MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
LỜI MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGÀNH XÂY DỰNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
3
1.1 Hoạt động cho vay của các NHTM
3
1.1.1 NHTM và các hoạt động cơ bản của NHTM
3
1.1.2 Hoạt động cho vay của các NHTM
8
1.2 Cho vay đối với doanh nghiệp ngành xây dựng tại NHTM
10
1.2.1 Khái quát về doanh nghiệp ngành xây dựng
10
1.2.2 Cho vay đối với doanh nghiệp ngành xây dựng tạ
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1346 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay Doanh nghiệp Ngành Xây dựng tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Eximbank Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i NHTM
14
1.3 Chất lượng cho vay của các NHTM đối với DNNXD
26
1.3.1 Khái niệm chất lượng cho vay của các NHTM
26
1.3.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay DNNXD của các NHTM
28
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay DNNXD của các NHTM
32
1.4.1 Các nhân tố thuộc về ngân hàng
32
1.4.2 Các nhân tố thuộc về các DNNXD
34
1.4.3 Các nhân tố khác
35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY DNNXD TẠI CHI NHÁNH NHTMCP XNK EXIMBANK HÀ NỘI
37
2.1 Khái quát về Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội
37
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội
37
2.1.2 Sơ đồ bộ máy tổ chức và điều hành của Chi nhánh Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội
42
2.1.3 Các hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội qua các năm (2005-2007)
43
2.1.4 Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội qua các năm (2005-2007)
44
2.2 Thực trạng chất lượng cho vay DNNXD tại Chi nhánh NHTMCP Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội
49
2.2.1 Thực trạng hoạt động cho vay DNNXD tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội
49
2.2.2 Phân tích chất lượng hoạt động cho vay DNNXD tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội
52
2.3 Đánh giá thực trạng chất lượng cho vay DNNXD tại Chi nhánh NHTMCP Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội
55
2.3.1 Kết quả đạt được
55
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân
57
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY DNNXD TẠI CHI NHÁNH NHTMCP XNK EXIMBANK HÀ NỘI
62
3.1 Định hướng phát triển hoạt động cho vay của Chi nhánh NHTMCP Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội trong thời gian tới
62
3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay DNNXD của Chi nhánh NHTMCP Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội
63
3.2.1 Xây dựng chính sách cho vay hợp lý
63
3.2.2 Hoàn thiện quy trình cho vay
67
3.2.3 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cho vay
70
3.3 Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng cho vay DNNXD của Chi nhánh NHTMCP Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội
71
3.3.1 Kiến nghị đối với NHTMCP XNK Eximbank
71
3.3.2 Kiến nghị đối với các DNNXD
71
3.3.3 Kiến nghị đối với Chính phủ và một số cơ quan, ban, ngành có liên quan
75
KẾT LUẬN
77
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI MỞ ĐẦU
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 03/2007/NQ-CP ngày 19/1/2007 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu điều hành thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước năm 2007, Chương trình công tác của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, năm qua, Bộ Xây dựng đã tập trung công tác xây dựng pháp luật, triển khai thực hiện các đề án được thông qua với tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là xây dựng đồng bộ, đầy đủ, hoàn chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về các lĩnh vực thuộc ngành Xây dựng theo hướng phủ kín các lĩnh vực hoạt động, phân cấp mạnh, rõ quyền, rõ trách nhiệm, các thủ tục đơn giản, thông thoáng tạo điều kiện phát huy nguồn lực, thúc đẩy các hoạt động xây dựng của các tổ chức và cá nhân theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. Với định hướng phát triển ngành Xây dựng công tác quản lý ngành ngày một hoàn thiện, các DNNXD đã đạt được sự tăng trưởng vượt bậc trong năm 2007. Bước vào năm 2008, những thuận lợi và khó khăn đan xen đòi hỏi toàn Ngành phải nỗ lực rất nhiều. Trong năm này, Ngành Xây dựng tiếp tục huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển, dự kiến thực hiện đầu tư hàng năm cho giai đoạn 2006 - 2010 của các đơn vị thuộc Bộ Xây dựng bình quân khoảng 25.000 tỷ đồng/năm. Nhu cầu về vốn của các DNNXD rất lớn, trong khi đó, các DNNXD - đặc biệt là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn cho vay của các NHTM.
Đối với Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội, DNNXD là một đối tượng khách hàng quan trọng, được quan tâm đặc biệt từ năm 2006 đến nay, với tỷ trọng dư nợ cho vay DNNXD luôn chiếm hơn 40% trong tổng dư nợ cho vay của Chi nhánh trong 2 năm 2006-2007. Tuy nhiên, công tác quản lý chất lượng cho vay của Chi nhánh đối với các DNNXD vẫn chưa được chú trọng bởi đây là đối tượng khách hàng mới, các cán bộ cho vay vẫn chưa có kinh nghiệm thẩm định, phân tích cũng như quản lý khoản cho vay. Do đó, việc nâng cao chất lượng cho vay DNNXD là một đòi hỏi cấp thiết trong bối cảnh cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gia tăng.
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu và thực tập tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội, em đã được tìm hiểu hoạt động cho vay DNNXD. Xuất phất từ thực trạng trên, em đã lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay Doanh nghiệp Ngành Xây dựng tại Chi nhánh NHTMCP Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chất lượng cho vay DNNXD của NHTM;
- Đánh giá thực trạng chất lượng cho vay DNNXD tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội;
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng cho vay DNNXD tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội.
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, kết cấu của chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chất lượng cho vay doanh nghiệp ngành xây dựng của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng của các doanh nghiệp ngành xây dựng tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp ngành xây dựng tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGÀNH XÂY DỰNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Hoạt động cho vay của các NHTM
1.1.1 NHTM và các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.1.1 Khái niệm NHTM
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Trong quá trình phát triển của nền sản xuất hàng hóa, tiền tệ ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu của việc mở rộng giao lưu kinh tế, mở rộng thị trường làm cho nền kinh tế phát triển. Quá trình đó phát sinh nhu cầu vay mượn vốn lẫn nhau giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Vốn được chuyển từ người có vốn nhàn rỗi sang người có nhu cầu về vốn để phục vụ sản xuất và lưu thông. Sự luân chuyển này dần dần thúc đẩy một nghề mới ra đời, đó là nghề kinh doanh tiền tệ. Chính trên cơ sở của sự phát triển đó, ngân hàng cũng đồng thời xuất hiện.
Nghề ngân hàng bắt đầu với những nghiệp vụ đầu tiên: hoạt động đổi tiền hoặc đúc tiền của những người thợ vàng, hoạt động cho vay nặng lãi của những người giàu, kèm theo các nghiệp vụ giữ hộ và thanh toán hộ. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ cũng như những điều chỉnh về luật pháp đối với hoạt động tài chính đã tạo điều kiện cho các ngân hàng mở rộng phạm vi hoạt động và đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Xem xét trên phương diện những loại hình dịch vụ mà các ngân hàng cung cấp, định nghĩa về ngân hàng được ghi nhận: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là cho vay, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. (PGS. TS. Phan Thị Thu Hà (2004), Giáo trình Ngân hàng thương mại , NXB Thống Kê, Hà Nội, tr. 11)
Trong quá trình hình thành và phát triển, hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh và xuất hiện ngày càng nhiều loại hình ngân hàng như ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, NHTM, ngân hàng trung ương,… Trong đó, trừ ngân hàng trung ương có chức năng xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia thì các ngân hàng còn lại dù có một số nghiệp vụ khác nhau song đều chung đặc điểm là thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ. NHTM cũng thực hiện các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng như huy động tiền gửi, thanh toán, cất giữ hộ và cho vay, trong đó các hoạt động huy động tiền gửi, thanh toán và cho vay được coi là hoạt động thường xuyên và chủ yếu.
Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 - được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2004, NHTM là tổ chức tài chính nằm trong hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam. “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm NHTM, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.” (Khoản 2, Điều 20)
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán.” (Khoản 7, Điều 20)
1.1.1.2 Vai trò của NHTM trong nền kinh tế
Nằm trong hệ thống ngân hàng, NHTM đóng góp vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Những vai trò cơ bản của NHTM là:
- Vai trò trung gian: Chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu từ các hộ gia đình, thành các khoản cho vay cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần khác để đầu tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác.
- Vai trò thanh toán: Thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ (như bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và phân phối tiền giấy và tiền đúc).
- Vai trò người bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán (chẳng hạn phát hành thư tín dụng).
- Vai trò đại lý: Thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán (thường được thực hiện tại phòng uỷ thác).
- Vai trò thực hiện chính sách: Thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội.
1.1.1.3 Các hoạt động cơ bản của NHTM
NHTM là loại hình tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và cung cấp các dịch vụ tài chính. Những hoạt động cơ bản của các NHTM là:
* Hoạt động huy động vốn
Để có nguồn vốn thực hiện hoạt động kinh doanh, cung cấp vốn cho nền kinh tế thì ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, ngân hàng phải huy động những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức và cá nhân trong xã hội bằng nhiều hình thức khác nhau. Trước đây, các ngân hàng chủ yếu nhận tiền gửi từ những người gửi tiết kiệm. Ngày nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, cùng với áp lực cạnh tranh, các ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động vốn khác nhau. Một lượng vốn lớn được các ngân hàng huy động thông qua tài khoản séc, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi,… Bên cạnh đó, khi cần vốn đáp ứng nhu cầu thanh khoản hay đầu tư, ngân hàng còn có thể vay các ngân hàng khác, thực hịên chiết khấu, tái chiết khấu tại ngân hàng trung ương, hoặc vay các tổ chức trong và ngoài nước. Để huy động vốn thông qua các hoạt động nhận tiền gửi, cung cấp tài khoản thanh toán, đi vay,… NHTM phải bỏ ra những chi phí nhất định như: lãi tiền gửi phải trả cho khách hàng gửi tiền, lãi tiền vay, chi phí giao dịch, …
Hoạt động huy động vốn là điều kiện cần để các ngân hàng thực hiện chức năng trung gian tài chính – môi giới giữa người cần vốn và người có vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Ngân hàng luôn phải tính toán sao cho nguồn vốn huy động được với quy mô đủ lớn, có cơ cấu phù hợp và chi phí huy động vừa phải để thu được kết quả kinh doanh tốt cho ngân hàng.
* Hoạt động sử dụng vốn
Việc sử dụng vốn là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng nhất đem lại tỷ trọng thu nhập lớn cho ngân hàng. Vốn được sử dụng theo các hướng cơ bản sau:
- Cho vay: Là hoạt động kinh doanh chính và sinh lời chủ yếu của ngân hàng nhưng đồng thời cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Ngân hàng cho vay các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế và tài trợ cho hoạt động của Chính phủ dưới nhiều hình thức khác nhau.
- Đầu tư: Các ngân hàng thực hiện hoạt động đầu tư bằng cách góp vốn vào các doanh nghiệp, tham gia dự án, phổ biến là mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận. Các chứng khoán mà ngân hàng nắm giữ thường là chứng khoán có tính thanh khoản cao giúp cho ngân hàng đảm bảo được khả năng thanh toán song vẫn đạt được hiệu quả kinh doanh.
- Thanh toán: Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ, thông qua đó ngân hàng thu phí. Để thanh toán nhanh chóng thuận tiện, ngân hàng cung cấp cho khách hàng nhiều phương thức thanh toán. Bên cạnh đó, các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc qua các trung tâm thanh toán.
