Nâng cao chất lượng bảo lãnh đối với Doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Hà Nội

Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các sơ đồ, bảng, biểu Danh mục tài liệu tham khảo Phụ lục Danh mục các chữ viết tắt NHTM: Ngân hàng thương mại NHNN: Ngân hàng Nhà nước TCTD: Tổ chức tín dụng TSBĐ: Tài sản bảo đảm DNXL: Doanh nghiệp xây lắp BHXH: Bảo hiểm xã hội Danh mục các sơ đồ,bảng, biểu Sơ đồ: Sơ đồ 1.1: Quan hệ giữa các bên trong hợp đồng bảo lãnh 21 Sơ đồ 1.2: Bảo lãnh trực tiếp 27 Sơ đồ 1.3: Bảo lãnh gián tiếp 28 Sơ đồ 1.4: Xác nhận bảo lãnh 28 Sơ

doc124 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1415 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng bảo lãnh đối với Doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồ 1.5: Bảo lãnh có bảo đảm 28 Sơ đồ 1.6: Đồng bảo lãnh 29 Sơ đồ 1.7: Bảo lãnh giáp lưng 29 Sơ đồ 1.8: Bảo lãnh phụ 30 Sơ đồ 1.9: Quy trình bảo lãnh của Ngân hàng 32 Sơ đồ 1.10: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng 36 Sơ đồ 1.11: Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước 37 Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của NHĐT & PT HN 54 Bảng: Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của NHĐT & PT HN 2005-2007 56 Bảng 2.2: Tình hình HĐ tín dụng của NHĐT & PT HN 2005-2007 58 Bảng 2.3: Một số chỉ tiêu p/ánh chất lượng TD tại NHĐT & PT HN 60 Bảng 2.4: Kết quả thu phí dịch vụ tại NHĐT & PT HN 2005-2007 60 Bảng 2.5: KQ thực hiện thu phí DV 2007 của các ĐV trực thuộc NH 61 Bảng 2.6: Dư nợ bảo lãnh cơ cấu theo loại hình bảo lãnh 80 Bảng 2.7: Dư nợ bảo lãnh theo ngành nghề kinh doanh 83 Bảng 2.8: Thu dịch vụ năm 2006-2007 83 Biểu đồ: Biểu đồ 2.1: Tình hình huy động vốn PL theo đối tượng KH 56 Biểu đồ 2.2: Dư nợ bảo lãnh qua các năm 80 Biểu đồ 2.3: Tỷ trọng dư nợ bảo lãnh trong Tổng dư nợ tín dụng 81 Biểu đồ 2.4: Dư nợ bảo lãnh năm 2007 theo cơ cấu các hình thức BL 82 Biểu đồ 2.5: Thu phí bảo lãnh qua các năm 84 Biểu đồ 2.6: Tỷ trọng thu phí bảo lãnh trong Tổng thu phí dịch vụ 85 Biểu đồ 2.7: Cơ cấu thu phí dịch vụ năm 2007 85 Biểu: Biểu 2.1: Biểu phí bảo lãnh của NHĐT & PT HN 71 LỜI NÓI ĐẦU Nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng đang trong quá trình đổi mới và hoàn thiện theo xu hướng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong xu thế vận động này, cạnh tranh và rủi ro là hai phạm trù luôn đi liền kề nhau. Muốn đứng vững được trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp phải tự khẳng định mình bằng vốn tự có – đó chính là những năng lực cạnh tranh. Nhưng nhiều khi lực bất tòng tâm, với sức vóc còn quá mảnh mai của nhiều doanh nghiệp Việt Nam trên mọi phương diện, trong việc thực hiện các hợp đồng, dự án lớn đối với đối tác nước ngoài thì rủi ro xảy ra là điều khó tránh khỏi. Vì vậy, nhu cầu hạn chế, khắc phục những rủi ro trong kinh doanh trở thành một đòi hỏi cấp bách của nền kinh tế. Theo đó hàng loạt các công cụ phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh đã ra đời ở nước ta, một trong số đó là bảo lãnh ngân hàng. Nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng ra đời như một phương tiện phòng ngừa rủi ro góp phần không nhỏ vào việc thông suốt quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bằng cách đảm bảo tư cách của các bên trong quan hệ hợp đồng, từng bước đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới. Không những thế, nghiệp vụ bảo lãnh còn có những ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao vai trò, uy tín của hệ thống ngân hàng, khẳng định vị thế cũng như khả năng thích nghi phát triển của các các nghiệp vụ ngân hàng. Nhận thức được tầm quan trọng của bảo lãnh, các NHTM đang không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của nghiệp vụ này nhằm củng cố uy tín cho ngân hàng và thu hút khách hàng. Tuy nhiên, các sản phẩm bảo lãnh vô cùng đa dạng, việc tập trung nâng cao chất lượng đối với một hay một nhóm các sản phẩm bảo lãnh mà ngân hàng có thế mạnh tỏ ra có hiệu quả. Đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội nói riêng cũng như toàn bộ hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói chung, đầu tư xây dựng cơ bản là một lĩnh vực truyền thống và có nhiều ưu thế hơn so với các ngân hàng khác. Đây cũng là một lĩnh vực có nhiều cơ hội phát triển trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Chính vì vậy,em xin được lựa chọn đề tài làm chuyên đề tốt nghiệp của mình là: “Nâng cao chất lượng bảo lãnh đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội” Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề cơ bản nhất của nghiệp vụ bảo lãnh. Phạm vi nghiên cứu: bảo lãnh đối với DNXL tại NHĐT & PT HN. Thời gian nghiên cứu: 2005-2007. Mục tiêu nghiên cứu: - Làm sáng tỏ cơ sở lý luận, nội dung và những vấn đề liên quan đến nghiệp vụ bảo lãnh, chất lượng bảo lãnh. - Phân tích, đánh giá chất lượng bảo lãnh đối với DNXL tại NHĐT & PT HN, tìm ra nguyên nhân của những vấn đề còn tồn tại. - Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng bảo lãnh đối với DNXL tại NHĐT & PT HN. Toàn bộ chuyên đề được thể hiện trong ba chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về bảo lãnh của Ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp xây lắp. Chương 2: Thực trạng chất lượng bảo lãnh đối với doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh đối với doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Qua đây, em xin cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Thảo cùng tập thể cán bộ Phòng Tín dụng 4 - NHĐT & PT HN đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP 1.1. Doanh nghiệp xây lắp trong nền kinh tế. 1.1.1. Khái niệm Doanh nghiệp xây lắp Xây lắp được hiểu một các cơ bản là những công việc thưộc quá trình xây dựng và lắp đặt thiết bị các công trình, hạng mục công trình. Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp là những doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật có đăng ký kinh doanh về xây lắp. Trách nhiệm của các Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp: - Đăng ký hoạt động xây dựng tại các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. - Chịu trách nhiệm trước pháp luật và Chủ đầu tư về các nội dung đã cam kết trong hợp đồng, bao gồm cả số lượng, chất lượng, tính chính xác của sản phẩm theo thời gian thực hiện hợp đồng, có quy định và hướng dẫn sử dụng công trình trước khi bàn giao công trình xây dựng, thực hiện bảo hành chất lượng sản phẩm xây dụng và công trình theo quy định. - Thực hiện chế độ bảo hiểm công trình xây dựng, thực hiện an toàn lao động, bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình xây dựng. Thông tin rộng rãi về năng lực hoạt động của doanh nghiệp để Chủ đầu tư biết và lựa chọn. 1.1.2. Vai trò và vị thế của Doanh nghiệp xây lắp. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chứng minh: Một quốc gia có nền kinh tế phát triển đều là những quốc gia có cơ sở hạ tầng của nền kinh tế rất tốt. Một cơ sở hạ tầng vững chắc, hiện đại là điều kiện để các nước thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tăng trưởng kinh tế. Để làm biến đổi cơ sở hạ tầng, một bộ phận không thể thiếu đó chính là ngành công nghiệp xây dựng. Trong nhiều năm qua, với vai trò chủ đạo của mình, Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp đã thực hiện tốt những chủ trương và nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ phát triển của đất nước. Vai trò và vị thế của DNXL trong nền kinh tế được khẳng định qua các khía cạnh sau: 1.1.2.1. Sự phát triển của DNXL tạo điều kiện khai thác tối đa nguồn lực của đất nước. Nhiệm vụ chính của ngành xây dựng cơ bản là xây dựng mới, mở rộng khôi phục và sửa chữa TSCĐ của nền kinh tế quốc dân tại ngay thời điểm mà tài sản đó phát huy tác dụng. Là ngành sản xuất vật chất vì thế yếu tố về cơ sở vật chất phải vững mạnh, đặc biệt yếu tố về sức mạnh lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Khuyến khích sự hoạt động của loại hình doanh nghiệp này sẽ huy động được một lượng vốn đang nằm trong dân, tạo điều kiện cho năng lực con người được giải phóng và phát huy mạnh mẽ. Mọi tổ chức, cá nhân đều cố gắng phát huy tối đa khả năng của mình, tìm kiếm khai thác các nguồn lực vì lợi ích của chính bản thân. Đó là động lực kích thích sự phát triên của lực lượng sản xuất, thúc đẩy xã hội phát triển. 1.1.2.2. DNXL thu hút một số lượng lao động đông đảo, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội. Do tính đa dạng trong loại hình của lĩnh vực xây lắp, nó có mặt trên tất cả các ngành nghề, có mặt ở cả nông thôn và thành thị, có thể dễ dàng thành lập bởi sự liên kết các công ty…nên việc sử dụng kỹ thuật sản xuất cần tương đối nhiều lao động. DNXL là nơi tạo việc làm nhanh nhất, dễ dàng hơn so với các ngành nghề khác. 1.1.2.3. Sự phát triển của các DNXL giữ một vai trò chủ đạo, đóng góp một phần chủ yếu cho Ngân sách nhà nước. Vai trò này hiện nay vẫn tiếp tục đựoc khẳng định ngay trong quá trình đổi mới của hệ thống doanh nghiệp. Sự phát triển mạnh mẽ của loại hình DNXL đã góp phần làm tăng GDP, tăng Ngân sách nhà nước, qua đó thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, sản phẩm hàng hoá sản xuất ra ngày càng phong phú và đa dạng, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp và ổn định về tỷ giá. 1.1.2.4. DNXL góp phần đưa đất nước tiến lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. DNXL ngoài việc cung cấp một lượng sản phẩm lớn cho thị trường, DNXL còn thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh để tích tụ nguồn vốn bằng nhiều hình thức khác nhau như các quỹ phát triển sản xuất, quỹ khấu hao cơ bản… Từ đó giúp các doanh nghiệp này chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh. Cùng với sự tích tụ về vốn, công nghệ sản xuất, trình độ công nhân, sản xuất của các DNXL cũng không ngừng được tăng lên. Máy móc công nghệ đang dần được cải tiến cho phù hợp với cơ chế thị trường góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ đó các sản phẩm sản xuất ra ngày càng đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng. 1.1.3. Đặc điểm hoạt động của các DNXL. Ngành xây lắp là ngành sản xuất vật chất đặc biệt có những đặc điểm riêng khác với những ngành sản xuất vật chất khác. Xuất phát từ những đặc thù riêng đó, sản phẩm xây lắp cũng có đặc điểm riêng, khác với sản phẩm hàng hoá của các ngành sản xuất vật chất khác ở chỗ mỗi sản phẩm đều có yêu cầu riêng về công nghệ, về quy phạm, về tiện nghi, về mỹ quan và sự an toàn. Những đặc điểm riêng của ngành và đặc điểm sản phẩm xây lắp sẽ chi phối công tác tổ chức quản lý, điều hành. Việc nghiên cứu nắm rõ các đặc điểm này, giúp Ngân hàng đưa ra những quyết định chính xác, nắm rõ được những rủi ro và đề ra những phương án khắc phục rủi ro nhằm tiến hành cho vay, bảo lãnh có hiệu quả. 1.1.3.1. Đặc điểm về loại hình tổ chức sản xuất, ngành nghề hoạt động. Các hoạt động chính của DNXL là: Chế tạo: - Thiết bị xây dựng, thiết bị bê tông, thiết bị gạch, thiết bị băng tải, gầu tải, vít tải, thiết bị lọc bụi tĩnh điện, lọc bụi túi… Kết cấu thép, khung nhà công nghiệp, dầm chịu lực, giàn không gian. Thiết bị phi tiêu chuẩn, đường ống công nghiệp. Các loại bình bể,silô chứa. Xây dựng - Thuỷ lợi - Giao thông: Xây dựng nhà công nghiệp, dân dụng, trường học, bệnh viện. Xây dựng trạm bơm, đê, kè, hồ chứa nước. Thi công đường giao thông. Lắp đặt: Lắp đặt thiết bị công nghệ, đường ống bảo ôn cho các công trình. Lắp khung nhà công nghiệp, xưởng sản xuất. Lắp thiết bị tự động, thiết bị điện, thiết bị đo, hiệu chỉnh điện. Lắp đặt hệ thống điều hoà. Dịch vụ khác: - Cung cấp thiết bị cho công trình công nghiệp, công trình nhiệt điện, thuỷ điện. các trạm bơm biến áp, đường dây… Đào tạo công nhân kỹ thuật. Xuất nhập khẩu thiết bị, vật tư. Xuất khẩu lao động. Tư vấn đầu tư lao động. Thiết kế. 1.1.3.2. Đặc điểm của sản phẩm xây lắp. a. Sản phẩm xây lắp có tính chất cố định, nơi sản xuất gắn liền với nơi tiêu thụ sản phẩm, phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện, khí hậu, địa chất, thuỷ văn, khí hậu. Đặc điểm này cho thấy: Nơi tiêu thụ sản phẩm cố định. - Nơi sản xuất biến động nên lực lượng sản xuất thi công (lao động, thiết bị thi công, vật tư kỹ thuật…) luôn luôn di động. Chất lượng và giá cả (chi phí xây dưng) sản phẩm chịu ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện tự nhiên. Do vậy, để giảm thiểu lãng phí, thất thoát do nguyên nhân khách quan bởi các tác động trên đòi hỏi trước khi khởi công xây dựng công trình phải làm thật tốt công tác chuẩn