực ngoài quốc doanh, số thu các doanh nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng cao, năm 2001 là 36,6%, năm 2005 là 63,8%.
Hai là, DNNQD có khả năng tập trung mọi nguồn lực trong xã hội vào hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh. Sự hình thành DNNQD đã tạo điều kiện tập trung vốn, tri thức và nguồn nhân lực vào các ngành kinh tế mới, các ngành kinh tế phát triển hay các ngành đòi hỏi trí tuệ cao và các ngành dịch vụ.
Ba là, DNNQD góp phần tạo việc làm, giảm thất nghiệp. DNNQD hoạt động trong lĩnh vực công thương nghiệpvà dịch vụ phát triển góp phần quan trọng giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Hà Nội hiện nay có hơn 25.000 DNNQD, bình quân mỗi doanh nghiệp giải quyết việc làm cho 30 người thì đã giải quyết được hơn 750.000 lao động.
Bốn là, DNNQD góp phần duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, kinh nghiệm quản lý đã tích luỹ qua nhiều thế hệ.
Năm là, DNNQD góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hóa và đổi mới cơ chế quản lý theo hướng thị trường. DNNQD hoạt động trong mọi ngành nghề nhưng chủ yếu phổ biến ở các lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ và xuất khẩu.
Sáu là, sự phát triển của DNNQD nâng cao tính cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Việc các DNNQD phát triển trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề đã làm cho thị trường hàng hóa trở nên phong phú, đa dạng và sôi động hơn.
Với những ưu thế của mình như qui mô nhỏ gọn hay tính năng động cao, các DNNQD đã thực sự trở thành một đối thủ cạnh tranh với các khu vực kinh tế khác đặc biệt là khu vực kinh tế Nhà nước. Tính cạnh tranh cao trên thị trường còn thể hiện ở chỗ không chỉ có sự cạnh tranh giữa DNNQD với DNNN mà còn giữa bản thân các DNNQD với nhau. Đây thực sự là một động lực giúp cho nền kinh tế phát triển vì nó thúc đẩy tính năng động của mọi thành phần kinh tế trong xã hội, làm cho mọi nguồn lực trong nền kinh tế được tận dụng và sử dụng một cách tối đa và hiệu quả nhất.
Cuối cùng, một vai trò không thể thiếu của DNNQD đối với riêng ngành ngân hàng là DNNQD đang trở thành một trong những thị trường vốn tín dụng rộng lớn và đầy tiềm năng. Với sự phát triển ngày càng mạnh của DNNQD thì nhu cầu về vốn cũng tăng theo nhất là nhu cầu về tín dụng trung và dài hạn.
1.1.5.Các nguồn vốn của DNNQD
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải có một nguồn vốn nhất định để đầu tư vào tài sản cố định và tài sản lưu động. Vậy nguồn vốn của DNNQD bao gồm những nguồn vốn nào và lấy từ đâu?
* Vốn tự có của doanh nghiệp
Vốn tự có của doanh nghiệp là nguồn vốn ban đầu khi thành lập doanh nghiệp do các cổ đông, chủ sở hữu đóng góp. Đối với các DNNQD, theo Luật doanh nghiệp 2005, chủ doanh nghiệp phải có một số vốn ban đầu để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Với Công ty cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định hình thành vốn góp ban đầu của Công ty. Còn đối với Công ty TNHH thì vốn tự có là phần vốn góp của các thành viên sáng lập Công ty. Đối với doanh nghiệp tư nhân thì vốn góp ban đầu do chính chủ doanh nghiệp đầu tư.
Để duy trì và phát triển thì doanh nghiệp cần phải có thêm nguồn vốn khác ngoài nguồn vốn tự tài trợ vì lợi nhuận để lại chỉ được dùng tái đầu tư khi DNNQD đã và đang hoạt động có lãi, được phép tiếp tục đầu tư. Vì vậy, không có một DNNQD nào chỉ sử dụng vốn tự có trong suốt quá trình hoạt động của mình mà còn cần phải đi vay.
* Nguồn đi vay
Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, DNNQD có thể vay thông qua hình thức tín dụng thương mại ,đi vay Ngân hàng hoặc phương thức phát hành trái phiếu Công ty.
Tín dụng thương mại: Các doanh nghiệp thường khai thác nguồn tín dụng thương mại qua quan hệ mua bán chịu, mua bán trả góp hay trả chậm với đối tác và khách hàng. Đây là một phương thức tài trợ tiện lợi, linh hoạt, nhanh chóng và tạo khả năng mở rộng quan hệ hợp tác làm ăn một cách lâu bền. Tuy nhiên, để có được nguồn vốn này thì doanh nghiệp phải có mối quan hệ rộng và uy tín cao để có thể có được sự chấp thuận của người bán đối với doanh nghiệp.
Tín dụng Ngân hàng: Các Ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vay vốn tức thời cho các DNNQD với lượng vốn tuỳ thuộc vào nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. DNNQD có thể vay vốn Ngân hàng ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn theo mức lãi suất chi trả khác nhau theo thoả thuận, theo lĩnh vực kinh doanh và theo uy tín khách hàng. Do ở Việt Nam, thị trường tài chính chưa phát triển nên tín dụng Ngân hàng có vai trò rất quan trọng và vẫn là nguồn vay chính cho DNNQD.
Phát hành trái phiếu Công ty : Trái phiếu là một giấy vay nợ trung và dài hạn. Trong các loại hình DNNQD thì chỉ có Công ty cổ phần là được phép phát hành trái phiếu còn các loại hình doanh nghiệp khác như doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH hay hợp tác xã không được phát hành trái phiếu. Mặt khác, việc phát hành trái phiếu cũng gặp nhiều khó khăn và sự thành công còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như uy tín doanh nghiệp, qui mô doanh nghiệp và lãi suất mà doanh nghiệp đưa ra.
1.1.6.Xu hướng phát triển của các DNNQD
Hiện nay kinh tế quốc doanh được xác định là thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo, làm đòn bẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội; mở đường. hướng dẫn, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng tồn tại và phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên, với chủ trương cổ phần hóa mạnh mẽ các thành phần kinh tế quốc doanh khiến số lượng các DNNQD sẽ tăng lên nhanh chóng trong tương lai. Hiện nay, mô hình kinh tế ngoài quốc doanh đã thể hiện sự phát triển có hiệu quả hơn hẳn so với các thành phần kinh tế quốc doanh. Vì vậy, trong trong tương lai thành phần kinh tế này cũng đóng vai trò chủ đạo và là đòn bẩy cho tăng trưởng kinh tế.
Chính sách mở cửa nền kinh tế, chính sách tạo điều kiện bình đẳng giữa các thành phần kinh tế se tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của nển kinh tế nói chung và DNNQD nói riêng. Trong điều kiện tiếp xúc với thị trường bên ngoài với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, mô hình tổ chức và phương pháp quản lý mới, hiện đại… thì các DNNQD sẽ có nhiều ưu thế hơn vì đây được coi là khu vực kinh tế năng động nhất trong nền kinh tế.
DNNQD đang có những chuyển biến mạnh mẽ, góp phần ngày càng lớn vào sự phát triển của đất nước nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của thành phần kinh tế này, nhiều khi sự phát triển còn mang tính tự phát.
1.2.Cho vay Ngân hàng đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.2.1.Giới thiệu về NHTM
1.2.1.1.Khái niệm
Để đưa ra một định nghĩa về NHTM, người ta thường dựa vào tính chất, mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.
Luật Ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: “ NHTM được coi là Ngân hàng, là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới dạng hình thức kí thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Luật Ngân hàng của Đan Mạch năm 1930 định nghĩa: “ Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền kí thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ố, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm…
Ở Việt Nam, trong bước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, cùng với sự phát triển của các doanh nghiệp là sự phát triển của hệ thống Ngân hàng. Để tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt động của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức này, điều 20 Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam có nêu: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo qui định của Luật này và các qui định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Mặc dù có nhiều cách khái niệm về NHTM nhưng cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét NHTM trên phương diện những dịch vụ mà chúng cung cấp. Nếu xét theo phương diện này thì ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1.2.1.2.Các hoạt động chủ yếu của NHTM
Ngày nay, trong thế giới hiện đại, hoạt động của các tổ chức tín dụng ngày càng mở rộng và đóng góp quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế.
Là một bộ phận lớn nhất trong hệ thống trung gian tài chính, NHTM thực hiện nghiệp vụ tập trung từ các chủ thể có vốn nhàn rỗi và dẫn vốn đến các chủ thể cần vốn trong nền kinh tế. Để thực hiện vai trò này, NHTM thực hiện các hoạt động chủ yếu là hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và hoạt động kinh doanh khác.
* Hoạt động huy động vốn: là nghiệp vụ chủ yếu tạo nên nguồn vốn kinh doanh cho ngân hàng gồm bao nguồn chính là vốn huy động từ các tổ chức sản xuất kinh tế và cá nhân trong xã hội, vốn đi vay NHTW và các tổ chức tín dụng khác và nguồn vốn trong thanh toán.
* Hoạt động sử dụng vốn: là hoạt động đem lại nguồn lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Ngân hàng sử dụng nguồn vốn mà mình huy động được để cho vay và đầu tư với mục đích tìm kiếm lợi nhuận do sự chênh lệch lãi suất. Hoạt động chính là cho vay, ngoài ra còn có hoạt động bảo lãnh và hoạt động cho thuê tài chính.
* Hoạt động kinh doanh khác mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng ngoài hai hoạt động chính là: dịch vụ thanh toán, tư vấn tài chính, kinh doanh ngoại tệ, tài trợ ngoại thương…
1.2.2.Cho vay ngoài quốc doanh của NHTM
Cho vay là một trong những hoạt động kinh doanh truyền thống của NHTM và đem lại nguồn thu chính cho ngân hàng.
1.2.2.1.Khái niệm
Theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN thì cho vay được định nghĩa như sau: Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Như vậy, trong quan hệ giao dịch này thể hiện các nội dung sau:
Ngân hàng sẽ chuyển giao cho người vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hay dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản.
Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một khoảng thời gian nhất định. Sau khi hết thời hạn theo thoả thuận phải hoàn trả người cho vay.
Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị ban đầu vì người đi vay ngoài phần vốn gốc còn phải trả thêm phần lãi tính trên phần vốn gốc theo lãi suất ngân hàng qui định.
1.2.2.2.Phân loại
Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học để thiết lập các qui trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Có nhiều cách để phân loại cho vay
* Theo thời hạn cho vay:
Cho vay ngắn hạn là hình thức cho vay có thời hạn dưới 1 năm, sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp hoặc các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Cho vay trung hạn là hình thức cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm các khoản vay này thường được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
Cho vay dài hạn là hình thức cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20 – 30 năm, một số trường hợp dặc biệt có thể lên đến 40 năm. Cho vay dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà xưởng phương tiện vận tải có quy mô lớn và những dự án sản xuất có thời hạn thu hồi vốn dài
* Theo mục đích:
Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại.
Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc…
Cho vay các định chế tài chính bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, Công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác.
Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như nhu cầu mua sắm tài sản và các khoản cho vay tiêu dùng.
* Theo mức độ tín nhiệm đối với khác hàng:
Cho vay không có tài sản đảm bảo là hình thức ngân hàng cho khách hàng vay dụa trên uy tín của khách hàng mà không cần tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
Cho vay có tài sản đảm bảo là hình thức cho vay dựa trên cơ sở bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố tài sản của khách hàng hay có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đây là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất chưa chắc chắn.