* Các dịch vụ ngân hàng khác
Các dịch vụ ngân hàng khác là các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng qua đó ngân hàng có được một khoản thu dưới hình thức phí hoặc hoa hồng. Các dịch vụ này đang ngày càng phong phú và tiện lợi, góp phần tăng tính hợp dẫn của ngân hàng, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của khách hàng và yêu cầu của nền kinh tế phát triển, phù hợp với xu thế của thời đại. Các hoạt động này bao gồm: quản lý ngân quỹ, bảo quản vật có giá, mua bán ngoại tệ, cung cấp dịch vụ uỷ thác, bảo lãnh, tư vấn tài chính, cho thuê tài chính các dịch vụ tài chính khác,…
1.1.2 Hoạt động cho vay của các NHTM
1.1.2.1 Khái niệm cho vay
Theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN về việc Ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, cho vay là một hình thức cấp tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. (Khoản 1, Điều 3)
Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng để tài trợ chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan Chính phủ. Hoạt dộng cho vay của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực mà ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của doanh nghiệp, nâng cao đời sống của cá nhân, tạo ra sức sống cho nền kinh tế.
1.1.2.2 Phân loại hoạt động cho vay
Có nhiều tiêu chí để phân loại hoạt động cho vay của các ngân hàng, trong đó, những tiêu chí thường gặp là:
* Phân loại theo thời gian
Theo cách phân loại này, hoạt động cho vay của ngân hàng được phân thành 3 loại:
- Cho vay ngắn hạn: thời hạn cho vay từ 12 tháng trở xuống, thường tài trợ cho tài sản lưu động;
- Cho vay trung hạn: thời hạn cho vay từ 1 năm đến 5 năm, thường tài trợ cho tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, các trang thiết bị chóng hao mòn;
- Cho vay dài hạn: thời hạn cho vay trên 5 năm, thường tài trợ cho công trình xây dựng, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu.
* Phân loại theo hình thức đảm bảo
Về nguyên tắc, mọi khoản cho vay của ngân hàng đều phải có đảm bảo. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ ghi vào hợp đồng cho vay loại đảm bảo mà ngân hàng có thể bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả nợ. Do đó, theo hình thức đảm bảo có thể phân loại hoạt động cho vay thành 2 loại:
- Cho vay không cần tài sản đảm bảo: được cấp cho khách hàng có uy tín, các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc đối tượng có chỉ thị của Chính phủ là không cần tài sản đảm bảo.
- Cho vay dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải ký hợp đồng đảm bảo. Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận khoản cho vay về việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng. Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo, có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản tài sản đảm bảo.
* Phân loại theo mức độ rủi ro
Cho vay bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục cho vay, dự trù quỹ cho các khoản cho vay rủi ro cao, đánh giá chất lượng cho vay. Theo cách này, ngân hàng có thể phân loại các khoản cho vay thành 4 nhóm:
- Các khoản cho vay lành mạnh: là các khoản cho vay có khả năng thu hồi cao;
- Các khoản cho vay có vấn đề: các khoản cho vay có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính,…
- Các khoản nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn,…
- Các khoản nợ quá hạn khó đòi: là các khoản nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp có giá trị nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì,…
* Phân loại theo các tiêu chí khác
Có thể phân loại các khoản cho vay theo các tiêu chí khác như:
Theo đối tượng khách hàng (khách hàng mới, khách hàng có quan hệ lâu năm,…);
Theo ngành kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch,…);
Theo mục đích sử dụng (sản xuất, tiêu dùng);
…
Các cách phân loại trên cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Việc phân loại cho phép ngân hàng theo dõi và đánh giá các khoản cho vay để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp.
1.2 Cho vay đối với doanh nghiệp ngành xây dựng tại NHTM
1.2.1 Khái quát về doanh nghiệp ngành xây dựng
1.2.1.1 Xác định doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng
Có nhiều tiêu chí để phân loại các doanh nghiệp trong nền kinh tế, trong đó, dựa trên cơ sở phân loại theo ngành kinh tế, các doanh nghiệp được đưa vào các ngành: tài chính, y tế, nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, xây dựng,… Tuy nhiên, trong xu thế đa dạng hoá ngành nghề hiện nay, nhiều doanh nghiệp tham gia vào các ngành khác nhau để hạn chế rủi ro. Do đó, việc đưa một doanh nghiệp cụ thể vào ngành nào hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng đánh giá chủ quan của từng người. Song, ngành xây dựng có đặc thù là đòi hỏi vốn đầu tư lớn và dài hạn, yêu cầu phải có trình độ chuyên môn, thủ tục cấp phép phức tạp, và rủi ro ngành cao. Do đó, một doanh nghiệp khi quyết định tham gia vào lĩnh vực này thường tập trung tỷ trọng lớn nguồn vốn của doanh nghiệp đó vào các hoạt động xây dựng. Chính vì vậy, có thể đưa một doanh nghiệp vào ngành xây dựng khi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đó nằm trong các nhóm sau:
- Công nghiệp xây dựng;
- Công nghiệp cơ khí, chế tạo thiết bị phục vụ xây dựng;
- Công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng;
- Đầu tư phát triển đô thị và kinh doanh bất động sản.
1.2.1.2 Đặc điểm của DNNXD
* Đặc điểm nổi bật của DNNXD là nhạy cảm với diễn biến của nền kinh tế vĩ mô
Khi nền kinh tế tăng trưởng, các hoạt động xây dựng được mở rộng, doanh thu và lợi nhuận của các công ty trong ngành sẽ tăng cao. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, các công trình xây dựng sẽ bị trì trệ vì người dân không còn bỏ nhiều tiền ra để xây dựng nhà cửa, Chính phủ không mở rộng đầu tư vào các công trình cơ sở hạ tầng như cầu cống, sân bay, bến cảng, trường học, bệnh viện... Điều này làm cho doanh số, lợi nhuận của các doanh nghiệp xây dựng sụt giảm nhanh chóng.
* Hoạt động của các DNNXD chịu ảnh hưởng lớn của hệ thống chính sách, pháp luật hiện hành
Hệ thống chính sách và pháp luật hiện hành có tác động đến rất nhiều chủ thể và hoạt động có liên quan đến ngành xây dựng, đặc biệt là công tác quy hoạch đô thị, giải phóng mặt bằng, thủ tục cấp phép xây dựng,… Do hệ thống Pháp luật Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện nên sự thay đổi về chính sách luôn có thể xảy ra, thiếu sự ổn định cần thiết đối với doanh nghiệp mới thực hiện hình thức chuyển đổi sở hữu. Ngoài ra, các văn bản pháp luật liên quan đến chính sách về xây dựng cơ bản, phát triển các khu đô thị, cơ sở hạ tầng,... còn có nhiều chồng chéo, thiếu tính ổn định và nhất quán, tác động khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc hoạch định chiến lược, chính sách kinh doanh.
* DNNXD thường có quy mô sản xuất và đầu tư lớn
Do những dự án sản xuất kinh doanh của DNNXD thường là dự án lớn, thời gian dài, nên nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp trong ngành rất lớn. Đặc điểm này giải thích cho việc các DNNXD thường có tỷ lệ vốn nợ/vốn tự có cao hơn các ngành khác.
Tuy nhiên trên thực tế, chỉ có các DNNXD thuộc sở hữu của Nhà nước như các Tổng công ty mới có vốn lớn, lực lượng lao động lớn, tài sản lớn và đất đai nhiều. Còn với các DNNXD thuộc các thành phần kinh tế khác như công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân,… có quy mô nhỏ, tỉ lệ công ty cổ phần có mức vốn điều lệ dưới 10 tỉ đồng chiếm hơn 59%, trên 20 tỉ đồng chỉ chiếm 16,38%. Với mức vốn như vậy, các doanh nghiệp này có năng lực cạnh tranh kém, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, công nghệ sản xuất lạc hậu; thiếu cán bộ khoa học có trình độ cao và công nhân có tay nghề hoạt động thiếu tính chuyên nghiệp; công tác nghiên cứu thị trường, thực hiện xúc tiến thương mại, quảng bá, khuếch trương sản phẩm và hình ảnh của doanh nghiệp chưa được chú trọng đầu tư đúng mức. Do đó, các doanh nghiệp này gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
* Rủi ro ngành kinh doanh đối với các DNNXD rất cao
Trong hoạt động xây dựng cơ bản, thời gian thi công của các công trình thường kéo dài, việc nghiệm thu, bàn giao được thực hiện từng phần và tại Việt Nam hiện nay việc giải ngân vốn thường chậm, quá trình hoàn tất hồ sơ thi công cũng như thống nhất phê duyệt quyết toán giữa chủ đầu tư và nhà thầu thường mất rất nhiều thời gian. Bên cạnh đó, các chủ đầu tư là các bộ nghành và địa phương thường bố trí quá nhiều dự án, công trình xây dựng không tương xứng với nguồn vốn đầu tư cho nên thi công kéo dài, khối lượng đầu tư dở dang nhiều. Điều đó càng làm chậm thêm tiến độ giải ngân và thanh quyết toán của các công trình và làm ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình tài chính của các công ty xây dựng, đặc biệt là tình hình công nợ phải thu, phải trả và dòng tiền hoạt động. Ngoài ra, giá cả các yếu tố đầu vào của ngành xây dựng, đặc biệt là thép đang ở mức cao và còn có xu hướng tăng làm ảnh hưởng đến chi phí của doanh nghiệp.
Một thực tế trong ngành xây dựng là tình trạng khó thu hồi nợ sau khi hoàn thành công trình nên doanh nghiệp có thể sẽ gặp những khó khăn trong việc thanh toán các nghĩa vụ tài chính đến hạn. Với đặc thù ngành xây dựng là nợ đọng dài ngày, chậm thanh quyết toán vốn xây dựng cơ bản – số tỷ lệ các khoản phải trả/tổng tài sản có là một rủi ro thanh toán tiềm ẩn, khi có các khoản nợ xấu phát sinh, doanh nghiệp không thu được các khoản phải thu đúng hạn thì có thể sẽ gặp những khó khăn về khả năng thanh toán.
Những đặc điểm trên là đặc điểm chung của các DNNXD có ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn, tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng hoàn trả khoản vay của các doanh nghiệp này. NHTM khi cho vay DNNXD cần cân nhắc những đặc điểm này để đưa ra chính sách cho vay hợp lý, đồng thời quản lý tốt hơn khoản cho vay.
1.2.1.3 Vai trò của DNNXD trong nền kinh tế
Ngành xây dựng là một trong những ngành công nghiệp quan trọng của nền kinh tế, quan hệ giữa ngành với nền kinh tế là quan hệ thuận chiều. Sự phát triển của nền kinh tế luôn đi cùng với những khoản đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng. Hoạt động của ngành xây dựng góp phần phát triển cơ sở hạ tầng như xây dựng những công trình giao thông, công trình điện nước, đô thị, … tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành kinh tế khác phát triển. Chính vì vậy, NHTM cần xác định nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn hợp lý của các DNNXD để đáp ứng kịp thời và nhanh chóng.
1.2.2 Cho vay đối với doanh nghiệp ngành xây dựng tại NHTM
1.2.2.1 Khái niệm về cho vay đối với DNNXD
Nhắc lại khái niệm cho vay theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN về việc Ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”. (Khoản 1, Điều 3)
Dựa vào khái niệm trên, cho vay đối với DNNXD là hình thức ngân hàng cấp vốn cho các DNNXD để các doanh nghiệp này sử dụng vào mục đích sản xuất – kinh doanh theo thoả thuận với nguyên tắc các doanh nghiệp này phải hoàn trả cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian nhất định. Cho vay DNNXD là loại hình của ngân hàng theo tiêu thức phân loại theo ngành kinh tế.
1.2.2.2 Nguyên tắc cho vay đối với DNNXD
Hoạt động cho vay trước tiên phải được đặt trên quan hệ tín nhiệm, do đó các DNNXD muốn vay vốn được từ ngân hàng thì nhất thiết phải tạo được uy tín, niềm tin đối với các ngân hàng trên cơ sở đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn của ngân hàng. Nhìn chung, khi ngân hàng cho các DNNXD vay vốn cần đảm bảo 3 nguyên tắc:
- Doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng cho vay
Việc sử dụng vốn vay vào mục đích gì do hai bên, ngân hàng và doanh nghiệp thoả thuận và ghi vào hợp đồng cho vay. Doanh nghiệp phải cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích thoả thuận nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ sau này. Do vậy, về phía ngân hàng trước khi cho vay cần tìm hiểu rõ mục đích vay vốn của doanh nghiệp đồng thời phải kiểm tra xem doanh nghiệp có sử dụng vốn vay đúng như mục đích đã cam kết hay không. Về phía các doanh nghiệp, việc sử dụng vốn vay đúng mục đích góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay đồng thời giúp doanh nghiệp đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng. Từ đó, nâng cao uy tín của doanh nghiệp đối với ngân hàng và củng cố quan hệ giữa doanh nghiệp với ngân hàng.
