MỤC LỤC
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng biểu
Tài liệu tham khảo
Danh mục các chữ viết tắt
- GTGT: Giá trị gia tăng
- NHNN: Ngân hàng Nhà nước
- NHTM: Ngân hàng thương mại
- TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
- HĐ: Hợp đồng
- CVKH: Chuyên viên khách hàng
Danh mục bảng biểu, sơ đồ, hình vẽ Trang
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ trong hoạt động bảo lãnh 5
Bảng 2.1: Doanh số bảo lãnh Techcombank 2007-2008 48
Hình 2.2: So sánh doanh số bảo lãnh của Techcombank 2007-2008 48
Bảng 2.3: Số dư bảo l
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1802 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương (TechcomBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ãnh của Techcombank 2007-2008 50
Hình 2.4: Cơ cấu số dư bảo lãnh tháng 12/2007 51
Hình 2.5: Cơ cấu số dư bảo lãnh tháng 12/2008 51
Bảng 3 : Ký quỹ bảo lãnh tại Techcombank 52
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, hoạt động kinh doanh của ngân hàng không còn là một nghề nghiệp thầm lặng như có lúc đã là như vậy, đúng như lời tuyên bố của một ông chủ ngân hàng Mỹ: “ Bất chấp cả những bộ complet màu đen mà các người cầm đầu ngân hàng mặc, hoạt động ngân hàng là một công nghiệp rất năng động”. Câu nói ấy hàm ý ngoài những nghiệp vụ kinh doanh truyền thống trong tài sản nội bảng, các ngân hàng thương mại đang mở rộng quy mô hoạt động, đa dạng hóa các loại hình sản phẩm dịch vụ và thu nhập của mình thông qua việc tăng nhanh các hoạt động ngoại bảng. Đây cũng là một xu thế tất yếu trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt trên thị trường tài chính – tiền tệ. Tính đa dạng trong kinh doanh sẽ giúp các ngân hàng thương mại nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, từ đó hoạt động có hiệu quả và lành mạnh hơn.
Là một nghiệp vụ nằm trong các tài sản ngoại bảng, bảo lãnh ngân hàng đang ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng trong kinh doanh khi luôn được xem như tấm Giấy thông hành cho doanh nghiệp trong các hoạt động mua bán trả chậm. Nó không chỉ tạo thuận lợi cho những kế hoạch kinh doanh mà còn là cơ sở để các đối tác đặt niềm tin vào các doanh nghiệp. Nhờ vậy, bảo lãnh đã trở thành loại dịch vụ kinh doanh có nhiều tác động tích cực trong việc thúc đẩy các giao dịch về vốn, các giao dịch kinh doanh không chỉ ở trong lĩnh vực tín dụng mà cả trong dự thầu, thực hiện hợp đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm… Vì vậy, sau một thời gian thực tập, tìm tòi và học hỏi tại Hội Sở chính Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam, em đã chọn đề tài “Nâng cao chất lượng bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Nội dung đề tài bao gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại cổ phẩn Kỹ thương Việt Nam
Phạm vi của đề tài là nghiên cứu chất lượng bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2008. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, bài viết đưa ra một số ý kiến nhằm phát triển hoạt động này tại ngân hàng.
Để hoàn thiện đề tài này, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình từ PGS.TS. Phan Thị Thu Hà. Bên cạnh đó, trong thời gian thực tập, em cũng được sự chỉ bảo tận tình của các anh chị Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng thương mại:
Khái niệm bảo lãnh ngân hàng:
Nghiệp vụ kinh doanh truyền thống của các NHTM là các nghiệp vụ nội bảng. Thông qua các nghiệp vụ này, ngân hàng thể hiện rõ chức năng trung gian tài chính của mình qua việc huy động vốn từ các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư và cho vay lại với nền kinh tế. Tuy nhiên, với sự phát triển không ngừng của thị trường tài chính – tiền tệ, các hoạt động kinh doanh ngoại bảng đang được các ngân hàng ngày càng quan tâm hơn và có xu hướng phát triển rất nhanh. Điều này thể hiện rõ thông qua sự đa dạng của các loại hình dịch vụ trong hoạt động ngoại bảng của ngân hàng, và cũng là đặc điểm quan trọng của một NHTM hiện đại. Bảo lãnh ngân hàng là một trong những hoạt động ngoại bảng điển hình đang ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng của mình trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng thời gian qua.
Mặc dù mới chỉ phát triển mạnh ở Việt Nam trong những năm gần đây, nhưng hoạt động bảo lãnh của ngân hàng đã có lịch sử khá lâu đời. Bắt đầu xuất hiện vào khoảng giữa những năm 1960 tại Mỹ, bảo lãnh ngân hàng đã nhanh chóng được sử dụng như là một công cụ đảm bảo vô cùng quan trọng trong các giao dịch quốc tế trong suốt đầu những năm 1970. Nhu cầu đầu tiên đối với hoạt động bảo lãnh ngân hàng được bắt nguồn từ các nước Trung Đông. Sự gia tăng mạnh mẽ về của cải của những nước sản xuất dầu mỏ ở Trung Đông đã cho phép những nước này kí kết các hợp đồng với các hãng ở phương Tây cho những dự án có quy mô lớn như phát triển hạ tầng cơ sở, phúc lợi xã hội, các dự án công nghiệp và nông nghiệp, các dự án phục vụ cho hệ thống phòng thủ quốc gia. Do rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng như trong quá trình thanh toán, cả 2 bên đều cần tới một công cụ đảm bảo của một ngân hàng có uy tín nhằm hạn chế những rủi ro đó và tạo điều kiện thuận lợi cho cả 2 bên trong quá trình kí kết và thực hiện hợp đồng. Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng đã ra đời từ đó. Ngày nay, khi các giao dịch thương mại, các hợp đồng xây dựng ngày càng phát triển với quy mô lớn và phức tạp hơn thì bảo lãnh ngân hàng là một công cụ không thể thiếu trong việc hỗ trợ các giao dịch được diễn ra một cách suôn sẻ, thuận lợi.
Có thể nói, sự ra đời của hoạt động bảo lãnh ngân hàng là tất yếu khách quan. Một cách chung nhất, bảo lãnh ngân hàng được hiểu là:
Bảo lãnh ngân hàng ( gọi tắt là bảo lãnh) là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng( bên bảo lãnh) với bên có quyền( bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng( bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Như vậy, trong quan hệ bảo lãnh tồn tại 3 bên: bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Bên bảo lãnh là người phát hành thư bảo lãnh, thường là các ngân hàng, các tổ chức trung gian tài chính và các pháp nhân như Ngân hàng trung ương, Bộ Tài chính hay Kho bạc Nhà nước. Bên được bảo lãnh là người yêu cầu tổ chức tín dụng phát hành thư bảo lãnh cho mình và tùy vào từng hợp đồng, bên được bảo lãnh có thể là người xuất khẩu ( bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu, bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh bảo hành…), người nhập khẩu ( bảo lãnh thanh toán hợp đồng nhập khẩu, bảo lãnh nhận hàng không có vận đơn gốc…), người vay nợ ( bảo lãnh vay vốn) hay người dự thầu ( bảo lãnh dự thầu). Bên nhận bảo lãnh hay còn gọi là bên thụ hưởng bảo lãnh cũng tùy vào từng trường hợp mà có thể là người xuất khẩu( bảo lãnh thanh toán hợp đồng nhập khẩu…), người nhập khẩu( bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu, bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh bảo hành…), người cho vay( bảo lãnh vay vốn), chủ thầu( bảo lãnh dự thầu). Mối quan hệ giữa các bên trong hợp đồng bảo lãnh được minh họa trong sơ đồ dưới đây:
HĐ mua bán, dự thầu
(2)
Bên nhận bảo lãnh
Bên được bảo lãnh
Đơn xin bảo lãnh
(1)
Thư bảo lãnh
(3)
Bên bảo lãnh( NH)
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ trong hoạt động bảo lãnh
Trong phạm vi chuyên đề này, em sẽ tập trung nghiên cứu vào mối quan hệ giữa bên được bảo lãnh (khách hàng của ngân hàng) và bên bảo lãnh (ngân hàng). Đây là mối quan hệ đóng vai trò then chốt trong toàn bộ quá trình bảo lãnh, từ lúc bắt đầu phát sinh nhu cầu bảo lãnh cho tới khi bảo lãnh kết thúc. Tất cả các yêu cầu, nội dung cũng như các tiêu chí đánh giá hoạt động bảo lãnh sẽ được xây dựng dựa trên mối quan hệ giữa hai bên này.
1.1.2. Các hình thức bảo lãnh của NHTM:
Hoạt động bảo lãnh hết sức đa dạng và được xây dựng trên nhiều loại hình quan hệ. Ngày nay trên thế giới có rất nhiều loại hình bảo lãnh khác nhau dựa theo những tiêu chí phân loại khác nhau. Nếu căn cứ vào tính chất của hợp đồng cơ sở thì bảo lãnh được chia ra thành 6 hình thức sau:
* Bảo lãnh dự thầu
Là một cam kết của ngân hàng với chủ thầu về việc sẽ trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm những quy định được ghi trong hợp đồng dự thầu.
Thông thường, đối với những hợp đồng lớn, đặc biệt là những hợp đồng xây dựng, cung cấp máy móc thiết bị, chủ đầu tư thường tổ chức đấu thầu nhằm tìm kiếm những nhà thầu uy tín, có đủ năng lực để thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên trong thực tế để tìm kiếm những nhà thầu có đủ điều kiện như vậy là việc không dễ dàng, mặt khác để hạn chế những rủi ro như bên dự thầu trúng thầu song lại rút lui, không ký hợp đồng hay thay đổi ý định, chủ đầu tư phải cần đến một cam kết của ngân hàng về việc bảo đảm rằng nếu những rủi ro trên xảy ra thì ngân hàng sẽ bồi thường cho chủ đầu tư một khoản tiền gọi là tiền phạt. Khoản tiền này sẽ dùng để trang trải những chi phí đấu thầu thiệt hại do chậm trễ tiến độ thi công hay chi phí để tổ chức lại một cuộc đấu thầu khác. Nếu chủ công trình không yêu cầu bảo lãnh của ngân hàng thì bên dự thầu sẽ phải nộp một khoản tiền gọi là tiền ký quỹ( đặt cọc) dự thầu. Điều này gây ra nhiều thủ tục phiền phức cho cả hai bên và đặc biệt làm đọng vốn của bên dự thầu, cản trở tiến trình thực hiện công việc nên trong nhiều trường hợp, bảo lãnh dự thầu vẫn hay được sử dụng hơn là ký quỹ. Nhìn chung, bảo lãnh dự thầu thường chiếm từ 2% - 5% giá trị của hợp đồng và thường có thời hạn từ 3 – 6 tháng.
* Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Là một cam kết của ngân hàng cho bên thụ hưởng rằng sẽ chi trả những tổn thất nếu bên được bảo lãnh không thực hiện đầy đủ hợp đồng như đã cam kết. Loại bảo lãnh này rất hay được sử dụng. Các hợp đồng được bảo lãnh thường là các hợp đồng cung cấp hàng hóa, xây dựng… Việc khách hàng không thực hiện đúng như hợp đồng đã quy định đều có thể gây tổn thất cho bên thứ ba. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng không những bù đắp một phần tổn thất đó mà còn góp phần thúc đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng. Loại bảo lãnh này thường được dùng kèm với những phương thức thanh toán khác và bảo lãnh khác( VD như trong đấu thầu, ngoài bảo lãnh dự thầu, nếu bên tham gia trúng thầu thì chủ đầu tư thường yêu cầu thêm một bảo lãnh thực hiện hợp đồng). Giá trị của bảo lãnh thực hiện hợp đồng thường chiếm 10% trị giá của hợp đồng và tùy theo từng hợp đồng sẽ có thời hạn khác nhau, nhưng thông thường là từ 1 – 3 năm.
* Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước
Trong các hợp đồng thương mại hay các hợp đồng xây dựng lớn, để giúp cho bên cung cấp hàng hóa dịch vụ có một phần vốn để hỗ trợ sản xuất kinh doanh và để đảm bảo bên mua sẽ mua hàng của mình, bên nhận hàng hóa dịch vụ( bên mua) thường phải đặt cọc( ứng trước) một khoản tiền trong giá trị hợp đồng. Tuy nhiên, để đề phòng người cung cấp không hoàn trả lại số tiền đã đặt cọc và cả số lãi phát sinh trên số tiền đặt cọc đó, bên mua thường yêu cầu bên cung cấp phải có một bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước của Ngân hàng. Giá trị bảo lãnh sẽ bằng số tiền ứng trước cộng thêm khoản lãi phát sinh. Giá trị này sẽ giảm dần tương ứng với tiến độ giao hàng( hợp đồng thương mại) hay tiến độ thi công công trình( hợp đồng xây dựng).Vậy bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước là cam kết của ngân hàng sẽ hoàn trả lại số tiền ứng trước cho bên mua (người thụ hưởng bảo lãnh) nếu bên bán (người được bảo lãnh) không trả.
* Bảo lãnh thanh toán
Là một cam kết của ngân hàng về việc sẽ thanh toán tiền theo hợp đồng cho bên bán( bên thụ hưởng bảo lãnh) nếu bên mua( bên được bảo lãnh) không trả. Ngân hàng có thể thanh toán ngay cho bên thụ hưởng nếu bên thụ hưởng có bản tuyên bố đầu tiên kèm theo một lệnh thanh toán cho thấy bên được bảo lãnh đã không thanh toán như trong hợp đồng quy định; hoặc ngân hàng có thể chỉ thanh toán cho bên thụ hưởng nếu bên thụ hưởng có đầy đủ các chứng từ, hay các bằng chứng pháp lý chứng minh rằng bên được bảo lãnh đã vi phạm hợp đồng. Việc bồi thường của ngân hàng theo hình thức nào là tùy thuộc vào điều kiện được ghi trong hợp đồng bảo lãnh. Hiện nay, trên thế giới bảo lãnh thanh toán thường được phát hành dưới dạng Thư tín dụng dự phòng.