* Căn cứ theo phương thức cho vay
Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay, khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định qui mô cho vay, thời hạn giải ngân, trả nợ, mức lãi suất và yêu cầu tài sản đảm bảo nếu cần.
Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên quá trình luân chuyển hàng hoá. Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển, sau đó ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức cho vay…Hạn mức cho vay có thể được thoả thuận trong một năm hoặc vài năm, đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời gian để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng. Vì thủ tục vay chỉ phải thực hiện một lần nên rất thuận tiện cho khách hàng.
Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ cho vay theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức cho vay. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ, đó là số dư tại thời điểm tính. Trong kỳ, khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng.
Cho vay thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một thời hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi.
Cho vay trả góp: là hình thức cho vay theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn cho vay đã thoả thuận. Hình thức này thường áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, hoặc cho vay đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định.
Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Hình thức này thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tánm cách xa ngân hàng.
1.2.3.Vai trò của hoạt động cho vay của NHTM đối với DNNQD
Từ những đặc điểm và vai trò quan trọng của DNNQD đối với sự phát triển đất nước, NHTM cần nhận thấy đây là một khu vực tiềm năng vì hiện tại các DNNQD đang rất thiếu vốn. Ngoài các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, DNNQD còn cần sự hỗ trợ của NHTM thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng. Từ đó đã khẳng định vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc thúc đẩy kinh tế ngoài quốc doanh phát triển:
* Cho vay ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn để quá trình sản xuất kinh doanh của các DNNQD được liên tục và phát triển
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất kinh doanh đều cần phải có vốn, và đối với DNNQD cũng vậy, để thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng cũng cần có một nguồn vốn đủ lớn để mua sắm tài sản cố định, tài sản lưu động và các chi phí khác. Nếu chỉ sử dụng nguồn vốn tự có thì quá ít ỏi và còn làm tăng chi phí vốn. Vì vậy, DNNQD phải huy động các nguồn vốn từ bên ngoài mà nguồn vốn quan trọng nhất là nguồn vốn tín dụng từ các NHTM.
Thông qua hoạt động cho vay của NHTM, các DNNQD đã có đủ nguồn bổ sung cho vốn lưu động và vốn cố định, yên tâm tiến hành tái đầu tư mở rộng sản xuất. Với nhiều hình thức cho vay khác nhau, DNNQD có nhiều cơ hội lựa chọn nguồn vốn và cách thức vay phù hợp nhất với loại hình và qui mô doanh nghiệp. Như vậy, có thể nói cho vay ngân hàng là nguồn vốn hỗ trợ tốt nhất, đa dạng nhất để DNNQD có thể tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh một cách liên tục và phát triển.
* Cho vay ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các DNNQD
Với một nguyên tắc cơ bản khi đi vay là người vay phải hoàn trả gốc và lãi trong một thời gian nhất định, nếu quá hạn không trả được vốn vay thì doanh nghiệp phải chịu tổn thất về kinh tế do lãi phạt quá hạn rất cao và sự mất lòng tin của ngân hàng cho vay. Do đó bắt buộc doanh nghiệp phải tính toán chi phí sản xuất, tốc độ vòng quay vốn, làm ăn có lãi để khi kết thúc thời hạn vay vốn có thể đủ tiền để trả gốc, lãi và các khoản chi phí khác. Khi kí kết hợp đồng tín dụng, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải thực hiện vốn vay đúng mục đích và ngân hàng sẽ giám sát quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thêm vào đó, để thu hồi vốn và thu được lãi vay, đôi khi ngân hàng còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Hoạt động cho vay của ngân hàng không phải là việc rải đều vốn cho tất cả khách hàng có nhu cầu mà chủ yếu tập trung những khách hàng làm ăn hiệu quả để tránh rủi ro cho ngân hàng. Chính vì vậy, các DNNQD muốn vay vốn ngân hàng lâu dài phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay để thu hồi dòng tiền đầu tư ban đầu để có thể trả gốc, lãi cho ngân hàng và thu về được một khoản lợi nhuận cho mình.
* Cho vay ngân hàng kích thích tính năng động, sáng tạo của các DNNQD
Muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường thì các DNNQD phải phát huy được tiềm năng của mình, phải cạnh tranh. Sự cạnh tranh không chỉ giữa DNNQD với DNNN và còn giữa các DNNQD với nhau. Do đó, để có thể phát huy tính năng động và sáng tạo thì các DNNQD phải có đầy đủ các điều kiện về nhân lực và vật lực. Chính ngân hàng là nguồn hỗ trợ to lớn cho các DNNQD về vật lực để giúp DNNQD có thể cạnh tranh và tồn tại trong một nền kinh tế thị trường sôi động như hiện nay.
NHTM là một trung gian tài chính nên ngoài hoạt động cho vay, ngân hàng còn cung cấp nhiều dịch vụ đa dạng khác như hoạt động thanh toán, bảo lãnh, phát hành thư tín dụng… DNNQD có nhiều thuận lợi hơn các DNNN trong việc lựa chọn các dịch vụ của ngân hàng. Chính vì vậy, cùng với hoạt động cho vay, DNNQD có thể sử dụng kèm theo các dịch vụ khác như mở thư tín dụng hay dịch vụ tư vấn mà ngân hàng cung cấp để hỗ trợ hoạt động kinh doanh của mình.
Như vậy, hoạt động cho vay của ngân hàng đóng một vai trò to lớn trong việc phát triển, tồn tại và cạnh tranh của DNNQD. Cho vay của NHTM đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn cho các thành phần ngoài quốc doanh, tạo cơ sở vật chất cho các thành phần này đủ điều kiện tiến hành sản xuất kinh doanh, mua sắm thiết bị công nghệ hiện đại,… góp phần phát triển đất nước.
1.3.Chất lượng cho vay DNNQD của NHTM
1.3.1.Khái niệm chất lượng cho vay DNNQD
Chất lượng cho vay được quan niệm là sự đáp ứng tốt nhất nhu cầu về vốn của DNNQD để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm sự tồn tại, phát triển của ngân hàng và phù hợp với sự phát triển kinh tế -xã hội.
Đây là khái niệm tổng quát về chất lượng cho vay DNNQD, song một quan hệ tín dụng luôn có sự ảnh hưởng đến ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế. Để hiểu rõ hơn chất lượng cho vay ngoài quốc doanh, ta xem xét sẹ thể hiện của nó trên các khía cạnh sau:
- Đối với NHTM: Chất lượng cho vay thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn cho vay phải phù hợp với khả năng, thực lực tho hướng tích cực của bản thân ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động cho vay phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng dư nợ ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm ._.bảo đúng qui đinh và hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn hạn, trung và dài hạn trong nền kinh tế.
- Đối với khách hàng: Chất lượng cho vay DNNQD thể hiện ở chỗ khoản cho vay cấp cho khách hàng phải có lãi và kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, nhanh chóng, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo các điều kiện cho vay đúng nguyên tắc và đúng qui định của ngân hàng. Các khoản cho vay chất lượng phải đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, góp phần lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp và phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước.
- Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội: Hoạt động cho vay của NHTM trong những năm gần đây phản ánh rõ nét sự năng động của nền kinh tế khi chuyển sang cơ chế mới. Nhiều khái niệm mới với những nội dung mới để đạt được sự thống nhất về nhận thức và tạo điều kiện nâng cao chất lượng hoạt động cho vay.
1.3.2.Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng cho vay DNNQD
Trong một vài năm trở lại đây, cùng với sự gia tăng về số lượng các DNNQD là sự tăng về doanh số cho vay của NHTM đối với DNNQD. Nhưng một thực tế đáng buồn là số lượng món vay nhiều song chất lượng tín dụng chưa cao vì tình trạng nợ quá hạn gia tăng. Khi quyết định cho vay, các NHTM chưa quan tâm đúng mức tính khả thi của dự án, năng lực sản xuất của khách hàng nhất là của kinh tế ngoài quốc doanh mà chủ yếu dựa vào tài sản thế chấp, quan hệ và uy tín của doanh nghiệp. Điều này dẫn đến tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi tăng cao làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng, ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng, làm giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Nâng cao chất lượng tín dụng mà nhất là nâng cao chất lượng cho vay đối với DNNQD đang là vấn đề được quan tâm đối với NHTM. Bởi vì NHTM là trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế và rất nhạy cảm nên nếu một ngân hàng phá sản sẽ gây ra phản ứng dây chuyền tới cả hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Một điều quan trọng nữa là DNNQD không có sự bảo hộ của Nhà nước, phải tự chịu trách nhiệm với hoạt động kinh doanh của mình nên rất dễ phá sản. Lợi ích của việc nâng cao chất lượng cho vay ngoài quốc doanh được thể hiện dưới góc độ của từng chủ thể nhu sau:
1.3.2.1.Góc độ khách hàng
Chất lượng khoản vay xét dưới góc độ khách hàng là DNNQD được thể hiện ở sự thoả mãn nhu cầu vốn từ phía ngân hàng vả về khối lượng tín dụng và thời gian, chi phí để có được khoản vay đó và hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng từ nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Đối với khách hàng, chất lượng tín dụng là cao khi thời gian và chi phí vay vốn thấp, thủ tục nhanh gọn và hiệu quả sử dụng vốn cao.
Khi xem xét một hợp đồng tín dụng, ngân hàng luôn phải thẩm định tính khả thi của dự án, với dự án có rủi ro cao, ngân hàng phải tìm cách từ chối. Đây là việc làm xuất phát từ lợi ích của ngân hàng nhưng cũng là lợi ích của doanh nghiệp vì khi không thực hiện dự án, cả doanh nghiệp và ngân hàng đều tránh được tổn thất. Như vậy, quá trình thẩm định là sự tái kiểm tra tính khả thi của dự án, hạn chế rủi ro cho doanh nghiệp. Với những ngân hàng có chất lượng tín dụng cao, doanh nghiệp còn tránh được phức tạp phát sinh như hợp đồng không hợp pháp, thiếu giấy tờ, …
1.3.2.2.Góc độ ngân hàng
Tín dụng là hoạt động cơ bản và chủ yếu của ngân hàng. Tuy nhiên đây cũng là hoạt động chứa đựng rủi ro cao nên ngân hàng luôn chú trọng đến hoạt động cho vay của mình và nâng cao chất lượng tín dụng.
Nâng cao chất lượng tín dụng đồng nghĩa với việc ngân hàng có khả năng thu nợ đầy đủ và đúng hạn. Nhờ đó, ngân hàng có điều kiện mở rộng khả năng cung cấp tín dụng cũng như các dịch vụ ngân hàng khác.
Nâng cao chất lượng cho vay đối với DNNQD là một việc làm rất cần thiết để mở rộng tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Vì nâng cao chất lượng cho vay giúp ngân hàng xây dựng hình ành, uy tín với khách hàng, thu hút thêm nhiều khách hàng mới đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Hiện nay, các NHTM có xu hướng chuyển sang cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ bởi vì chính sách lãi suất đã không còn là động lực chính để thu hút khách hàng. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng cho vay là yêu cầu khách quan và là xu thế phát triển chung.