- Doanh nghiệp phải hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng cho vay
Hoàn trả nợ gốc và lãi vay là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động cho vay. Điều này xuất phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay. Đại đa số nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay là vốn huy động từ khách hàng gửi tiền, do đó, sau khi cho vay trong một thời hạn nhất định ngân hàng cần thu hồi vốn gốc và lãi cho vay để có nguồn thu để trả gốc và lãi tiền gửi.
- Ngân hàng tài trợ dựa trên những phương án (dự án) có hiệu quả
Nguyên tắc này yêu cầu doanh nghiệp phải đảm bảo khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của doanh nghiệp. Trong trường hợp thấy kém an toàn, ngân hàng sẽ đòi hỏi doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo khi vay.
Đối với các DNNXD, vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng, bởi nhu cầu vốn của các doanh nghiệp trong ngành này rất lớn. Để có thể vay vốn và tạo quan hệ lâu dài với ngân hàng, các DNNXD buộc phải tuân thủ 2 nguyên tắc cho vay đầu tiên.
1.2.2.3 Hình thức cho vay đối với DNNXD
Để thoả mãn tốt nhất các nhu cầu đa dạng của doanh nghiệp, ngân hàng luôn tìm cách đa dạng hóa các hình thức cho vay. Với các DNNXD, ngân hàng áp dụng các hình thức cho vay sau:
* Cho vay trực tiếp từng lần
Đây là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các doanh nghiệp không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Với hình thức này, mỗi lần doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn, doanh nghiệp phải lập một bộ hồ sơ vay vốn theo quy định của ngân hàng, ngân hàng sẽ tiến hành phân tích doanh nghiệp và ký kết hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Toàn bộ quá trình xét duyệt cho vay, kiểm tra giám sát tình hình vốn vay và thu hồi nợ được thực hiện theo từng hợp đồng.
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình doanh nghiệp sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố dịnh hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo.
Hình thức cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Do đó, hình thức này phù hợp với những doanh nghiệp chưa có độ tín nhiệm cao, chưa có quan hệ lâu dài với ngân hàng.
* Cho vay theo hạn mức
Đây là hình thức thuận tiện cho những doanh nghiệp vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Theo hình thức này, ngân hàng và doanh nghiệp xác định và thoả thuận một hạn mức cho vay duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Trong khoảng thời gian đó, doanh nghiệp có thể thực hiện vay trả nhiều lần song dư nợ không được vượt quá hạn mức cho vay. Hạn mức có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ, đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức cho vay được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp.
Mỗi lần vay, doanh nghiệp chỉ cần trình bày phương án sử dụng tieề vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ ngân hàng sẽ phát tiền cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp không có biểu hiện vi phạm trong hợp đồng cho vay như: sử dụng vốn sai mục đích, sử dụng vốn không hiệu quả, có nguy cơ mất vốn,… thì thông thường hạn mức cho vay sẽ được tái lập khi hết hạn hiệu lực của hợp đồng cho vay theo hạn mức, doanh nghiệp lập hồ sơ vay vốn của kỳ tiếp theo và gửi cho ngân hàng để xem xét duy trì hoặc điều chỉnh hạn mức cho vay cho kỳ tới.
Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi doanh nghiệp có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó, tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi doanh nghiệp nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
* Cho vay trả góp
Khi cho vay, ngân hàng và doanh nghiệp xác định và thoả thuận số lãi vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho hàng lâu bền, tuy nhiên hình thức này ít áp dụng.
* Cho vay theo hạn mức thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép doanh nghiệp được chi vượt số tiền có trên tài khoản tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian nhất định. Giới hạn n._.ày được gọi là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi, doanh nghiệp phải làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấy chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ,… vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (song không vượt quá hạn mức thấu chi). Khi doanh nghiệp có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi.
Cho vay theo hạn mức thấu chi là hình thức cho vay ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn không có đảm bảo giúp cho doanh nghiệp thuận lợi trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời. Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các doanh nghiệp có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
* Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển là hình thức cho vay dựa trên sự luân chuyển cho hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và thu nợ sau khi doanh nghiệp đã bán hàng. Đầu năm hoặc quý, doanh nghiệp làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và doanh nghiệp thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức cho vay, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức cho vay có thể được thoả thuận trong 1 năm hoặc nhiều năm. Đây không phải thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với doanh nghiệp để quyết định có cho vay nữa hay không.
Việc cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Doanh nghiệp phải cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu từ việc bán hàng đều dùng để trả khoản tiền vay trước khi được trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp.
Cho vay luân chuyển thường được áp dụng với các doanh nghiệp thương mại hoặc các doanh nghiệp sản xuất cho chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ thường xuyên với ngân hàng. Hình thức này rất thuận tiện cho các doanh nghiệp, thủ tục đơn giản chỉ cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay, doanh nghiệp được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho ngươờ cung cấp sẽ nhanh gọn. Tuy nhiên, trong hình thức này nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ thì ngân hàng sẽ khó thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng.
Ngoài các hình thức kể trên, trong quá trình hoạt động, các ngân hàng có thể áp dụng những hình thức cho vay khác không trái với quy định của pháp luật nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của doanh nghiệp và đem lại lợi ích cao nhất cho ngân hàng.
1.2.2.3 Chính sách cho vay đối với DNNXD tại NHTM
Chính sách cho vay phản ánh cương lĩnh tài trợ của ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ cho vay và các nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích cho vay, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động cho vay nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
Đối với DNNXD, chính sách cho vay của ngân hàng cần xem xét đến các nhân tố ảnh hưởng:
- Nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp trong ngành xây dựng;
- Khả năng sinh lời và rủi ro tiềm năng của các doanh nghiệp trong ngành xây dựng;
- Chính sách của Chính phủ đối với ngành xây dựng và với các doanh nghiệp trong ngành, như chính sách ưu đãi, chính sách phát triển ngành, đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp trong ngành,…;
- Quy mô, kết cấu, tính ổn định của các khoản tiền gửi, khả năng vay mượn của ngân hàng, quy mô vốn chủ sở hữu,… ảnh hưởng đến chính sách cho vay của ngân hàng. Ví dụ, với nguồn tiền gửi lớn, ổn định, ngân hàng có thể gia tăng các khoản cho vay trung và dài hạn.
Nội dung của chính sách cho vay đối với DNNXD bao gồm:
- Chính sách khách hàng
Ngân hàng có thể phân loại các doanh nghiệp theo quan hệ của doanh nghiệp với ngân hàng, như phân loại thành: khách hàng truyền thống, khách hàng quan trọng, khách hàng khác,…Với từng nhóm khách hàng, ngân hàng có chính sách ưu đãi riêng cho các doanh nghiệp trong nhóm đó. Đây là nội dung có liên quan đến chính sách marketing của ngân hàng. Đồng thời việc phân nhóm khách hàng sẽ giúp ngân hàng thuận lợi hơn trong việc quản lý các khoản cho vay, tiết kiệm chi phí thu thập thông tin và phân tích.
- Chính sách quy định quy mô và giới hạn cho vay
Ngân hàng cam kết tài trợ cho doanh nghiệp với số tiền hoặc hạn mức nhất định. Ngân hàng có thể tài trợ tối đa bằng nhu cầu của doanh nghiệp và phù hợp với các điều luật dựa trên các tính toán của ngân hàng về rủi ro và lợi nhuận. Ngoài các giới hạn do luật quy định, ngân hàng thường đưa ra quy định riêng về quy mô và giới hạn cho vay theo từng loại hình doanh nghiệp, từng ngành nghề kinh doanh. Chính sách này được quy định cho từng thời kỳ trong năm, có tính đến quy mô và tính chất của nguồn vốn của ngân hàng.
- Chính sách quy định lãi suất và phí suất cho vay
Ngân hàng có các mức lãi suất và phí suất cho vay khác nhau tuỳ theo kỳ hạn, tuỳ theo loại tiền và tuỳ theo đối tượng khách hàng. Khi thoả thuận với doanh nghiệp về lái suất cho vay, ngân hàng phải tính đến rủi ro, lãi suất hoà vốn, lãi suất cạnh tranh trên thị trường, lãi suất trần do ngân hàng nhà nước quy định, hoặc lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Bên cạnh khung lãi suất định trước, ngân hàng còn quy định lãi suất thoả thuận với từng khách hàng cụ thể. Lãi suất có thể cố định trong cả kỳ hạn cho vay hoặc biến đổi linh hoạt theo tình hình cụ thể.
Ngoài việc trả lãi vay, doanh nghiệp có thể phải trả cho ngân hàng một khoản phí được tính bằng tỉ lệ phần trăm trên hạn mức cam kết (còn gọi là phí suất tín dụng), có thể là phí bảo lãnh, phí cam kết, phí quản lý,…Phí suất được xác định chủ yếu dựa trên rủi ro, chi phí huy động vốn, hoặc các chi phí khác.
- Chính sách quy định về thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ
Các giới hạn về thời hạn luôn được các nhà quản lý ngân hàng chú ý bởi vì thời hạn liên quan đến thanh khoản và rủi ro ngân hàng cũng như chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Chính sách cho vay phải giải quyết mối quan hệ thời hạn của nguồn (chủ yếu do người gửi và người cho ngân hàng vay quyết định) và thời hạn cho vay (xuất phát từ nhu cầu của doanh nghiệp vay do đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp).
- Chính sách quy định về các khoản đảm bảo
Chính sách quy định về các khoản dảm bảo bao gồm các quy định về trường hợp cho vay cần đảm bảo bằng tài sản, các khoản đảm bảo cho mỗi loại hình cho vay, danh mục các khoản đảm bảo được ngân hàng chấp nhận, tỷ lệ phần trăm cho vay trên giá trị khoản đảm bảo, đánh giá và quản lý khoản đảm bảo.
- Chính sách đối với các tài sản có vấn đề
Các tài sản có vấn đề bao gồm các khoản nợ xấu (đã quá hạn hoặc khó đòi, hoặc không đòi được) và các tài sản có biểu hiện đáng ngờ (chứng khoán bị giảm giá, các khoản bảo lãnh có nguy cơ phải thực hiện nghĩa vụ,…)
Chính sách đối với các tài sản có vấn đề bao gồm quy định về cách thức xác định nợ xấu và các tài sản đáng ngờ khác, tỷ lệ nợ xấu có thể chấp nhận và mức độ xấu của khoản nợ, trách nhiệm giải quyết, phạm vi thanh lý và khai thác.
Chính sách tín dụng được quy định rõ ràng cho các khoản cho vay DNNXD sẽ giúp ngân hàng quản lý tốt các khoản cho vay, giảm thiểu rủi ro, tăng khả năng sinh lời đối với các khoản cho vay này.
1.2.2.4 Quy trình cho vay đối với DNNXD tại NHTM
Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng, các ngân hàng thường đặt ra quy trình cho vay. Quy trình này được áp dụng chung cho các đối tượng cho vay, bao gồm các bước sau:
Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của khoản vay. Nội dung chủ yếu là thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến doanh nghiệp bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến doanh nghiệp.