* Bảo lãnh bảo hành
Loại bảo lãnh này dùng với mục đích bảo đảm chất lượng sản phẩm trong thời gian bảo hành. Với các hợp đồng cung cấp máy móc thiết bị, ngoài việc giao hàng đúng tiến độ, đúng chất lượng sản phẩm; người bán còn phải cam kết bảo hành cho người mua một thời gian nhất định tùy thuộc vào tuổi thọ của sản phẩm. Bảo lãnh bảo hành là một cam kết của ngân hàng sẽ bồi thường giá trị bảo hành cho bên mua nếu bên bán không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ bảo hành như đã quy định trong hợp đồng. Như vậy, thời hạn của bảo lãnh bảo hành sẽ kéo dài từ lúc bắt đầu lắp ráp thiết bị cho đến hết thời hạn bảo hành của thiết bị.
* Bảo lãnh vay vốn
Đây là hình thức bảo lãnh mà trong đó, người bảo lãnh cam kết với người cho vay( bên thụ hưởng) rằng sẽ chịu trách nhiệm trả thay cho bên đi vay nếu bên đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả tiền đầy đủ, đúng hạn của mình. Người bảo lãnh phải ghi rõ cam kết trong hợp đồng bảo lãnh tín dụng về việc sẽ bảo lãnh cho bên đi vay cả phần gốc và lãi của khoản vay hay chỉ bảo lãnh phần gốc. Vì đây là một hình thức bảo lãnh có độ rủi ro rất cao nên đòi hỏi ngân hàng phải cân nhắc, thẩm định kỹ càng không khác gì cho vay trực tiếp.
1.1.3. Các nội dung chủ yếu của bảo lãnh
ß Chính sách bảo lãnh của ngân hàng thương mại
Ngày nay, bảo lãnh ngân hàng đã trở thành một loại hình dịch vụ có tầm quan trọng và ngày càng khẳng định vị trí của mình trong hoạt động ngoại bảng của ngân hàng. Nhưng bên cạnh đó, bảo lãnh cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Vì vậy, cần một chính sách bảo lãnh điều chỉnh hoạt động này. Một chính sách chặt chẽ, hợp lý, đầy đủ và toàn diện là điều kiện tiên quyết giúp cho hoạt động bảo lãnh của ngân hàng được thống nhất, trôi chảy và ngày càng hoàn thiện hơn. Toàn bộ các vấn đề có liên quan đến việc cấp bảo lãnh đều được đưa vào chính sách bảo lãnh. Nhìn chung, chính sách bảo lãnh bao gồm những nội dung chính sau:
Chính sách khách hàng
Khách hàng được nhận bảo lãnh của ngân hàng rất đa dạng,tuy nhiên luật pháp cũng cấm hoặc hạn chế bảo lãnh đối với một số đối tượng nhất định. Các khách hàng được nhận bảo lãnh phải tuân thủ các điều kiện của luật pháp nói chung và của bản thân ngân hàng nói riêng. Ví dụ như mục đích đề nghị tổ chức tín dụng bảo lãnh phải hợp pháp, có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ được tổ chức tín dụng bảo lãnh trong thời hạn cam kết, nếu bảo lãnh hối phiếu, lệnh phiếu thì khách hàng phải đảm bảo các quy định của pháp luật về thương phiếu…
Ngoài ra, ngân hàng cũng tiến hành phân loại khách hàng truyền thống và quan trọng, khách hàng khác. Việc phân loại này để dễ dàng xây dựng các chính sách ưu đãi cho các khách hàng truyền thống và quan trọng, từ đó nâng cao hình ảnh và uy tín của ngân hàng.
Phạm vi bảo lãnh
Bên bảo lãnh không thể cấp bảo lãnh cho tất cả các nghĩa vụ của khách hàng trong hợp đồng cơ sở mà chỉ trong một phạm vi các nghĩa vụ nhất định. Đó có thể là nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng hóa, vật tư; nghĩa vụ thực hiện hợp đồng với bên nhận bảo lãnh; nghĩa vụ thanh toán các khoản thuế đối với Nhà nước... Việc quy định phạm vi bảo lãnh nhằm mục đích an toàn, hợp pháp và tránh rủi ro cho ngân hàng. Ngân hàng có thể bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ các nghĩa vụ đó, tùy từng trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó, mỗi ngân hàng đều có sự linh hoạt trong phạm vi bảo lãnh của mình dựa trên sự thỏa thuận với khách hàng.
Chính sách về giới hạn bảo lãnh
Ngân hàng cấp bảo lãnh cho khách hàng với số dư bảo lãnh nằm trong một giới hạn do luật pháp quy định. Số dư bảo lãnh của ngân hàng đối với một khách hàng bao gồm số dư bảo lãnh và các cam kết phát hành theo hình thức tín dụng chứng từ, ngoại trừ hình thức mở thư tín dụng trả ngay được khách hàng ký quỹ đủ hoặc được cho vay 100% giá trị thanh toán. Ngân hàng xác định tổng mức bảo lãnh phù hợp với năng lực và tình hình tài chính của mình, bảo đảm thực hiện theo quy định hiện hành về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, từ đó có quyết định về giới hạn cấp bảo lãnh cho từng khách hàng cụ thể. Các quyết định này đều phải dựa trên sự tính toán của ngân hàng về mức độ rủi ro và sinh lời của cam kết bảo lãnh.
Trường hợp khách hàng có yêu cầu bảo lãnh vượt quá giới hạn bảo lãnh của ngân hàng thì ngân hàng sẽ cùng với các tổ chức tín dụng khác thực hiện bảo lãnh cho nghĩa vụ của khách hàng, gọi là đồng bảo lãnh. Một cách cụ thể, đồng bảo lãnh là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ của khách hàng thông qua một tổ chức tín dụng đầu mối. Việc phối hợp, quy trình đồng bảo lãnh cũng được thực hiện như quy trình đồng tài trợ của NHNN.
Nếu khách hàng không thực hiện được các nghĩa vụ như đã cam kết dẫn tới việc tổ chức tín dụng phải thực hiện thay thì việc bồi thường theo hình thức đồng bảo lãnh diễn ra như sau:
+ Các tổ chức tín dụng tham gia đồng bảo lãnh đều phải chịu trách nhiệm liên đới trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
+ Nếu tổ chức tín dụng đầu mối phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thay cho khách hàng thì các tổ chức tín dụng tham gia đồng bảo lãnh có trách nhiệm hoàn lại cho tổ chức tín dụng đầu mối số tiền tương ứng với tỷ lệ tham gia đồng bảo lãnh. Số tiền này đã được quy định cụ thể trong hợp đồng đồng bảo lãnh.
+ Trường hợp nghĩa vụ của khách hàng có thể chia thành các phần nghĩa vụ riêng biệt, độc lập thì mỗi tổ chức tín dụng có thể phát hành bảo lãnh cho từng nghĩa vụ đó mà không phải chịu trách nhiệm liên đới. Mỗi tổ chức tín dụng chỉ chịu trách nhiệm cho phần bảo lãnh của mình với khách hàng.
Hồ sơ đề nghị bảo lãnh
Hồ sơ đề nghị bảo lãnh của khách hàng phải bao gồm Đề nghị bảo lãnh theo mẫu của ngân hàng cùng với các tài liệu khác có liên quan. Khách hàng phải chịu trách nhiệm về tính xác thực của các tài liệu này và phải cung cấp đầy đủ các thông tin,tài liệu có liên quan đến giao dịch bảo lãnh theo yêu cầu của ngân hàng.
Phí bảo lãnh
Khách hàng phải trả cho ngân hàng phí bảo lãnh. Mức phí do ngân hàng và các bên thỏa thuận trên cơ sở phù hợp với chi phí ngân hàng và mức độ rủi ro của nghiệp vụ này. Chi phí ngân hàng bỏ ra cho một khoản bảo lãnh bao gồm các chi phí hồ sơ, chi phí thẩm định, chi phí trả lương cho cán bộ công nhân viên… Mức phí bảo lãnh trên thị trường là một yếu tố quan trọng giúp ngân hàng tham khảo, từ đó đưa ra mức phí của mình một cách cạnh tranh nhất.
Trong trường hợp có bảo lãnh đối ứng, xác nhận bảo lãnh, mức phí bảo lãnh do các bên thoả thuận, trên cơ sở mức phí bảo lãnh được khách hàng chấp nhận thanh toán.
Các bên tham gia đồng bảo lãnh thoả thuận mức phí bảo lãnh mỗi bên được hưởng, trên cơ sở thoả thuận về tỷ lệ tham gia đồng bảo lãnh của từng bên và mức phí bảo lãnh thu được của khách hàng. Khách hàng sẽ trả phí bảo lãnh cho tổ chức tín dụng làm đầu mối, sau đó các tổ chức tín dụng sẽ hưởng phí bảo lãnh theo tỷ lệ tham gia bảo lãnh của mình từ tổ chức tín dụng làm đầu mối.
Trường hợp ngân hàng bảo lãnh cho một nghĩa vụ mà nhiều khách hàng cùng tham gia thực hiện thì ngân hàng thoả thuận với từng khách hàng về mức phí phải trả, trên cơ sở nghĩa vụ tương ứng của mỗi khách hàng trong hợp đồng liên đới trách nhiệm giữa các khách hàng.
Đối với những khoản phí bảo lãnh chậm thanh toán cho ngân hàng, khách hàng và ngân hàng thỏa thuận để đưa ra hình thức xử lý.
Chính sách về tài sản đảm bảo
Ngân hàng bảo lãnh cho khách hàng dựa trên uy tín của mình, do vậy việc có hay không có tài sản đảm bảo là do ngân hàng và khách hàng thỏa thuận. Nếu khách hàng là khách hàng truyền thống, có uy tín, năng lực thực hiện hợp đồng cao và tình hình tài chính tốt, ngân hàng có thể bảo lãnh không cần tài sản đảm bảo. Trong những trường hợp còn lại, ngân hàng có thể đòi hợp đồng đảm bảo. Các biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ của khách hàng bao gồm cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh của bên thứ ba, ký quỹ và các biện pháp bảo đảm khác theo quy định của pháp luật. Ngân hàng chỉ chấp nhận các tài sản có thể bán được làm tài sản đảm bảo, do vậy định giá tài sản đảm bảo là một khâu quan trọng trong quá trình cấp bảo lãnh của ngân hàng. Tài sản được dùng làm đảm bảo rất đa dạng, đó có thể là tiền gửi các loại, vật tư hàng hóa hay các giấy tờ có giá khác… Các tài sản dùng làm đảm bảo này thường bị ngân hàng phong tỏa hoặc theo dõi chặt chẽ việc sử dụng.
ß Quy trình hoạt động bảo lãnh của NHTM
Quy trình bảo lãnh ngân hàng bao gồm nhiều bước, mỗi bước có quan hệ mật thiết với nhau và cần thực hiện một cách tuần tự. Mục đích xây dựng quy trình bảo lãnh là nhằm thống nhất và chuẩn hóa quá trình bảo lãnh, hạn chế rủi ro cũng như nâng cao chất lượng bảo lãnh; do vậy cán bộ ngân hàng cần tuân thủ chặt chẽ theo các bước trong quy trình này.
Bước 1: Thẩm định hồ sơ và xét duyệt thư bảo lãnh
- Cán bộ ngân hàng tiếp nhận hồ sơ xin bảo lãnh của khách hàng. Trước đó, cán bộ ngân hàng phải có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ theo đúng quy định của từng loại bảo lãnh cụ thể. Nếu hồ sơ còn thiếu, cán bộ ngân hàng phải yêu cầu bổ sung. Trên hồ sơ phải ghi rõ số tiền bảo lãnh và mục đích bảo lãnh. Dựa trên những tài liệu mà khách hàng cung cấp, ngân hàng tiến hành thẩm định khách hàng, tài sản đảm bảo của khách hàng và phương án phát hành thư bảo lãnh. Tùy từng hình thức bảo lãnh mà quá trình thẩm định sẽ là khác nhau nhưng nhìn chung, nội dung thẩm định gồm những phần chính sau:
+ Phân tích khách hàng: cần đánh giá về tình hình hoạt động của khách hàng. Trong hồ sơ xin bảo lãnh của khách hàng có bảng cân đối kế toán, ngân hàng sẽ dựa vào đó để đánh giá về tài sản (tài sản cố định, tài sản lưu động), khả năng thanh toán cũng như các khoản nợ của khách hàng. Bên cạnh đó, các chỉ tiêu về khả năng sinh lời như doanh thu , ROE, ROA và chu kì kinh doanh qua các năm cũng là yếu tố quan trọng cần cân nhắc.Việc đánh giá này nhằm mục đích xem khách hàng có tình hình sản xuất kinh doanh ổn định không, khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng dẫn đến việc ngân hàng phải trả thay thì khách hàng có đủ năng lực tài chính để trả nợ ngân hàng hay không. Đây là một bước rất cần thiết trong quá trình thẩm định.
+ Đánh giá năng lực thực hiện hợp đồng: khả năng thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng cơ sở của khách hàng là yếu tố quan trọng bậc nhất trước khi ra quyết định cấp bảo lãnh. Các nội dung cần đánh giá bao gồm đánh giá đối tượng và thời hạn của hợp đồng cơ sở. Ngân hàng cần xem xét khách hàng có hiểu rõ và có khả năng cung cấp, thực hiện đối tượng của hợp đồng cơ sở hay không, thời hạn của hợp đồng cơ sở có phù hợp với năng lực khách hàng không. Chẳng hạn như với một bảo lãnh thực hiện hợp đồng trong đó khách hàng phải cung cấp máy móc thiết bị cho bên thứ ba, các máy móc thiết bị đó là hàng nhập khẩu từ một doanh nghiệp khác mà khách hàng làm đại lý; ngân hàng cần đánh giá sự am hiểu của khách hàng về máy móc thiết bị đó, quan hệ với đối tác của khách hàng và thời hạn để khách hàng giao hàng hóa có phù hợp. Từ đó ngân hàng sẽ đưa ra nhận định liệu khách hàng có đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Bên cạnh việc đánh giá năng lực thực hiện hợp đồng, ngân hàng cũng phải tính toán các rủi ro có thể phát sinh và xây dựng các phương án phòng ngừa những rủi ro đó.