1.3.2.3.Góc độ nền kinh tế
Doanh nghiệp là các tế bào tạo ra phần lớn của cải cho xã hội. Trong khi nhiều ngành, nhiều doanh nghiệp vẫn đang trong tình trạng thiếu vốn thì một số ngành lại được đầu tư quá mức; không tính đến cung cầu thị trường nên sản phẩm làm ra ứ đọng, sản xuất đình trệ, chủ dự án không thể thu hồi vốn đầu tư trả cho ngân hàng, dẫn tới khan hiếm vốn và hiệu quả sử dụng vốn thấp. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phân bổ nguồn lực hợp lý, khoa học và giải quyết vấn đề này chính là nâng cao chất lượng tín dụng trên góc độ nền kinh tế. Nhất là khi số lượng DNNQD đang tăng lên một cách nhanh chóng thì việc nâng cao chất lượng cho vay đối với DNNQD càng cần thiết hơn bao giờ hết.
1.3.3.Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay DNNQD
Đối với các NHTM, cho vay là nghiệp vụ truyền thống có vai trò quan trọng trong việc phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng, mỗi ngân hàng đã luôn chú trọng vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng, nhất là với loại hình DNNQD là một thành phần kinh tế mới đang được các ngân hàng cho vay mạnh mẽ. Thực tế hoạt động chất lượng tín dụng là một khái niệm tương đối và không có một chỉ tiêu tổng hợp nào để phản ánh nó một cách chính xác. Thông thường để đánh giá chất lượng tín dụng của một ngân hàng, người ta dùng một tập hợp các chỉ tiêu khác nhau nhưng về mặt cơ bản, chất lượng cho vay DNNQD được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
1.3.3.1.Nhóm chỉ tiêu định lượng
* Chỉ tiêu doanh số cho vay DNNQD
Đây là chỉ tiêu phản ánh chính xác, tuyệt đối về hoạt động cho vay trong một thời gian dài, thấy được khả năng hoạt động tín dụng qua các năm, cho thấy khả năng mở rộng cho vay. Do đó, nếu kết hợp được doanh số cho vay của nhiều thời kỳ thì ta sẽ thấy được phần nào về xu hướng hoạt động cho vay.
Doanh số cho vay NQD
Tỷ trọng doanh số cho vay DNNQD =
Tổng doanh số cho vay
* Chi tiêu tổng dư nợ
Tổng dư nợ là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm. Tổng dư nợ bao gồm dư nợ cho vay ngắn hạn, cho vay trung, dài hạn… Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động tài sản của ngân hàng chưa cao, trình độ cán bộ tín dụng còn hạn chế…Mặc dù vậy, không có nghĩa là chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng càng cao.
Dư nợ DNNQD
Tỷ trọng dư nợ DNNQD =
Tổng dư nợ
* Chỉ tiêu doanh số thu nợ
Chỉ tiêu doanh số thu nợ cho biết ngân hàng làm ăn có hiệu quả hay không, các khoản vay có an toàn hay không, các doanh nghiệp có sử dụng đúng mục đích khoản vay hay không.
Doanh số thu nợ DNNQD
Tỷ trọng doanh số thu nợ =
Tổng thu nợ
* Chỉ tiêu nợ quá hạn DNNQD
Nợ quá hạn (NQH) là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo khi DNNQD đi vay không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đúng hạn như cam kết. Chỉ tiêu nợ quá hạn được thể hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn cho vay DNNQD và tổng dư nợ cho vay DNNQD của ngân hàng tại một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm
Nợ quá hạn cho vay DNNQD
Tỷ lệ NQH cho vay DNNQD =
Tổng dư nợ DNNQD
Xét về mặt bản chất,tín dụng là sự vay mượn dựa trên cơ sở ngân hàng tin tưởng người đi vay có khả năng và sẵn sàng hoàn trả vào một thời điểm nhất định trong tương lai, do đó tính an toàn là yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không được trả đúng hạn như đã cam kết mà không có lí do chính đáng thì nó sẽ bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất vay trước đó. Trên thực tế, phần lớn các khoản NQH cho vay DNNQD càng cao thì ngân hàng càng gặp khó khăn trong kinh doanh và sẽ có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán và lợi nhuận cũng sẽ giảm. Điều này có nghĩa là tỷ lệ này càng thấp thì chất lượng cho vay ngoài quốc doanh càng cao.
Để đánh giá chính xác hơn chỉ tiêu này, người ta chia tỷ lệ NQH cho vay làm hai loại:
+) Tỷ lệ NQH cho vay NQD có khả năng thu hồi
NQH cho vay NQD có khả năng thu hồi
=
NQH cho vay NQD
+) Tỷ lệ NQH cho vay NQD không có khả năng thu hồi
NQH cho vay NQD không có khả năng thu hồi
=
NQH cho vay NQD
* Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Vòng quay vốn tín dụng là chỉ tiêu thường được các NHTM tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Vòng quay tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hóa. Với một số vốn nhất định, nhưng do vòng quay vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, mặt khác ngân hàng có vốn để tiếp tục đầu tư vào các lĩnh vực khác. Như vậy, chỉ tiêu này càng tăng càng phản ánh tình hình tổ chức quản lý tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao.
1.3.3.2.Nhóm chỉ tiêu định tính
Ngoài các chỉ tiêu có thể định lượng chất lượng cho vay DNNQD, người ta có thể sử dụng các chỉ tiêu định tính như:
- Uy tín của ngân hàng trong việc cấp tín dụng đối với DNNQD
- Sự tuân thủ các qui định của NHNN và hoạt động cấp tín dụng cho các DNNQD
- Hệ thống trang thiết bị phục vụ công tác chuyên môn có hiệu quả
- Trình độ, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng
- Quy trình nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng
1.4.Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay DNNQD của NHTM
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay NQD của NHTM song có thể khái quát thành hai nhóm nhân tố chính là:
1.4.1.Nhân tố khách quan:
Là nhóm nhân tố thuộc về môi trường bên ngoài hoạt động cho vay của NHTM đối với DNNQD. Nhóm nhân tố này bao gồm:
Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý bao gồm các cơ chế, chính sách, luật, qui định…của Nhà nước nhằm điều chỉnh các hoạt động cho vay của NHTM đối với DNNQD. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế thì môi trường pháp lý về hoạt động của các DNNQD đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, tạo điều kiện không ngừng cho các phát triển. Nếu như trước đây, chế độ cho vay đối với DNNQD được qui định trong Quyết định số 18/NH-QĐ ngày 27/04/1998 của Thống đốc NHNN Việt Nam thì nay đã không có sự khác biệt giữa khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001, qui định việc cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng không phân biệt khách hàng thuộc thành phần kinh tế nào, thuộc Nhà nước hay không thuộc Nhà nước. Điều này thể hiện chủ trương, quan điểm của Đảng: Mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường đều có quyền tự do kinh doanh nhưng phải đảm bảo việc tuân thủ pháp luật.
Môi trường kinh tế : Đây là môi trường sống của doanh nghiệp, bao gồm các yếu tố như giá cả, cung cầu, sự cạnh tranh…những yếu tố này luôn thay đổi và có nhiều tác động đến cả NHTM và DNNQD. Tình trạng nền kinh tế phát triển hay suy thoái luôn có ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn ngân hàng, ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, môi trường cạnh tranh lành mạnh, tốc độ lưu chuyển vốn nhanh…sẽ tác động tích cực đến hoạt động kinh doanh, dẫn đến khả năng tăng doanh thu và lợi nhuận cao, ổn định của doanh nghiệp làm chất lượng tín dụng của ngân hàng cao. Ngược lại, trong tình hình kinh tế suy thoái, hoạt động đầu tư bị đình trệ, các DNNQD hoạt động kinh doanh bị thua lỗ dẫn tới doanh số cho vay của ngân hàng giảm đồng thời khả năng không thu hồi được vốn gốc và lãi do kinh doanh thua lỗ của khách hàng đối với ngân hàng cao, làm chất lượng tín dụng giảm sút.
Môi trường xã hội : Đây là nhân tố thể hiện sự nhận thức, quan điểm của xã hội về các doanh nghiệp trong đó có DNNQD, nó thể hiện tâm lý xã hội, sự ủng hộ hay phản đối sự phát triển của DNNQD. Hiện nay các DNNQD nhận được nhiều sự ủng hộ của xã hội vì đây là thành phần kinh tế năng động, đóng góp rất nhiều vào sự phát triển đất nước.
Các nhân tố cơ bản của môi trường xã hội ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của NHTM: Phong tục tập quán, thói quen, niềm tin, trình độ dân trí, tình hình an ninh trật tự xã hội,… Phong tục tập quán về thói quen vay vốn, sử dụng vốn của khách hàng ảnh hưởng tới khả năng tiếp xúc vốn vay ngân hàng cũng như hiệu quả sử dụng vốn. Tình hình an ninh trật tự an toàn sẽ hấp dẫn đầu tư, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của DNNQD an toàn, nâng cao chất lượng cho vay DNNQD.
1.4.2.Nhân tố chủ quan:
Là những nhân tố thuộc về NHTM và đối tượng của hoạt động cho vay là các DNNQD
Về phía NHTM: Đây là yếu tố rất quan trọng vì ngân hàng là người quyết định việc cấp tín dụng cho doanh nghiệp. Các nhân tố cơ bản thuộc về ngân hàng ảnh hưởng đến chất lượng cho vay ngoài quốc doanh:
Chính sách cho vay của NHTM: Nhân tố này bao gồm hạn mức cho vay, kì hạn cho vay, lãi suất các khoản vay, loại cho vay,…Chính sách cho vay đối với từng đối tượng khách hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu vay, hạn mức, thời hạn vay cũng như chất lượng món vay đó. Chính sách cho vay là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng, ảnh hưởng tới sự phát triển, chất lượng tín dụng của ngân hàng. Chính sách cho vay đúng đắn, chặt chẽ, đồng bộ sẽ giúp cán bộ tín dụng có phương hướng triển khai hoạt động cho vay thuận lợi, nhanh chóng, khoa học, tiết kiệm thời gian, chi phí và công sức, góp phần nâng cao hiệu quả công việc, hạn chế rủi ro.
Quy trình cho vay: Là tập hợp những nội dung, kỹ thuật, nghiệp vụ cơ bản, các bước tiến hành từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc món vay. Quy trình cho vay của ngân hàng bao gồm các bước: Lập hồ sơ đền nghị cho vay, phát triển tín dụng, ra quyết định cho vay, giải ngân, giám sát, thu nợ và thanh lý hợp đồng tín dụng. Đây là các bước đảm bảo cho hoạt động cho vay của ngân hàng có thể tiến hành một cách thuận lợi, tránh được rủi ro, đảm bảo món vay sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả…. Điều này rất quan trọng đối với hoạt động cho vay DNNQD bởi vì các doanh nghiệp này có chu kỳ sản xuất không ổn định, thường xuyên thay đổi. Vì một lí do nào đó, DNNQD chưa trả được nợ hay chưa có nguồn trả nợ,… nếu ngân hàng không có qui trình cho vay cụ thể, chặt chẽ và được thực hiện nghiêm túc sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu nợ của ngân hàng, ảnh hưởng đến chất lượng cho vay ngoài quốc doanh.