Phương pháp chủ yếu để thu thập và xử lý thông tin về doanh nghiệp là phỏng vấn trực tiếp (thăm quan nhà xưởng, văn phòng, nói chuyện với giám đốc và người lao động, xem xét vật thế chấp,…); mua hoặc tìm kiếm thông tin qua các trung gian; thu thập thông tin từ các báo cáo của doanh nghiệp (báo cáo tài chính, báo cáo bán hàng, báo cáo thường niên,…) qua đó đánh giá nhu cầu vốn, như cầu vay vốn, đánh giá khả năng sinh lời và khả năng trả nợ, nhưữg rủi ro có thể xảy ra,…
Nội dung phân tích thường có:
- Đánh giá tài sản của doanh nghiệp;
- Đánh giá các khoản nợ;
- Phân tích luồng tiền;
- Phân tích các tỉ lệ: tỉ lệ đo khả năng thanh khoản, tỉ lệ đo khả năng sinh lời, tỉ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn tự có, tỉ lệ đo rủi ro;
- Phân tích các điều kiện kinh tế hiện tại và dự đoán tương lai đối với doanh nghiệp.
Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng cho vay
Hợp đồng cho vay là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ (doanh nghiệp) và ngân hàng, với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho doanh nghiệp một khoản tiền vay (hoặc hạn mức cho vay) trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định. Đây là văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng. Do đó, cả ngân hàng và doanh nghiệp khi kí hợp đồng cho vay đều cần phải cân nhắc kỹ lưỡng. Nội dung chính của hợp đồng cho vay thường có:
- Thông tin doanh nghiệp;
- Mục đích sử dụng vốn vay;
- Số lượng vốn vay;
- Lãi suất;
- Phí;
- Thời hạn cho vay;
- Các khoản đảm bảo;
- Điều kiện và hình thức giải ngân;
- Điều kiện và hình thức thanh toán;
- Các điều kiện khác,…
Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng
Sau khi hợp đồng cho vay đã được kí kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền cho doanh nghiệp như đã thoả thuận. Kèm theo đó, ngân hàng kiểm soát việc sử dụng tiền vay của doanh nghiệp, tình hình làm ăn của doanh nghiệp, … Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt, cho thấy chất lượng cho vay đang được đảm bảo. Ngược lại, khi chất lượng khoản cho vay bị đe doạ, ngân hàng cần có biện pháp xử lý kịp thời. Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân, nếu doanh nghiệp vi phạm hợp đồng cho vay, hoặc yêu cầu doanh nghiệp bổ sung tài sản thế chấp, giảm số tiền vay,… Đây cũng là quá trình ngân hàng thu thập thêm thông tin về doanh nghiệp để ra các quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản cho vay xấu.
Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới
Quan hệ cho vay kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản cho vay đảm bảo hoàn trả đầy đủ, đúng hạn là các khoản cho vay an toàn. Một số trường hợp khoản cho vay không được hoàn trả hoặc không được hoàn trả đủ, đúng hạn. Ngân hàng cần tìm nguyên nhân và đưa ra phán quyết kịp thời.
- Nếu doanh nghiệp cố tình lừa đảo ngân hàng, cố tình nợ dây dưa, làm ăn yếu kém không còn phương cách cứu vãn, ngân hàng áp dụng phương án thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi khoản cho vay, bao gồm phong toả và bán các tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi,…
- Nếu doanh nghiệp có khó khăn về tài chính, song vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để trả được nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác như gia hạn nợ, giảm lãi, hoặc cho vay thêm.
Nhìn chung, các bước trên là những bước cơ bản trong quy trình cho vay các DNNXD của các NHTM. Các ngân hàng có thể cụ thể hoá các bước của quy trình nhằm hướng dẫn chi tiết cho các cán bộ cho vay và các phòng ban có liên quan.
1.3 Chất lượng cho vay của các NHTM đối với DNNXD
1.3.1 Khái niệm chất lượng cho vay của các NHTM
Các nhà kinh tế đưa ra khái niệm chât lượng bằng nhiều cách. Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hoá ISO định nghĩa “chất lượng” như sau: “Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan".
Khái niệm “chất lượng” như trên có thể coi là một khái niệm hẹp, bởi với khái niệm trên, nhu cầu của khách hàng được đưa ra làm tiêu chí chủ yếu để đánh giá chất lượng của sản phẩm, dịch vụ. Trong hoạt động cho vay của ngân hàng, việc các ngân hàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng chỉ phản ánh được một phần chất lượng cho vay. Ngân hàng còn phải xem xét đến những rủi ro của khoản cho vay, và phải đảm bảo tính an toàn cũng như tính sinh lời của các khoản cho vay này. Do đó, cần phải đưa ra một khái niệm riêng về chất lượng cho vay của các NHTM.
Khi xem xét chất lượng cho vay, cần nhìn nhận từ 3 góc độ:
- Nhìn nhận từ góc độ khách hàng
Chất lượng cho vay là khả năng đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản thuận tịên, phù hợp với khả năng của khách hàng.
- Nhìn nhận từ góc độ ngân hàng
Chất lượng cho vay thể hiện ở phạm vi, mức độ và giới hạn cho vay phải phù hợp với thực lực của ngân hàng, đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo các nguyên tắc cho vay. Chất lượng cho vay phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng quy định và hợp lý.
- Nhìn nhận từ góc độ nền kinh tế quốc dân
Các khoản cho vay của ngân hàng đã đóng góp như thế nào vào sự phát triển của nền kinh tế như mức độ phục vụ cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn việc làm, giúp các doanh nghiệp và cá nhân tận dụng cơ hội đầu tư, cải thiện đời sống,…
Tóm lại, có thể đưa ra khái niệm về chất lượng cho vay của một NHTM: Chất lượng cho vay của một NHTM là toàn bộ khả năng của hoạt động cho vay của ngân hàng đó nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng và đóng góp vào sự phát triển ổn định của nền kinh tế quốc dân.
Từ đó, chất lượng cho vay đối với DNNXD là toàn bộ khả năng của hoạt động cho vay của NHTM nhằm đáp ứng nhu cầu của các DNNXD, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng và đóng góp vào sự phát triển ổn định của nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, chất lượng cho vay đối với DNNXD là một khái niệm vừa cụ thể vừa trừu tượng. Cụ thể ở chỗ chất lượng cho vay có thể thể hiện qua các chỉ tiêu tính toán được như tỉ lệ đảm bảo an toàn, lợi nhuận từ khoản vay,…và trừu tượng ở những chỉ tiêu định tính như sự hài lòng của doanh nghiệp trong và sau quá trình vay vốn.
Chất lượng cho vay đối với DNNXD là một khái niệm tổng hợp, là kết quả của quá trình kết hợp hoạt động giữa ngân hàng và doanh nghiệp vì mục đích chung là an toàn và hiệu quả đối với khoản cho vay. Do đó, để đạt được chất lượng cho vay cao thì cần có sự phối hợp hoạt động của các bên tham gia quan hệ tín dụng.
1.3.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay DNNXD của các NHTM
1.3.2.1 Các chỉ tiêu định tính
- Sự tuân thủ các quy định pháp luật về hoạt động cho vay
Những quy định pháp luật về hoạt động cho vay là những quy định có tính bắt buộc, cụ thể hoá toàn bộ quy trình cho vay từ khâu tiếp nhận hồ sơ, tiếp nhận khách hàng, đến khi thu hồi được vốn và lãi. Các nhà hoạch định chính sách đã dựa trên những đặc điểm về rủi ro tín dụng, đặc thù của nền kinh tế, tham khảo những quy định quốc tế,… để đưa ra những quy định áp dụng cho các NHTM Việt Nam như Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997 (được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2004), Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN về việc Ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng,… là cơ sở đảm bảo các khoản cho vay của các NHTM được an toàn và hiệu quả. Do vậy, việc chấp hành các quy định pháp luật về hoạt động cho vay là thước đo quan trọng trong việc đánh giá chất lượng cho vay.
- Sự tuân thủ các nguyên tắc cho vay và quy trình cho vay hợp lý
Việc chấp hành tốt nguyên tắc cho vay là rất quan trọng vì sẽ giúp cho các NHTM phòng ngừa rủi ro, là nền tảng cho một khoản cho vay tốt, là thước đo đánh giá chất lượng cho vay. Hoạt động cho vay của NHTM tuân thủ những nguyên tắc như đã nêu trong phần 1.2.2.2 nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Bên cạnh đó, việc ngân hàng thực hiện đúng theo quy trình cho vay, tức là việc thực hiện phải logic, bài bản, sẽ giúp cho ngân hàng đánh giá đúng tình hình của doanh nghiệp từ đó ra quyết định cho vay hợp lý, đảm bảo cho ngân hàng, hạn chế hoạt động rủi ro.
- Đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp
Chất lượng cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp được đánh giá cao khi ngân hàng có khả năng đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay vốn hợp lý của doanh nghiệp. Doanh nghiệp đạt được sự hài lòng không chỉ về khoản cho vay mà họ được nhận, mà còn hài lòng về thái độ và tác phong làm việc của cán bộ cho vay, lãi suất và kỳ hạn cho vay hợp lý, thủ tục cho vay đơn giản thuận tiện,…Để đạt được điều này, ngân hàng cần phải có hệ thống phân tích, đánh giá, dự báo nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp một cách nnhanh chóng và chính xác.
1.3.2.2 Các chỉ tiêu định lượng
* Các chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng
- Doanh số cho vay (DSCV) đối với DNNXD: được tính bằng cách cộng dồn các khoản cho vay DNNXD trong một kỳ kế toán. Chỉ tiêu này phải ánh lượng vốn mà ngân hàng đã giải ngân cho các DNNXD. Theo dõi chỉ tiêu này qua các kỳ kế toán (thường là 1 năm) để đánh giá xu hướng hoạt động cho vay DNNXD của NHTM đang mở rộng hay thu hẹp. Có thể sử dụng tỉ lệ tăng trưởng DSCV để đánh giá xu hướng này. Công thức:
Tỷ lệ tăng trưởng DSCV năm N =
DSCV năm N – DSCV năm N-1
DSCV năm N-1
- Doanh số thu nợ (DSTN) đối với DNNXD: được tính bằng cộng dồn các khoản thu nợ trong một kỳ kế toán. Chỉ tiêu này phản ánh lượng vốn mà ngân hàng cho các DNNXD vay đã được hoàn trả trong một thời kỳ. Theo dõi chỉ tiêu này và so sánh với DSCV để đánh giá khả năng thu hồi nợ của các khoản cho vay DNNXD trong quá khứ. DSCV lớn thì kèm theo DSTN phải cao. Nếu DSTN thấp chứng tỏ khả năng thu hồi vốn và lãi thấp, tức là chất lượng tín dụng không tốt.
- Dư nợ cho vay (DNCV) đối với DNNXD: được tính trên số dư nợ cuối kỳ kế toán của ngân hàng, chỉ tiêu này phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đang giải ngân cho các DNNXD tại một thời điểm cụ thể. Đây là chỉ tiêu mà ngân hàng theo dõi hàng ngày để biết được tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp có đúng mục đích không. Bên cạnh đó, chỉ tiêu này cho biết thu nhập của ngân hàng trong tương lai. Nếu một ngân hàng có DNCV cuối kỳ giảm có thể do ngân hàng hàng đó không thu hút được khách hàng, không mở rộng cho vay, chứng tỏ chất lượng cho vay không tốt. Tuy nhiên, chỉ tiêu này cần xem xét cùng với các chỉ tiêu khác, kết hợp với việc phân tích chiến lược hoạt động, cũng như điều kiện cụ thể của ngân hàng trong thời kỳ xem xét.
Nhóm chỉ tiêu về tăng trưởng cho thấy khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn vay của các DNNXD, khả năng cạnh tranh, thu hút khách hàng của ngân hàng nên phần nào phản ánh chất lượng cho vay. Tuy nhiên, để phản ánh rõ chất lượng cho vay các DNNXD, cần xem xét thêm các chỉ tiêu sau.
* Tỷ lệ nợ quá hạn đối với DNNXD
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 22/4/2005 quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, “nợ quá hạn là các khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/ hoặc lãi đã quá hạn”.