+ Thẩm định tài sản đảm bảo: tài sản đảm bảo là nguồn chính mà ngân hàng sẽ sử dụng để bù đắp cho khoản trả thay của ngân hàng cho bên thứ ba khi khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng. Do vậy, thẩm định tài sản đảm bảo là khâu rất quan trọng trong quá trình thẩm định. Các nội dung cần thẩm định gồm tính pháp lý của tài sản và định giá tài sản đảm bảo.
Quá trình thẩm định là yếu tố quan trọng bậc nhất giúp ngân hàng đưa ra quyết định bảo lãnh hay không bảo lãnh. Đây là quá trình tiềm ẩn rất nhiều rủi ro do vậy mất nhiều thời gian và đòi hỏi trình độ chuyên môn cao của cán bộ ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng cũng cần cố gắng để thẩm định hồ sơ khách hàng một cách nhanh chóng và chính xác nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và nâng cao chất lượng bảo lãnh của ngân hàng.
- Sau khi đã thẩm định hồ sơ bảo lãnh, cán bộ thẩm định báo cáo kết quả thẩm định và trình lên cấp có thẩm quyền phê duyệt để xét duyệt thư bảo lãnh.
Bước 2: Kí hợp đồng bảo lãnh với khách hàng
Sau khi có kết quả thẩm định và ý kiến của cán bộ cấp trên, cán bộ ngân hàng tiến hành thông báo với khách hàng việc ngân hàng có chấp thuận khoản bảo lãnh hay không. Trường hợp ngân hàng chấp thuận, cán bộ ngân hàng soạn thảo hợp đồng bảo lãnh và thư bảo lãnh. Nội dung của hợp đồng bảo lãnh theo mẫu quy định của ngân hàng và được lập thành hai bản, mỗi bên giữ một bản. Hợp đồng bảo lãnh là văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ cấp bảo lãnh, đồng thời nó phải tuân thủ các điều khoản pháp luật quy định, do vậy cả ngân hàng và khách hàng đều phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi ký kết hợp đồng bảo lãnh.
Bước 3: Theo dõi bảo lãnh
Trong suốt thời hạn hiệu lực của bảo lãnh, cán bộ ngân hàng có trách nhiệm thường xuyên theo dõi tình hình hoạt động của khách hàng, các biến động ảnh hưởng xấu đến tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng thực hiện các nghĩa vụ mà ngân hàng đã bảo lãnh. Với bảo lãnh dự thầu cần xem xét tình hình xét thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng cần xem xét tiến độ - khả năng thực hiện hợp đồng,với bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán cần theo dõi tình hình giải ngân, tình hình tài chính công nợ để đủ nguồn thanh toán của khách hàng… để tránh việc ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ thay. Bên cạnh đó cũng cần đôn đốc, nhắc nhở khách hàng thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng.
Bước 4: Giải tỏa bảo lãnh
Khi bảo lãnh đã hết hiệu lực và khách hàng đã hoàn thành các nghĩa vụ cam kết, ngân hàng tiến hành tất toán bảo lãnh cho khách hàng. Cán bộ ngân hàng có nhiệm vụ giải tỏa tiền ký quỹ và tài sản đảm bảo cho khách hàng đồng thời xử lý các công việc có liên quan khác.
Trường hợp khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng cơ sở giữa khách hàng và bên thứ ba, ngân hàng cần tìm ra nguyên nhân để đưa ra quyết định của mình. Nếu đúng là lỗi do khách hàng, và bên nhận bảo lãnh xuất trình yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và các tài liệu, chứng từ kèm theo (nếu có), thoả mãn đầy đủ các điều kiện đã quy định trong cam kết bảo lãnh, ngân hàng tiến hành bồi thường cho bên nhận bảo lãnh. Nếu các bên thoả thuận áp dụng các quy tắc, tập quán, thông lệ quốc tế về bảo lãnh ngân hàng thì trình tự thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh phải tuân thủ theo các quy tắc, tập quán và thông lệ quốc tế đó. Ngay sau khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, ngân hàng thông báo và ghi nợ cho khách hàng hoặc tổ chức tín dụng đề nghị bảo lãnh (gọi chung là bên nợ) số tiền ngân hàng đã trả thay, sau khi trừ phần thu hồi số tiền ký quỹ (nếu có).
Bên nợ có nghĩa vụ hoàn trả ngay số tiền ngân hàng đã trả thay. Trong trường hợp chưa hoàn trả được cho tổ chức tín dụng, bên nợ phải chịu lãi suất phạt đối với khoản nợ ngân hàng đã trả thay, tối đa bằng 150% lãi suất trong hợp đồng vay vốn giữa khách hàng và bên nhận bảo lãnh (trường hợp bảo lãnh vay vốn) hoặc lãi suất cho vay thông thường mà bên bảo lãnh đang áp dụng, kể từ ngày ngân hàng thực hiện trả thay.
Trên đây là những bước chung nhất mà một quy trình bảo lãnh cần phải có. Tùy thuộc vào đặc điểm của từng ngân hàng cũng như năng lực cán bộ, mô hình tổ chức… mà mỗi ngân hàng sẽ quy định chi tiết quy trình bảo lãnh riêng cho mình.
ß Nội dung hợp đồng bảo lãnh
Quan hệ bảo lãnh là quan hệ 3 bên, do vậy khi soạn thảo hợp đồng bảo lãnh ngân hàng sẽ cần tới 2 loại hợp đồng: hợp đồng bảo lãnh giữa ngân hàng và khách hàng và hợp đồng bảo lãnh giữa ngân hàng và bên thứ ba. Do chuyên đề tập trung nghiên cứu vào quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng nên sẽ chỉ giới thiệu hợp đồng bảo lãnh giữa ngân hàng và khách hàng, gọi tắt là hợp đồng bảo lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng độc lập với hợp đồng kinh tế giữa ngân hàng và khách hàng, thể hiện ràng buộc tài chính giữa ngân hàng và bên thứ ba. Việc soạn thảo hợp đồng bảo lãnh là khâu mang tính quyết định trong toàn bộ quy trình bảo lãnh. Hợp đồng bảo lãnh có rõ ràng, chặt chẽ thì mới tạo điều kiện cho các bên trong quá trình giao dịch cũng như tránh các tranh chấp nảy sinh về sau. Vì bảo lãnh ngân hàng là 1 hình thức bảo đảm mang tính phái sinh, được xây dựng trên giao dịch giữa khách hàng và bên thứ ba nên việc soạn thảo hợp đồng bảo lãnh không thể tách rời với hợp đồng cơ sở. Xem xét các yếu tố trong hợp đồng cơ sở sẽ giúp ngân hàng xác định rõ những nội dung trong hợp đồng bảo lãnh. Các yếu tố cần xem xét bao gồm: bản chất của giao dịch cơ sở, nghĩa vụ của khách hàng và thời hạn của hợp đồng cơ sở. Xem xét bản chất của giao dịch cơ sở sẽ giúp ngân hàng nhận định rõ mức rủi ro có thể xảy ra, từ đó xác định được mức bảo lãnh phù hợp. Nghĩa vụ của khách hàng trong hợp đồng cũng cần được phân tích xem có phù hợp với năng lực thực hiện của khách hàng không, ngân hàng nên bảo lãnh cho nghĩa vụ nào bởi trách nhiệm của ngân hàng là phải bồi thường cho bên thứ ba khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng. Bên cạnh đó, thời hạn của hợp đồng cơ sở cũng là yếu tố không thể không cân nhắc khi nó quyết định thời hạn của bảo lãnh. Tóm lại, hợp đồng cơ sở là một căn cứ pháp lý quan trọng giúp cho cán bộ ngân hàng có thể quyết định các nội dung trong hợp đồng bảo lãnh.
Tuy không có một mẫu chung thống nhất của hợp đồng bảo lãnh cho tất cả các loại hình bảo lãnh cũng như cho các ngân hàng phát hành, nhưng nhìn chung hợp đồng bảo lãnh bao gồm các nội dung chính sau đây:
- Tên và địa chỉ của các bên liên quan: Bao gồm tên và địa chỉ của ngân hàng( người bảo lãnh), người yêu cầu bảo lãnh (khách hàng của ngân hàng) và người thụ hưởng bảo lãnh. Ngoài ra, nếu là bảo lãnh gián tiếp thì cần có thêm tên và địa chỉ của ngân hàng phát hành bảo lãnh gián tiếp.
- Mục đích bảo lãnh: khách hàng phải ghi rõ xin ngân hàng cấp bảo lãnh để làm gì.
- Số tiền bảo lãnh: một hợp đồng bảo lãnh phải ghi rõ số tiền tối đa mà ngân hàng chịu trách nhiệm bảo lãnh cùng với đồng tiền thanh toán.
- Thời hạn bảo lãnh: Một bảo lãnh cần phải quy định rõ thời hạn bảo lãnh. Bảo lãnh có thể hết hiệu lực vào một ngày xác định( ngày hết hiệu lực) hoặc khi ngân hàng phát hành bảo lãnh nhận được các chứng từ đã được quy định về thời hạn hiệu lực của bảo lãnh( trường hợp hết hiệu lực). Nếu cả ngày hết hiệu lực và trường hợp hết hiệu lực đều được ghi trên hợp đồng bảo lãnh thì bảo lãnh sẽ hết hiệu lực khi một trong hai điều trên xảy ra trước.
- Hì._.nh thức bảo lãnh: hợp đồng bảo lãnh phải ghi rõ loại hình bảo lãnh.
- Ký quỹ bảo lãnh và tài sản đảm bảo cho bảo lãnh của khách hàng: các mục này phải ghi rõ số tiền, đồng tiền và tỷ trọng trong giá trị bảo lãnh.
- Phí bảo lãnh: hợp đồng bảo lãnh phải ghi rõ mức phí bảo lãnh cũng như số lần trả phí bảo lãnh (trả ngay hay trả nhiều lần).
- Các điều khoản vi phạm hợp đồng kinh tế dẫn đến nghĩa vụ chi trả của ngân hàng: trong đó quy định rõ trường hợp nào ngân hàng sẽ tiến hành bồi thường cho bên thứ ba và trách nhiệm của ngân hàng đối với tính đầy đủ và chính xác của các giấy tờ chứng minh sự vi phạm do bên thứ ba cung cấp.
- Điều kiện bồi hoàn khi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh: bao gồm việc xử lý tài sản đảm bảo, số tiền mà khách hàng phải hoàn trả cho ngân hàng, lãi suất phạt khi khách hàng không hoàn trả ngay…
1.2. Chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm chất lượng bảo lãnh
Thuật ngữ “chất lượng” đã xuất hiện từ lâu và được sử dụng rất rộng rãi và phổ biến trong cuộc sống thường ngày. Chất lượng sản phẩm là một phạm trù rất phức tạp, phản ánh tổng hợp các nội dung kỹ thuật, kinh tế và xã hội. Do tính phức tạp đó nên hiện nay có rất nhiều quan niệm về định nghĩa chất lượng sản phẩm, một số định nghĩa thường gặp là:
Theo Tổ chức kiểm tra chất lượng Châu Âu (European Organization for Quality Control): “Chất lượng là mức độ phù hợp với yêu cầu người tiêu dùng”.
Theo tiêu chuẩn Pháp: “Chất lượng là tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu người sử dụng”.
Theo Giáo sư Philip. B. Crosby: “Chất lượng là sự phù hợp với nhu cầu”.
Theo J. M. Juran, một chuyên gia về chất lượng nổi tiếng của Mỹ: “Chất lượng bao gồm những đặc điểm của sản phẩm phù hợp với các nhu cầu của khách hàng và tạo ra sự thỏa mãn đối với khách hàng”.
Theo Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa, trong tiêu chuẩn ISO 8402: 2000 (Quality Management and Quality Assurance): “Chất lượng là toàn bộ các đặc tính của một thực thể, tạo cho thực thể đó khả năng thỏa mãn các nhu cầu đã được công bố hay còn tiềm ẩn”.
Xuất phát từ các khái niệm trên, có thể thấy rằng chất lượng sản phẩm được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu. Chất lượng của 1 sản phẩm, dịch vụ là khác nhau tùy thuộc vào yêu cầu, kì vọng của mỗi người, từ người cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho tới người sử dụng sản phẩm, dịch vụ đó. Mỗi người sản xuất hay người tiêu dùng lại có những quan niệm khác nhau về chất lượng khi đứng trên góc độ của mình để xem xét. Như vậy có thể thấy chất lượng sản phẩm đã được hình thành từ quá trình nghiên cứu, triển khai và chuẩn bị sản xuất, trong quá trình tiến hành sản xuất và được duy trì trong suốt thời gian sử dụng. Các yêu cầu của người sản xuất và người tiêu dùng thường được chuyển thành các đặc tính với các tiêu chuẩn nhất định. Người cung cấp sản phẩm dịch vụ mong muốn sản phẩm mình tạo ra được nhiều người quan tâm, hưởng ứng và đem lại lợi nhuận tối đa cho mình; trong khi người sử dụng sản phẩm lại mong muốn sản phẩm mình mua phải có các đặc tính như tính dễ sử dụng, tính sẵn sàng, tính thuận tiện và dễ dàng trong sửa chữa, độ tin cậy, tính an toàn thẩm mỹ và các tác động đến môi trường... Đặc biệt, giá cả của sản phẩm là yếu tố quan trọng khi nói tới chất lượng. Chất lượng sản phẩm phải được thể hiện cùng với chi phí. Người sử dụng sản phẩm sẽ không chấp nhận mua một sản phẩm với bất kì giá nào. Đến đây sẽ có một vấn đề được đặt ra là phải chăng quan điểm về chất lượng sản phẩm giữa người cung cấp sản phẩm dịch vụ và người sử dụng là mâu thuẫn nhau, bởi người sản xuất luôn mong muốn sẽ bán được với giá cao để thu lợi nhuận lớn trong khi người sử dụng lại mong muốn mua được sản phẩm tốt với giá thấp. Thực tế không phải như vậy. Nếu sản phẩm được bán ra với giá quá cao, người tiêu dùng sẽ không chấp nhận nó, doanh nghiệp sẽ không bán được hàng và không thu được lợi nhuận. Do vậy, giá cả phải có sự phù hợp với đặc tính của sản phẩm. Từ đó có thể thấy quan điểm về chất lượng giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng chỉ khác nhau chứ không mâu thuẫn nhau.