bị đầu tư và chuẩn bị xây dựng. Đặc điểm này đòi hỏi cần có giải pháp tài chính để kiểm tra việc sử dụng và quản lý vốn đầu tư ngay từ khâu đầu tiên là xác định chủ trương đầu tư, lựa chọn địa điểm, điều tra khảo sat, thăm dò… để dự án đầu tư đảm bảo tính khả thi cao. b. Sản phẩm xây lắp có quy mô lớn, kết cấu phức tạp. Sản phẩm xây dựng với tư cách là công trình xây dựng khi đã hoàn thành đưa vào sử dụng, đưa ra trao đổi mua bán trên thị trường bất động sản là tài sản cố định nên không thể là những sản phẩm bé nhỏ như sản xuất hàng loạt trong sản xuất công nghiệp. Do vậy, trong quản lý kinh tế, quản lý tài chính, hoạt động đầu tư và xây dựng đòi hỏi phải làm tốt công tác kế hoạch hoá vốn đầu tư, lập định mức kinh tế kỹ thuật và quản lý theo định mức. Với đặc điểm quy mô (thể tích) lớn và phức tạp của sản phẩm xây lắp dẫn đến chu kỳ sản xuất dài. Do đó vốn đầu tư bỏ vào để xây dựng dễ bị ứ đọng, gây lãng phi, hoặc ngược lại nếu thiếu vống sẽ làm công tác thi công bị gián đoạn, kéo dài thời gian xây dựng. Từ đặc điểm này yêu cầu trong công tác quản lý kinh tế, quản lý tài chính phải có kế hoạch, tiến độ thi công, có biện pháp kỹ thuật thi công tốt để rút ngắn thời gian xây dựng, tiết kiệm vật tư, lao động, tiết kiệm chi phí quản lý để hạ giá thành xây dựng. Trên góc độ tài chính đòi hỏi phải có giải pháp quản lý chi phí và quản lý trong công tác thanh toán vốn đầu tư giữa Chủ đầu tư với các Nhà thầu, giữa Chủ đầu tư với cơ quan cấp phát cho vay vốn đầu tư xây dựng. c. Sản phẩm xây lắp có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng của sản phẩm có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động của các ngành khác. Sản phẩm của các ngành sản xuất vật chất khác là vật phẩm tiêu dùng (dùng cho sản xuất hay dùng cho đời sống sinh hoạt của con người, của xã hội) có thời gian sử dụng rất ngắn như: nguyên vật liệu dùng vào sản xuất để sau đó nó biến đổi thành bán thành phẩm và thành phẩm. Sản phẩm xây lắp với công trình xây dựng đã hoàn thành mang tính chất là tài sản cố định nên nó có thời gian sử dụng rất lâu dài và tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, sử dụng nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu cho tới khhi thanh lý. Từ đặc điểm này đòi hỏi chất lượng công trình phải tốt. Muốn vậy phải chú trọng nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh tế, quản lý tài chính và chất lượng xây dựng ở tất cả các khâu công tác: điều tra, khảo sát, lập dự án đầu tư, thiết kế, thực hiện tốt quy chế đấu thầu, thi công, thanh toán vốn đầu tư, nghiệm thu, quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành và chế độ bảo hành công trình. Do đặc điểm thời gian sử dụng dài, tuổi thọ cao, nên sai lầm trong xây dựng sẽ gây tổn thất lớn cả về giá trị (chi phí xây dựng dự án) và chất lượng dự án, công trình, từ đó gây hậu quả trước mắt và lâu dài. Do đó, trong quá trình thực hiện phải giám sát chặt chẽ mọi chi phí phát sinh ở từng giai đoạn xây dựng và giám sát chất lượng công trình. Đó là công việc thường xuyên, hàng ngày, theo từng giai đoạn; thông qua công tác thanh toán để kiển tra giám sát chất lượng công trình, đảm bảo việc sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả. d. Về phương tiện sử dụng sản phẩm xây lắp có liên quan đến nhiều ngành, vùng địa phương. Ví dụ như các đường giao thông quốc lộ, tỉnh lộ, đường sắt, các cảng biển, cảng hàng không… Từ đó đòi hỏi phải chú ý cân nhắc kỹ về chủ trương đầu tư nhằm hạn chế và tránh thất thoát, lãng phí khi triển khai dự án. e. Sản phẩm xây lắp mang tính tổng hợp về kỹ thuật, kinh tế, xã hội, văn hoá nghệ thuật và quốc phòng. Đặc điểm này có thể dẫn đến phát sinh các mâu thuẫn, mất cân đối trong quan hệ phối hợp đồng bộ giữa các khâu công tác từ quá trình chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng cũng như quá trình thi công. Để khắc phục đòi hỏi phải có trình độ tổ chức, phối hợp các khâu từ công tác thẩm định tài dự án, thẩm định đấu thầu xây dựng, đấu thầu mua sắm thiết bị… f. Sản phẩm xây lắp có tính chất đơn chiếc, riêng lẻ. Mỗi sản phẩm đều có thiết kế riêng theo yêu cầu của nhiệm vụ thiết kế. Mỗi công trình có yêu cầu riêng về công nghệ, về quy phạm, về tiện nghi, về mỹ quan, về an toàn. Do đó khối lượng, chất lượng và chi phí xây dựng của mỗi công trình đều khác nhau, mặc dù về hình thức có thể giống nhau khi xây dựng trên những địa điểm khác nhau. Từ đặc điểm này cho thấy, sản phẩm xây lắp có thể giống nhau về hình thức song về kết cấu, quy phạm thì không giống nhau hoàn toàn nếu xây dựng ở những địa điểm khác nhau, nên mặc dù có thể sản xuất hàng loạt theo mẫu thiết kế thống nhất nhưng chi phí xây dựng không thống nhất. Mỗi công trình, dự án đầu tư đều bị chi phối bởi các điều kiện đặc điểm tự nhiên yêu cầu khác nhau nên chi phí xây dựng cũng khác nhau. Do đó, từ đặc điểm này, yêu cầu công tác quản lý tài chính phải có dự toán cụ thể cho từng công trình, từng hạng mục công trình và dự toán chi tiết theo thiết kế tổ chức thi công, dự án gắn với việc chấp hành nghiêm chỉnh quy trình quy phạm kỹ thuật. 1.1.3.3. Đặc điểm tổ chức sản xuất của các DNXL. - Vốn tự có của các DNXL là thấp, chủ yếu là máy móc thiết bị đã qua sử dụng và khối lượng hao mòn là khá lớn, do vậy trong hoạt động của các đơn vị này thì nhu cầu vay vốn của ngân hàng là thường xuyên và rất lớn. - Xí nghiệp xây lắp là một tổ chức kinh tế - xã hội gồm nhiều bộ phận sản xuất và quản lý, nhiều công đoạn thi công, mà trong đó, hoạt động của các bộ phận đều có mối liên hệ mật thiết với nhau trong quỹ đạo của một kế hoạch và nguyên tắc quản lý thống nhất. - Địa điểm sản xuất không cố định, làm cho hoạt động sản xuất hay bị gián đoạn (có thời gian chết), vì công nhân và máy thi công phải di chuyển địa điểm làm cho việc tổ chức sản xuất không ổn định. - Chu kỳ sản xuất (thời gian xây dựng công trình) thường kéo dài làm cho công tác thanh toán vốn đầu tư gặp khó khăn, dễ gặp phải rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian như thời tiết, lãi suất, tỷ giá… - Hoạt động xây lắp chủ yếu ngoài trời, chịu ảnh hưởng rất lớn của các yếu tố tự nhiên. Do đó các sản phẩm xây lắp dễ bị mất mát và chóng hư. Chính vì thế công tác quản lý sử dụng, hạch toán tài sản, vật tư trở nên phức tạp hơn. - Quá