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ những khoản nợ quá hạn trên tổng dư nợ cuối kỳ của ngân hàng. Khi nhìn vào chỉ tiêu này, ta có thể đánh giá các khoản cho vay của ngân hàng có mức độ rủi ro cao hay thấp. Chỉ tiêu này được tính như sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn DNNXD =
Dư nợ quá hạn cuối kỳ DNNXD
Dư nợ cuối kỳ DNNXD
Tỷ lệ nợ quá hạn đối với DNNXD phản ánh rõ nhất về chất lượng cho vay đối với DNNXD. Tỷ lệ nợ quá hạn cao chứng tỏ nguy cơ mất vốn của ngân hàng cao và kèm theo đó là thu nhập của ngân hàng giảm, ngân hàng gặp khó khăn trong việc phân phối luồng vốn và đối mặt với việc mất khả năng thanh toán. Trên thực tế các ngân hàng luôn cố gắng hạ thấp tỷ lệ nợ quá hạn và với tỷ lệ dưới 2% được coi là chấp nhận được.
* Vòng quay vốn đối với DNNXD
Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:
Vòng quay vốn đối với DNNXD =
Doanh số thu nợ DNNXD
Dư nợ bình quân DNNXD
Vòng quay vốn đối với DNNXD của ngân hàng càng lớn chứng tỏ ngân hàng đã luân chuyển vốn nhanh tham gia nhiều vào chu kỳ sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hóa của các doanh nghiệp. Với số lượng vốn nhất định nhưng tốc độ quay vòng vốn cho vay nhanh nên ngân hàng không những đáp ứng được nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp mà còn có thêm nguồn vốn để tiếp tục cho vay doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó, chỉ tiêu này cao phản ánh các khoản cho vay của ngân hàng đối với DNNXD có khả năng thu hồi cao do doanh nghiệp thường trả nợ đúng hạn và trước hạn, đem lại thu nhập cao cho ngân hàng, phản ánh chất lượng tín dụng tốt.
* Lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay DNNXD
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của hoạt động cho vay DNNXD. Lợi nhuận ở đây được hiểu là chênh lệch giữa thu nhập từ lãi vay của các khoản cho vay DNNXD với chi phí đầu vào tức là lãi suất huy động. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay DNNXD cao chứng tỏ nhiều khoản vay đã được thu hồi cả gốc và lãi, bên cạnh đó, thể hiện khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng. Tuy nhiên, cần xem xét tỷ trọng lợi nhuận từ hoạt động cho vay DNNXD trên tổng lợi nhuận từ hoạt động cho vay của ngân hàng để đánh giá các khoản cho vay DNNXD có thực sự đóng góp lớn vào thu nhập của ngân hàng hay không.
Tỷ trọng lợi nhuận
từ cho vay DNNXD
=
Lợi nhuận từ cho vay DNNXD
Tổng lợi nhuận
Tóm lại, đánh giá chất lượng cho vay DNNXD của NHTM cần được thực hiện qua việc đánh giá tổng hợp các chỉ tiêu định tính và định lượng trên. Tuy nhiên, cần xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay để có cái nhìn toàn diện hơn về chất lượng cho vay DNNXD của ngân hàng, từ đó mới đưa ra được những biện pháp khắc phục hạn chế và nâng cao chất lượng cho vay DNNXD của ngân hàng.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay DNNXD của các NHTM
1.4.1 Các nhân tố thuộc về ngân hàng
* Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Một chiến lược kinh doanh hiệu quả sẽ giúp ngân hàng có phương hướng phát triển nhất quán, giúp ngân hàng khai thác tốt năng lực hiện có của đơn vị, đồng thời giúp ngân hàng thích ứng với những biến đổi trong môi trường kinh doanh. Chính vì vậy, công tác lập chiến lược kinh doanh hiện đang được các ngân hàng hết sức coi trọng, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt. Chiến lược kinh doanh sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng cho vay qua những mục tiêu về đối tượng khách hàng, lợi nhuận, … của ngân hàng.
* Chính sách cho vay của ngân hàng
Mỗi ngân hàng trong từng thời kỳ và với từng đối tượng khách hàng sẽ đưa ra chính sách cho vay để đạt được mục tiêu chiến lược đã đặt ra. Chính sách cho vay ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô, tính chất của các khoản cho vay cũng như phương thức hoạt động của ngân hàng. Chính sách cho vay đúng đắn, rõ ràng, hợp lý sẽ đảm bảo tính an toàn và sinh lời của hoạt động cho vay trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ luật pháp, kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của người gửi tiền, người vay và chính ngân hàng. Sự không chặt chẽ của chính sách cho vay sẽ tạo điều kiện cho một số cán bộ và nhân viên ngân hàng lợi dụng khe hở để luồn lách, gây hậu quả nghiêm trọng đối với ngân hàng.
* Quy trình cho vay của ngân hàng
Quy trình cho vay rõ ràng, các bước của quy trình được các cán bộ và nhân viên ngân hàng thực hiện đầy đủ, hiệu quả, thì sẽ đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời của các khoản cho vay DNNXD. Ngay từ Bước 1: phân tích trước khi cấp tín dụng, nếu được thực hiện tốt, ngân hàng sẽ có nguồn thông tin về doanh nghiệp, đánh giá được khả năng trả nợ của doanh nghiệp, thì rủi ro sẽ được hạn chế. Bên cạnh đó, việc kiểm soát các doanh nghiệp có sử dụng vốn vay đúng mục đích hay không, tình hình tài chính của doanh nghiệp,… được thực hiện chặt chẽ và thường xuyên sẽ giúp ngân hàng ngăn chặn được nguy cơ có các khoản nợ xấu.
* Trình độ đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng
Các nghiệp vụ ngân hàng ngày càng mở rộng và hiện đại, đòi hỏi trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao để có thể sử dụng các phương tiện hiện đại, nắm bắt kịp thời các thông tin về kinh tế, thị trường,… phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Các cán bộ, nhân viên thực hiện hoạt động cho vay phải có trình độ chuyên môn cao thì mới có thể phân tích được những thông tin của doanh nghiệp và dự đoán tình hình của doanh nghiệp trong tương lai, qua đó đánh giá được lợi ích của ngân hàng khi thực hiện khoản cho vay. Bên cạnh đó, với trình độ chuyên môn cao và kinh nghiệm làm việc, các cán bộ cho vay có thể phát hiện được những vấn đề bất ổn trong khi kiểm soát khoản cho vay, để đưa ra những quyết định kịp thời. Ngoài ra, yếu tố đạo đức nghề nghiệp cũng ảnh hưởng đến chất lượng cho vay.
* Sự phù hợp giữa quy mô hoạt động cho vay và năng lực của ngân hàng
Ngân hàng không ngừng mở rộng hoạt động cho vay nhằm gia tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, cần có sự phù hợp giữa quy mô hoạt động cho vay và năng lực của ngân hàng. Quy mô hoạt động cho vay càng lớn đòi hỏi ngân hàng phải có trình độ quản lý cao, có khả năng kiểm soát các khoản cho vay, đầu tư trang thiết bị máy móc hiện đại,… Nếu không có sự phù hợp giữa việc mở rộng hoạt động cho vay và năng lực của ngân hàng thì dù có tốc độ tăng trưởng cao, vẫn không thể đánh giá chất lượng cho vay của ngân hàng là tốt được.
1.4.2 Các nhân tố thuộc về các DNNXD
* Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở mức vốn tự có của doanh nghiệp tham gia và dự án sản xuất kinh doanh, tài sản thế chấp, tài sản đảm bảo lớn. Đây là một nhân tố quan trọng nhằm bù đắp những rủi ro trong hoạt động của DNNXD. Nếu doanh nghiệp có vốn tự có quá nhỏ sẽ ít có khả năng chống chọi với hoàn cảnh bất lợi. Bên cạnh đó, nếu tỷ trọng vốn nợ/vốn tự có cao, doanh nghiệp phải chịu chi phí lãi vay lớn, có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. Từ góc độ ngân hàng, vốn tự có của doanh nghiệp là điều kiện để đảm bảo khả năng thu hồi nợ.
* Phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Phương án vay vốn có khả năng thực thi cao, có khả năng tạo ra lợi nhuận, ít rủi ro thì khả năng trả nợ của doanh nghiệp được đảm bảo. Khi doanh nghiệp sử dụng tiền vay đúng mục đích và có hiệu quả thì mới có khả năng trả gốc và lãi vay cho ngân hàng. Phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả hay không phụ thuộc vào sức cạnh tranh trên thị trường, trình độ quản lý, nhân lực,… của doanh nghiệp.
* Đạo đức, uy tín của doanh nghiệp
Doanh nghiệp có uy tín sẽ luôn tìm cách hoạt động kinh doanh có hiệu quả để trả nợ ngân hàng đúng hạn, không chây ỳ, lừa đảo gây tổn thất cho ngân hàng. Đạo đức, uy tín của doanh nghiệp ảnh hưởng đến độ chính xác của thông tin cung cấp cho cán bộ thẩm định của ngân hàng, là yếu tố tác động tới hoạt động thẩm định và quyết định cho vay của ngân hàng. Nhân tố này ảnh hưởng lớn đến chất lượng cho vay của ngân hàng.
1.4.3 Các nhân tố khác
Hoạt động của ngân hàng chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường kinh tế-xã hội. Do đó, các nhân tố từ môi trường kinh tế-xã hội cũng có ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Những nhân tố thường được xem xét là:
* Môi trường kinh tế và chính sách vĩ mô
Môi trường kinh tế có thể tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động cho vay. Một nền kinh tế phát triển lành mạnh trên tất cả các lĩnh vực, các chủ thể tham gia nền kinh tế sẽ thúc đẩy mở rộng quy mô các hoạt động cho vay, đồng thời các doanh nghiệp làm ăn phát đạt sẽ có khả năng trả nợ, và tích cực trả nợ gốc và lãi đúng hoặc trước hạn để có thể vay thêm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó, chất lượng cho vay được nâng lên. Trong nền kinh tế suy thoái, doanh nghiệp làm ăn khó khăn, nhu cầu vay vốn giảm, khả năng trả nợ kém, dẫn đến những khoản cho vay có vấn đề.
Những biến động về chính sách vĩ mô như tỷ giá, lãi suất trên thị trường cũng ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô, thời hạn và lãi suất cho vay ngân hàng, đồng thời tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến chất lượng các khoản cho vay.
* Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý được hiểu là một hệ thống luật và văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. Với một hệ thống văn bản pháp luật thiếu đồng bộ sẽ gây khó khăn cho ngân hàng khi ký kết, thực hiện các hợp đồng cho vay. Đặc biệt nếu các quy định pháp luật có sự sơ hở, tạo điều kiện để lách luật, sẽ ảnh hưởng xấu đến việc quản lý các khoản cho vay của ngân hàng. Sự thay đổi chủ trương, chính sách của Nhà nước cũng gây ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng và tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
Tóm lại, nội dung những vấn đề lý luận về chất lượng cho vay DNNXD của NHTM đã đề cập đến khái niệm, đặc điểm cho vay DNNXD, khái niệm chất lượng cho vay, những chỉ tiêu phản ánh và những nhân tố tác động đến chất lượng cho vay DNNXD của NHTM. Đây sẽ là nền tảng cho việc đánh giá thực trạng chất lượng cho vay DNNXD tại đơn vị cụ thể, qua đó đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay DNNXD tại đơn vị đó.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY DNNXD TẠI
CHI NHÁNH NHTMCP XNK EXIMBANK HÀ NỘI
2.1 Khái quát về Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội
2.1.1.1 Giới thiệu chung về NHTMCP XNK Eximbank
NHTMCP XNK Eximbank được thành lập vào ngày 24/05/1989 theo quyết định số 140/CT của Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng với tên gọi đầu tiên là Ngân Hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Bank), là một trong những NHTM cổ phần đầu tiên của Việt Nam.