Nói tóm lại, một sản phẩm có được đánh giá là có chất lượng tốt hay không là phụ thuộc vào sự khác biệt giữa kì vọng của một người trước khi cung cấp hay sử dụng sản phẩm dịch vụ với thực tế những gì họ nhận được sau khi cung cấp hay sử dụng sản phẩm dịch vụ đó. Sự khác biệt đó nói lên rằng lợi ích của họ liệu có được thỏa mãn hay nói cách khác, chất lượng phải được đi kèm với lợi ích.
Bảo lãnh là một dịch vụ của ngân hàng, do đó khái niệm chất lượng bảo lãnh cũng không nằm ngoài các quan niệm trên. Một cách tổng quát, chất lượng bảo lãnh là việc đáp ứng được yêu cầu của các bên tham gia trong quan hệ bảo lãnh. Như đã biết, mối quan hệ trong bảo lãnh ngân hàng bao gồm 3 bên: bên bảo lãnh (ngân hàng), bên được bảo lãnh (khách hàng của ngân hàng) và bên thụ hưởng bảo lãnh (bên thứ ba). Đây là một mối quan hệ mật thiết, cụ thể giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh là quan hệ đáp ứng yêu cầu của bên được bảo lãnh, giữa bên bảo lãnh và bên thụ hưởng bảo lãnh là cam kết đảm bảo sẽ bồi thường cho bên thụ hưởng một số tiền nhất định nếu bên được bảo lãnh có vi phạm, giữa bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng là quan hệ hợp đồng kinh tế, xây dựng làm phát sinh nhu cầu bảo lãnh. Như vậy, mỗi bên sẽ có những quan niệm khác nhau về chất lượng bảo lãnh. Nếu đứng trên góc độ của khách hàng và ngân hàng, các yêu cầu của mỗi bên này đối với một khoản bảo lãnh được thể hiện như sau:
-Với khách hàng của ngân hàng: yêu cầu của khách hàng đối với một bảo lãnh trước tiên là sự đa dạng, phong phú trong các loại hình bảo lãnh để có thể đáp ứng mọi đòi hỏi của bên thứ ba, bởi khách hàng sẽ dựa trên yêu cầu của người thụ hưởng để xin cấp bảo lãnh. Có thể thấy yêu cầu của người thụ hưởng đối với một khoản bảo lãnh đã được chuyển tải phần nào thông qua khách hàng. Yêu cầu tiếp theo của khách hàng là được ngân hàng cấp bảo lãnh với mức phí cạnh tranh, tài sản đảm bảo và tỷ lệ ký quỹ hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng sản xuất – kinh doanh. Bên cạnh đó, thái độ của cán bộ ngân hàng và thủ tục cấp bảo lãnh cũng là các nhân tố quan trọng trong yêu cầu của khách hàng. Thông qua việc đề xuất các yếu tố liên quan đến xin cấp bảo lãnh, bên yêu cầu bảo lãnh mong muốn các cán bộ ngân hàng có chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm với thái độ phục vụ niềm nở, luôn sẵn sàng tư vấn cho khách hàng về thủ tục, các loại bảo lãnh phù hợp với mục tiêu và khả năng của khách hàng, tạo điều kiện tối đa để khách hàng có phương án bảo lãnh tối ưu nhất. Ngoài ra, thủ tục xin cấp bảo lãnh cần đơn giản, thuận tiện và nhanh chóng.
- Với ngân hàng: yêu cầu đối với một khoản bảo lãnh bao gồm việc khách hàng thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng, ngân hàng không phải trả thay (hay nói cách khác là không để xảy ra rủi ro trong bảo lãnh đối với ngân hàng, sau đây gọi tắt là rủi ro trong bảo lãnh) đồng thời thu được một khoản phí đầy đủ, đúng hạn đủ bù đắp các chi phí đã bỏ ra và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Rủi ro từ nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng cũng giống như rủi ro trong các nghiệp vụ tín dụng khác, đó là rủi ro phản ánh tổng hợp mức rủi ro của nền kinh tế. Tuy nhiên rủi ro trong bảo lãnh còn đáng ngại hơn các nghiệp vụ khác ở chỗ: các yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cam kết thường đưa ra tương đối đột ngột và ngân hàng phải thanh toán ngay, do đó sẽ gây khó khăn về vốn khả dụng cho các ngân hàng. Nếu doanh số bảo lãnh lớn và ngân hàng bị yêu cầu thanh toán một khoản lớn thì sẽ có ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng đó. Mặt khác do bảo lãnh là một nghiệp vụ tài trợ thông qua uy tín nên hậu quả của các rủi ro trong bảo lãnh không chỉ đơn thuần là tài chính mà nó còn liên quan trực tiếp đến uy tín của ngân hàng phát hành. Một ngân hàng bị chậm trễ trong việc thực hiện cam kết hoặc bị lôi cuốn vào vòng khiếu kiện về một nghĩa vụ bảo lãnh sẽ làm cho uy tín của ngân hàng bị giảm sút đáng kể. Do vậy, việc hạn chế được rủi ro trong bảo lãnh không chỉ giúp ngân hàng tránh được các rắc rối về mặt tài chính mà thông qua đó còn góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng trong mắt người thụ hưởng bảo lãnh, bởi trách nhiệm của ngân hàng là phải thẩm định và đôn đốc khách hàng thực hiện đúng hợp đồng cơ sở. Từ đó, người thụ hưởng sẽ tin tưởng vào dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng và yêu cầu bên được bảo lãnh dùng nhiều bảo lãnh của ngân hàng hơn, qua đó làm tăng doanh số và doanh thu trong bảo lãnh, góp phần thúc đẩy quá trình kinh doanh của ngân hàng. Đó cũng là yêu cầu chung đối với tất cả các nghiệp vụ khác của ngân hàng.
Trong phạm vi chuyên đề này, em sẽ nghiên cứu về chất lượng bảo lãnh đứng trên góc độ của ngân hàng. Như vậy, chất lượng bảo lãnh theo quan điểm của ngân hàng được hiểu như sau: Chất lượng bảo lãnh là việc khách hàng thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng và ngân hàng thu được một khoản phí bảo lãnh hợp lý.
1.2.2. Các tiêu chí phản ánh, đánh giá chất lượng bảo lãnh
Chất lượng bảo lãnh, như đã phân tích ở trên, bao gồm hai khía cạnh là rủi ro trong bảo lãnh và mức phí bảo lãnh ngân hàng thu được. Do vậy các tiêu chí đánh giá chất lượng bảo lãnh phải cho thấy khách hàng có thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ hay không, ngân hàng có phải trả thay hay không đồng thời mức phí ngân hàng thu được liệu có mang tính cạnh tranh và đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng. Đối với ngân hàng thì chất lượng bảo lãnh được thể hiện qua 2 nhóm tiêu chí là nhóm tiêu chí phản ánh rủi ro bảo lãnh và nhóm tiêu chí phản ánh lợi nhuận thu được từ bảo lãnh :
Nhóm tiêu chí phản ánh rủi ro trong bảo lãnh:
- Môi trường hoạt động của người yêu cầu bảo lãnh: đây là một tiêu chí rất quan trọng để xác định mức rủi ro trong bảo lãnh. Nếu môi trường sản xuất kinh doanh của khách hàng không ổn định, chịu nhiều tác động xấu của nền kinh tế hay luôn có những thay đổi đột ngột ảnh hưởng bất lợi đến người yêu cầu bảo lãnh thì khả năng khách hàng không thực hiện được hợp đồng như đã cam kết với bên thứ ba là rất cao, ảnh hưởng xấu đến chất lượng bảo lãnh.
- Tình hình tài chính của người yêu cầu bảo lãnh: nếu khách hàng có tình hình tài chính yếu kém, không lành mạnh thì sẽ rất khó có khả năng thực hiện hợp đồng. Một khi ngân hàng đã trả thay cho khách hàng khoản bồi thường bảo lãnh và nếu khách hàng đang lâm vào khó khăn tài chính, sẽ có rất ít khả năng khách hàng bồi hoàn lại khoản trả thay đó cho ngân hàng. Thông thường trước khi cấp bảo lãnh ngân hàng đã phải thẩm định và đánh giá rất chi tiết tình hình tài chính của khách hàng, nhưng có những biến cố xảy ra ngoài khả năng dự báo của ngân hàng khiến rủi ro trong bảo lãnh là rất cao.
- Dư nợ do trả thay bảo lãnh: là khoản tiền mà ngân hàng phải thanh toán cho bên thụ hưởng bảo lãnh do bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ đã cam kết. Khoản tiền này sẽ được tính vào nợ bắt buộc của bên được bảo lãnh.
- Nợ quá hạn bảo lãnh và Tỷ lệ Nợ quá hạn bảo lãnh/Tổng số dư bảo lãnh: Nợ quá hạn bảo lãnh là khoản tiền mà ngân hàng đã bồi thường cho bên thụ hưởng bảo lãnh khi bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ đã cam kết nhưng bên được bảo lãnh chưa hoàn trả được cho ngân hàng. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ rủi ro trong bảo lãnh, ảnh hưởng đến chất lượng bảo lãnh. Chỉ tiêu này cùng với chỉ tiêu dư nợ do trả thay bảo lãnh có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, phản ánh những mức độ rủi ro khác nhau trong bảo lãnh: Nợ quá hạn bảo lãnh và tỷ lệ Nợ quá hạn bảo lãnh/Tổng số dư bảo lãnh có mức rủi ro cao hơn so với dư nợ do trả thay bảo lãnh. Trong khi nợ do trả thay bảo lãnh mới chỉ ảnh hưởng đến tính thanh khoản của ngân hàng trong thời gian ngắn thì nợ quá hạn bảo lãnh đã cho thấy hi vọng thu được khoản bảo lãnh trả thay cho khách hàng là rất mong manh, ngân hàng khó có thể thu hồi được.
- Các khoản bảo lãnh có vấn đề: mặc dù ngân hàng chưa phải bồi thường cho bên thụ hưởng nhưng trong quá trình theo dõi, cán bộ ngân hàng nhận thấy khách hàng khó có thể thực hiện được hợp đồng vì nhiều lý do khác nhau thì khả năng ngân hàng phải trả thay cho khách hàng là rất lớn, ảnh hưởng xấu đến chất lượng bảo lãnh.
- Sự đa dạng của các khoản bảo lãnh: chỉ tiêu này dựa trên quy luật kinh tế “không bỏ trứng vào cùng một giỏ”. Nếu ngân hàng chỉ tập trung bảo lãnh cho một loại hình bảo lãnh, một ngành nghề hay một đối tượng khách hàng nhất định thì khi ngành nghề hay đối tượng đó lâm vào khủng hoảng, rủi ro trong bảo lãnh của ngân hàng là rất lớn.
Nhóm tiêu chí phản ánh lợi nhuận thu được từ bảo lãnh:
- Sự tăng trưởng của doanh số bảo lãnh: doanh số bảo lãnh phản ánh quy mô từ hoạt động bảo lãnh của ngân hàng. Doanh số bảo lãnh là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến thu từ hoạt động bảo lãnh. Khi ngân hàng cấp bảo lãnh cho khách hàng, khách hàng phải trả cho ngân hàng một khoản gọi là phí bảo lãnh. Các khoản phí bảo lãnh đó tạo nên doanh thu từ bảo lãnh cho ngân hàng. Công thức tính phí bảo lãnh như sau:
Phí bảo lãnh = Doanh số bảo lãnh * Số ngày bảo lãnh thực tế * Mức phí
Từ công thức trên có thể thấy doanh số bảo lãnh càng tăng thì doanh thu từ bảo lãnh càng lớn, góp phần đáng kể trong thu nhập của ngân hàng. Mặc dù vậy nhưng để đánh giá chính xác hoạt động bảo lãnh có đem lại nhiều lợi ích cho ngân hàng hay không thì không thể chỉ dựa vào tiêu chí này bởi tăng doanh số cũng đồng nghĩa với việc tăng rủi ro trong bảo lãnh.
- Doanh thu từ bảo lãnh: phản ánh trực tiếp số tiền thu được từ việc cung cấp bảo lãnh cho khách hàng, qua đó nói lên khả năng sinh lời của bảo lãnh. Chỉ tiêu này thường được tính toán cùng với các chỉ tiêu khác như Doanh thu từ bảo lãnh/Tổng doanh thu dịch vụ, Doanh thu từ bảo lãnh/Tổng tài sản... Tuy nhiên, đây chỉ là một tiêu chí mang tính chất tham khảo bởi muốn xem xét hoạt động bảo lãnh có chất lượng tốt hay không còn phải so sánh với chi phí bỏ ra, nếu doanh thu bảo lãnh tăng nhưng chi phí bảo lãnh cũng tăng, thậm chí tăng lớn hơn thì cũng không mang lại nhiều lợi ích cho ngân hàng, đôi khi còn thua lỗ, do vậy không thể coi là có chất lượng tốt.