Đội ngũ cán bộ tín dụng: Đây là một nhân tố quan trọng vì cán bộ tín dụng là người trực tiếp tiếp xúc với DNNQD và chịu trách nhiệm về món vay của mình. Dưới con mắt của khách hàng thì cán bộ tín dụng chính là hình ảnh của ngân hàng vì vậy phong cách giao tiếp của cán bộ tín dụng với khách hàng là một yếu tố quan trọng trong việc thu hút khách hàng mới. Hoạt động của đội ngũ này quyết định mức dư nợ tín dụng của các DNNQD bởi trình độ nghiệp vụ của đội ngũ này là đảm bảo quá trình thực thi nhiệm vụ một cách nhanh chóng, chính xác, linh hoạt trong mọi tình huống. Trong điều kiện cạnh tranh của hệ thống NHTM như hiện nay thì đòi hỏi đội ngũ cán bộ tín dụng phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, tăng cường công tác tiếp xúc khách hàng để tìm hiểu và đáp ứng nhu cầu vay vốn của từng đối tượng khách hàng để từ đó góp phần mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay đối với mọi thành phần kinh tế, đặc biệt đối với DNNQD.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngân hàng: Là nhân tố không thể thiếu vì cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, khang trang tạo hình ảnh đẹp về ng trong lòng khách hàng, củng cố niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng. Hơn nữa, các trang thiết bị này giúp cho ngân hàng có một hệ thống thông tin tín dụng hiện đại và chính xác. Các thông tin tín dụng bao gồm những thông tin về tài chính, uy tín, trình độ, năng lực của khách hàng, thông tin về kinh tế xã hội… Sự chính xác, kịp thời và đầy đủ của các thông tin nay sẽ giúp ngân hàng đưa ra quyết định đúng đắn, từ đó nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng.
Về phía DNNQD: DNNQD là đối tượng trực tiếp của hoạt động tín dụng ngân hàng nên các yếu tố thuộc về DNNQD ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng các khoản vay ngoài quốc doanh của NHTM. Các yếu tố đó là:
Phương án sản xuất kinh doanh: Thông qua quá trình thẩm định phương án sản xuất kinh doanh và hồ sơ vay vốn của DNNQD, ngân hàng sẽ quyết định cho vay. Phương án sản xuất kinh doanh tốt sẽ đem lại lợi nhuận cho DNNQD, làm cho khả năng hoàn trả vốn vay tăng dẫn đến chất lượng khoản vay đó cao. Vì vậy nếu phương án sản xuất kinh doanh được xây dựng một cách cẩn thận, dự phòng mọi rủi ro thì đem lại lợi ích cho cả doanh nghiệp, ngân hàng và xã hội.
Khả năng tài chính của DNNQD: Khả năng tài chính của DNNQD thể hiện ở tỷ trọng vốn tự có trên tổng nguồn vốn, ở tính lỏng của tài sản, ở khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Khả năng tài chính càng vững mạnh thì rủi ro đối với ngân hàng càng thấp, do đó chất lượng tín dụng cùa ngân hàng càng cao.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNQD: Hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNQD thể hiện sức mạnh của doanh nghiệp trên thị trường, được đánh giá trên các khía cạnh như khả năng tài chính, chất lượng sản phẩm, khối lượng sản phẩm tiêu thụ,… Nếu DNNQD có hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, lợi nhuận cao, sản phẩm được ưa chuộng thì ngân hàng nên cho vay vì khả năng trả nợ của các doanh nghiệp này cao hơn các DNNQD có hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả.
Trình độ quản lý, uy tín, đạo đức của DNNQD: Nhân tố này thể hiện trình độ, khả năng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong vai trò quản lý doanh nghiệp. Trình độ quản lý của DNNQD tốt sẽ dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hiệu quả, doanh nghiệp làm ăn có lãi, từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp không chỉ trên thị trường mà còn cả với NHTM. Uy tín, đạo đức của người đi vay cũng là một nhân tố quan trọng vì nó ảnh hưởng đến tính chính xác, trung thực trong thông tin mà họ cung cấp cho cán bộ tín dụng của ngân hàng . Đây là một nhân tố tác động đến cả quá trình cho vay của ngân hàng, ành hưởng đến chất lượng các khoản vay.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CHÂT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NHCT CHI NHÁNH CẦU GIẤY
2.1.Khái quát về NHCT Cầu Giấy
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng công thương khu vực Cầu Giấy là một NHTM quốc doanh, trực thuộc NHCT Việt Nam, được thành lập ngày 21 tháng 3 năm 2001, có trụ sở hiện nay tại 117A Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
NHCT Cầu Giấy là chi nhánh cấp I của NHCT Việt Nam, thực hiện tất cả các nghiệp vụ cơ bản của một NHTM: kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và kinh doanh ngoại hối với phạm vị hoạt động chủ yếu trên địa bàn quận Cầu Giấy và thành phố Hà Nội. Tuy mới thành lập được gần năm năm nhưng NHCT Cầu Giấy đã là một ngân hàng có tiến độ phát triển nhanh và toàn diện, với qui mô gần đầy đủ các phòng ban chức năng theo qui định của NHCT Việt Nam. Đây là bước khởi đầu khá thuận lợi cho một ngân hàng phát triển sau này.
Hiện nay, trong xu thế cạnh tranh để cùng phát triển hệ thống NHTM Việt Nam, NHCT Cầu Giấy phải luôn đổi mới và tìm ra hướng đi riêng cho mình. Và hướng đi đó trước hết phải đảm bảo hai yếu tố: an toàn vốn và lợi nhuận hợp lý đi đôi với việc góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế quận Cầu Giấy với mục tiêu: Phát triển - An toàn - Hiệu quả.
2.1.2.Cơ cấu bộ máy tổ chức NHCT Cầu Giấy
NHCT Cầu Giấy là một chi nhánh chịu sự quản lý của NHCT Việt Nam, với số cán bộ công nhân viên nòng cốt được chuyển từ NHCT khu vực Ba Đình sang. Ngân hàng hoạt động dưới sự điều hành của ban lãnh đạo gồm 1 giám đốc và 2 phó giám đốc phụ trách hai mảng công việc khác nhau.
Ban lãnh đạo: Giám đốc: Ông Bùi Doãn Thuyết
Phó giám đốc: Ông Trịnh Xuân Trứ
Bà Võ Bích Hồng
Bộ máy hành chính của NHCT Cầu Giấy được tổ chức thành 9 phòng ban và 7 quỹ tiết kiệm nằm rải rác trên địa bàn quận làm nhiệm vụ giao dịch với khách hàng. Các phòng nghiệp vụ bao gồm: Phòng kinh doanh đối nội, phòng tổng hợp và nguồn vốn, phòng kế toán - thanh toán, phòng vi tính, phòng tài trợ thương mại, phòng tổ chức hành chính, phòng kiểm soát nội bộ, phòng tiền tệ kho quỹ và phòng giao dịch Cầu Diễn.
Chức năng và nhiệm vụ từng phòng ban của NHCT Cầu Giấy :
Phòng kinh doanh đối nội : là phòng đầu ra của ngành ngân hàng nên có nhiều nhiệm vụ và chức năng. Phòng gồm 3 bộ phận chính là: bộ phận tín dụng công nghiệp, bộ phận tín dụng ngoài quốc doanh và bộ phận cân đối tổng hợp. Chức năng của phòng kinh doanh đối nội là cho vay doanh nghiệp với nhiều hình thức đa dạng. Mỗi cán bộ tín dụng sẽ chịu trách nhiệm về hợp đồng tín dụng của minh từ thẩm định dự án, tiếp xúc với khách hàng, lập hồ sơ cho vay, theo dõi quá trình vốn vay và thực hiện nghiệp vụ xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi. Bên cạnh đó, ban lãnh đạo còn giúp giám đốc phát hiện những vướng mắc, trở ngại để từ đó đề xuất, kiến nghị phương pháp xử lý, điều chỉnh và bổ sung để hoàn thiện cơ chế cho vay của chi nhánh.
Nhiệm vụ của phòng kinh doanh đối nội là chấp hành nghiêm túc quy trình cho vay một cách chặt chẽ, duy trì sự ổn định trong hoạt động kinh doanh, khắc phục các các khoản nợ quá hạn, nâng cao chất lượng tín dụng cho các khoản vay.
Phòng kế toán - thanh toán : Là phòng với chức năng chính là thu hút nguồn vốn của doanh nghiệp và cá nhân cho ngân hàng. Phòng được chia thành hai bộ phận: kế toán thanh toán và kế toán nội bộ. Các nhân viên của bộ phận kế toán thanh toán trực tiếp giao dịch với khách hàng, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán hộ khách hàng, thu phí dịch vụ và hạch toán cho vay, nhận gửi, phát tiền trong ngày… Kế toán nội bộ hạch toán các khoản chi phí, thu nhập phát sinh trong quá trình hoạt động và hạch toán các khoản điều chuyển vốn của ngân hàng.
Phòng tài trợ thương mại : Thu hút tiền gửi ngoại tệ đồng thời hạch toán các khoản vay bằng ngoại tệ, đảm bảo nhu cầu thanh toán của khách hàng, thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Ngoài ra còn thanh toán các hợp đồng cho vay bảo lãnh liên quan đến ngoại tệ và xuất nhập khẩu, kinh doanh mua bán ngoại tệ…
Nhiệm vụ của phòng : Kiểm tra các hợp đồng kinh tế, hướng dẫn khách hàng ký hợp đồng với nước ngoài, mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu khi khách hàng có nhu cầu. Thực hiện các chức năng chuyển tiền và kinh doanh ngoại tệ đòi hỏi phải nắm bắt tình hình tỷ giá.
Phòng nguồn vốn : Tạo nguồn vốn cho ngân hàng từ nghiệp vụ huy động vốn tiền gửi trong dân cư và các doanh nghiệp, vốn vay NHNN và các tổ chức tín dụng trên địa bàn đảm bảo đủ nguồn vốn để phát triển hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Cầu Giấy. Phòng còn có nhiệm vụ kiểm tra tình hình hoạt động của 7 quỹ tiết kiệm trên địa bàn quận.
Nhiệm vụ của phòng: Tăng trưởng vững chắc và có uy tín với khách hàng, đảm bảo khả năng thanh toán và cho vay kịp thời đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, góp phần tăng trưởng kinh tế.
Phòng tiền tệ - kho quỹ : Theo dõi tiền mặt và ngân phiếu, thu đủ chi đủ trên cơ sở chứng từ kế toán chuyển sang. Thực hiện công tác điều chuyển tiền, kiểm đếm và bảo quản tiền, các giấy tờ có giá, đảm bảo an toàn kho quỹ. Quản lý hộ tài sản khách hàng, quản lý toàn bộ giấy tờ có giá của hệ thống ngân hàng, quản lý giấy tờ thế chấp và tài sản đảm bảo của khách hàng. Ngoài ra, phòng còn đáp ứng kịp thời các nhu cầu thu chi tiền mặt của khách hàng.
Phòng vi tính : Cập nhật số liệu của toàn bộ chi nhánh, chuyển số liệu của chi nhánh lên NHCT Việt Nam để hạch toán chung toàn hệ thống. Đây là phòng tập trung số liệu trong ngày, có lãi vay, lãi trả. Phòng còn chịu trách nhiệm sửa chữa, bảo dưỡng và duy trì hoạt động của toàn bộ hệ thống máy tính của NHCT Cầu Giấy.
Phòng tổ chức hành chính : Quản lý tổ chức hành chính, phân công lao động đáp ứng nhu cầu về cơ sở vật chất để các phòng ban và các bộ phận hoạt động. Làm công tác tham mưu cho ban giám đốc trong công tác tuyển dụng, đào tạo nguồn nhân lực,đề bạt, nâng lương cho cán bộ công nhân viên.