Ngân hàng đã chính thức đi vào hoạt động ngày 17/01/1990. Ngày 06/04/1992, Thống Đốc Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam ký giấy phép số 11/NH-GP cho phép Ngân hàng hoạt động trong thời hạn 50 năm với số vốn điều lệ đăng ký là 50 tỷ đồng VN tương đương 12,5 triệu USD với tên mới là NHTM Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Commercial Joint - Stock Bank), gọi tắt là Vietnam Eximbank. Đến tháng 12 năm 2007 vốn điều lệ của Eximbank là 2.800.000.000.000 đồng VN.
* Hệ thống chi nhánh
NHTMCP XNK Việt Nam (Eximbank) có địa bàn hoạt động rộng khắp cả nước với Trụ Sở Chính đặt tại TP. Hồ Chí Minh và 64 Chi nhán._.ác thực. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng khi tiến hành thẩm định và phân tích trước khi cho vay.
Ngoài ra, vẫn còn tình trạng một số doanh nghiệp làm ăn pho pháp có ý định lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng. Do đó, việc cho vay đối với các DNNXD chứa đựng rất nhiều rủi ro. Do đó, các doanh nghiệp trong ngành này chưa tiếp cận được với nguồn vốn cho vay của ngân hàng mà đặc biệt là vốn vay tín chấp.
* Nguyên nhân khác
Ngoài những nguyên nhân thuộc về phía ngân hàng và về phía các DNNXD, còn có những nguyên nhân khác có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động cho vay DNNXD của Chi nhánh.
- Thứ nhất là tình hình biến động trong nền kinh tế giai đoạn cuối năm 2007 đầu năm 2008.
Lạm phát tăng cao dẫn đến việc Chính phủ phải ban hành các quyết định thắt chặt tiền tệ, trong đó có thắt chặt tín dụng và quản lý chặt chẽ các khoản cho vay mua bất động sản. Những quyết định này ảnh hưởng đến chính sách cho vay của các NHTM, đặc biệt sau thời gian tăng trưởng nóng năm 2006-2007, các NHTM đang phải điều chỉnh hoạt động cho vay để đảm bảo các quy định về tốc độ tăng trưởng tín dụng, tỷ lệ đảm bảo an toàn,…
Tình hình giá cả leo thang và biến động trên thị trường bất động sản có ảnh hưởng lớn đến các DNNXD khiến hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành này đang gặp nhiều khó khăn, hiệu quả sử dụng vốn không cao, và khả năng chi trả các khoản vay giảm sút.
- Thứ hai là công tác quản lý của Chính phủ, Bộ Xây dựng và các Bộ, ban ngành có liên quan còn thiếu đồng bộ, còn lỏng lẻo và kém hiệu quả.
Hiện tại, Chính phủ đang xây dựng lộ trình cải cách, đổi mới, sắp xếp lại các DNNXD. Hệ thống văn bản pháp luật quy định hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành vẫn thiếu đồng bộ, có sự chồng chéo giữa quyền hạn, nghĩa vụ của các cơ quan, đơn vị thực thi, dẫn đến khó khăn cho hoạt động của các DNNXD, đặc biệt trong công tác quy hoạch đô thị, giải phóng mặt bằng, thi công công trình,… Các DNNXD có quy mô vừa và nhỏ chỉ nhận được sự quan tâm mờ nhạt, thêm vào đó là sự quản lý lỏng lẻo dẫn đến tình trạng vi phạm các quy định của ngành.
Tóm lại, Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank đã có những thành công nhất định trong việc mở rộng cho vay DNNXD và nâng cao chất lượng cho vay DNNXD trong 3 năm 2005-2007 vừa qua. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục và có nhiều nhân tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến chất lượng cho vay DNNXD tại Chi nhánh.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY DNNXD
TẠI CHI NHÁNH NHTMCP XNK EXIMBANK HÀ NỘI
3.1 Định hướng phát triển hoạt động cho vay của Chi nhánh NHTMCP Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội trong thời gian tới
Mục tiêu hoạt động của hệ thống NHTMCP XNK Eximbank nói chung và của Chi nhánh Eximbank Hà Nội nói riêng đều hướng tới:
- Hoàn thiện hơn nguồn lực nội tại của Eximbank (mô hình tổ chức, quy chế, quy trình, hạ tầng công nghệ, nguồn nhân lực,…);
- Tăng nhanh năng lực tài chính và quy mô đối với tất cả các hoạt động kinh doanh của Eximbank trên cơ sở đảm bảo an toàn và hiệu quả.
Để đảm bảo mục tiêu chung trên, riêng với lĩnh vực cho vay, Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội đã đề ra định hướng hoạt động cho vay của trong thời gian tới:
- Đẩy mạnh tăng trưởng đi đôi với kiểm soát chặt, đồng thời chú trọng cải tiến, nâng cao chất lượng hoạt động cho vay nhằm hạn chế nợ quá hạn, nợ xấu phát sinh. Cân đối khả năng huy động vốn, đặc biệt là nguồn trung và dài hạn để tăng trưởng cho vay một cách phù hợp.
- Đẩy mạnh cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tài trợ xuất nhập khẩu, mở rộng hạn mức tín dụng đối với khách hàng có uy tín và đã có thời gian hợp tác lâu dài với Chi nhánh. Mở rộng đối tượng cho vay, đồng thời phân loại khách hàng và giảm dư nợ cho vay đối với những khách hàng sản xuất kinh doanh yếu kém để đảm bảo an toàn.
- Nâng cao chất lượng cho vay, chất lượng thẩm định dự án đầu tư, an toàn, hiệu quả. Hoàn thiện quy trình cho vay phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với tình hình thực tế của Chi nhánh.
- Trên cơ sở các quy định về quản lý rủi ro của NHNN, kết hợp với hoạt động của Uỷ ban ALCO để xây dựng các hạn mức, giới hạn trong hoạt động cho vay, làm cơ sở quản lý rủi ro. Tích cực tìm biện pháp thu hồi các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi, chủ động phối hợp với các cơ quan pháp luật và cơ quan thi hành án xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Tiếp tục tiến hành phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quy định.
- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, từ đó phát hiện, xử lý, sửa chữa kịp thời những sai sót, nhằm nâng cao ý thức chấp hành các thể lệ, chế độ quy định, cán bộ nhân cho vay làm việc có nề nếp, tác phong chuyên nghiệp, và phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn.
- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ cho vay. Tạo điều kiện cho cán bộ cho vay tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, tự đào tạo, đi du học, … để nâng cao trình độ.
Trên cơ sở những định hướng trên và tình hình thực tế tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội, có thể đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay đối với đối tượng là các DNNXD tại Chi nhánh.
3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay DNNXD của Chi nhánh NHTMCP Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội
3.2.1 Xây dựng chính sách cho vay hợp lý
Các DNNXD đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng, đô thị, tạo nền tảng cho các ngành kinh tế khác phát triển. Trong bối cảnh Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức thương mại Quốc tế WTO, đồng nghĩa với việc phải từng bước mở cửa hội nhập, thì các DNNXD mà đặc biệt là những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ sẽ gặp khó khăn trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, đặc biệt là khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn cho vay của các NHTM để tài trợ cho dự án sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, ngân hàng cần xây dựng một chính sách cho vay hợp lý để khai thác đối tượng khách hàng là các DNNXD theo hướng đơn giản, thuận tiện mà vẫn đảm bảo an toàn, hiệu quả.
3.2.1.1 Xây dựng chính sách khách hàng phù hợp với các DNNXD
Để có một chiến lược kinh doanh hiệu quả thì điêề kiện cần đầu tiên là các nhà hoạch định phải có chính sách khách hàng phù hợp. Đối với đối tượng DNNXD, Chi nhánh có thể xây dựng hệ thống thông tin khách hàng với những thông tin đầy đủ, chính xác về đối tượng doanh nghiệp trong ngành này, như: các phân đoạn khách hàng cơ bản và hành vi của từng nhóm khách hàng trên phân đoạn đó, (có thể phân đoạn theo những lĩnh vực nhỏ trong ngành như: doanh nghiệp xây lắp, doanh nghiệp cung cấp vật liệu xây dựng, doanh nghiệp kinh doanh chung cư, văn phòng, dự án bất động sản,…); xác định quy mô, tính chất, tốc độ phát triển nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp trong ngành này, tiềm năng trên từng phân đoạn; xác định những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp trong ngành;… Nhìn chung, ngân hàng cần xây dựng chính sách khách hàng theo hướng:
* Chủ động tìm kiếm khách hàng
Ngân hàng cần tích cực chủ động tìm kiếm khách hàng thông qua các hình thức: quảng cáo, giới thiệu dịch vụ cho vay DNNXD trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình, internet,… tham gia các hội chợ DNNXD, tổ chức các buổi hội thảo, hội nghị khách hàng dành cho các DNNXD,… Thông qua các hình thức này, ngân hàng giới thiệu dịch vụ cho vay DNNXD, cho các DNNXD biết đến những lợi ích khi sử dụng vốn vay của ngân hàng, đồng thời ngân hàng cũng hiểu biết hơn về nhu cầu vay vốn của các DNNXD.
* Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng
Chi nhánh có thể phân loại các DNNXD theo tiêu chí đối tượng khách hàng lâu dài, khách hàng mới, để đưa ra chính sách khách hàng hợp lý. Ví dụ, với khách hàng lâu dài, Chi nhánh có thể đưa ra ưu đãi về lãi suất, hoặc có thể triển khai các sản phẩm thuận lợi hơn cho doanh nghiệp như cho vay theo hạn mức, thấu chi,… Đồng thời, thông qua đối tượng khách hàng lâu dài, ngân hàng có thể khai thác thêm khách hàng mới qua quan hệ của các doanh nghiệp cùng ngành, đặc biệt với các doanh nghiệp lớn, làm ăn hiệu quả thì những doanh nghiệp có quan hệ thường xuyên với các doanh nghiệp này cũng có thể là doanh nghiệp kinh doanh ổn định.
Việc đẩy mạnh hiệu quả của chính sách khách hàng sẽ giúp Chi nhánh khai thác được nhiều hơn từ đối tượng DNNXD, nâng cao uy tín và mở rộng quan hệ của Chi nhánh với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc nghiên cứu thị trường của các ngân hàng Việt Nam thực sự chưa được tiến hành bài bản. Hầu như các ngân hàng đều xây dựng chiến lược kinh doanh mà không tiến hành các nghiên cứu thị trường toàn diện, dẫn đến tính mơ hồ, chung chung của chính sách cho vay. Nguyên nhân chủ yếu là do việc tiến hành một nghiên cứu chi tiết với đối tượng khách hàng theo nhóm ngành như các DNNXD cần rất nhiều chi phí, đòi hỏi kỹ thuật điều tra, phân tích phức tạp mà trình độ của đội ngũ nhân lực làm công tác phân tích thị trường hiện nay của các ngân hàng Việt Nam không đáp ứng được. Giải pháp đưa ra là các ngân hàng nên phối hợp với nhau và với các tổ chức độc lập như Hiệp hội Ngân hàng với sự tư vấn của các chuyên gia có uy tín trong và ngoài nước để tiến hành nghiên cứu thị trường. Từ đó, mỗi ngân hàng tuỳ vào năng lực tài chính, năng lực quản lý và trình độ đội ngũ nhân lực để xây dựng chính sách khách hàng riêng cho mình.