- Lợi nhuận từ hoạt động bảo lãnh: lợi nhuận thu được từ bảo lãnh sẽ được tính bằng doanh thu từ hoạt động bảo lãnh trừ đi chi phí bỏ ra cho việc cấp bảo lãnh. Chi phí cho bảo lãnh bao gồm chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Các chi phí trực tiếp thường rất nhỏ, bao gồm chi phí thẩm định, chi phí hồ sơ…Các chi phí gián tiếp thường lớn hơn, cụ thể là các chi phí marketing cho hoạt động quảng cáo, tuyên truyền… nhằm nâng cao hình ảnh, uy tín của ngân hàng và tìm kiếm khách hàng mới. Ngân hàng sẽ chỉ đạt được lợi nhuận từ bảo lãnh khi các chi phí bảo lãnh này nhỏ hơn so với doanh thu từ bảo lãnh. Một bảo lãnh chỉ được coi là có chất lượng khi nó đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Trên đây là các tiêu chí đánh giá chất lượng bảo lãnh. Tùy thuộc vào mục tiêu phát triển của từng thời kỳ như ưu tiên tăng lợi nhuận hay mục tiêu phát triển bền vững mà ngân hàng sẽ đặt thứ tự ưu tiên và có những chiến lược cụ thể cho các tiêu chí đánh giá chất lượng bảo lãnh này.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng bảo lãnh của NHTM
Hoạt động bảo lãnh chịu ảnh hưởng từ rất nhiều nhân tố, từ các nhân tố khách quan đến các nhân tố chủ quan thuộc phạm vi các bên trong quan hệ bảo lãnh. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng bảo lãnh là việc rất cần thiết bởi nó giúp tìm ra các giải pháp để nâng cao chất lượng bảo lãnh của ngân hàng.
Các nhân tố khách quan:
- Sự thay đổi trong môi trường kinh tế: các thay đổi trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách xuất nhập khẩu, chính sách tỷ giá, chương trình đầu tư… sẽ gây bất lợi cho bên được bảo lãnh, có thể dẫn đến tình trạng bên được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ của mình.
- Hành lang pháp lý không đồng bộ: sự thiếu rõ ràng, chặt chẽ trong môi trường pháp lý sẽ khiến cho các bên không nhận thức rõ được quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mình, từ đó dễ nảy sinh các tranh chấp, khiếu kiện về sau.
- Môi trường chính trị - xã hội mất ổn định: thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, khủng hoảng… đều là các nguyên nhân bất khả kháng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khiến cho họ không thể thực hiện được nghĩa vụ của mình với đối tác.
Các nhân tố chủ quan:
- Về phía người yêu cầu bảo lãnh: tình hình tài chính của người yêu cầu bảo lãnh không ổn định, sự yếu kém trong công tác quản lý… đều là nguyên nhân gây ra rủi ro trong hoạt động bảo lãnh, ảnh hưởng đến chất lượng bảo lãnh. Rất nhiều bên yêu cầu bảo lãnh không thể hoặc không có khả năng tính toán những bất trắc có thể xảy ra trong kinh doanh cũng như không thể khắc phục, vượt qua những khó khăn đó. Một trường hợp nữa là bên yêu cầu bảo lãnh cố tình lừa đảo ngân hàng, cung cấp tài liệu, hồ sơ giả nhằm đạt được mục đích bảo lãnh bằng mọi giá của mình.
- Về phía ngân hàng:
+ Năng lực của cán bộ thẩm định bảo lãnh: trình độ nghiệp vụ yếu kém của cán bộ tiếp nhận hồ sơ bảo lãnh, đạo đức nghề nghiệp… là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro bảo lãnh. Cán bộ ngân hàng muốn thẩm định tốt hồ sơ bảo lãnh cần phải am hiểu về lĩnh vực mà khách hàng yêu cầu bảo lãnh, có kiến thức tốt về kinh tế - xã hội cũng như có khả năng dự báo các vấn đề có liên quan. Do vậy họ phải được đào tạo và tự đào tạo thật kỹ lưỡng, tránh trường hợp làm việc quá máy móc, rập khuôn để xảy ra sai sót và lúng túng khi gặp phải một số trường hợp hơi khác biệt so với thông thường. Bên cạnh đó, sống trong môi trường đầy cám dỗ như tiền bạc, cán bộ ngân hàng phải có đạo đức nghề nghiệp tốt, nếu không họ sẽ tiếp tay với khách hàng để âm mưu rút ruột và lừa lọc ngân hàng. Ngoài ra, cán bộ ngân hàng cũng cần có khả năng theo dõi, đôn đốc khách hàng thực hiện hợp đồng một cách kịp thời và tế nhị.
+ Quy trình thẩm định bảo lãnh: quy trình thẩm định cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng bảo lãnh. Quy trình thẩm định bảo lãnh được xây dựng nên nhằm mục đích phân rõ chức năng nhiệm vụ của từng đối tượng, đồng thời quy định cụ thể từng nội dung công việc phải làm khi phân tích, đánh giá một khoản xin cấp bảo lãnh. Do vậy nếu quy trình thẩm định chặt chẽ, chi tiết và cụ thể sẽ giúp cán bộ ngân hàng đánh giá khoản bảo lãnh được chính xác nhất với thời gian nhanh nhất, góp phần làm giảm thiểu rủi ro trong bảo lãnh.
+ Công nghệ ngân hàng: công nghệ thông tin là nhân tố không thể bỏ qua trong hoạt động ngân hàng. Ngân hàng có hệ thống công nghệ thông tin tốt sẽ đáp ứng yêu cầu về độ chính xác, tốc độ cũng như khối lượng tìm kiếm thông tin liên quan đến khoản bảo lãnh, góp phần làm giảm thiểu rủi ro, giảm thiểu chi phí trong bảo lãnh, nâng cao chất lượng bảo lãnh.
+ Chính sách phí bảo lãnh: một chính sách hợp lý sẽ mang lại lợi nhuận tối đa cho ngân hàng, làm cân đối lợi ích giữa khách hàng và ngân hàng trong quan hệ bảo lãnh.
+ Trình độ quản lý và kiểm soát nội bộ: hệ thống quản lý và kiểm soát tốt sẽ giúp phát hiện kịp thời những vướng mắc đồng thời giúp ngăn chặn những sai phạm trong hoạt động bảo lãnh.
+ Uy tín của ngân hàng: do bảo lãnh là một nghiệp vụ tài trợ thông qua uy tín nên nếu ngân hàng có mức độ tín nhiệm cao trên thị trường thì khách hàng sẽ sử dụng dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng nhiều hơn, qua đó làm tăng doanh thu trong bảo lãnh.
- Về phía người thụ hưởng: người thụ hưởng bảo lãnh là người sẽ nhận được khoản tiền bồi thường từ ngân hàng phát hành bảo lãnh, do vậy chất lượng bảo lãnh chịu ảnh hưởng rất lớn vào sự trung thực của người thụ hưởng. Người thụ hưởng có thể xuất trình chứng từ giả để đòi thanh toán với ngân hàng, nếu ngân hàng không phát hiện được sẽ phải thanh toán cho người thụ hưởng mà không đòi được tiền từ phía người yêu cầu bảo lãnh. Sự gian lận trong chứng từ bảo lãnh có thể được kết luận khi người thụ hưởng bảo lãnh xuất trình chứng từ đòi thanh toán trong các trường hợp sau:
+ Người được bảo lãnh đã hoàn thành hợp đồng như đã cam kết. Lúc này người được bảo lãnh cần xuất trình các giấy tờ chứng minh việc thực hiện hợp đồng của mình cho ngân hàng phát hành bảo lãnh, nếu đúng ngân hàng có thể kết luận người thụ hưởng bảo lãnh có ý đồ lừa đảo.
+ Khi người thụ hưởng không thực hiện nghĩa vụ bắt buộc của mình như đã thỏa thuận trong hợp đồng gốc như không thực hiện trả trước, không cung cấp lao động hay các thiết bị cần thiết cho việc thực hiện hợp đồng….cho người yêu cầu bảo lãnh khiến người yêu cầu bảo lãnh không thể hoàn thành nghĩa vụ của mình.
+ Nguyên nhân khiến cho người được bảo lãnh không hoàn thành được hợp đồng là bất khả kháng như thiên tai, đình công, hỏa hoạn… và người được bảo lãnh có đầy đủ các bằng chứng chứng minh việc này. Bất cứ một yêu cầu đòi thanh toán nào từ phía người thụ hưởng lúc này đều bị coi là bất hợp pháp, ngân hàng không có trách nhiệm phải thanh toán cho người thụ hưởng.
+ Người thụ hưởng yêu cầu ngân hàng thanh toán cho toàn bộ các hợp đồng bảo lãnh khi việc vi phạm chỉ xảy ra trong 1 hợp đồng bảo lãnh,hoặc việc vi phạm này không liên quan đến hợp đồng yêu cầu thanh toán bảo lãnh mà lại xuất phát từ một hợp đồng khác. Mỗi một hợp đồng bảo lãnh chỉ bảo lãnh cho một rủi ro nhất định cho một giao dịch cơ sở chứ không bao gồm các rủi ro trong các giao dịch khác, do vậy những yêu cầu thanh toán như vậy đều là gian lận.
+ Khi người được bảo lãnh có bằng chứng chứng minh rằng người thụ hưởng có động cơ bất hợp pháp như cố tình phá vỡ hợp đồng hay cố gắng rút tiền từ một bảo lãnh cho dù không có thiệt hại nào xảy ra.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN KỸ THƯƠNG VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về ngân hàng Techcombank
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam ( Techcombank) được thành lập ngày 27 tháng 09 năm 1993, là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên được thành lập trong bối cảnh nước ta đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Từ số vốn điều lệ 20 tỷ đồng và trụ sở chính ban đầu tại 24 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội, trải qua quá trình phát triển, tới nay Techcombank đã tăng số vốn điều lệ lên 3.165 tỷ đồng với mạng lưới trải dài 15 tỉnh thành trong cả nước và trụ sở chính hiện nay đặt tại 70-72 Bà Triệu, Hoàn Kiếm, Hà Nội, trở thành một trong những ngân hàng thương mại cổ phần có số vốn điều lệ và mạng lưới lớn nhất Việt Nam.
Mặc dù mới chỉ đi vào hoạt động trong hơn 15 năm nhưng Techcombank đã ghi lại những dấu ấn rực rỡ trong lịch sử của mình. Năm 2001, Techcombank đã được mọi người thực sự chú ý khi số vốn điều lệ lúc đó chỉ hơn 100 tỷ nhưng dám đầu tư tới gần 20 tỷ cho hệ thống phần mềm ngân hàng GLOBUS của Temenos Holding NV (Thụy Sĩ). Phần mềm core banking GLOBUS này đã khiến Techcombank khẳng định được đẳng cấp về công nghệ thẻ ATM khi kết nối trực tiếp được với tài khoản tiền gửi của khách hàng. Năm 2002, Techcombank thành lập hàng loạt các chi nhánh tại Hải Phòng, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh và cũng là ngân hàng cổ phần có mạng lưới giao dịch rộng lớn nhất tại thủ đô Hà Nội. Mạng lưới bao gồm Hội sở chính với 8 chi nhánh cùng 4 phòng giao dịch tại các thành phố lớn trong cả nước. Sau đó, Techcombank lại trở thành hiện tượng khi là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam triển khai Internet banking toàn diện cho phép chuyển tiền có giải thích nội dung qua Internet tối đa lên tới 500 triệu đồng/ngày, rồi kết nối sản phẩm ngân hàng với sản phẩm bảo hiểm… Vào năm 2005, Ngân hàng Hồng Kông – Thượng Hải HSBC đã trở thành đối tác chiến lược của Techcombank khi mua 10% cổ phần của Techcombank với tổng giá trị 17,3tr USD. Đến tháng 7/2007, con số này đã tăng lên 15% và đến tháng 9/2008 là 20%, cùng với đó là số vốn điều lệ đã tăng lên tới 3.165 tỷ đồng. Mạng lưới các chi nhánh , phòng giao dịch không ngừng được mở rộng với hoạt động ngày càng hiệu quả góp phần quan trọng trong việc tăng trưởng lợi nhuận ngân hàng. Các sản phẩm, dịch vụ mới giàu chất công nghệ được ra mắt đều đặn, khẳng định thế mạnh của ngân hàng trong việc ứng dụng công nghệ.
Có thể nói, Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam đạt được vị thế như ngày hôm nay một phần là do bản thân ngân hàng đã xây dựng được một chiến lược phát triển đúng đắn, rõ ràng ở từng giai đoạn và luôn luôn mạnh dạn trong việc đầu tư phát triển hệ thống công nghệ, đặc biệt là hệ thống công nghệ thông tin, tạo ra một nền tảng bền vững trong quá trình phát triển của mình.
2.1.2. Tình hình hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương VN
Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Nó đồng thời cũng là một doanh nghiệp đặc biệt cung cấp các dịch vụ cho công chúng và cho các doanh nghiệp khác. Các dịch vụ của Ngân hàng bao gồm mua bán ngoại tệ, nhận tiền gửi, cho vay, bảo quản vật có giá, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của Chính phủ ( VD như mua trái phiếu Chính phủ hay cho vay ưu đãi theo quy định của Chính phủ…), bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ đại lý. Thông qua các sản phẩm dịch vụ này, Ngân hàng làm lợi cho các doanh nghiệp, các cá nhân và cho chính bản thân mình, từ đó thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển, góp phần ổn định xã hội.
Tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam, các hoạt động cơ bản cũng gồm tất cả các sản phẩm dịch vụ nói trên nhưng Techcombank lại phân chia các dịch vụ của mình theo đối tượng sử dụng dịch vụ: Dịch vụ Ngân hàng cá nhân và Ngân hàng doanh nghiệp. Tùy theo từng đối tượng mà ngân hàng sẽ xây dựng các chính sách về dịch vụ, sản phẩm chiến lược phục vụ cho từng đối tượng đó. Với Ngân hàng cá nhân, các dịch vụ cơ bản gồm tiết kiệm, tài khoản, tín dụng bán lẻ, dịch vụ thẻ, ngân hàng điện tử…Với Ngân hàng doanh nghiệp, do đây là nguồn thu chính của Techcombank về lãi tín dụng và phí dịch vụ nên các sản phẩm dành cho doanh nghiệp rất đa dạng và cũng mang tính đặc thù riêng. Các dịch vụ chính gồm huy động và dịch vụ tài khoản, tín dụng trong nước, tài trợ thương mại, thanh toán, bảo lãnh, Internet Banking, dịch vụ tư vấn và các sản phẩm phái sinh. Đối tượng khách hàng doanh nghiệp truyền thống và quan trọng của Techcombank là nhóm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm tới gần 80% tổng số khách hàng doanh nghiệp của ngân hàng. Bên cạnh việc hoàn thiện các quy trình, ban hành những hướng dẫn triển khai sản phẩm cho phù hợp hơn với từng nhóm ngành, lĩnh vực (như dệt may, đóng tàu, thi công công trình …), để nâng cao chất lượng và hiệu quả phục vụ, Techcombank còn phát triển nhiều sản phẩm dịch vụ mới nhằm đáp ứng các nhu cầu từng nhóm khách hàng trong từng lĩnh vực như: Sản phẩm F@st SBank (Quản lý tài khoản tiền của nhà đầu tư chứng khoán), Tài trợ nhà cung cấp, Cổng thanh toán điện tử F@st VietPay… Mục tiêu của Techcombank là trở thành ngân hàng có danh mục sản phẩm dịch vụ đa dạng nhất, tiên tiến nhất trên thị trường ngân hàng Việt Nam.