Nhiệm vụ của phòng: Thực hiện đầy đủ các chính BHYT, BHXH, công đoàn,…cho cán bộ công nhân viên. Phòng tổ chức hành chính có nhiệm vụ quản lý tài sản phục vụ cho các phòng ban, các hoạt động kinh doanh. Phòng còn phải thực hiện các công tác hành chính đảm bảo cho hoạt động kinh doanh hiệu quả.
Phòng kiểm soát nội bộ: Kiểm soát và nắm bắt được tất cả các nghiệp vụ chủ yếu như nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ kế toán, nghiệp vụ huy động vốn, nghiệp vụ tiền tệ kho quỹ, nghiệp vụ thanh toán quốc tế và công tác pháp chế. Phòng có nhiệm vụ: thông qua công tác kiểm tra để kịp thời đề ra biện pháp uốn nắn những sai lệch, sửa chữa khuyết điểm, phát huy những mặt mạnh, kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm cá nhân.
Phòng giao dịch Cầu Diễn: Gồm hai bộ phận là tín dụng, kế toán và kho quỹ. Phòng gồm có một trưởng phòng, một phó phòng và các nhân viên, hoạt động đầy đủ như một ngân hàng.
Chức năng của phòng giao dịch Cầu Diễn là cho vay và hoạt động tiền gửi dân cư và doanh nghiệp. Với nhiệm vụ làm tốt công tác tiếp thị khách hàng, thúc đẩy việc thu hút thêm khách hàng góp phần tăng số lượng khách đến giao dịch cho NHCT Cầu Giấy.
Với cơ cấu tổ chức như trên, mỗi phòng ban, bộ phận ở chi nhánh NHCT Cầu Giấy có nhiệm vụ, chức năng khác nhau, hỗ trợ nhau trong hoạt động kinh doanh nhằm đạt mục tiêu chung của chi nhánh là lợi nhuận ngày càng tăng, đồng thời góp phần làm tăng trưởng và phát triển kinh tế trên địa bàn quận Cầu Giấy cũng như toàn thành phố Hà Nội.
2.1.3.Khái quát về hoạt động của NHCT Cầu Giấy
Năm 2005 là năm có nhiều biến động về kinh tế tài chính trong nước và quốc tế nhưng nền kinh tế nước ta vẫn chuyển biến theo chiều hướng tích cực, các mục tiêu kinh tế cơ bản vẫn hoàn thành.
Trong năm 2005, hoạt động ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng NHCT Cầu Giấy đã hoàn thành nhiệm vụ kinh doanh nên đạt được một số kết quả nhất định:
2.1.3.1.Công tác huy động vốn
NHCT Cầu Giấy luôn coi trọng công tác huy động vốn, đảm bảo qui mô nguồn vốn tăng trưởng ổn định. Sau 5 năm đi vào hoạt động, chi nhánh NHCT Cầu Giấy đã đạt được những kết quả sau:
Bảng 2.1: Phân theo đối tượng huy động vốn
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
1.Tiền gửi DN
590.104
46.06
532.819
40.05
803.681
48.57
Không kỳ hạn
365.271
61.90
322.217
60.47
618.380
76.94
Có KH <12 tháng
124.747
9.73
103.320
7.76
142.142
17.69
Có KH >12 tháng
95.996
16.27
99.274
18.63
38.675
4.81
Tiền gửi đảm bảo thanh toán
4.090
0.69
8.008
1.50
4.484
0.56
2.Tiền gửi dân cư
690.924
53.93
721.624
54.23
746.528
45.11
-TG tiết kiệm
568.661
82.30
565.822
78.41
607.695
81.40
Không KH
10.913
1.58
4.997
0.69
1.137
0.19
Có KH<12 tháng
344.032
60.50
309.823
54.75
314.070
51.68
Có KH>12 tháng
213.716
37.58
251.002
44.36
292.488
48.13
-Phát hành công cụ nợ
122.263
17.69
155.802
21.59
138.833
18.60
3.Tiền vay TCTD
4
0.01
76.000
5.72
104.500
6.32
Tổng nguồn vốn huy động
1.281.032
100.00
1.330.443
100.00
1.654.709
100.00
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của NHCT chi nhánh Cầu Giấy)
Bảng số liệu đã mô tả kết quả huy động vốn của chi nhánh từ năm 2003 đến năm 2005. Tổng nguồn vốn mà ngân hàng huy động được tăng mạnh qua các năm, đến 31/12/2005 là 1.654.709 triệu đồng, tăng 324.266 triệu đồng so với năm 2004 và tương ứng tăng 124.37%. Nguồn tiền gửi dân cư chiếm tỷ trọng lớn hơn với 65.38%. Tiền gửi doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn thứ hai với 32.62% trong đó tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng lớn nhất với 58.86%. Tiền vay từ các tổ chức tín dụng năm 2003 chỉ có 4 triệu đồng nhưng đến 2004 đã tăng lên 76.000 triệu đồng và sang năm 2005 đã là 104.500 triệu đồng.
2.1.3.2.Công tác sử dụng vốn
Bảng 2.2: Phân theo cơ cấu cho vay
Đơn vị: triệu đồng
Dư nợ đầu tư và cho vay
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Tổng
1.171.231
100
1.208.080
100
1.216.762
100
Dư nợ đầu tư
3.031
0.26
1.968
0.16
2.460
0.20
Dư nợ cho vay
1.168.200
99.74
1.206.112
99.84
1.214.302
99.80
Trong đó
CV ngắn hạn
920.868
78.83
881.661
73.10
878.292
72.32
VNĐ
843.793
91.63
717.600
81.39
730.403
83.16
Ngoại tệ
77.075
8.37
164.061
18.60
147.889
16.84
CV trung hạn
76.113
6.51
85.833
7.11
70.122
5.77
VNĐ
76.113
100
82.840
96.51
67.744
96.60
Ngoại tệ
0
0
2.993
3.49
2.379
3.40
CV dài hạn
171.219
14.65
238.617
19.78
265.888
21.89
VNĐ
169.776
99.15
190.195
79.90
173.593
65.29
Ngoại tệ
1.443
0.85
48.422
20.30
92.295
54.71
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của NHCT chi nhánh Cầu Giấy)
Trên cơ sở nguồn vốn huy động khá ổn định, công tác sử dụng vốn của NHCT Cầu Giấy cũng đạt được nhiều kết quả khả quan. Năm 2004, tổng dư nợ tăng 36.849 triệu đồng so với năm 2003, năm 2005 tăng 8.682 triệu đồng so với năm 2004.
Theo kỳ hạn vay, tỷ lệ cho vay ngắn hạn là chủ yếu. Năm 2003, tỷ trọng cho vay ngắn hạn chiếm 78.83% tổng dư nợ cho vay trong khi cho vay trung hạn chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ là 6.51% và cho vay dài hạn chiếm 14.65%. Tỷ lệ này tương ứng của năm 2004 là 73.10% - 7.11% - 19.78% và năm 2005 là 72.32% - 5.77% - 21.89%. Như vậy, nguồn cho vay trung hạn có giảm song cho vay dài hạn lại tăng dần qua các năm. Trong hoạt động cho vay thì chủ yếu vẫn là cho vay bằng VNĐ vì khách hàng của NHCT khu vực Cầu Giấy chủ yếu là doanh nghiệp trong nước, hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu ít.
2.1.3.3.Hoạt động kinh doanh khác
Ngoài hai hoạt động chính, NHCT cũng luôn chú trọng đến các mặt hoạt động khác của ngân hàng mình.
Về hoạt động tài trợ thương mại: Tổng số L/C đã phát hành trong năm 2005 là 150 món với giá trị 26,2 triệu USD, giảm 111 món với giá trị 37,3 triêuj USD so với năm 2004. Thực hiện chi trả kiều hối 213 món với giá trị 702.000 USD, tăng 106.000 USD so với năm 2004. tổng phí thu được từ hoạt động tài trợ thương mại là 5.394 triệu VNĐ, tăng 2.348 triệu VNĐ so với 31/12/2004.
Về hoạt động kế toán, thanh toán: Tính đến t._. lực, kinh nghiệm đánh giá xem xét tính khả thi của dự án trên toàn bộ các phương diện kỹ thuật, tài chính, kinh tế xã hội để đưa ra quyết định đúng đắn có nên cho vay hay không. CBTD cần phải xem xét hiệu quả phương án, dự tính được luồng tiền, thời gian thu hồi vốn đầu tư, doanh thu, chi phí dự tính, lợi nhuận từ dự án,...
Ngoài ra thông qua quá trình thẩm định, CBTD có thể tư vấn thêm cho DNNQD những vấn đề có liên quan đến tình hình khả thi của dự án, phòng tránh rủi ro cho cả doanh nghiệp và ngân hàng. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng của công tác thẩm định, ngân hàng cũng phải chú ý đến công tác kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ bảo đảm thực hiện nghiêm túc các điều kiện, yêu cầu của quy trình tín dụng.
- Qua các báo cáo thường kỳ của doanh nghiệp kết hợp với sự giám sát của cán bộ chuyên môn để đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng quản lý tài chính của giám đốc DNNQD.
- Về vấn đề tài sản thế chấp: Hiện nay NHCT Cầu Giấy qui định khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phải có tài sản thế chấp hoặc phải có tín chấp của bên thứ ba khi cho vay. Bởi vì ngân hàng thấy rằng cho vay có tài sản thế chấp là an toàn nhất, bởi khả năng phát mại tài sản để thu hồi nợ khi doanh nghiệp không trả nợ đúng hạn. Tuy nhiên việc quá tin tưởng vào tài sản thế chấp đã gây một vài hạn chế trong hoạt động cho vay của ngân hàng cả về quy mô lẫn chất lượng tín dụng. Bởi vì có rất nhiều DNNQD có phương án sản xuất kinh doanh khả thi nhưng do không có tài sản thế chấp hoặc có nhưng các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu không rõ ràng. Mặt khác chính bản thân tài sản thế chấp cũng chứa đựng nhiều rủi ro khi có biến động về giá. Do đó ngân hàng cần phải nhìn lại vấn đề về tài sản thế chấp, coi đó là điều kiện trong cho vay chứ không nhất thiết phải là một nguyên tắc.
3.2.4.Đổi mới cơ chế cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Nguyên tắc quan trọng đặt lên hàng đầu trong hoạt động cho vay là "an toàn và hiệu quả" song thực tế trong công tác cho vay đã xảy ra một số mâu thuẫn cần giải quyết hài hoà là tăng doanh số cho vay, tăng dư nợ nhưng phải giảm tỷ lệ nợ quá hạn. Yêu cầu đặt ra đối với cơ chế cho vay là phải gọn nhẹ, linh hoạt, phù hợp với từng loại hình kinh tế, từng loại hình doanh nghiệp, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động cho vay trên cơ sở phân tán rủi ro, và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Về thủ tục cho vay:
Những thủ tục trong quá trình xin vay vốn ngân hàng còn gây khá nhiều khó khăn cho DNNQD khi đến vay, cả về thời gian và qui trình. Những thủ tục phức tạp này không làm giảm rủi ro tín dụng mà lại làm giảm sự hài lòng của khách hàng đối với ngân hàng nên ngân hàng có thể thực hiện một số biện pháp sau:
Rút ngắn thời gian xét duyệt vốn: Doanh nghiệp đi vay luôn muốn được vay nhanh chóng, vì vậy CBTD cần phải hoàn tất hồ sơ vay vốn trong thời gian ngắn nhất nhưng vẫn phải đảm bảo yếu tố đúng và đầy đủ. Ngân hàng có thể kết hợp với phòng công chứng Nhà nước để chứng nhận giấy tờ vừa chính xác vừa đảm bảo thời gian nhanh chóng.