trình sản xuất xây lắp phức tạp đòi hỏi các nhà tổ chức xây lắp phải có trình độ, tổ chức phối hợp cao trong sản xuất, phải phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức xây dựng tổng thầu hay thầu chính và các tổ chức thầu phụ. - Sau khi bàn giao công trình Nhà thầu cũng có trách nhiệm bảo hành công trình. Bảo hành công trình là điều kiện bắt buộc, được xác lập trên cơ sở pháp luật và hợp đồng kinh tế giữa Chủ đầu tư công trình và các đơn vị nhận thầu thi công xây lắp, điều này nhằm mục tiêu bảo vệ lợi ích của Chủ đầu tư công trình, đồng thời xác lập các đơn vị thi công xây lắp phải có nghĩa vụ sửa chữa các hư hỏng công trình xảy ra trong thời gian bảo hành. 1.1.4.4. Đặc điểm chu chuyển vốn sản xuất kinh doanh của DNXL. Trong xây dưng người ta thường phân biệt giữa một bên là Chủ đầu tư (bên A) và các đơn vị xây lắp bao thâu (bên B). Các đơn vị xây lắp là các đơn vị ký hợp đồng với các Chủ đầu tư chịu trách nhiệm trong vấn đề xây dựng các công trình theo thiết kế của Chủ đầu tư. Hiện nay các dự án đều phải phấn đấu thực hiện chọn thầu nhằm chọn các đơn vị xây lắp có đủ tư cách pháp nhân, năng lực hành nghề xây dựng. Điều này cho thấy vai trò của đơn vị xây lắp bao thầu ngày càng quan trọng không những đối với chất lượng công trình mà còn cả về phương diện tài chính. Cũng như mọi doanh nghiệp khác, muốn tiến hành sản xuất kinh doanh, các DNXL ngoài tư liệu sản xuất kinh doanh, tư liệu lao động còn phải có đối tượng lao động. Đối tượng lao động khi tham gia quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ thông qua quá trình chế biến hợp thành thực thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao phí mất đi trong quá trình sản xuất, đến chu kỳ sản xuất kinh doanh sau lại phải dùng đối tượng lao động khác. Đối tượng lao động của doanh nghiệp được biểu hiện thành hai bộ phân: một bộ phận là những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình được liên tục (nguyen, nhiên liệu…), một bộ phận khác là những vật tư đang trong quá trình chế biến, sản phẩm đang chế tạo (bán thành phẩm). Hai bộ phận này biểu diễn dưới hình thái vật chất gọi là tài sản lưu động trong quá trình sản xuất. Mặt khác, quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn luôn gắn liền với quá trình lưu thông. Trong quá trình này, doanh nghiệp phải tiến hành một số công việc chọn lọc, xuất giao sản phẩm, thanh toán và được gọi là Tài sản lưu động trong lưu thông. TSLĐ trong quá trình sản xuất và TSLĐ trong lưu thông liên tục thay chỗ nhau và vận động không ngừng nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được tiến hành thuận lợi và liên tục. Như vậy doanh nghiệp nào cũng cần có một số vốn thích đáng để đầu tư vào các tài sản ấy. Số tiền ứng trước về những tài sản đó được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Để quản lý vốn lưu động được tốt, chúng ta cần phân loại vốn lưu động. Dựa theo vai trò trong quá trình tái sản xuất, vốn lưu động được chia thành ba loại, trong mỗi loại dựa theo công dụng lại được chia thành nhiều khoản cụ thể. Với các doanh nghiệp xây dựng, vốn lưu động cũng đươc dựa vào những quy định chung đó và được chia thành: Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất. Vốn lưu động nằm trong quá trình trực tiếp sản xuất. Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông. Đối với sản phẩm xây lắp bao giờ cũng được thi công ngay tại chỗ cho nên sản phẩm không phải nhập kho và vận chuyển tới nơi tiêu thụ. Mặt khác thi công xây lắp hiện nay sản xuất theo kiểu đơn đặt hàng cho nên sản phẩm xây lắp không khó khăn gì trong việc tìm người tiêu thụ. Ngay sau khi hoàn thành, các công trình xây lắp được bàn giao cho người giao thầu và sau khi công trình được nghiệm thu, DNXL tiến hành lập biên bản kiểm nghiệm theo yêu cầu chi trả. Như vâỵ nhu cầu về vốn thành phẩm ở đây được xuất phát từ sản lượng xây lắp phải bàn giao quyêtd toán trong kỳ kế hoạch và thời gian cần thiết để làm thủ tục và các giấy tờ thanh toán. Tóm lại, qua nghiên cứu đặc thù riêng về hoạt động của DNXL, ta thấy các DNXL gặp nhiều rủi ro hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác như do thời gian xây dựng lâu dài, khối lượng vốn lớn thường gây ra trạng thái ứ đọng vốn, hoặc phát sinh thêm những chi phí bất thường, hay hoàn thành công trình xong chưa được nhà đầu tư thanh toán ngay… Vì vậy, các DNXL khó tiếp cận nguồn tài trợ của Ngân hàng, hoặc nếu có thì phải chịu những điều kiện rất khắt khe và thủ tục phức tạp. Ngoài ra, do đặc điểm của sản phẩm và sản xuất nên DNXL thường có tổng dư nợ tương đối lớn, và tài sản cố định của doanh nghiệp lớn. Đây là điểm mà các cán bộ ngân hàng cần chú ý khi thẩm định tài chính doanh nghiệp. Như vậy, khi đánh giá DNXL Ngân hàng thường xem xét hai khía cạnh là năng lực tài chính và năng lực thi công của doanh nghiệp. Khả năng thực hiện công trình thể hiện ở chất lượng máy móc thi công, đội ngũ công nhân, kinh nghiệm của doanh nghiệp… Đánh giá về mặt tài chính sẽ rất phức tạp và khó chính xác, Ngân hàng thường phải xem xét khả năng thực hiện công trình của DNXL, coi đây là một yếu tố quan trọng đầu tiên để ra quyết định. Đồng thời, các DNXL muốn được tham gia xây dựng một công trình đều phải thông qua hoạt động đấu thầu. Điều kiện của quy chế dự thầu là người dự thầu phải cung cấp bảo lãnh dự thầu. Khi trúng thầu, Chủ đầu tư thường xuyên yêu cầu chủ thầu phải thực hiện bảo lãnh Thực hiện hợp đồng nhằm đảm bảo hoàn thành công trình xây lắp theo đúng như các điều khoản trong hợp đồng cơ sở. Còn sau khi công trình hoàn thành và bàn giao đưa vào sử dụng, đến hạn thanh toán tiền cho Nhà thầu, Chủ đầu tư vẫn giữ lại một số tiền để buộc Nhà thầu có trách nhiệm bảo hành sửa chữa khi có sự cố. Nếu muốn được thanh toán số tiền này, chủ thầu phải có một hợp đồng bảo lãnh của Ngân hàng đảm bảo chất lượng công trình… Bảo lãnh ngân hàng ra đời là một trong những hoạt động quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho DNXL mà lại có độ rủi ro thấp hơn so với cho vay. 1.2. Những vấn đề cơ bản về bảo lãnh của NHTM đối với DNXL. 1.2.1. Tổng quan về bảo lãnh của Ngân hàng thương mại. 1.2.1.1. Khái niệm bảo lãnh Ngân hàng. Bảo lãnh Ngân hàng (BLNH) là một dạng dịch vụ Ngân hàng hiện đại xuất hiện vào giữa những năm 60 