Nằm trong mảng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp, hoạt động bảo lãnh tại Techcombank đang trở nên ngày càng phổ biến và chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn thu từ phí dịch vụ trong nước của ngân hàng. Các hình thức bảo lãnh tại Techcombank rất đa dạng, bao gồm: bảo lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh bảo hành, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh khác( bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh đối ứng, đồng bảo lãnh…tùy theo nhu cầu của khách hàng). Các dịch vụ bảo lãnh của Techcombank được đánh giá cao bởi thủ tục phát hành nhanh gọn, mức phí hợp lý tương ứng từng hình thức bảo lãnh, mức ký quỹ và tài sản bảo đảm linh hoạt theo từng doanh nghiệp. Bên cạnh đó, do Techcombank là một ngân hàng có uy tín lớn trong dịch vụ bảo lãnh nên thư bảo lãnh của Techcombank được nhiều ngân hàng và doanh nghiệp trong, ngoài nước chấp nhận.
Trong hai năm 2007 và 2008, mặc dù gặp phải không ít khó khăn, bất lợi từ nền kinh tế Việt Nam cũng như sự cạnh tranh gay gắt trong ngành ngân hàng nhưng Techcombank vẫn đạt được những thành tựu đáng kể. Năm 2007, tổng tài sản của Techcombank đã tăng lên đạt 39.542,5 tỷ đồng, vốn điều lệ đạt 2.521,3 tỷ đồng nâng tổng vốn chủ sở hữu của ngân hàng lên 3.573,42 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế lũy kế năm 2007 đạt 709,74 tỷ đồng, gần gấp đôi so với mức lợi nhuận đạt được trong năm 2006 và đứng thứ ba trong khối các ngân hàng cổ phần. Tổng thu nhập thuần năm 2007 đạt 1.216 tỷ đồng, tăng 98 ,9% so với năm 2006. Trong đó, doanh thu dịch vụ năm 2007 đạt 207 tỷ đồng – tăng 56% so với năm 2006. Vốn huy động từ khách hàng cả năm 2007 đạt 24.476,58 tỷ đồng, tăng 14.910,5 tỷ đồng so với năm 2006. Trong đó, huy động vốn từ dân cư 14.119,27 tỷ đồng, chiếm 40,17% tổng huy động. Nhìn chung nguồn vốn huy động của ngân hàng có xu hướng tăng trưởng ổn định với cơ cấu hợp lý bảo đảm một hoạt động kinh doanh tổng thể an toàn cho ngân hàng. Năm 2008, Techcombank cũng đạt được nhiều kết quả quan trọng trong việc củng cố hệ thống quản lý, nâng cao tính chuyên nghiệp và tăng trưởng nhanh. Tổng tài sản Techcombank năm 2008 là 59.360 tỷ đồng, tăng 19.818 tỷ đồng so với tháng 12/2007, đạt 93% so với kế hoạch. Lợi nhuận trước thuế cả năm đạt: 1.600,348 tỷ đồng (vượt 569,348 tỷ so với kế hoạch đã được điều chỉnh), đạt 155% so kế hoạch và bằng 225% so với thực hiện năm 2007. Tổng nguồn huy động bằng 149% so với thực hiện năm 2007, đạt 98% so kế hoạch, trong đó chủ yếu do huy động từ tổ chức kinh tế bị giảm so kế hoạch nhưng vẫn bằng 101% so với thực hiện năm 2007. Mặc dù trong năm 2008 có một số chỉ số không đạt kế hoạch đề ra, về tổng tài sản, về huy động nhưng nhìn chung kết quả hoạt động trong năm 2008 của Techcombank tiếp tục có sự tăng trưởng tốt so với năm 2007, các chỉ tiêu chính đặc biệt là chỉ tiêu lợi nhuận đạt 155% so với kế hoạch đề ra và bằng 225% so năm 2007.
Bên cạnh đó, hình ảnh của ngân hàng đang được nhận biết rộng rãi trên phạm vi cả nước, cùng với sự gia tăng, mở rộng không ngừng của các chi nhánh, phòng giao dịch đang làm việc hết sức hiệu quả, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng lợi nhuận ngân hàng. Có thể nói, Techcombank đang ngày càng tiến đến gần hơn với định hướng của mình là trở thành ngân hàng được ưa chuộng nhất và dẫn đầu trong một số lĩnh vực chủ chốt mà ngân hàng nhắm tới. Đó là các định hướng cơ bản để phát triển một ngân hàng thương mại đa năng.
2.2. Thực trạng hoạt dộng bả._.ảm bảo.
Đánh giá tài sản đảm bảo:
Theo quy định của Techcombank, với bảo lãnh thực hiện hợp đồng khách hàng phải ký quỹ 15% giá trị thư, tài sản đảm bảo bổ sung 30%. Công ty Sao Mộc không dùng tài sản đảm bảo mà chấp nhận ký quỹ 496,496,616 VND (tương đương với 50% giá trị bảo lãnh), như vậy là hoàn toàn phù hợp với quy định của ngân hàng.
Từ những nhận định trên, các cán bộ Phòng tư vấn và giải pháp tài chính đã quyết định cấp một bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho công ty Sao Mộc với nội dung như sau:
- Giá trị bảo lãnh : 992,993,831 VND
- Thời hạn : từ 1/10/2008 đến 1/12/2008
- Bên thụ hưởng : công ty Viễn thông liên tỉnh
- Mục đích : bảo lãnh thực hiện hợp đồng
- Phí bảo lãnh : 2,615,000 VND (chưa thuế GTGT)
- Ký quỹ : 496,496,616 VND (~50% giá trị bảo lãnh)
- Tín chấp : 496,496,616 VND (~50% giá trị bảo lãnh)
Ngày 1/10/2008, Techcombank đã gửi thư bảo lãnh cho VTN một bảo lãnh thực hiện hợp đồng với giá trị 992,993,831 VND, có hiệu lực từ 1/10/2008 đến 1/12/2008.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN KỸ THƯƠNG VIỆT NAM
3.1. Mục tiêu và định hướng phát triển của Techcombank
3.1.1. Mục tiêu và định hướng phát triển chung
Với mục tiêu trở thành một ngân hàng chuyên nghiệp hàng đầu trong các ngân hàng lớn nhất của Việt Nam, ban lãnh đạo Techcombank quyết tâm phát triển ngân hàng của mình, có thể chưa phải là ngân hàng có quy mô lớn nhất nhưng sẽ là ngân hàng được ưa chuộng nhất và dẫn đầu trong một số lĩnh vực chủ chốt mà ngân hàng nhắm tới. Thương hiệu của Techcombank sẽ được nhận biết với hình ảnh an toàn, thuận tiện và thân thiện với khách hàng, vững chắc và tiềm năng với nhà đầu tư, chuyên nghiệp và thách thức đối với người lao động chất lượng cao. Đó là các định hướng cơ bản để phát triển một ngân hàng thương mại đa năng. Mục tiêu khách hàng chính của ngân hàng là nhằm vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ, là những lực lượng chủ yếu trong nền kinh tế đem lại sự phát triển năng động của nền kinh tế trong những năm tới đây. Ngoài ra, Techcombank cũng phát triển các hoạt động khác với mục đích xây dựng ngân hàng trở thành một tổ chức tài chính đa dạng, đem lại các dịch vụ hoàn chỉnh, thuận tiện và có sức cạnh tranh nhất tới khách hàng và các đối tượng mà Techcombank hướng tới.
Các mục tiêu cụ thể cho năm 2009:
Một số mục tiêu tài chính chủ yếu của năm 2009
Đơn vị: tỷ đồng; %
- Tổng tài sản: 82.041
- Tổng nguồn vốn huy động: 72.077
- Tổng dư nợ: 33.112
- Tỷ lệ Nợ 3-5 ≤ 2,5%
- Lợi nhuận trước thuế 1.601
- Tỷ lệ cổ tức dự kiến (vốn bình quân ngày) 20%
- Tỷ lệ ROE: 19%
- Tỷ lệ ROA: 1,65%
- Số lượng CBNV: 5.723
- Chi phí cho nhân viên 593,641
- Ngân sách đào tạo: 10,05
Hoạt động đầu tư
Đến thời điểm cuối năm 2008 Techcombank có 169 điểm giao dịch đi vào hoạt động, Với mục tiêu trong chiến lược đến năm 2010 Techcombank sẽ có 300 điểm giao dịch trên cả nước, trong năm 2009 Techcombank sẽ mở thêm 50 phòng giao dịch và 13 chi nhánh. Như vậy đến cuối năm 2009 Techcombank sẽ có tổng cộng 232 điểm giao dịch trên toàn quốc.
Để tạo ra nền tảng cho các hoạt động và dịch vụ trong tương lai, công tác đầu tư nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của ngân hàng trong giai đoạn hiện tại và tương lai là cần thiết. Với kế hoạch đầu tư tổng tài sản dự kiến trong năm 2009 sẽ là 1002,9 tỷ đồng. Bao gồm: Đầu tư mua đất đai xây dựng trụ sở, chi nhánh, phòng giao dịch, Đầu tư cho hệ thống hạ tầng, công nghệ, bảo mật thông tin, mua thêm 1000 POS và 300 ATM, Đầu tư mua xe ô tô chuyên dụng phục vụ kinh doanh...
Phát triển cơ sở khách hàng và sản phẩm
- Đẩy mạnh triển khai chiến lược bán lẻ, Microbanking trên các địa bàn trọng điểm – đặc biết chú trọng chất lượng dịch vụ, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, văn hóa bán hàng. Tăng cường sự hỗ trợ của công nghệ trong sản phẩm, quy trình, ứng dụng dịch vụ...Các sản phẩm chủ đạo là thẻ, tài khoản,huy động, cho vay nhà, tín dụng tiêu dùng
- Thúc đẩy đánh giá và hoàn thiện một chính sách khách hàng riêng dành cho khách hàng doanh nghiệp lớn, khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ, và hộ kinh doanh nhỏ. Mở rộng cơ sở khách hàng ưu tiên phát triển các dịch vụ và nhóm sản phẩm cho đối tượng khách hàng Microbanking thông qua mạng lưới các chi nhánh.
- Chú trọng nâng cao hiệu quả của hoạt động, bằng cách đẩy mạnh việc bán chéo các sản phẩm dịch vụ, tăng cường thu phí dịch vụ. Đối tượng nhắm đến là các tổng công ty nhà nước, các công ty có quy mô mạng lưới rộng, có nhu cầu sử dụng nhiều dịch vụ của ngân hàng. Phát triển tín dụng một cách có chọn lọc, tập trung vào các ngành hàng ít chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế như thực phẩm, đồ uống, hàng tiêu dùng, dược phẩm và thiết bị y dược, thức ăn chăn nuôi, xuất khẩu may mặc, thủy hải sản.
Phát triển mạng lưới
Tiếp tục thực hiện chiến lược phát triển mạng lưới tại các vùng ưu tiên theo chiến lược đã đề ra, dự kiến mở thêm 12 chi nhánh và 50 Phòng giao dịch, nâng cấp một số Phòng giao dịch thành chi nhánh, củng cố hoạt động của các chi nhánh, Phòng giao dịch cũ.
Phát triển nguồn nhân lực
- Tập trung phát triển nguồn lực nhằm chuẩn bị cho các bước phát triển lớn năm 2009 với trọng tâm là củng cố an toàn hệ thống, đồng thời tiếp tục phát triển có trọng điểm và đột phát một số lĩnh vực có tầm quan trọng chiến lược. Nâng cao khả năng của đội ngũ bán hàng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ cho việc mở rộng hoạt động của ngân hàng, và các chương trình tập trung quản lý trong kiểm soát, hỗ trợ kinh doanh, thẩm định tập trung, kế toán tập trung....
Nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ
- Tập trung xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động bằng việc cải thiện chất lượng dịch vụ của các cán bộ giao dịch khách hàng đặc biệt là đối với kế toán giao dịch. Triển khai các chương trình nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ đối với tất cả các hoạt động tiếp xúc khách hàng.
- Củng cố Contact Center tại Hà Nội với tập trung vào phân tích thông tin khách hàng, dịch vụ khách hàng và bán hàng qua mạng lưới điện tử.
Hoàn thiện công nghệ hiện đại hoá ngân hàng
- Tiếp tục hoàn thiện và triển khai các dự án hiện đại hoá ngân hàng, các chương trình hợp tác với đối tác trong phát triển kinh doanh.
- Triển khai hệ thống T-risk, nhằm hỗ trợ tốt hơn cho công tác kiểm soát rủi ro của ngân hàng, dần tiến đến việc quản lý rủi ro theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Tiếp tục triển khai hệ thống ECM theo chiều sâu ( tăng số lượng các quy trình nghiệp vụ ứng dụng ECM) và chiều rộng (áp dụng ECM tại toàn bộ các điểm giao dịch Techcombank).
- Khai thác hiệu quả hệ thống ARC- CRM hỗ trợ tích cực việc thu hút khách hàng mới, duy trì, củng cố cơ sở khách hàng hiện có và nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua chăm sóc khách hàng và bán chéo sản phẩm.
- Tiếp tục triển khai các tính năng mới của hệ thống Contact Center, tích hợp hệ thống này vào các hệ thống tương tác khách hàng khác như CRM, Collection
- Đầu tư nâng cấp hệ thống hỗ trợ quản trị an ninh bảo mật theo ISO 27001, kiểm toán IT HSBC và quản lý chất lượng dịch vụ của hệ thống công nghệ.