3.2.1.2 Đa dạng hoá các hình thức cho vay đối với DNNXD và nâng cao chất lượng phục vụ
Chi nhánh cần xem xét phân loại khách hàng trong nhóm DNNXD để chọn ra những doanh nghiệp có thể áp dụng những hình thức vay vốn có thủ tục đơn giản, thuận tiện hơn như cho vay theo hạn mức, thấu chi,… từ đó vừa khuyến khích các doanh nghiệp này thực hiện tốt các nghĩa vụ chi trả để giữ uy tín và quan hệ tốt đẹp với ngân hàng. Khi đưa ra các hình thức cho vay khác nhau, các cán bộ cho vay cần tư vấn, giải thích và hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc tiếp cận các hình thức cho vay này, đây là một phần của khâu marketing, đồng thời nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, làm tiền đề phát triển các dịch vụ tư vấn tài chính mà hiện nay các ngân hàng còn bỏ ngỏ.
Song song với việc đa dạng hoá hình thức cho vay, Chi nhánh cần coi trọng việc nâng cao chất lượng phục vụ. Bởi với sự gia tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường các dịch vụ ngân hàng tài chính, khách hàng ngày càng có nhiều cơ hội lựa chọn các dịch vụ, và chất lượng phục vụ của ngân hàng khi đưa ra các dịch vụ cho vay sẽ quyết định mức độ trung thành của khách hàng vay vốn. Trước hết, cần chỉnh đốn tác phong làm việc và văn hoá giao tiếp của các cán bộ cho vay từ cách nói năng, chào hỏi, trả lời điện thoại đến thái độ phục vụ khách hàng. Bên cạnh đó, cần lưu trữ những thông tin cần thiết để xây dựng một “bức tranh” đầy đủ về nhu cầu hiện tại cũng như tương lai của doanh nghiệp. Một cơ sở dữ liệu đầy đủ, liên tục cập nhật là cơ sở để ngân hàng nhanh chóng phát hiện những cơ hội kinh doanh, tìm kiếm giải pháp phát triển sản phẩm mới, đổi mới phương thức phục vụ một cách linh hoạt và năng động.
3.2.2 Hoàn thiện quy trình cho vay
3.2.2.1 Hoàn thiện công tác tổ chức thẩm định
Khi thẩm định, đòi hỏi cán bộ cho vay của Chi nhánh kiểm tra toàn diện tất cả các chỉ tiêu về mặt kinh tế, kỹ thuật của dự án sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp xuất trình. Việc kiểm tra cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn để có những phân tích đúng đắn. Tuy nhiên, tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội, cán bộ cho vay thực hiện cả chức năng theo dõi và quản lý khoản vay, chưa có bộ phận độc lập thực hiện thẩm định dự án để tham mưu cho Phòng Tín dụng trong việc ra quyết định cho vay. Do đó, Chi nhánh cần thiết lập thêm một bộ phận Thẩm định để chuyên môn hoá công tác điều tra, phân tích, thẩm định dự án.
Trong nội dung thẩm định để ra quyết định cho vay các DNNXD, Chi nhánh cần chú trong những thông tin sau:
- Thẩm định khách hàng vay vốn: xác minh tính trung thực trong các số liệu mà doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng; tính toán các chỉ tiêu tài chính, đánh giá dựa trên những đặc thù của ngành xây dựng; tăng cường điều tra thực tế để nắm bắt tình hình hoạt động thực sự của doanh nghiệp.
- Thẩm định phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư của doanh nghiệp: bao gồm phân tích các phương diện kỹ thuật, tài chính của dự án. Những thông tin được kiểm tra lại sau khi phân tích sẽ là căn cứ quan trọng để ngân hàng ra quyết định cho vay. Đây cũng là cơ sở để xác định lãi suất, kỳ hạn, cách thức trả nợ,… thích hợp với khả năng tài chính của doanh nghiệp và ngân hàng. Ngoài ra, khi phân tích về phương diện kỹ thuật, ngân hàng còn phát hiện ra các kiếm khuyết của dự án, những sai lệch trong việc tính toán các dòng tiền thu nhập, chi phí, … để yêu cầu doanh nghiệp điều chỉnh.
Thẩm định khách hàng và dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn là khâu quan trọng, quyết định việc cho vay của Chi nhánh đối với doanh nghiệp. Hoàn thiện công tác tổ chức thẩm định sẽ góp phần giảm thiểu những rủi ro về khả năng chi trả của doanh nghiệp.
3.2.2.2 Nâng cao chất lượng thông tin tín dụng
Để công tác thẩm định đạt hiệu quả tốt, thì thông tin là yếu tố rất quan trọng. Thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời sẽ hạn chế được rủi ro thị trường, rủi ro chính sách, … và rút ngắn thời gian thẩm định của Chi nhánh, nâng cao lợi thế cạnh tranh.
Ngân hàng có thể thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như phỏng vấn trực tiếp, phân tích các báo cáo của doanh nghiệp, các nguồn thông tin từ các dịch vụ, trung tâm, cơ quan cung ứng thông tin, các phương tiện thông tin đại chúng,…Tuy nhiên, cần phân tích thông tin để kiểm tra độ chính xác. Ngân hàng có thể nâng cao chất lượng thông tin tín dụng theo một số hướng như:
- Xây dựng hệ thống thông tin tín dụng bằng cách thu thập, lưu trữ 2 loại thông tin sau: thông tin và các chỉ tiêu thống kê phục vụ cho phân tích, đánh giá và xếp loại khách hàng cũng như khoản vay; thông tin có liên quan đến khách hàng và khoản vay.
- Xây dựng hệ thống máy móc thiết bị tin học và truyền thông thích hợp.
- Nâng cao năng lực trình độ của đội ngũ cán bộ đặc biệt là đội ngũ thực hiện công tác thông tin tín dụng và xếp loại rủi ro tín dụng.
- Phối hợp chặt chẽ với thông tin tín dụng của NHNN, hệ thống NHTMCP XNK Eximbank, Trung tâm thông tin tín dụng (CIC), thông tin phân tích vĩ mô, phân tích ngành của các tổ chức trong và ngoài nước có uy tín. Với các DNNXD, hiện nay chưa có hệ thống thông tin ngành đầy đủ và có sự phân tích sâu. Ngân hàng có thể tham khảo các báo cáo của CBRE (Công ty TNHH CB Richard Ellis), tuy nhiên đây chỉ là phân tích của một công ty và chủ yếu tập trung vào thị trường bất động sản, trong khi ngành xây dựng còn có nhiều lĩnh vực khác vẫn chưa có hệ thống thống kê, phân tích ngành cụ thể.
- Cử cán bộ có kiến thức, nghiệp vụ ngân hàng và có kiến thức ngành xây dựng đến địa bàn sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp để trực tiếp điều tra, kết hợp với bạn hàng của doanh nghiệp, các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành, lĩnh vực, các cơ quan, tổ chức chính quyền địa phương,…Từ đó đưa ra những đánh giá về hoạt động của doanh nghiệp, uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
3.2.2.2 Thực hiện tốt công tác phân loại rủi ro và đẩy mạnh giải quyết các khoản nợ tồn đọng
Quản lý rủi ro tín dụng ngày càng có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an toàn hoạt động của các ngân hàng. Chi nhánh cần xây dựng quy trình quản lý rủi ro tín dụng theo hướng xây dựng thang điểm để chấm điểm doanh nghiệp, xếp loại rủi ro tín dụng để đưa ra những quyết định cho vay phù hợp và kịp thời ngăn ngừa rủi ro. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh giải quyết các khoản nợ tồn đọng bằng quỹ dự phòng rủi ro, tăng cường hiệu quả xử lý tài sản đảm bảo, tích cự thu hồi nợ của các doanh nghiệp, kết hợp với hoạt động của các công ty quản lý nợ để xử lý các khoản nợ này.
3.2.3 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cho vay
Nhân lực là nhân tố quan trọng quyết định chất lượng cho vay của Chi nhánh. Một mặt, đội ngũ nhân lực góp phần tạo nên chất lượng phục vụ của ngân hàng, đem lại uy tín, thương hiệu cho ngân hàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Mặc khác, trình độ đội ngũ cán bộ cho vay sẽ quyết định chất lượng thông tin tín dụng, chất lượng công tác thẩm định và phân tích trước khi cho vay. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng cho vay của Chi nhánh, cần thường xuyên chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cho vay.
- Trước hết cần chú trọng nâng cao chất lượng tuyển dụng và đào tạo. Trong khâu tuyển dụng, cần kiểm tra kiến thức nghiệp vụ, khả năng phân tích, trình độ tin học, ngoại ngữ, khả năng giao tiếp,…để nâng cao chất lượng đầu vào. Trong công tác đào tạo, định kỳ mở các lớp huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ cho vay về nghiệp vụ, về kiến thức pháp luật, kiến thức ngành…
- Xây dựng chế độ tiền lương, khen thưởng, xử lý vi phạm nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ cho vay, đồng thời có chính sách cụ thể để giữ chân những cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, phẩm chất đạo đức tốt.
- Xây dựng quy trình và chế độ làm việc, nghỉ ngơi khoa học, hợp lý, tạo môi trường phát triển ổn định, tạo động lực thúc đẩy các cán bộ, nhân viên làm việc hiệu quả, tích cực trau dồi kỹ năng nghề nghiệp.
Nhìn chung, những giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với DNNXD nêu trên có tính chất chung, đòi hỏi Chi nhánh thực hiện trong thời gian lâu dài, có lộ trình cụ thể phù hợp với tình hình thực tế.
3.3 Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng cho vay DNNXD của Chi nhánh NHTMCP Xuất Nhập Khẩu Eximbank Hà Nội
3.3.1 Kiến nghị đối với NHTMCP XNK Eximbank
NHTMCP XNK Eximbank là cơ quan chỉ đạo trực tiếp hoạt động của Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội, cần dành sự quan tâm nhất định đến việc nâng cao chất lượng cho vay DNNXD tại Chi nhánh trong thời gian tới. Cụ thể:
- Tích cực ủng hộ, hỗ trợ về thông tin, đặc biệt là thông tin tín dụng để toàn hệ thống hoàn thiện quy trình cho vay, thực hiện tốt công tác thẩm định, phân tích doanh nghiệp, nâng cao chất lượng thông tin tín dụng.
- Khai thác các nguồn tín dụng ưu đãi, uỷ tác từ NHNN, Chính phủ, và các tổ chức khác, phân bổ hợp lý để tăng thêm nguồn vốn cho Chi nhánh, tạo điều kiện mở rộng cho vay các DNNXD.
- Tổ chức hội thảo, hội nghị về cho vay các DNNXD.
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra viêc thực hiện quy trình cho vay các DNNXD để có những chỉ đạo kịp thời.
3.3.2 Kiến nghị đối với các DNNXD
Từ những nguyên nhân thuộc về phía DNNXD có ảnh hưởng đến chất lượng cho vay DNNXD của Chi nhánh, chuyên đề đưa ra những kiến nghị với các DNNXD:
* Hoàn thiện công tác kế toán trong doanh nghiệp
Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp là cơ sở để Chi nhánh phân tích, đánh giá và đưa ra quyết định cho vay hay không. Tính trung thực của các báo cáo tài chính là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc đưa ra quyết định này. Với các DNNXD - mà đặc biệt đối tượng khách hàng của Chi nhánh phần lớn là các CTCP, Công ty TNHH, DNTN - phần lớn báo cáo tài chính thiếu tính chính xác, sai lệch so với thực tế khá lớn. Để cải thiện tình hình trên, doanh nghiệp cần hoàn thiện công tác kế toán. Trước hết, doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán kế toán trong doanh nghiệp theo chế độ kế toán hiện hành. Các doanh nghiệp nên triển khai ứng dụng các chương trình phần mềm ké toán nhằm nâng cao hiệu quả và độ chính xác, kịp thời. Trong quá trình sử dụng vốn vay, doanh nghiệp thường xuyên báo cáo trung thực, đầy đủ tình hình tài chính của mình sẽ tạo niềm tin đối với Chi nhánh, từ đó thiết lập quan hệ khách hàng lâu dài để nhận được những dịch vụ ưu đãi của ngân hàng.