Tạo sự đơn giản, dễ hiểu về thủ tục cho vay phù hợp với mọi đối tượng khách hàng: CBTD cần hướng dẫn DNNQD về những giấy tờ cần thiết một cách rõ ràng, để họ hiểu và thông cảm với những khó khăn của ngân hàng.
Về kỳ hạn vay:
Hiện nay ngân hàng chủ yếu cho vay ngắn hạn, cho vay trung dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ và cho vay đối với khu vực kinh tế quốc doanh vẫn còn chiếm tỷ trọng khá lớn. Trong khi đó nhu cầu vốn trung dài hạn ở DNNQD là rất lớn. Nhiều khi các đơn vị kinh tế thuộc khu vực này muốn mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị công nghệ nhưng gặp khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng nên đành bỏ lỡ cơ hội. Do đó NHCT Cầu Giấy nên định hướng cho vay trung dài hạn trong điều kiện tăng cường chất lượng quá trình thẩm định một cách kỹ lưỡng. Việc xác định kỳ hạn nợ không chỉ đơn thuần căn cứ vào bảng tổng kết tài sản, báo cáo kết quả kinh doanh, kế hoạch sản xuất mà còn phải dựa vào hợp đồng mua bán, tiêu thụ sản phẩm… Do vậy ngân hàng cần xác định kỳ hạn cho vay sao cho phù hợp với chu kỳ kinh doanh của khách hàng và tuổi thọ của máy móc thiết bị. Mỗi loại hình doanh nghiệp sản xuất có một chu kỳ sản xuất kinh doanh khác nhau do đó đối với từng loại hình kinh doanh của khách hàng mà ngân hàng tiến hành cho vay với kỳ hạn phù hợp.
Về lãi suất cho vay:
Lãi suất cho vay là vấn đề quan tâm không chỉ của ngân hàng mà các DNNQD cũng đặc biệt chú ý, vì lãi suất là điểm hội tụ của nhiều mối quan hệ liên quan trực tiếp tới lợi ích vật chất của các bên. Hiện nay ngân hàng đã thực hiện mức lãi suất linh hoạt đối với từng đối tượng khách hàng nhưng vẫn còn sự phân biệt đối với khu vực kinh tế NQD. Điều này làm nhu cầu về vốn của khách hàng thuộc thành phần kinh tế này không được đáp ứng vốn một cách đầy đủ. Ngân hàng nên mở rộng cho vay kinh tế NQD thông qua việc sử dụng mức lãi suất linh hoạt hơn tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này có thể vay vốn và kinh doanh có lãi. Ngân hàng có thể áp dụng mức lãi suất linh hoạt theo mức vốn vay.
Về cơ chế bảo đảm tiền vay:
Ngân hàng áp dụng rất nhiều hình thức đảm bảo tiền vay như thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, ký quỹ tiền gửi. Hiện nay ngân hàng chủ yếu áp dụng hình thức bảo đảm bằng tài sản thế chấp. Trong khi đó các khách hàng thuộc khu vực kinh tế NQD hầu như tài sản có giá trị rất thấp, thậm chí họ không có tài sản đáng kể để đem đi thế chấp, do đó họ không có điều kiện để vay vốn nhất là các nguồn vốn lớn. Vì vậy ngân hàng nên kết hợp nhiều hình thức bảo đảm khác nhau để giải quyết cho vay vốn.
- Đối với DNNQD được bảo lãnh tín dụng một phần và đủ tài sản thế chấp phần còn lại thì yêu cầu đơn vị thực hiện bảo đảm đủ nợ theo yêu cầu.
- Đối với những DNNQD được bảo lãnh tín dụng một phần và tài sản thế chấp không đủ để đảm bảo phần còn lại thì yêu cầu đơn vị dùng tài sản hình thành từ vốn vay tiếp tục bảo đảm cho phần còn lại.
- Đối với những DNNQD không đủ điều kiện để thực hiện như hai dạng trên thì ngân hàng phải chú trọng thẩm định dự án, phương án vay vốn và phải thông qua hội đồng tín dụng, ban giám đốc ngân hàng để quyết định xem có cho vay hay không và hạn mức cho vay là bao nhiêu.
Hiện nay khi đi vay ngân hàng, các đơn vị kinh tế NQD thường quan tâm nhiều đến tài sản thế chấp. Nhưng bản thân tài sản thế chấp cũng chứa đựng nhiều rủi ro như quyền sở hữu tài sản mang thế chấp, sự biến động giá cả và những tác động khác gây hư hại cho tài sản thế chấp. Mặt khác việc thanh - xử lý tài sản thế chấp cũng không phải dễ dàng và không có ngân hàng nào cho vay mà lại mong muốn phải dùng đến biện pháp cuối cùng là xử lý tài sản thế chấp.
Ngoài hình thức thế chấp tài sản ngân hàng nên phát triển các hình thức bảo đảm khác theo hướng sau:
- Phát triển bảo đảm bằng các chứng từ có giá. Đây cũng là một loại tài sản đem cầm cố nhưng đó là một loại đặc biệt. Ưu điểm của loại tài sản này là gọn nhẹ, không bị tác động của yếu tố môi trường, những tác động lý hoá nên dễ bảo quản, và ưu điểm lớn nhất của loại tài sản này là có khả năng sinh lời, tất nhiên là vẫn còn những yếu tố rủi ro do những tác động kinh tế. Tuy nhiên, trong điều kiện thị trường chứng khoán như nước ta hiện nay thì loại giấy tờ có giá mà tính ổn định cao chứa đựng ít rủi ro là các trái phiếu chính phủ, vì vậy mà ngân hàng nên mở rộng hình thức bảo đảm bằng loại tài sản này.
- Cho vay bằng bảo lãnh của bên thứ ba cũng là hình thức có nhiều ưu điểm giúp cho các DNNQD mới thành lập có điều kiện vay vốn ngân hàng. Tuy nhiên ở nước ta hoạt động bảo lãnh vẫn còn hạn hẹp và quy chế bảo lãnh chưa đầy đủ. Do vậy cần có những chính sách, quy chế cụ thể để phát huy tốt nhất những ưu thế của hình thức bảo lãnh.
- Ngoài ra còn có những hình thức bảo đảm bằng các khoản phải thu, hàng tồn kho, hoặc cho vay dựa vào thế chấp các hàng hoá, thiết bị được hình thành từ vốn vay. Các hình thức này đòi hỏi thủ tục hành chính và sự giám sát thường xuyên của CBTD.
Mỗi hình thức bảo đảm tiền vay đều có những ưu và nhược điểm riêng, tuy nhiên việc sử dụng chúng một cách linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng DNNQD thì sẽ tạo điều kiện cho thành phần kinh tế NQD tiếp cận được với nguồn vốn mà vẫn đảm bảo an toàn cho ngân hàng.
Về phương thức cho vay:
NHCT Cầu Giấy cần phải đa dạng hoá các phương thức cho vay. Hiện nay mới chỉ cho vay DNNQD theo hạn mức tín dụng, cho vay từng lần còn cho vay theo dự án đầu tư nhưng chiếm một tỷ lệ nhỏ. Mỗi phương thức cho vay đều có những ưu, nhược điểm nhất định, ngân hàng có thể xem xét, áp dụng từng phương thức cho vay đối với từng loại hình DNNQD, tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn sử dụng tốt vốn vay.
Như vậy phát huy phương pháp cho vay theo hạn mức tín dụng đối với khu vực kinh tế DNNQD. Tuy nhiên, ngân hàng có thể cho những khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh vay hoặc buộc họ có tài sản thế chấp để đảm bảo. Nếu sau một thời gian khách hàng không trả dần nợ vay để làm giảm dư nợ tín dụng trên tài khoản cho vay theo hạn mức hay có dấu hiệu chiếm dụng vốn vay thì khi đó ngân hàng có thể tạm ngừng cung cấp tiếp vốn vay, yêu cầu khách hàng thực hiện đúng các khoản trong hợp đồng tín dụng và chuyển cho vay từng món đối với số tiền vay đã phát hành.
Ngoài ra, ngân hàng nên áp dụng nghiệp vụ thấu chi, ưu điểm của nghiệp vụ này là khách hàng được sử dụng vốn và tiền vay một cách linh hoạt và chủ động. Đối với khách hàng có năng lực tài chính lành mạnh, tài khoản tiền gửi phát sinh không thường xuyên, đồng thời phát sinh nợ chỉ trong thời gian ngắn thì ngân hàng nên cho phép khách hàng sử dụng tài khoản vãng lai. Khi tài khoản này là dư có thì khách hàng là chủ nợ của ngân hàng và ngược lại thì ngân hàng là chủ nợ của khách hàng. Tuy nhiên tài khoản chỉ được sử dụng trong một thời gian nhất định.
3.2.5.Tăng cường các biện pháp thu hồi nợ quá hạn, nợ gia hạn.
NHCT Cầu Giấy cần tập trung thực hiện ngay một số nội dung như:
Rà soát lại chỉ tiêu nợ quá hạn năm 2005 do Ngân hàng Công thương Việt Nam giao. Đánh giá phân loại nợ quá hạn, nợ gia hạn theo nguyên nhân của từng khoản nợ. Đề ra kế hoạch và biện pháp xử lý cụ thể, tập trung cán bộ thu nợ, không để tình trạng nợ nần kéo dài. Đặc biệt là tất cả các khoản nợ quá hạn phát sinh trong 9 tháng đầu năm 2005 cần tập trung bằng mọi biện pháp thu được nợ quá hạn này dứt điểm trong 3 tháng còn lại năm 2005. đối với những khoản nợ đọng do khách hàng cố tình chây ỳ thì chi nhánh tiến hành các thủ tục khởi kiện và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng tổ chức cưỡng chế, phát mại tài sản thu hồi nợ theo quy định của pháp luật. Đối với một số khách hàng tạm thời gặp khó khăn dẫn đến chưa trả được nợ ngân hàng, chi nhánh phải xem xét cụ thể từng trường hợp để quyết định có cho vay tiếp hay không, nếu cho vay tiếp phải đảm bảo khách hàng khắc phục được khó khăn trả được nợ ngân hàng với số tiền thu hồi nợ lớn hơn số tiền cho vay thêm, đồng thời yêu cầu khách hàng thực hiện biện pháp bổ sung tài sản thế chấp đảm bảo số nợ vay tại chi nhánh.
Bên cạnh đó thực hiện tốt chiến lược khách hàng là DNNQD, thực hiện tốt chính sách khách hàng, thường xuyên quan tâm chăm sóc phục vụ tốt và dành hạn mức tín dụng để đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn tín dụng hợp lý, hiệu quả của những khách hàng tốt; tích cực khai thác, tiếp thị các khách hàng tốt, các nhu cầu vay vốn thu mua nông sản, lương thực xuất khẩu, kinh doanh hàng phục vụ tế. Các phương án kinh doanh có hiệu quả (chú trọng cho vay vốn ngắn hạn) để thẩm định phải được chú trọng tăng cường kiểm tra kiểm soát đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích, thu hồi nợ đầy đủ, đúng hạn.