Công tác truyền thông
- Hoạt động marketing và truyền thông trong năm 2009, với các chương trình kế hoạch được lên chi tiết tập trung vào việc hỗ trợ thu hút khách hàng, đặc biệt công tác marketing khi đưa ra sản phẩm mới cần được cải thiện với độ chuyên nghiệp và kế hoạch sâu sắc. Bên cạnh đó việc nâng cao nhận thức của khách hàng với thương hiệu Techcombank và thử nghiệm các kênh bán hàng điện tử mới cũng là một trọng tâm ưu tiên của kế hoạch marketing trong năm 2009
Công tác khác
- Tiếp tục phát triển hệ thống báo cáo quản trị nội bộ của bộ phận MIS để phân tích sâu hơn hiệu quả mang lại của từng đối tượng khách hàng, từng chi nhánh, phòng giao dịch, thậm chí đến từng cán bộ, từng sản phẩm, từ đó có thể đưa ra các dự báo, và cung cấp thông tin kịp thời cho ban lãnh đạo ra các quyết định kinh doanh hợp lý.
- Cải tiến các quy trình nội bộ tăng cường sự thuận tiện trong giao dịch khách hàng cũng như nội bộ ngân hàng. Tăng cường công tác kế toán tài chính, mở rộng hoạt động kế toán quản trị phục vụ quá trình ra quyết định. Tiếp tục phát huy hiệu quả và hoàn thiện cơ cấu tổ chức và bộ máy của các khối, trung tâm, phòng, ban Hội sở.
Như vậy, có thể thấy mục tiêu và định hướng phát triển của Techcombank có những khía cạnh nổi bật là củng cố và nâng cấp hệ thống giám sát và quản trị rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành trên toàn hệ thống đảm bảo tăng trưởng an toàn bền vững. Tạo đột phá trong chiến lược ngân hàng bán lẻ một cách đồng bộ trên các địa bàn trọng điểm lựa chọn. Thúc đẩy quá trình cá biệt hóa trong xây dựng các chính sách kinh doanh, chính sách khách hàng với 3 nhóm phân thị khách hàng doanh nghiệp cụ thể (nhóm khách hàng doanh nghiệp lớn – Large Corporate, nhóm các khách hàng doanh
nghiệp trung bình – Upper SME; và nhóm các khách hàng doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh cá thể - Micro SME) được triển khai với các chương trình cụ thể cùng với các kế hoạch đầu tư và nhân sự chi tiết. Đặc biệt việc mở rộng cơ sở khách hàng thông qua các chương trình marketing, xúc tiến bán hàng… sẽ tạo tiền đề cho việc đẩy mạnh hơn nữa chiến lược phát triển trong các năm tiếp theo, tạo ra hiệu quả hoạt động kinh doanh cho ngân hàng và giá trị cho cổ đông trong tương lai.
3.1.2. Mục tiêu và định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh
Mục tiêu và định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh cũng nằm trong mục tiêu và định hướng phát triển chung của ngân hàng. Bên cạnh đó, Techcombank cũng có những định hướng phát triển cho hoạt động bảo lãnh như sau:
Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh đã và đang thực hiện
Những mục tiêu của hoạt động bảo lãnh trong thời gian tới đều phải dựa trên nền tảng kế thừa những thành công đã đạt được trong thời gian qua. Cụ thể, mức phí của bảo lãnh phải cạnh tranh nhưng đồng thời vẫn phải đảm bảo nguồn thu cho ngân hàng. Các chuyên viên khách hàng ngoài việc cung cấp các loại hình bảo lãnh cho khách hàng, còn cần tư vấn các vấn đề liên quan đến dịch vụ bảo lãnh nhằm có được phương án bảo lãnh hợp lý nhất. Thái độ của chuyên viên phải chuyên nghiệp, mềm mỏng và lịch sự. Về đối tượng khách hàng, bên cạnh việc giữ vững những khách hàng truyền thống còn cần phải mở rộng tìm kiếm nhằm đa dạng hóa các khách hàng sử dụng dịch vụ. Bên cạnh đó, cần phát huy tối đa những loại hình bảo lãnh đang là thế mạnh. Đặc biệt, phải có biện pháp hạn chế rủi ro từ hoạt động bảo lãnh, tránh tối đa việc ngân hàng phải trả thay cho khách hàng hay để xảy ra những khoản bảo lãnh phát sinh nợ quá hạn.
Phát triển những hình thức bảo lãnh mới đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng và nâng cao uy tín của ngân hàng
Xây dựng những chiến lược cần thiết để phát huy khả năng sẵn có của ngân hàng, mở rộng các loại hình bảo lãnh nhằm đa dạng hóa hoạt động này và đem lại nguồn thu lớn cho ngân hàng. Nâng cao uy tín và quảng bá hình ảnh của ngân hàng trên thị trường trong nước cũng như quốc tế nhằm giúp cho hoạt động bảo lãnh được thuận lợi và ngày càng phát triển hơn.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh tại Techcombank
3.2.1. Tuân thủ quy trình bảo lãnh
Quy trình bảo lãnh đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng bảo lãnh của ngân hàng. Quy trình bảo lãnh được xây dựng với mục đích quy định cụ thể các bước và nội dung công việc một cách tuần tự trong quá trình thực hiện cấp bảo lãnh, và để xây dựng được một quy trình bảo lãnh lôgic và chặt chẽ các cán bộ quản lý ngân hàng đã phải mất rất nhiều thời gian cũng như công sức nghiên cứu kỹ lưỡng. Thực hiện đúng quy trình bảo lãnh không những làm chuẩn hóa các giai đoạn trong quá trình cấp bảo lãnh cho khách hàng, hạn chế rủi ro mà còn tạo ra ấn tượng trong khách hàng về sự chuyên môn hóa dịch vụ, xây dựng nên phong cách kinh doanh riêng cho ngân hàng. Bên cạnh đó, việc tuân thủ nghiêm ngặt quy trình bảo lãnh sẽ tránh được các hiện tượng lợi dụng sơ hở trong công tác quản lý để có các hành vi chiếm đoạt, lừa đảo. Vì vậy cán bộ ngân hàng phải tuyệt đối tuân theo các bước (hoặc nội dung công việc) được quy định trong quy trình bảo lãnh, từ khâu nhận hồ sơ, thẩm định, ra quyết định bảo lãnh… cho tới khi tất toán khoản bảo lãnh.
3.2.2. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định
Một dự án, hợp đồng kinh tế có được ngân hàng chấp nhận bảo lãnh hay không tùy thuộc vào kết quả thẩm định. Rủi ro của hoạt động bảo lãnh sẽ được nhận biết từ khâu này trong quy trình bảo lãnh, từ đó ngân hàng có các biện pháp để hạn chế rủi ro. Công tác thẩm định do đó cần được tiến hành một cách đầy đủ, đồng bộ và chính xác. Việc thẩm định bao gồm cả thẩm định tư cách khách hàng và dự án sản xuất, kinh doanh phát sinh nhu cầu bảo lãnh. Ngân hàng cần xây dựng các chỉ tiêu cụ thể để đánh giá nhằm đảm bảo công tác thẩm định là có hiệu quả. Khi thẩm định khách hàng, đặc biệt là khách hàng doanh nghiệp, bên cạnh việc kiểm tra tư cách và năng lực pháp lý, ngân hàng cần đặc biệt chú trọng đến tình hình tài chính. Tình hình tài chính thể hiện qua hai nhóm chỉ tiêu chính là chỉ tiêu liên quan đến hoạt động của khách hàng và chỉ tiêu liên quan đến khả năng sinh lời. Các chỉ tiêu liên quan đến hoạt động như vòng quay hàng tồn kho, chu kỳ sản xuất kinh doanh, ROA… cần được xem xét kỹ lưỡng. Các chỉ tiêu liên quan đến khả năng sinh lời như doanh thu, ROE…Ngoài ra, cần phải phân tích, đánh giá diễn biến của nguồn vốn, mục đích sử dụng vốn, mức độ độc lập về tài chính của khách hàng thông qua các chỉ tiêu như tỷ suất Nợ vay/Tổng nguồn vốn, khả năng thanh toán qua chỉ tiêu khả năng thanh toán ngắn hạn…Việc phân tích này sẽ cho thấy những trọng điểm đầu tư vốn và nguồn hình thành tài sản của khách hàng là từ nguồn nào trong cơ cấu vốn. Thẩm định dự án sản xuất kinh doanh phát sinh nhu cầu bảo lãnh chính là thẩm định hiệu quả và tính khả thi của dự án đó. Cán bộ ngân hàng phải tính toán xem xét một cách cụ thể khả năng thực hiện nghĩa vụ của khách hàng trong hợp đồng cơ sở. Việc đánh giá phải được đặt trong môi trường kinh doanh của nó: nguồn cung cấp các thiết bị đầu vào, vị thế của khách hàng trên thị trường, khả năng cạnh tranh… Để công tác thẩm định được chính xác, ngân hàng cần thu thập các thông tin từ nhiều nguồn chứ không chỉ căn cứ vào thông tin một chiều mà khách hàng cung cấp, đồng thời nên phối hợp với các cơ quan chuyên môn và tham khảo ý kiến của các chuyên gia để đưa ra những nhận xét, đánh giá đúng đắn và chính xác.
3.2.3.Thành lập các bộ phận quản lý rủi ro trong bộ máy ngân hàng
Việc thành lập các khối quản lý rủi ro độc lập hoàn toàn với mảng kinh doanh sẽ giúp công tác quản trị rủi ro và định giá tài sản của Techcombank được thực thi một cách có hiệu quả, giúp ban điều hành có cái nhìn khách quan, đảm bảo an toàn kinh doanh và nâng cao hiệu quả hoạt động chung của ngân hàng, trong đó có hoạt động bảo lãnh. Thông qua các bộ phận quản lý rủi ro này, hoạt động bảo lãnh sẽ được thực hiện một cách có kế hoạch, phù hợp với chính sách và chiến lược phát triển của ngân hàng, đồng thời luôn theo kịp với các cải tổ trong quy trình cấp bảo lãnh và quy trình thẩm định. Bên cạnh đó, nghiệp vụ bảo lãnh sẽ được hạch toán một cách chính xác, tránh các sai sót, nhầm lẫn có thể xảy ra. Bộ phận quản lý rủi ro còn giúp kiểm soát được hầu hết các mảng: từ kiểm soát quản lý, đến kiểm soát xử lý (kiểm tra lại những công việc mà nhân viên ngân hàng đã thực hiện và đã được công nhận, cho phép, phân loại, tính toán, ghi chép và tổng hợp trong báo cáo) và kiểm soát để bảo vệ sự an toàn và bảo mật các thông tin trong ngân hàng… Ngoài ra các rủi ro có thể xảy ra sẽ được xác định, dự đoán trước từ đó đưa ra các biện pháp xử lý thích hợp. Do vậy việc thành lập các bộ phận quản lý rủi ro là vô cùng cần thiết.
3.2.4. Đa dạng hóa các loại hình bảo lãnh
Bảo lãnh được sử dụng nhằm đảm bảo cho các giao dịch, song mỗi khách hàng lại có nhu cầu sử dụng khác nhau, do vậy đa dạng hóa các hình thức bảo lãnh sẽ giúp ngân hàng đáp ứng cao nhất nhu cầu của khách hàng, nâng cao chất lượng bảo lãnh. Đồng thời, việc đa dạng hóa hình thức bảo lãnh cũng giúp ngân hàng phân tán rủi ro và tiếp cận được các thị trường mới. Hiện nay tại Techcombank, các loại hình bảo lãnh mới chỉ tập trung chủ yếu vào bảo lãnh trong nước, bảo lãnh nước ngoài hầu như chưa phát triển. Đây là một thị trường bảo lãnh tiềm năng trong bối cảnh hội nhập kinh tế của nước ta hiện nay. Do vậy ngân hàng nên có các chính sách nhằm phát triển mạnh hơn mảng bảo lãnh này. Bên cạnh đó, ngân hàng có thể triển khai các dịch vụ đi kèm như dịch vụ tư vấn, dịch vụ thanh toán… để thu hút khách hàng đồng thời tăng thêm nguồn thu cho ngân hàng. Việc đa dạng hóa các loại hình bảo lãnh không chỉ giúp ngân hàng tăng lượng khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh và các dịch vụ đi kèm mà còn có cơ hội quảng bá, tiếp thị các sản phẩm dịch vụ khác. Để đa dạng hóa các loại hình bảo lãnh, ngân hàng nên dựa vào đặc thù của từng loại hình bảo lãnh đó để có các chiến lược phát triển đa dạng cho hiệu quả. Ví dụ đối với bảo lãnh thanh toán thuế ngân hàng có thể kí kết, hợp tác với các cơ quan thuế, cơ quan hải quan…Hoạt động bảo lãnh tại Techcombank hiện nay chủ yếu mới chỉ tập trung bảo lãnh cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nên bên cạnh các hình thức bảo lãnh này, ngân hàng nên chú trọng phát triển thêm các hình thức bảo lãnh cá nhân và xây dựng các chính sách phù hợp cho hình thức này. Dù bảo lãnh cá nhân là hoạt động rủi ro hơn so với các hình thức bảo lãnh khác nhưng nếu có các chính sách, quy trình cụ thể cho riêng hình thức này thì bảo lãnh cá nhân sẽ góp phần không nhỏ trong doanh thu từ bảo lãnh cho ngân hàng.