* Xây dựng phương án sản xuất kinh doanh định kỳ nhằm nâng cao kỹ năng lập dụ án
Lập phương án sản xuất kinh doanh định kỳ (theo quý, năm) giúp cho doanh nghiệp chủ động trong hoạt động kinh doanh, kịp thời điều chỉnh trước những biến động của nền kinh tế, thay đổi chính sách, biến động trên thị trường, đặc biệt với các DNNXD. Đồng thời, khi kỹ năng lập dự án được nâng cao, doanh nghiệp chứng tỏ được năng lực, trình độ quản lý, tạo niềm tin cho ngân hàng, giúp doanh nghiệp có thể tiếp cận nhanh chóng nguồn vốn cho vay của ngân hàng. Trong các trường hợp cần thiết, doanh nghiệp có thể thuê các chuyên gia tư vấn hoặc những dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp trong việc lập dự án sản xuất kinh doanh.
* Tạo mối quan hệ với các doanh nghiệp trong ngành
Trong ngành xây dựng, các doanh nghiệp lớn - chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước – có lợi thế về quy mô, tài sản, uy tín,… nên dễ dàng tiếp cận với các nguồn vốn cho vay của các ngân hàng. Với các DNNXD có quy mô vừa và nhỏ, việc tạo dựng được mối quan hệ tốt với các doanh nghiệp lớn trong ngành vừa đem lại cơ hội phát triển sản xuất kinh doanh, vừa có thể có sự bảo lãnh của các doanh nghiệp lớn để tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng.
* Tận dụng tối đa các chương trình hỗ trợ của Nhà nước và các Cơ quan, Ban, Ngành có liên quan
Trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2007, Chính phủ, Bộ Xây dựng và các Ban, Ngành liên quan đã có sự quan tâm nhiều hơn đến hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành. Cụ thể:
- Về công tác cải cách, đổi mới, sắp xếp lại các DNNXD: Sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, áp lực cạnh tranh trong ngành xây dựng càng gia tăng, trong đó, các DNNXD trong nước đứng trước sự cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài. Thực trạng đó đặt ra yêu cầu phải cải cách, đổi mới, sắp xếp lại hoạt động của các DNNXD. Từ đầu năm 2007, Bộ Xây dựng dự kiến sẽ xây dựng năm tập đoàn dựa trên bốn nhóm ngành nghề, lĩnh vực bao gồm Công nghiệp xây dựng; Công nghiệp cơ khí, chế tạo thiết bị nặng; Công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng; Đầu tư phát triển đô thị và kinh doanh bất động sản. Bộ chọn ra năm tổng công ty đều thuộc nhóm hoạt động tốt nhất hiện nay để làm nòng cốt cho năm tập đoàn tương lai bao gồm Tổng công ty Sông Đà; Tổng công ty Lắp máy Việt Nam; Tổng công ty Xi măng Việt Nam; Tổng công ty Đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp Việt Nam và Tổng công ty Xây dựng Hà Nội. Đây được coi là cơ hội để các DNNXD.
- Về việc xây dựng hệ thống pháp luật quản lý hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành: Năm 2007, Bộ Xây dựng đã trình Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền 64 văn bản quy phạm pháp luật trong đó nổi lên những văn bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tính chất tạo bước đột phá
+ Trong công tác quản lý Nhà nước, quản lý đô thị: Nghị định quản lý kiến trúc đô thị, Nghị định phân loại đô thị các cấp quản lý đô thị, điều chỉnh định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến 2020, Nghị định về xây dựng công trình ngầm đô thị, quản lý chất thải rắn, thoát nước đô thị và khu công nghiệp, Nghị định về sản xuất và tiêu thụ nước sạch...
+ Lĩnh vực quản lý và phát triển nhà cũng có những nghiên cứu trình Chính phủ ban hành và ban hành nhiều văn bản quan trọng, nhiều dự thảo Đề án và sửa đổi những Nghị định có ý nghĩa lan toả mạnh tới thực tiễn như: Đề án xây dựng cơ chế thí điểm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội để cho thuê, đề án thí điểm chính sách nhà ở cho người nước ngoài tại Việt Nam, nghiên cứu mở rộng đối tượng mua nhà cho đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài, chương trình phát triển nhà ở xã hội, đổi mới chính sách mua bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước, Nghị quyết cải tạo xây dựng lại các nhà chung cư cũ đã hư hỏng…
+ Công tác quản lý hoạt động xây dựng với các nội dung: Tăng cường quản lý dự án đầu tư xây dựng, cấp phép, cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng, quản lý chất lượng công trình xây dựng, quản lý kinh tế xây dựng… đang từng bước vươn lên mạnh mẽ hơn, với phương châm quản lý gắn kết và ngày càng tiệm cận thực tiễn cuộc sống.
+ Lĩnh vực quản lý phát triển vật liệu xây dựng lần đầu tiên có một văn bản quy phạm pháp luật cấp Nghị định để điều chỉnh hoạt động quản lý vật liệu xây dựng trong phạm vi cả nước. Bên cạnh đó, quy hoạch tổng thể ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, quy hoạch công nghiệp xi măng, chương trình sản phẩm cơ khí trọng điểm cũng đang tiến triển vượt bậc,…
Việc đổi mới, sắp xếp lại các DNNXD theo hướng thành lập các tập đoàn, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật quy định hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành, là cơ sở để các DNNXD thực hiện đổi mới, nâng cao công tác quản lý, mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp trong ngành, mở rộng lĩnh vực sản xuất và kinh doanh. Các DNNXD nên tận dụng thời điểm có sự quan tâm sát sao của Chính phủ, các Bộ, Ban ngành có liên quan hiện nay để nâng cao năng lực hoạt động, tăng sức cạnh tranh, tạo uy tín với các ngân hàng để có thể tiếp cận nguồn vốn cho vay của các ngân hàng, kịp thời nắm bắt những cơ hội kinh doanh trong thời kỳ hội nhập.
3.3.3 Kiến nghị đối với Chính phủ và một số cơ quan, ban, ngành có liên quan
Trong những năm vừa qua, Chính phủ, các Bộ và các cơ quan, ban, ngành có liên quan đến hoạt động của các DNNXD đã có sự quan tâm sát sao hơn, có định hướng cụ thể và liên tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm mục tiêu phát triển ngành xây dựng trong thời kỳ hội nhập. Để nâng cao chất lượng cho vay DNNXD tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội trong thời gian tới, rất cần có những chính sách hỗ trợ của Chính phủ và các cơ quan, ban, ngành liên quan. Cụ thể:
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định về hoạt động của các DNNXD và các quy định liên quan đến hoạt động cho vay của các NHTM đối với DNNXD;
- Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của NHNN đối với hoạt động cho vay của các NHTM;
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức kiểm toán, đặc biệt là hoạt động kiểm toán các DNNXD;
- Xem xét thành lập và triển khai hoạt động của các Quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các DNNXD có quy mô vừa và nhỏ.
Một số giải pháp và kiến nghị trên nhằm nâng cao chất lượng cho vay các DNNXD tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội. Để thực hiện những giải pháp và kiến nghị trên cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Chi nhánh với hệ thống NHTMCP XNK Eximbank, với Chính phủ, các Bộ, cơ quan, ban, ngành có liên quan và trên tinh thần hợp tác, tuân thủ pháp luật của các DNNXD.
KẾT LUẬN
Việc phát triển các DNNXD là chiến lược quan trọng của Chính phủ, các Bộ, các cơ quan, ban, ngành bởi hoạt động của ngành xây dựng góp phần phát triển cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành kinh tế khác phát triển. Để phát triển hoạt động của các DNNXD, vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu bởi hầu hết các dự án sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành đều có quy mô lớn. Do đó, vai trò của các NHTM trong việc tài trợ vốn cho hoạt động của các DNNXD là hết sức quan trọng. Mở rộng cho vay DNNXD không chỉ góp phần giúp các NHTM mở rộng hoạt động kinh doanh mà còn đóng góp và sự phát triển của nền kinh tế.
Qua thực tế tìm hiểu hoạt động cho vay DNNXD tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội, em thấy việc mở rộng hoạt động cho vay DNNXD là hướng đi phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, do đặc thù của ngành xây dựng có rủi ro lớn, nên Chi nhánh cần chú trọng nâng cao chất lượng cho vay DNNXD để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả.
Trong công tác quản lý chất lượng cho vay DNNXD tại Chi nhánh, còn tồn tại nhiều hạn chế do các nguyên nhân từ phía Chi nhánh, từ phía các DNNXD và từ nhân tố khách quan là tình hình nền kinh tế vĩ mô, chính sách của Chính phủ. Chuyên đề đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm khắc phục những hạn chế trên để nâng cao chất lượng cho vay tại Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội. Đây là những giải pháp và kiến nghị mang tính chất tham khảo, việc thực hiện cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Chi nhánh và các bên liên quan và cần có thời gian, cũng như lộ trình cụ thể để có thể đạt được kết quả cao.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A – CÁC BÁO CÁO CỦA CHI NHÁNH NHTMCP XNK EXIMBANK HÀ NỘI
1. Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội, Báo cáo thường niên năm 2005, Hà Nội
2. Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội, Báo cáo thường niên năm 2006, Hà Nội
3. Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội, Báo cáo thường niên năm 2007, Hà Nội
4. Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội, Báo cáo cho vay năm 2005, Hà Nội
5. Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội, Báo cáo cho vay năm 2006, Hà Nội
6. Chi nhánh NHTMCP XNK Eximbank Hà Nội, Báo cáo cho vay năm 2007, Hà Nội
B- CÁC SÁCH, GIÁO TRÌNH
7. PGS. TS Phan Thị Thu Hà (Chủ biên) (2006), Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê, Hà Nội
8. PGS. TS Lê Văn Tề (Chủ biên) (2004), Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê, Hà Nội
9. PGS. TS Lưu Thị Hương (Chủ biên) (2004), Giáo trình Thẩm định Tài chính dự án, NXB Tài Chính, Hà Nội
10. TS Nguyễn Kim Định (2005), Giáo trình Quản trị chất lượng, NXB Đại Học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, TP HCM
11. PGS. TS Nguyễn Thị Quy (2005), Năng lực cạnh tranh của các NHTM trong xu thế hội nhập, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội
C – BÁO, TẠP CHÍ, WEBSITE
12. ThS Đỗ Quan Hải (2001), “Cần quy định chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại”, Tạp chí ngân hàng, Số 05/2001
13. Đặng Ngọc Ba (2004), “Khách hàng và chiến lược khách hàng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại”, Tạp chí ngân hàng, Số 10/2004
14. www.eximbank.com.vn
15. www.vneconomy.vn
16. www.sbv.gov.vn
17. www.gso.gov.vn
18. www.vnexpress.net
19. www.vir.com.vn
20. www.moc.gov.vn
D- VĂN BẢN PHÁP LUẬT
20. Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 - được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2004
21. Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN về việc Ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
Trang
Bảng 2.1: Hệ thống chi nhánh của Eximbank
38
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Eximbank Hà Nội
42
Bảng 2.2: Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh
NHTMCP NXK Eximbank Hà Nội (2005-2007)
45
Bảng 2.3: Báo cáo hoạt động cho vay của Chi nhánh
NHTMCP NXK Eximbank (2005-2007)
47
Bảng 2.4: Trị giá thanh toán xuất nhập khẩu
48
Bảng 2.5: Dư nợ cho vay theo ngành nghề kinh doanh
49
Bảng 2.6: Dư nợ cho vay DNNXD theo thành phần kinh tế
50
Bảng 2.7: Dư nợ cho vay DNNXD theo kỳ hạn
51
Bảng 2.8: Các chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng
trong hoạt động cho vay DNNXD (2005-2007)
52
Bảng 2.9: Tình hình nợ quá hạn của Chi nhánh
NHTMCP NXK Eximbank Hà Nội (2005-2007)
53
Bảng 2.10: Vòng quay vốn cho vay DNNXD (2005-2007)
54
Bảng 2.11: Thu nhập từ hoạt động cho vay DNNXD
55
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7671.doc