- NHCT Cầu Giấy nên giao trách nhiệm cụ thể bằng văn bản đối với từng thành viên Ban giám đốc, Trưởng phòng và cán bộ kinh doanh trong việc thực hiện chỉ tiêu, tiến bộ thu nợ quá hạn, nợ gia hạn. Gắn kết quả thực hiện với xếp lương kinh doanh, xếp loại thi đua, đánh giá cán bộ. Định kỳ hàng tuần, tháng tổ chức họp phân tích, đánh giá chi tiết thực trạng từng khoản nợ, tiến độ thu nợ, những khó khăn vướng mắc và giải pháp tháo gỡ. Chỉ đạo thực hiện mọi biện pháp để tận thu nợ quá hạn cũ và thu hồi triệt để nợ quá hạn, nợ gia hạn mới phát sinh trong 9 tháng đầu năm 2005.
- Thành lập tổ thu hồi nợ quá hạn: gồm trưởng phòng và các CBTD , đồng thời cũng bầu một người có kinh nghiệm làm tổ trưởng tổ thu hồi nợ (thường là đồng chí trưởng phòng). Tổ thu hồi nợ có trách nhiệm đề ra các biện pháp thích hợp thu hồi nợ cụ thể đối với từng khách hàng và báo cáo tiến độ thu hồi nợ với Ban giám đốc. Hiện nay ở NHCT Cầu Giấy thì một cán bộ tín dụng phải chịu rất nhiều trách nhiệm, và phải thực hiện nhiều công việc một lúc: có thể vừa phải đi thu hồi món cũ về, vừa phải thẩm định cho vay món mới. Trong khi đó việc thu hồi nợ thường gây mất nhiều thời gian, bên cạnh đó lại ảnh hưởng tâm lý của CBTD, nhiều khi khiến họ bỏ qua những khách hàng tốt hoặc lại sai lầm trong cho vay món mới. Như vậy rõ ràng sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất làm việc của CBTD, trong khi đó NHCT Cầu Giấy là một ngân hàng mới, trong giai đoạn hiện nay lại gặp nhiều khoản nợ quá hạn, trong đó nợ quá hạn cho vay NQD chiếm một tỷ trọng khá cao. Vì thế theo tôi thì việc thành lập hằn một tổ thu hồi nợ là hợp lý, vừa để giải quyết triệt để những món vay quá hạn vừa không ảnh hưởng đến hiệu suất và nếu có thể thành lập hẳn một phòng nhỏ thu hồi nợ.
3.2.6.Thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro cho vay ngoài quốc doanh.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, rủi ro là một vấn đề không thể tránh khỏi Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thì rủi ro có thể nói là một đặc trưng, một nguy cơ thường trực với muôn hình vẻ. Mà trong khi đó rủi ro lại là nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của một ngân hàng. Khi rủi ro tăng, nợ khó đòi không thể thu hồi được là thực tế thì lợi nhuận kinh doanh sẽ lập tức sụt giảm, thêm vào đó là uy tín của một ngân hàng cũng sẽ bị giảm. Trong khi đó tại NHCT Cầu Giấy thì nợ quá hạn cho vay NQD đang chiếm một tỷ trọng lớn, với mức ảnh hưởng ngày càng tăng của việc cho vay thành phần kinh tế này trong một vài năm tới thì đương nhiên là lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Như vậy thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong cho vay NQD là hoạt động hết sức cần thiết và quan trọng đối với NHCT Cầu Giấy để có được hiệu quả kinh doanh tốt. Các biện pháp cụ thể để thực hiện là:
- Chủ động phân tán, hạn chế rủi ro:
Điều này có nghĩa rủi ro ở một mức độ nào đó là chắc chắn phải có nhưng nếu rủi ro xảy ra ngắt quãng về thời gian, phân tán về không gian cũng như lĩnh vực thì thiệt hại có thể sẽ không dẫn đến sự bất ổn trong kinh doanh ngân hàng. Như vậy đối với kinh doanh tín dụng mức rủi ro làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và kết quả kinh doanh của mỗi ngân hàng như thế nào lại phụ thuộc vào chính khả năng ngăn ngừa và khắc phục của mỗi ngân hàng.
Phân tán rủi ro là một giải pháp có tính chủ động và ngăn ngừa có tích cực những hậu quả lớn có thể xảy ra đối với mỗi ngân hàng. Việc phân tán rủi ro được thực hiện thông qua phân tán dư nợ, nó được biểu thị dưới hình thức mỗi ngân hàng nên đa dạng hoá ngành nghề cho vay, không nên tập trung quá nhiều vốn cho một người vay, hạn chế cho vay những lĩnh vực có độ rủi ro cao, những lĩnh vực kinh doanh hay sản phẩm mà thị trường đã có dấu hiệu bão hoà, sản phẩm sản xuất ra không có khả năng cạnh tranh,…
- Nghiên cứu và hình thành các bảo đảm tín dụng chắc chắn: có hai phương thức bảo đảm cơ bản đó là bảo đảm bằng uy tín và bảo đảm bằng tài sản. Đối với bảo đảm bằng uy tín thì hiện nay các ngân hàng cũng đã hạn chế rất nhiều, và xét chung thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ lẻ, cũng không có sự bảo trợ của Nhà nước nên cũng nên hạn chế.
Đối với bảo đảm bằng tài sản thì nó lại tuỳ thuộc vào những khoản vay nhất định và tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng để có những tài sản đảm bảo phù hợp nhất định. Khi nhận một tài sản làm đảm bảo cho một khoản vay phải xem xét kỹ lưỡng và chắc chắn rằng có thể đánh giá tương đối chính xác giá trị của TSBĐ đó.
Trên thực tế áp dụng, nếu ngân hàng làm tốt khâu TSBĐ, kiên quyết từ chối cho vay nếu tài sản đảm bảo không đầy đủ, rõ ràng thì chắc chắn sẽ hạn chế được phần lớn những rủi ro, đảm bảo một nguồn thu hồi nợ thứ hai chắc chắn khi khách hàng không thanh toán được món nợ.
- Xây dựng một hệ thống thông tin tốt:
Nắm bắt thông tin tốt về các DNNQD sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng có quyết định cho vay đúng hạn chế rủi ro. Mặt khác, nắm bắt thông tin tốt, ngân hàng sẽ phân tích đánh giá "định lượng được rủi ro, có những dự báo dự đoán được diễn biến của tình hình thị trường, của nền kinh tế. Dự báo, dự đoán được tính hiệu quả, khả thi của dự án trong tương lai từ đó đưa ra quyết định đầu tư hay không đối với các dự án lớn, dự án trung dài hạn. Đây là giải pháp ngân hàng nên quan tâm và thực hiện trong một môi trường mà thông tin trở thành tài nguyên, nguồn lực đối với sự phát triển kinh tế. Theo đó cần phải xây dựng và tổ chức tốt hệ thống thông tin: bao gồm thông tin tín dụng; thông tin khách hàng và thông tin về nền kinh tế, thông tin pháp luật, thông tin thị trường và mức độ ứng dụng công nghệ cao cho phép thu thập và xử lý thông tin nhanh, đảm bảo tính cập nhật và chính xác.
- Thực hiện quan hệ trao đổi thông tin tốt giữa các TCTD với nhau và với NHNN, với các tổ chức kinh tế. Tận dụng nguồn thông tin của trung tâm thông tin tín dụng (CIC).
- Phát triển mạng thông tin nội bộ và xây dựng trang web, kết nối Internet để thường xuyên khai thác thông tin về tình hình kinh tế chính trị - xã hội trong nước và quốc tế, nắm bắt kịp thời diễn biến của tình hình thị trường của doanh nghiệp.
- Tham gia đầy đủ vào hệ thống thông tin tín dụng của Nhà nước với tư cách thành viên, thực hiện nghiêm túc các quy định của quy chế thông tin tín dụng do NHNN ban hành.
- Có quy định bắt buộc đối với doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với ngân hàng định kỳ phải gửi báo cáo tài chính quý, 6 tháng, năm đầy đủ, kịp thời và chính xác.
3.2.7.Khai thác tốt các chương trình hỗ trợ DNNQD.
Thứ nhất, làm tốt công tác tư vấn, hỗ trợ DNNQD trong quá trình tạo lập và xây dựng dự án khả thi; tư vấn tốt cho khách hàng về thực hiện thủ tục vay vốn, quan hệ giao dịch với ngân hàng. Hạn chế tối đa những vướng mắc, lúng túng không cần thiết từ các DNNQD khi quan hệ tín dụng với ngân hàng, loại bỏ những trung gian, dịch vụ gây sự phiền hà và tốn kém cho doanh nghiệp.
Thứ hai, mở rộng tài trợ DNNQD dưới hình thức cho thuê tài chính.
Khu vực NQD phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này có vốn tự có thấp, tài sản dùng để thế chấp, cầm cố vay vốn ngân hàng ít. Bởi vậy, vay vốn NH dưới hình thức thế chấp, cầm cố tài sản là rất khó khăn. Vay vốn dưới hình thức tín chấp lại không đủ điều kiện quy định của ngân hàng cho vay. Cho nên, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế này huy động vốn dưới hình thức đi thuê tài chính là tối ưu. Khi ngân hàng mở rộng hình thức tài trợ này sẽ phát huy được những tác dụng :
- Doanh nghiệp không có hoặc có tài sản thế chấp, cầm cố ít vẫn thuê được tài sản để sử dụng cho quá trình sản xuất kinh doanh.
- Tiền thuê được trả dần theo nhiều năm, do đó không gây khó khăn tài chính cho doanh nghiệp đi thuê.
- Doanh nghiệp có đủ điều kiện máy móc, thiết bị đảm bảo kỹ thuật tiên tiến và công nghệ mới cho sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm mới đủ tiêu chuẩn cạnh tranh trên thị trường.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1.Kiến nghị đối với Nhà nước và các cơ quan hữu quan
Những năm gần đây Chính phủ đã thể hiện quan điểm phát triển bình đẳng các thành phần kinh tế: giữa các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh. Tuy nhiên những động thái cụ thể về vấn đề này vẫn chưa được thể hiện rõ ràng. Để DNNQD có những bước phát triển vượt bậc hơn nhờ những chính sách của Nhà nước, em xin đề xuất một số ý kiến sau:
Luật doanh nghiệp đã có hiệu lực thi hành từ 01/07/2006, Chính phủ khẩn trương yêu cầu các Bộ chức năng xây dựng xong các dự thảo Nghị định triển khai luật mặt này, trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành, tạo môi trường pháp lý cho các DNNQD phát triển đúng pháp luật, vững chắc, ổn định, sớm cho ra đời luật cạnh tranh…
Các cơ quan hữu quan Nhà nước tăng cường kiểm tra hoạt động của các DNNQD, đảm bảo các doanh nghiệp này hoạt động đúng pháp luật, thực hiện đúng pháp lệnh kế toán thống kê, yêu cầu các doanh nghiệp có số vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên hoặc 10 tỷ đồng trở lên, hàng năm dứt phải thực hiện kiểm toán. Song cũng tránh tình trạng kiểm tra, kiểm tra quá nhiều, chồng chéo,… gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước để không gây khó khăn cho sự phát triển DNNQD.
Chính phủ mạnh dạn cổ phần hoá ngay các doanh nghiệp của Nhà nước có quy mô vốn lớn, đang hoạt động có hiệu quả, mà không phải thuộc lĩnh vực quan trọng như Công ty Bia Sài Gòn, Công ty Sữa Việt Nam, một số Công ty Xi măng, Nhà máy Mía đường, May mặc,… tạo sự đột phá tăng tốc đẩy nhanh thực sự quá trình cổ phần hoá DNNN thúc đẩy thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả.