3.2.5. Xây dựng mức phí bảo lãnh hợp lý
Phí bảo lãnh là mức giá mà khách hàng phải trả khi sử dụng dịch vụ này của ngân hàng. Mà giá cả của dịch vụ có thể ảnh hưởng rất lớn vào nhận thức về chất lượng dịch vụ, hài lòng và giá trị. Bởi sản phẩm dịch vụ có tính vô hình nên thường rất khó để đánh giá trước khi mua, giá cả thường được xem như công cụ thay thế mà nó ảnh hưởng vào sự hài lòng về dịch vụ mà người tiêu dùng sử dụng. Bởi vậy, một chính sách phí bảo lãnh cạnh tranh và hợp lý là hết sức cần thiết trong việc duy trì và hoàn thiện mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. Biểu phí bảo lãnh cần mang lại lợi nhuận và cân đối giữa lợi ích và rủi ro ngân hàng phải gánh chịu.Những loại bảo lãnh có độ rủi ro cao cần thu phí cao hơn các loại bảo lãnh có độ rủi ro thấp. Ví dụ với bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán độ rủi ro lớn cần thu phí cao; bảo lãnh dự thầu rủi ro thấp cần điều chỉnh mức phí thấp hơn. Phí bảo lãnh cũng cần điều chỉnh cho phù hợp với từng khách hàng: có thể thay đổi tùy thuộc vào độ tín nhiệm của khách hàng, tài sản đảm bảo…Chẳng hạn với những khách hàng có quan hệ hợp tác làm ăn lâu dài với ngân hàng, có độ tin cậy cao cần có chính sách giảm phí để khuyến khích, hỗ trợ khách hàng, qua đó tạo mối quan hệ bền chặt giữa khách hàng với ngân hàng. Với những khách hàng mới, có quan hệ hợp tác lần đầu nhưng có tình hình tài chính tốt, năng lực thực hiện hợp đồng cao hoặc tài sản đảm bảo đủ lớn có thể xem xét thu phí thấp để tạo quan hệ lâu dài, ngược lại thì thu phí cao hơn. Techcombank nên chuyên nghiệp hóa việc tính phí, xây dựng các tiêu chí đánh giá mức độ tác động đến phí dịch vụ, phí phải phù hợp với từng khách hàng và đảm bảo lợi ích giữa khách hàng và ngân hàng. Phí bảo lãnh cần được điều chỉnh chủ động trên cơ sở cân nhắc tới tất cả các yếu tố ảnh hưởng, tránh trường hợp thụ động, không tính toán kỹ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
3.2.6. Nâng cao uy tín của ngân hàng
Uy tín của ngân hàng là một yếu tố quan trọng trong hoạt động bảo lãnh. Do vậy ngân hàng cần chú trọng trong việc khẳng định thương hiệu và hình ảnh của mình. Các công tác truyền thông và quan hệ cộng đồng cần được duy trì ổn định, thường xuyên và liên tục nhằm quảng bá hiệu quả hình ảnh và thương hiệu Techcombank. Các hoạt động tài trợ và quảng cáo cần được triển khai trọng tâm, hiệu quả, mang hình ảnh ngân hàng đến gần hơn với khách hàng. Bên cạnh đó, ngoài công tác quảng bá và truyền thông, ngân hàng cần chú ý đến tăng cường năng lực tài chính thông qua việc luôn đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tăng khả năng sinh lời và tháo gỡ những khó khăn để xử lý dứt điểm nợ tồn đọng, tăng vốn tự có, dự phòng rủi ro theo những chuẩn mực quốc tế… Điều này không chỉ phục vụ cho nghiệp vụ bảo lãnh nói riêng mà cho tất cả các nghiệp vụ khác trong ngân hàng.
3.2.7. Phát triển nguồn nhân lực
Nhân viên là yếu tố quan trọng trong quá trình cung ứng, chuyển giao dịch vụ ngân hàng. Một đặc thù trong lĩnh vực ngân hàng là uy tín của ngân hàng sẽ được cảm nhận trước nhất qua thái độ, phong cách của nhân viên mà khách hàng tiếp xúc. Chính họ tạo nên tính khác biệt hóa, tính cách của dịch vụ ngân hàng và khả năng thu hút khách hàng. Do vậy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố rất quan trọng trong việc phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng nói chung và bảo lãnh nói riêng. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ngân hàng cần tập trung vào các nội dung như: đào tạo và đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại; tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ ngân hàng gắn liền với thu nhập; tuyển dụng nguồn nhân lực trẻ, có trình độ cao, có chính sách sử dụng và khuyến khích thoả đáng nguồn nhân lực có trình độ về làm việc tại các ngân hàng. Việc đào tạo nên được thực hiện cụ thể và thường xuyên như tổ chức các khóa học bồi dưỡng cho các cán bộ với các chuyên gia giỏi ở trong nước và ngoài nước, có chính sách hỗ trợ các cán bộ có nhu cầu học thêm để nâng cao trình độ, tranh thủ tham gia các hoạt động đào tạo của các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước liên quan…Ngân hàng cần xây dựng riêng cho mình một trung tâm đào tạo hoặc gửi cán bộ đi đào tạo ở ngoài nước, nâng cao chất lượng nhân lực của mình. Với chính sách đãi ngộ, ngân hàng nên có các mức thưởng và khuyến khích hợp lý các cán bộ có thành tích tốt trong công việc, đồng thời xử lý nghiêm các cán bộ vi phạm đạo đức nghề nghiệp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh, uy tín của ngân hàng. Bên cạnh đó, ban lãnh đạo và các cán bộ cùng nhau xây dựng văn hóa kinh doanh cho ngân hàng, tạo nên phong cách làm việc chuyên nghiệp, tinh thần trách nhiệm, luôn hướng tới khách hàng.
3.2.8. Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng
Ngày nay, với sự đa dạng và phức tạp của hàng loạt các nghiệp vụ ngân hàng cùng những khối lượng công việc khổng lồ luôn đòi hỏi tính chính xác và cập nhật thường xuyên, công nghệ đã trở thành yếu tố không thể thiếu trong hoạt động ngân hàng. Có thể nói, công nghệ chính là nền tảng gia tăng dịch vụ. Do vậy ngân hàng nên có sự quan tâm đầy đủ và thích đáng tới công tác đổi mới và trang bị công nghệ. Mặc dù công nghệ ngân hàng ở nước ta trong thời gian qua đã rất được chú trọng nhưng so với các nước phát triển trên thế giới vẫn bị xem là yếu kém. Do vậy, ngân hàng nên chú trọng việc phát triển các hệ thống ngân hàng lõi đi kèm với nó là những phần mềm quản lí, phân tích thống kê… cho tất cả các nghiệp vụ ngân hàng. Thông qua những tiện ích này, chuyên viên khách hàng có thể rút ngắn thời gian thao tác và thẩm định, rút ngắn thời gian cung cấp dịch vụ cho khách hàng đồng thời lại dễ dàng trong việc phát hiện những rủi ro, tổng hợp và nắm bắt thông tin nhanh nhạy và chính xác, từ đó gia tăng giá trị dịch vụ của ngân hàng. Phát triển các kênh giao dịch trực tuyến, dịch vụ ngân hàng điện tử cho phép khách hàng sử dụng Internet cho các giao dịch thanh toán… là những hoạt động đã trở nên phổ biến ở các nước phát triển nhưng tại Việt Nam vẫn còn rất mới. Ngân hàng nên nắm bắt những nhu cầu nhất định của khách hàng trong lĩnh vực này để luôn tiên phong trong việc áp dụng công nghệ vào chiến lược kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, một hệ thống thông tin liên lạc hiện đại cũng cho phép ngân hàng có khả năng kết nối nhanh chóng với các chi nhánh, các ngân hàng đại lý khác trong khi thực hiện các nghiệp vụ có liên quan.
3.3. Một số kiến nghị giúp nâng cao chất lượng bảo lãnh
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
Chính phủ cần có những biện pháp đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội, trong đó quan trọng nhất là ổn định kinh tế vĩ mô. Các chính sách xuất nhập khẩu, chính sách đầu tư, điều hành chính sách tiền tệ… nên được xây dựng phù hợp với từng thời kỳ. Vì hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng chịu ảnh hưởng qua lại đối với hầu hết các lĩnh vực, quá trình thực hiện một món bảo lãnh sẽ chịu tác động của nhiều chính sách khác nhau nên các chính sách này cần được xây dựng một cách đồng bộ, thống nhất, tránh sự chồng chéo làm hạn chế chất lượng bảo lãnh. Chính phủ cần giao cho các đơn vị có nhiệm vụ phân tích, dự báo các tình huống của thị trường để đề xuất với Chính phủ các giải pháp đồng bộ, phù hợp với từng tình huống nhằm bảo đảm cho thị trường tài chính – ngân hàng phát triển nhanh, bền vững, tránh được các biến cố xấu gây mất ổn định kinh tế - xã hội, qua đó giúp cho hoạt động ngân hàng trong đó có hoạt động bảo lãnh phát triển ổn định hơn.
Bên cạnh đó, chính phủ cũng cần ban hành các quy định hướng dẫn cụ thể việc xử lý tài sản đảm bảo là giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất bởi có rất nhiều khoản bảo lãnh tài sản đảm bảo là bất động sản. Sự mập mờ, không thống nhất trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gây không ít khó khăn cho ngân hàng trong việc thẩm định giá trị và tính pháp lý các loại tài sản đảm bảo này. Ngoài ra, cần đơn giản thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm khi cầm cố, thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tạo điều kiện cho ngân hàng rút ngắn thời gian cấp bảo lãnh cho khách hàng.
Ban hành thống nhất chế độ thông tin, công tác thanh tra, kiểm tra. Thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời sẽ giúp hạn chế rủi ro cho các hoạt động bảo lãnh của ngân hàng cũng như tất cả các hoạt động khác trong nền kinh tế. Cùng với đó là hệ thống các tiêu chuẩn đánh giá, xếp hạng doanh nghiệp cũng cần xây dựng thống nhất, đồng bộ.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
NHNN xây dựng, phát triển công tác hoàn thiện hệ thống pháp lý theo hướng ổn định và thống nhất. Các quy định về mỗi loại hình bảo lãnh cần cụ thể hơn vì mức độ rủi ro và phạm vi thực hiện khác nhau. Bên cạnh đó, hình thức tái bảo lãnh cũng nên được quy định cụ thể trong quy chế.
Giữa hệ thống NHTM và NHNN cần có sự phối hợp chặt chẽ trong quản lý và kinh doanh. Thanh tra Nhà nước cần thường xuyên kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo hoạt động an toàn, lành mạnh của các NHTM, đồng thời kiên quyết xử lý với các ngân hàng vi phạm quy chế, tạo sự an toàn hoạt động cho toàn hệ thống.
Do bảo lãnh là hình thức tài trợ dựa trên uy tín và năng lực của ngân hàng, do đó, NHNN thực hiện công tác đánh giá xếp hạng các tổ chức tài chính để cung cấp thông tin cho khách hàng cũng như các đối tác của ngân hàng.
3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam
Về phía Techcombank, trên cơ sở quy định của NHNN cần ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về hoạt động bảo lãnh cho từng chi nhánh trên cơ sở phù hợp với năng lực của mình. Bên cạnh đó, hệ thống các mẫu biểu của ngân hàng cũng nên hoàn thiện hơn như: hợp đồng cấp bảo lãnh, đề nghị bảo lãnh… Hiện nay mặc dù ngân hàng đang có bản mẫu lập tương đối chuẩn xác, tuy nhiên để phát triển hơn các loại hình bảo lãnh nước ngoài, ngân hàng nên chủ động soạn thảo các văn bản với ngôn ngữ khác một cách chuẩn xác, đáp ứng được ngay khi cần thực hiện.
Techcombank xây dựng định hướng phát triển chung cho hoạt động bảo lãnh và phổ biến cho toàn chi nhánh. Đồng thời chi nhánh dựa trên năng lực sẵn có của mình mà thay đổi, chỉnh sửa bổ sung cho phù hợp và ra kế hoạch thực hiện. Khung phí của bảo lãnh nên được xây dựng có độ mở để cho phép các chi nhánh thực hiện việc thỏa thuận phí với khách hàng. Hoàn thành quy trình xếp hạng doanh nghiệp theo hướng phù hợp với từng thời kỳ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cấp hạn mức bảo lãnh.
Hoàn thành dự án tái cơ cấu hệ thống theo quy định của Chính phủ, nâng cấp một bước hệ thống giám sát và quản trị rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành trên toàn hệ thống đảm bảo tăng trưởng an toàn bền vững. Bên cạnh đó, ngân hàng cần tạo sự liên kết chặt chẽ giữa hội sở và các chi nhánh với nhau để công tác truyền, nhận thông tin nhanh chóng và dễ dàng khi cần thiết.
KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển và hội nhập của Việt Nam trong giai đoạn mới, có thể thấy vai trò của bảo lãnh ngân hàng là không thể phủ nhận. Đó chính là công cụ để tăng tính bảo đảm trong việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, đặc biệt là trong môi trường kinh doanh có nhiều biến động và rủi ro cao như hiện nay. Dù không có một lịch sử phát triển lâu đời như cho vay, song bảo lãnh ngân hàng cũng đang từng bước dần khẳng định vị trí của mình. Phát triển hoạt động bảo lãnh sẽ giúp ngân hàng đa dạng hóa các loại hình sản phẩm dịch vụ, tăng tỷ trọng nguồn thu và nâng cao khả năng chuyển đổi cho ngân hàng. Nhưng sự phát triển ấy phải được dựa trên nền tảng phát triển bền vững, đảm bảo sự ổn định và an toàn trong kinh doanh của ngân hàng. Chất lượng bảo lãnh, cũng giống như các nghiệp vụ ngân hàng khác, luôn phải được đặt lên hàng đầu mỗi khi ngân hàng ra bất kì quyết định nào.
Với xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt trong lĩnh vực ngân hàng – tài chính ở Việt Nam hiện nay, nâng cao chất lượng dịch vụ, trong đó có hoạt động bảo lãnh là một trong những chiến lược giúp Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam khẳng định vị thế và khả năng cạnh tranh của mình.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT:
Frederic S.Mishkin (2001), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
PGS.TS. Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng thương mại, NXB Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
GS.NGƯT. Đinh Xuân Trình (2006), Giáo trình thanh toán quốc tế, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội.
Quy chế bảo lãnh ngân hàng do NHNN Việt Nam ban hành.
Báo cáo thường niên của Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam
Trần Văn Tần (2005), “Hoạt động kinh doanh ngoại bảng của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Ngân hàng, số 4, tr.33-36.
TIẾNG ANH
Roeland I.V.F Bertrams (2004), Bank Guarantees in International Trade, Edition 3, Kluwar Law International.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21545.doc