ở một thị trường nội địa nước Mỹ, sau đó, đầu những năm 70, bảo lãnh bắt đầu được sử dụng trong các giao dịch thương mại quốc tế. Và kể từ đó đến nay, với khả năng ứng dụng rộng rãi trong các loại giao dịch (tài chính lẫn phi tài chính, thương mại lẫn phi thương mại), vị trí của BLNH ngày càng được củng cố một cách chắc chắn. Có thể khẳng định rằng hầu hết những giao dịch lớn trong phạm vi quốc tế cũng như trong nội địa đều có sự hỗ trợ của BLNH. Doanh số của dịch vụ này đã gia tăng một cách đáng kinh ngạc ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Theo những quan niệm và tập quán chung, bảo lãnh là sự cam kết của một bên (Bên bảo lãnh) đối với bên hưởng (Bên được bảo lãnh) khi nhân được yêu cầu (bên yêu cầu bảo lãnh), cam kết đền bù trong trường hợp bên yêu cầu bảo lãnh không thực hiện được các nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, làm thiệt hại đến quyền lợi của bên hưởng. Bộ luật dân sự nước CHXHCN Việt Nam, tại điều 366 có định nghĩa về bảo lãnh như sau: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (goi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (goi là người được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Luật các Tổ chức tín dụng (TCTD), điều 20 có định nghĩa cụ thể về BLNH như sau: “BLNH là cam kết bằng văn bản của TCTD với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho TCTD số tiền đã được trả thay”. Theo điều 58 Luật TCTD thì “TCTD được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh”. Như vậy, BLNH là bảo lãnh bằng năng lực chi trả. Khác với định nghĩa về bảo lãnh trong một số văn bản pháp luật của Việt Nam (Bộ luật dân sự và Luật TCTD), các điều luật quốc tế đưa ra những định nghĩa cụ thể cho từng loại bảo lãnh mà không có được một khái niệm chung. Điều 5 Luật Thương mại Mỹ viết: Nghĩa vụ của người phát hành tín dụng thư hoặc bảo lãnh độc lập là sẽ thanh toán chứng từ xuất trình theo đúng tiêu chuẩn thực hành. Công ước Liên Hợp Quốc về bảo lãnh độc lập và tín dụng dự phòng (Công ước Uncital) định nghĩa: Bảo lãnh hay cam kết là lời hứa độc lập, được biết trong thực tiễn quốc tế như là một bảo lãnh độc lập hoặc tín dụng thư dự phòng do Ngân hàng hoặc tổ chức hay cá nhân (người bảo lãnh/người phát hành) thanh toán cho. Còn Phòng Thương mại quốc tế - ICC thì định nghĩa: Bảo lãnh độc lập là bất cứ bảo lãnh, cam kết, hay cam kết thanh toán, dù được gọi hay miêu tả như thế nào, của Ngân hàng, công ty bảo hiểm hay pháp nhân hoặc thể nhân bằng văn bản thanh toán một số tiền khi được xuất trình theo đúng quy định của cam kết, bản đòi tiền và chứng từ khác… Mặc dù có những định nghĩa khác nhau cho các hình thức bảo lãnh khác nhau (bảo lãnh độc lập, cam kết, thư tín dụng dự phòng…), song xét về bản chất và phương thức thực hiện, các quy định quốc tế về bảo lãnh đều nêu bật nghĩa vụ của người cam kết là thanh toán cho người thụ hưởng ngay khi nhân được đòi tiền thoả mãn với các điều kiện ghi trong bảo lãnh. Ngoài ra, điểm nổi bật trong các quy định trên là tính độc lập của bảo lãnh, có nghĩa là việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh hoàn toàn không phụ thuộc vào bất cứ giao dịch hay yếu tố khác nào ngoài giao dịch bảo lãnh. Điều này khác với quy định trong các văn bản pháp luật của Việt Nam khi cho phép người bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp người nhận bảo lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ với người được bảo lãnh. Nghiên cứu về bảo lãnh, chúng ta cũng cần phân biệt sự khác nhau với Tái bảo lãnh. Tái bảo lãnh đó là Bên bảo lãnh đem hợp đồng bảo lãnh cho một tổ chức khác nhận tái bảo lãnh hợp đồng này trên cơ sở phân chia phí bảo lãnh và trách nhiệm trong bảo lãnh. 1.2.1.2. Đặc điểm của bảo lãnh Ngân hàng. ♦ BLNH là mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc lẫn nhau. Quan hệ BLNH ít nhất cũng bao gồm 3 chủ thể: Bên bảo lãnh, Bên được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh. TCTD thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (hay Bên bảo lãnh) là các TCTD được thành lập, hoạt động theo Luật các TCTD; trong trường hợp bên nhận bảo lãnh là các tổ chức và cá nhân nước ngoài thì chỉ các Ngân hàng được NHNN cho phép hoạt động thanh toán quốc tế mới được thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Khách hàng được TCTD bảo lãnh (hay Bên được bảo lãnh) là các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài, trừ những người quản lý, điều hành của TCTD, những người thân thích của những người này và các cán bộ, nhân viên thực hiện thẩm định, quyết định bảo lãnh. Người thụ hưởng bảo lãnh (hay bên nhận bảo lãnh) là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có quyên thụ hưởng bảo lãnh của TCTD. Các hợp đồng liên quan đến nghiệp vụ bảo lãnh cũng bao gồm ít nhất 3 loại hợp đồng là: - HĐ1: Hợp đồng mua bán, dự thầu giữa Bên được bảo lãnh và bên nhận BL HĐ 2: Hợp đồng bảo lãnh giữa Bên bảo lãnh và Bên được bảo lãnh. HĐ 3: Cam kết bảo lãnh (thư bảo lãnh) giữa Bên bảo lãnh và bên nhận BL Bên nhận bảo lãnh Bên được bảo lãnh HĐ1 HĐ2 HĐ3 Bên bảo lãnh Sơ đồ 1.1: Quan hệ giữa các bên trong hợp đồng bảo lãnh ♦ BLNH có tính độc lập so với hợp đồng. Mặc dù quan hệ trong bảo lãnh là mối quan hệ đa phương, tuy nhiên quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia lại mang tính độc lập tương đối. Đây chính là một đặc điểm nổi bật của bảo lãnh. Điều này có nghĩa là việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh không phụ thuộc vào bất cứ giao dịch hay yếu tố nào ngoài giao dịch bảo lãnh. Ngân hàng phải có trách nhiệm thanh toán cho bên nhận bảo lãnh khi bên này yêu cầu và có bằng chứng chứng minh sự vi phạm hợp đồng của Bên được bảo lãnh. Ngân hàng không thể viện vào các lý do thuộc vào mối quan hệ giữa Ngân hàng với Bên được bảo lãnh như: Bên được bảo lãnh còn nợ Ngân hàng hay Bên được bảo lãnh vi pham hợp đồng với Ngân hàng… để trì hoãn hoặc không thực hiện thanh toán cho bên nhận bảo lãnh. Khi có yêu cầu thanh toán, Ngân hàng phải thanh toán ngay cho bên nhận bảo lãnh sau đó mới quay ra thu nợ đối với Bên được bảo lãnh. Lúc đó, hình thức cấp tín dụng bằng chữ ký chuyển sang cấp tín dụng bằng tiền. Khoản nợ này sẽ được chuyển sang khoản nợ xấu, khó đòi c._.ua Ngân hàng, Ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro. Mặc dù vậy, tính độc lập của bảo lãnh chỉ mang tính tương đối. Tuỳ từng trường hợp mà tính độc lập có thể cao hoặc cũng có thể thấp. Tính độc lập của bảo lãnh phụ thuộc vào điều kiện đi kèm. Nếu bảo lãnh yêu cầu kèm theo quyết định của trọng tài hay toà án thì nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng không phụ thuộc vào thoả thuận trong thư bảo lãnh mà còn phải phụ thuộc vào quyết định của người thư ba là trọng tài hoặc toà án. Đặc điểm này của bảo lãnh cũng giúp phân biệt bảo lãnh với bảo hiểm, vì nghĩa vụ thanh toán bảo hiểm của công ty bảo hiểm chỉ được thực hiện khi người được bảo hiểm có đầy đủ bằng chứng chứng minh tổn thất đã xảy ra thuộc pham vi bảo hiểm. ♦ Bảo lãnh Ngân hàng là hoạt động ngoại bảng. Thật vậy, hoạt động bảo lãnh là việc Ngân hàng dùng uy tín của mình để cam kết thanh toán. Như vậy, về thực chất thì Ngân hàng không phải bỏ ra một đồng vốn nào của mình khi bắt đầu phát hành bảo lãnh, chỉ khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên thứ ba thì Ngân hàng mới phải thanh toán thay cho khách hàng. Điều này có nghĩa, khi quyết định bảo lãnh cho khách hàng, Ngân hàng không phải xuất tiền ngay nên không ảnh hưởng đến bảng cân đối kế toán và do đó, BLNH được xếp vào hoạt động ngoại bảng. Tuy nhiên, nếu rủi ro xảy ra, Ngân hàng phải thực hiện thanh toán cho bên thụ hưởng thay cho khách hàng thì ngay lập tức sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến bảng cân đối kế toán, phát sinh khoản nợ của khách hàng và được xếp vào khoản “Nợ xấu” trong nội bảng, và cấu thành nên “Nợ quá hạn”. Như vậy, nếu hoạt động bảo lãnh có chất lượng kém thì không những có ảnh hưởng xấu đến uy tín của Ngân hàng mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản của Ngân hàng. Vì vậy, việc đưa ra quyết định bảo lãnh đúng đắn là rất quan trọng. ♦ Bảo lãnh Ngân hàng tiến hành trên cơ sở chứng từ. Tất cả các hoạt động của Ngân hàng đều dựa trên cơ sở chứng từ và bảo lãnh cũng không là ngoại lệ. Cam kết bảo lãnh của Ngân hàng cũng là một văn bản mà việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng dựa trên văn bản đó. Khi Bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng đã ký kết, muốn được Ngân hàng thanh toán, bên nhận bảo lãnh cũng phải mang đến Ngân hàng những chứng từ phù hợp với hợp đồng bảo lãnh. Nếu chứng từ không phù hợp, Ngân hàng có quyền từ chối yêu cầu thanh toán. 1.2.1.3. Vai trò của bảo lãnh Ngân hàng. Trong quá trình thực hiện các chức năng của mình, BLNH đã có một vải trò rất to lón không những chỉ trong hoạt động Ngân hàng mà còn cả đối với các doanh nghiệp và nền kinh tế trong và ngoài nước. * Đối với nền kinh tế. - BLNH đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế để phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh. Các hoạt động bảo lãnh vay vốn nước ngoài, mua máy móc vật tư, thiết bị sản xuất theo phương thức trả chậm có bảo lãnh của Ngân hàng tạo điều kiện mạnh mẽ để thu hút vốn, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển để giúp các nước này có điều kiện ứng dụng công nghệ tiên tiến, tăng năng suất lao động. - BLNH là một công cụ giúp người nhận bảo lãnh có được các khoản tài trợ về tài chính để thực hiện dư án. - Việc sử dụng đòn bẩy bảo lãnh, phí bảo lãnh để hướng nghiệp vụ bảo lãnh phục vụ cho một số lĩnh vực kinh tế nhất định góp phần tích cực vào việc thực hiện các chương trình quốc gia, thúc đẩy sự phát triển của một số ngành kinh tế mũi nhọn hay hạn chế một số lĩnh vực hoạt động kém hiệu quả. * Đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng. - Nghiệp vụ bảo lãnh làm đa dạng hoá các sản phẩm của Ngân hàng, giúp Ngân hàng thoả mãn được các yêu cầu tổng hợp cũng như có tính đặc thù cao của nền kinh tế. - Bảo lãnh góp phần tăng doanh thu của Ngân hàng qua việc Ngân hàng thu phí bảo lãnh, góp phần làm đa dạng hoá các khoản thu phí dịch vụ, vốn dĩ là khoản thu quan trọng và ổn định của Ngân hàng. - Bảo lãnh góp phần làm tăng vị thế của Ngân hàng, mở rộng quan hệ đại lý, nhất là trên thị trường quốc tế. Việc chấp nhận bảo lãnh của một Ngân hàng cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận mức độ uy tín và khả năng thanh toán của Ngân hàng đó 1.2.1.4. Chức năng của bảo lãnh Ngân hàng. a. Bảo lãnh là công cụ bảo đảm. Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh. Bằng việc cam kết chi trả bồi thường khi xảy ra sự cố vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh, các Ngân hàng phát hành bảo lãnh đã tạo ra một sự bảo đảm chắc chắn cho người nhận bảo lãnh. Chính sự bảo đảm này tạo ra sự tin tưởng khiến cho các hợp đồng được ký kết một cách dễ dàng và thuận lợi. Đây cũng là điểm khác biệt của bảo lãnh so với tín dụng chứng từ. b. Bảo lãnh là công cụ tài trợ. Không chỉ là công cụ bảo đảm, bảo lãnh còn là công cụ tài trợ cho người được bảo lãnh. Thông qua bảo lãnh, người được bảo lãnh không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh, được vay nợ hoặc được kéo dài thời gian thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ… Do vậy, mặc dù không trực tiếp cấp vốn nhưng BLNH giúp cho khách hàng được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ như trong trường hợp cho vay. c. BLNH được dùng như công cụ đôn đốc hoàn thành hợp đồng. Việc thanh toán bảo lãnh dựa trên vi phạm hợp đồng của người yêu cầu bảo lãnh. Trong suốt thời hạn hiệu lực của bảo lãnh phát hành, người hưởng bảo lãnh có quyền yêu cầu Ngân hàng phát hành thanh toán bảo lãnh khi người yêu cầu bảo lãnh vi phạm hợp đồng (bất kể ở mức độ nào và gây thiệt hại cho người hưởng bảo lãnh bao nhiêu). Như vậy, người yêu cầu bảo lãnh phải luôn chịu một áp lực của việc bồi hoàn bảo lãnh nên hết sức cố gắng hoàn thành tốt hợp đồng mà hai bên đã ký. d. BLNH được dùng như một công cụ hạn chế rủi ro. Bảo lãnh tham gia vào các giao dịch thương mại để nhằm đảm bảo các giao dịch đó được thực hiện thông suốt, tránh các rủi ro phát sinh kể từ lúc thương thảo ký kết hợp đồng đến lúc thanh toán, bảo hành. e. BLNH được dùng như một công cụ đảm bảo khả năng thanh khoản Bên thụ hưởng sẽ ngay lập tức nhận được khoản thanh toán khi có được các bằng chứng chứng tỏ sự vi phạm của bên yêu cầu bảo lãnh. Thông thường, để thực hiện chức năng thanh khoản của bảo