Chính phủ kiên quyết thực hiện đúng cam kết với IMF, ADB, WB, WTO, AFTA,… về cải tổ DNNN, chống bao cấp, bảo trợ quá mức cho DNNN, thúc đẩy phát triển DNNQD.
Không hình sự hoá các quan hệ kinh tế - dân sự trong quan hệ vay vốn giữa các ngân hàng khi xảy ra các tranh chấp khi doanh nghiệp không trả được nợ cho ngân hàng.
Chính phủ cho phép các DNNQD hoạt động có hiệu quả, được vay vốn ngân hàng đến mức 100 triệu, hoặc 200 triệu đồng không phải thế chấp tài sản, miễn là đảm bảo được 3 điều kiện: dự án có hiệu quả, doanh nghiệp 3 năm liền kề có lãi, tình hình tài chính mạnh và có uy tín trong quan hệ vay vốn với ngân hàng.
Chính phủ có chính sách xử lý rủi ro đối với các ngân hàng cho vay vốn DNNQD, bình đẳng như đối với DNNN như: khoanh nợ, giảm nợ, xoá nợ, ân hạn, gia hạn, ưu đãi lãi suất
Xây dựng dự án, đàm phán thu hút tài trợ của nước ngoài, các tổ chức quốc tế về: Đào tạo nâng cao trình độ quản lý kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp Việt Nam; xây dựng và cung cấp thông tin thị trường thế giới cho các DNNQD; giúp đỡ về công nghệ, hợp tác kinh doanh, tài trợ vốn ban đầu thành lập.
Có chính sách đáp ứng nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu cho các DNNQD bình đẳng như các DNNN.
Cho phép kinh tế tư nhân tham gia vào hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, thương mại, xuất nhập khẩu ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế mà lâu nay thuộc độc quyền của các DNNN, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế.
3.3.2.Kiến nghị đối với NHNN.
NHNN cần thực hiện nhanh có hiệu quả chương trình cải tổ, cơ cấu lại ngành Ngân hàng Việt Nam.
Thu hút các dự án, chương trình của quốc tế, các nước khác trong khu vực và trên thế giới, hỗ trợ ngành Ngân hàng Việt Nam về đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ quản lý, điều hành hoạt động ngân hàng theo trình độ quốc tế; đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, thẩm định dự án, đánh giá dự án, phân tích đánh giá rủi ro cho cán bộ ngân hàng; trang bị công nghệ Ngân hàng hiện đại.
Sửa đổi cơ chế, chính sách về cho vay, bảo lãnh theo hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các ngân hàng, tăng thu nhập, tăng lương cho chủ ngân hàng và cán bộ ngân hàng.
Nghiên cứu, xem xét có thể trong một số năm tới tiến hành cổ phần hoá 1 - 2 NHTM quốc doanh, nhưng Nhà nước vẫn nắm giữ trên 50% vốn cổ phần; trong tổng số 6 NHTM quốc doanh hiện có. Tất nhiên cũng cần xem xét yếu tố khác là trong cơ cấu hiện tại, thì số lượng NHTM cổ phần có quá đông không, trong khi thị phần còn nhỏ.
Thực hiện đúng lộ trình mở cửa hoạt động ngân hàng với nước ngoài, bãi bỏ các quy định hạn chế hoạt động của các NH ở Việt Nam, theo cam kết với hiệp định thương mại Việt Mĩ, AFTA. Cho phép thêm một số ngân hàng của Nhật, Mĩ, Khối EU mở chi nhánh hoạt động ở Việt Nam; tạo môi trường cạnh tranh thông thoáng cho hoạt động ngân hàng, thúc đẩy thị trường vốn phát triển.
3.3.3.Kiến nghị đối với NHCT TW
NHCT khu vực Cầu Giấy là chi nhánh cấp I của NHCT cho vay vì vậy NHCT TW cần có những định hướng đối với chi nhánh:
Hỗ trợ cho NHCT Cầu Giấy chi phí để hiện đại hoá cơ sở trang thiết bị, mua sắm máy móc để thực hiện tốt công tác thẩm định và lưu trữ, đánh giá thông tin về khách hàng. Thu thập các thông tin về cãc DNNQD hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội, các tổ chức tín dụng cạnh tranh với chi nhánh, cũng như đánh giá xu thế phát triển của thị trường. Từ đó đưa ra lãi suất chỉ đạo hợp lý giúp chi nhánh điều chỉnh khung lãi suất cho vay của mình cho phù hợp, tăng khả năng cạnh tranh của chi nhánh và giúp chi nhánh thu hút thêm khách hàng.
Tổ chức thanh tra, kiểm soát nội bộ định kỳ và bất thường, hướng dẫn chi nhánh thực hiện tự kiểm tra để phát hiện những sai sót, kịp thời sửa chữa, tránh những hậu quả nghiêm trọng và thực hiện theo đúng đường lối, chính sách đã đề ra. NHCT TW cũng phải có kịp thời các văn bản và hướng dẫn nghiệp vụ khi có các văn bản của Nhà nước, của các ngành liên quan được phát hành.
Thường xuyên quan tâm xem xét hoạt động kinh doanh tại chi nhánh để có những chiến lược cụ thể, phù hợp với khả năng của chi nhánh. Tổ chức các khoá học đào tạo và nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ tín dụng trẻ. Bên cạnh đó cũng phải thường xuyên tổ chức những buổi thảo luận chuyên ngành ngân hàng để các cán bộ tín dụng trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của nhau. Có chế độ khen thưởng rõ ràng, công minh, xứng đáng cho các chi nhánh nhằm khuyến khích, thúc đẩy các chi nhánh hoạt động có hiệu quả hơn và tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chi nhánh trong cùng hệ thống NHCT.
3.2.4.Kiến nghị đối với các DNNQD.
Trong thời gian qua tỷ trọng cho vay đối với thành phần kinh tế NQD có tăng nhưng ở một tốc độ khá chậm. Nguyên nhân thực tế lại xuất phát chủ yếu từ các DNNQD.
Thứ nhất, từ năm 1996 hàng loạt các DNNQD làm ăn thua lỗ, bị phá sản. Hàng loạt vụ án lớn đối với DNNQD vay số vốn NH rất lớn bị đưa ra xét xử, cán bộ tín dụng NH lo sợ không dám mở rộng cho vay như trước đây. Trong khi đó nhiều các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực quan trọng như: Dầu khí, Bưu chính viễn thông, xăng dầu, hàng hải, điện lực, xây dựng, giao thông, xi măng,… vay vốn với các dự án lớn cho thi công làm cho dư nợ cho vay được phục hồi trở lại.
Thứ hai, các DNNQD cần nâng cao uy tín của mình vì những năm qua Nhà nước bị thất thu thuế với tỷ lệ cao nhất, các vụ án bị đưa ra xét xử nhiều nhất, nhiều vụ đổ vỡ, lừa đảo, phá sản xảy ra, cơ quan quản lý Nhà nước kêu ca nhiều về DNNQD, tỷ lệ nợ quá hạn của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn khá cao.
Thứ ba, đa số các DNNQD thiếu vốn khi thành lập và cả trong quá trình kinh doanh. Trong quá trình hoạt động kinh doanh thường chiếm dụng vốn của đối tác kinh doanh đến khi mất khả năng thanh toán thì lừa đảo ngân hàng, giả mạo giấy tờ xin vay vốn và lừa đảo đối tác kinh doanh.
Thứ tư, nhiều DNNQD trong hoạt động trái chức năng được phép, buôn lậu, lừa đảo. Một số DNNQD mở rộng quy mô kinh doanh quá lớn, thực hiện nhiều chức năng vượt quá khả năng quản lý.
Thứ năm, Nhiều chủ DNNQD không có kiến thức quản lý, không có trình độ chuyên môn, thậm chí trình độ văn hoá thấp, không đủ khả năng xây dựng dự án đầu tư xin vay vốn NH theo quy định. Trình độ tay nghề công nhân thấp.
Thứ sáu, thiếu thông tin về thị trường, nhất là thị trường quốc tế, trình độ công nghệ và chất lượng sản phẩm thiếu sức cạnh tranh.
Thứ bảy, phần đông DNNQD không thực hiện nghiêm túc pháp lệnh kế toán, thống kê. Do đó không có báo cáo tài chính tin cậy.
Như vậy, trước hết DNNQD phải tự chịu trách nhiệm về khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của mình. Chỉ khi DNNQD làm ăn có hiệu quả thì tự khắc nguồn vốn NH sẽ chảy vào. Cụ thể:
Ngay từ khi mới thành lập DNNQD phải có được mục đích kinh doanh chính đáng lành mạnh vào những lĩnh vực phát triển mạnh hoặc những lĩnh vực mà mình có khả năng hay ưu thế nhất định.
Khi đi vào hoạt động phải có kế hoạch chiến lược kinh doanh phù hợp với điều kiện, chủ động tiếp cận thì trường nắm bắt cơ hội, xây dựng được các dự án chiến lược khả thi, có hiệu quả, sản phẩm có khả năng cạnh tranh.
Các DNNQD phải chủ động trong việc đi tìm kiếm nguồn vốn và phải nhận thức được vai trò quan trọng của nguồn vốn vay từ ngân hàng, lãi suất phải trả ngân hàng là một chi phí mà doanh nghiệp được từ đi khi tính thuế. Do đó doanh nghiệp phải nhận thức được vấn đề "tiết kiệm thuế nhờ lãi suất ngân hàng".
Một vấn đề cũng hết sức quan trọng đó là nâng cao trình độ cán bộ lãnh đạo, một người chủ có phẩm chất, có kiến thức ắt sẽ tự xây dựng được một doanh nghiệp vững mạnh. Bên cạnh đó cũng chú trọng công tác bồi dưỡng đào tạo cán bộ, công nhân để đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường.
KẾT LUẬN
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã có những bước phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Một trong những điều kiện hàng đầu để DNNQD có thể phát triển là vốn, mà đặc biệt là vốn vay ngân hàng. Trong mối quan hệ vay mượn, hai chủ thể ngân hàng và DNNQD đều đem lại lợi ích cho nhau, ngân hàng cần khách hàng đến vay vốn để phát triển còn DNNQD cần nguồn vốn vay từ ngân hàng để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy, đây là mối quan hệ tương hỗ, cần củng cố và phát triển. Trong hoạt động cho vay, chất lượng tín dụng luôn là vấn đề đáng quan tâm nhất của không chỉ ngân hàng mà cả DNNQD vì khi chất lượng tín dụng được đảm bảo thì mối quan hệ giữa ngân hàng và DNNQD mới được bền chặt.
Đề tài của em đề cập đến vấn đề chất lượng cho vay đối với DNNQD tại NHCT Cầu Giấy, tìm hiểu thực trạng tại cơ sở để từ đó tìm ra nguyên nhân, khó khăn dẫn đến chất lượng các khoản vay của DNNQD chưa tốt. Từ đó đưa ra những giải pháp đối với NHCT Cầu Giấy và những kiến nghị đối với các cơ quan có liên quan để cùng nhau giải quyết, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trong thời gian tới.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Vũ Duy Hào và các cô chú, anh chị phòng Kinh doanh đối nội – NHCT Cầu Giấy đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành Chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36462.doc