lãnh, Ngân hàng sẽ yêu cầu Bên được bảo lãnh đặt cọc một khoản tiền để đảm bảo khả năng thanh toán ngay lập tức trong trường hợp vi phạm điều khoản của bảo lãnh. 1.2.1.5. Phân biệt giữa bảo lãnh với các công cụ đảm bảo khác trong hoạt động Ngân hàng thương mại. * Phân biệt bảo lãnh với thư tín dụng (L/C) - Bảo lãnh có chức năng đảm bảo quyền lợi cho người thụ hưởng khi rủi ro xảy ra, còn thư tín dụng có chức năng đảm bảo thanh toán cho người thụ hưởng khi người thụ hưởng giao hàng theo đúng hợp đồng đã ký kết. Như vậy, bảo lãnh mang tính dự phòng còn thư tín dụng mang tính thực hiện. - Bảo lãnh không chịu sự điều chỉnh thống nhất bởi một bộ luật mà do nhiều bộ luật khác nhau điều chỉnh (Luật Quốc gia liên quan đến bảo lãnh, các quy tắc thống nhất về bảo lãnh hợp đồng (URCG ICC), hay các quy tắc thống nhất về bảo lãnh (URDC ICC)). Trong khi đó, thư tín dụng được điều chỉnh theo các quy tắc thống nhất thực hành về tín dụng chứng từ (UCP ICC). - Kỹ thuật thực hiện: bảo lãnh không tự động tất toán và kết thúc khi hết hạn hiệu lực và thông thường bên yêu cầu bảo lãnh chịu chi phí, còn thưu tín dụng sẽ tự động hết hạn sau thời hạn hiệu lực và chi phí được phân bổ đều cho các bên tham gia. * Phân biệt giữa bảo lãnh với bảo hiểm. - Bảo lãnh thông thường do Ngân hàng thực hiện, bảo hiểm thường do công ty bảo hiểm thực hiện. - Bảo lãnh có tác dụng khắc phục hậu quả rủi ro và ngăn ngừa rủi ro phát sinh. Bảo hiểm chỉ khắc phục hậu quả rủi ro chứ không có tác dụng ngăn ngừa; Tất nhiên các công ty bảo hiểm có góp phần đầu tư ngăn ngừa rủi ro. - Bảo lãnh lấy tiền của bên vi phạm trả cho người thụ hưởng. Bảo hiểm phân chia tổn thất của người nhận tiền bảo hiểm cho những người tham gia bảo hiểm. - Bảo lãnh trả tiền khi nhận được yêu cầu đầu tiên. Bảo hiểm trả tiền khi thu thập khi đủ bằng chứng và thường phải đợi một khoảng thời gian để xác đinh mức độ thiệt hại. * Phân biệt giữa bảo lãnh với bồi hoàn. - Thư bồi hoàn là thư của người phát hành gửi người thụ hưởng yêu cầu người thụ hưởng phải thực hiện một công việc nào đó và kèm theo cam kết nếu xảy ra thiệt hại liên quan đến việc người thụ hưởng thực hiện công việc đó thì người bồi hoàn sẽ thanh toán cho người thụ hưởng (quan hệ hai bên); Trong khi đó, bảo lãnh có sự tham gia của bên thứ ba (Ngân hàng phát hành bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ cho người thụ hưởng). - Trách nhiệm thanh toán của người phát hành thư bồi hoàn là trách nhiệm đầu tiên và không phụ thuộc vào việc có vi phạm hợp đồng hay không của người thụ hưởng; Trong khi đó, trách nhiệm thanh toán của Ngân hàng phát hành bảo lãnh gắn với việc xuất trình yêu cầu thanh toán kèm xác nhận vi phạm. 1.2.1.6. Phân loại bảo lãnh Ngân hàng. a. Phân loại theo phương thức phát hành bảo lãnh. Theo phương thức phát hành bảo lãnh, bảo lãnh được phân thành: Bảo lãnh trực tiếp, bảo lãnh gián tiếp, bảo lãnh xác nhận, bảo lãnh có đảm bảo, Đồng bảo lãnh, bảo lãnh giáp lưng, bảo lãnh phụ. ● Bảo lãnh trực tiếp. Đây là hình thức bảo lãnh trong đó Ngân hàng trực tiếp phát hành bảo lãnh cho Bên thụ hưởng. Bên được bảo lãnh chịu trách nhiệm hoàn trả tiền trực tiếp cho Ngân hàng phát hành bảo lãnh khi có rủi ro xảy ra. Ngân hàng Người yêu cầu bảo lãnh Yêu cầu bảo lãnh . Hợp đồng Bảo lãnh (điều khoản của BL) Người thụ hưởng BL Sơ đồ 1.2: Bảo lãnh trực tiếp ● Bảo lãnh gián tiếp (bảo lãnh đối ứng). Đây là hình thức bảo lãnh trong đó Ngân hàng bảo lãnh phát hành thư bảo lãnh không phải theo yêu cầu của Bên yêu cầu bảo lãnh mà là theo yêu cầu trong thư bảo lãnh đối ứng của một ngân hàng khác (thông thường là Ngân hàng phục vụ bên yêu cầu bảo lãnh). Thông thường bảo lãnh gián tiếp thực hiện quan hệ mua bán hàng hoá, thanh toán dịch vụ giữa các công ty không trên cùng một quốc gia. (3 ) Phát hành bảo Ngân hàng phát hành Ngân hàng chỉ thị lãnh đối ứng Người thụ hưởng BL Chỉ thị Phát hành phát hành (2) (4) bảo lãnh Người yêu cầu BL BL đối ứng (1) Hợp đồng cơ sở Sơ đồ 1.3: Bảo lãnh gián tiếp ● Bảo lãnh xác nhận. Đây là trường hợp Ngân hàng phục vụ Bên thụ hưởng bảo lãnh điền thêm sự xác nhận đảm bảo khả năng thanh toán vào thư bảo lãnh trước khi thông báo cho Bên thụ hưởng. Bên thụ hưởng bảo lãnh lúc này nhận được hai khả năng đảm bảo thanh toán từ Ngân hàng phát hành và Ngân hàng xác nhận. Ngân hàng phát hành Người yêu cầu BL Yêu cầu bảo lãnh Bảo lãnh Hợp đồng (điều khoản BL) Người thụ hưởng BL Ngân hàng xác nhận Xác nhận bảo lãnh Sơ đồ 1.4. Xác nhận bảo lãnh ● Bảo lãnh có bảo đảm Bên đảm bảo Yêu cầu bảo đảm Bảo lãnh đối ứng Người yêu cầu BL Ngân hàng phát hành Yêu cầu bảo lãnh Bảo lãnh Hợp đồng ( điều khoản BL) Người thụ hưởng BL Ngân hàng Thông báo xác nhận bảo lãnh Sơ đồ 1.5. BL có đảm bảo ● Đồng bảo lãnh. Trong trường hợp số tiền bảo lãnh vượt quá khả năng tài chính của một Ngân hàng, hoặc Ngân hàng muốn chia sẻ rủi ro, Ngân hàng có thể kêu gọi các Ngân hàng khác cùng tham gia trong nghiệp vụ đồng bảo lãnh để phát tán rủi ro. Ngân hàng đầu mối Người yêu cầu BL Ngân hàng Tham gia Ngân hàng Tham gia Ngân hàng TB/ Xác nhận Người thụ hưởng BL Yêu cầu bảo lãnh bảo lãnh HĐ TB/Xác nhận Sơ đồ 1.6. Đồng bảo lãnh ● Bảo lãnh giáp lưng. Trong trường hợp hàng hóa từ người bán đến người mua qua một số khâu trung gian, rui ro không thanh toán/không thựuc hiện hợp đồng có thể xảy ra tại các khâu trung gian này. Lúc này nhà nhập khẩu trung gian yêu cầu phải có được bảo lãnh thực hiện hợp đồng từ nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu yêu cầu có được bảo lãnh thanh toán từ nhà nhập khẩu trung gian. Ngân hàng A Ngân hàng B bảo lãnh (1) bảo lãnh (2) Nhà xuất khẩu Nhà NK trung gian Nhà nhập khẩu bán hàng bán hàng Sơ đồ 1.7: Bảo lãnh giáp lưng ● Bảo lãnh phụ Để đảm bảo cho Nhà thầu thực hiện công trình theo đúng tiến độ và yêu cầu, Nhà thầu chính yêu cầu những Nhà thầu phụ phải mở những bảo lãnh mà người thụ hưởng chính là Nhà thầu chính. Những bảo lãnh này được gọi là bảo lãnh phụ. Bảo lãnh phụ đảm bảo cho Nhà thầu chính trong trường hợp không thực hiện được hợp đồng hay mất khả năng thanh toán của Nhà thầu phụ. NH phục vụ Nhà thầu phụ NH p/vụ nhà thầu phụ Người thụ hưởng BL Ngân hàng Người yêu cầu BL Ngân hàng Phát hành BL phụ yêu cầu bảo lãnh BL phụ bảo lãnh Hợp đồng (điều khoản BL) thông báo/xác nhận bảo lãnh Sơ đồ 1.8: Bảo lãnh phụ b. Phân loại theo mục đích của bảo lãnh. Theo mục đích, bảo lãnh được phân loại thành: BL dự thầu, BL thực hiện hợp đồng, BL bảo hành, BL thanh toán, BL hoàn trả tiền ứng trước, BL vay vốn, BL hải quan, BL phát hành chứng khoán. c. Phân loại căn cứ vào bản chất của bảo lãnh. ● Bảo lãnh đồng nghĩa vụ (bảo lãnh bổ sung). Đây là loại bảo lãnh xuất hiện đầu tiên, với đặc trưng cơ bản là: Ngân hàng và người được bảo lãnh được xem là có cùng nghĩa vụ. - Nghĩa vụ của người được bảo lãnh là nghĩa vụ đầu tiên, nghĩa vụ Ngân hàng chỉ là nghĩa vụ bổ sung, nghĩa vụ bổ sung chỉ được thực hiện khi có bằng chứng xác nhận rằng nghĩa vụ đầu tiên bị vi phạm. ● Bảo lãnh độc lập Là loại bảo lãnh hiện đại phát sinh từ nhu cầu thực tiễn. Cơ chế hoạt động của loại hình dịch vụ này dựa trên 2 nguyên tắc cơ bản sau: - Nguyên tắc độc lập: Nghĩa vụ Ngân hàng hoàn toàn tách rời nghĩa vụ người được bảo lãnh. - Nguyên tắc phù hợp: Việc thanh toán chỉ căn cứ vào các điều kiện, điều khoản quy định trong thư bảo lãnh được thoả mãn. d. Phân loại theo mức độ rủi ro Ngân hàng có thể gặp phải. ● Bảo lãnh theo hình thức cấp tín dụng. Bao gồm bảo lãnh vay vốn và thư tín dụng dự phòng. Đặc trưng của bảo lãnh theo hình thức cấp tín dụng là bảo lãnh gắn với nghĩa vụ trả nợ của người được bảo lãnh đối với một tổ chức tín dụng khác. ● Bảo lãnh theo hình thức cung cấp dịch vụ. Bao gồm các loại hình bảo lãnh gắn với các hợp đồng cung ứng hàng hoá, dịch vụ như bảo lãnh đấu thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo hành… e. Phân loại theo phạm vi vùng lãnh thổ. Nếu chia theo địa giới lãnh thổ thì bảo lãnh có thể được phân loại thành bảo lãnh trong nước và bảo lãnh ngoài nước. Bảo lãnh trong nước là bảo lãnh mà các bên tham gia đăng ký kinh doanh trong cùng một quốc gia. Còn bảo lãnh ngoài nước là bảo lãnh mà một trong các bên tham gia đăng ký kinh doanh tại nước khác. 1.2.1.7. Quy trình bảo lãnh. Mặc dù bảo lãnh không phải là một hoạt động cho vay nhưng đối với Ngân hàng rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh cũng tương tự như trong nghiệp vụ cho vay. Vì vậy trình tự và thủ tục trong nghiệp vụ bảo lãnh cũng có nhiều điểm tương tự như trong nghiệp vụ cho vay như tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng, quyết định bảo lãnh, ký hợp đồng, xử lý nợ quá hạn phát sinh khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Bên thứ ba (Bên hưởng bảo lãnh) Khách hàng của NH (Bên được bảo lãnh) Ngân hàng (Bên bảo lãnh) (3) (2) (a) Sơ đồ 1.9: Quy trình bảo lãnh của Ngân hàng (a) Khách hàng ký các hợp đồng với bên thứ ba về thanh toán, về xây dựng hay vay vốn… Bên thứ ba yêu cầu phải có bảo lãnh Ngân hàng. (1) Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi Ngân hàng. Ngân hàng sẽ thực hiện phân tích khách hàng để tìm hiểu về yêu cầu của bảo lãnh cũng như mức độ rủi ro. Nếu đồng ý, Ngân hàng và khách hàng sẽ ký hợp đồng bảo lãnh và phát hành thư bảo lãnh. (2) Ngân hàng (hoặc khách hàng) thông báo về thư bảo lãnh cho bên thứ ba. (3) Theo như đã thoả thuận với khách hàng và bên thứ ba, Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với bên thứ ba nếu nghĩa vụ đó xảy ra. (4) Theo như hợp đồng bảo lãnh đã ký với khách hàng, Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Ngân hàng (trả nợ gốc, lãi hoặc phí). Bước 1: Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh ghi rõ số tiền, điều kiện bảo lãnh. Những hồ sơ chung gồm: Giấy đề nghị bảo lãnh, hồ sơ pháp lý về khách hàng, hồ sơ về tình hình SXKD, hồ sơ về đảm bảo bảo lãnh. Bước 2: Thẩm định hồ sơ bảo lãnh và ra quyết định bảo lãnh Ngân hàng phân tích khách hàng, hợp đồng kinh tế giữa khách hàng và bên thứ ba, yêu cầu bảo lãnh của bên thứ ba. Trong đó xem xét các yếu tố về khả năng trả nợ bảo lãnh và khả năng hoàn vốn tín dụng. Sau đó, căn cứ ý kiến các phòng nghiệp vụ liên quan, cán bộ thực hiện bảo lãnh lập Tờ trình để trình lãnh đạo. Sau khi xem xét tờ trình, Lãnh đạo Ngân hàng sẽ quyết định về việc bảo lãnh. Nếu dự án phức tạp, Lãnh đạo quyết định đưa ra họp HĐTD. Bước 3: Ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng. Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng độc lập với hợp đồng kinh tế giữa khách hàng và Ngân hàng, thể hiện ràng buộc giữa Ngân hàng và bên thứ ba. Nội dung chính của hợp đồng bảo lãnh: Số tiền và thời hạn bảo lãnh của Ngân hàng. - Các điều khoản vi phạm hợp đồng kinh tế dẫn đến nghĩa vụ chi trả của Ngân hàng. - Các tài liệu cần thiết mà bên thứ ba cần có để chứng minh sự vi phạm hợp đồng của Bên được bảo lãnh. Hình thức bảo lãnh. - Phí bảo lãnh, số tiền ký quỹ, hoặc TSĐB cho bảo lãnh mà khách hàng phải thực hiện đối với Ngân hàng. - Trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng khi Ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Bước 4: Theo dõi phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Kiểm tra TSĐB cho bảo lãnh, đôn đốc thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh, đồng thời tiến hành thu phí. Thời gian theo dõi đối với bảo lãnh thực hiện hợp đồng và bảo lãnh hoàn thanh toán thường rất dài. Việc giám sát và theo dõi đối với các công trình thi công rất phức tạp đặc biệt là xem xét liệu khách hàng có sử dụng đúng mục đích khoản tiền Chủ đầu tư rót xuống không, đòi hỏi Ngân hàng phải có trình độ chuyên môn cao và kinh nghiệm trong lĩnh vực xây lắp. Bước 5: Tất toán bảo lãnh. Sau khi thư bảo lãnh hết thời hạn hiệu lực hoặc khi có thông báo hoặc xác nhận của Bên thụ hưởng bảo lãnh về việc hoàn thành nghĩa vụ liên quan đến bảo lãnh, Ngân hàng tiến hành tất toán bảo lãnh. Trường hợp Bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ đã được bảo lãnh, Ngân hàng phải trả thay theo lãi suất nợ quá hạn của Bên được bảo lãnh đối với Bên bảo lãnh và áp dụng các biện pháp cần thiết để thu nợ như phát mại TSBĐ, trích tài khoản của Bên được bảo lãnh (nếu có thoả thuận), khởi kiện ra cơ quan pháp luật và các biện pháp xử lý TSBĐ khác theo quy định của pháp luật. 1.2.2. Bảo lãnh của NHTM đối với DNXL. 1.2.2.1. Vai trò của BLNH đối với DNXL. Trong các năm qua, hàng loạt dự án có nguồn vốn quốc tế, vốn FDI, vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước, vốn của các Bộ, ngành được triển khai ở quy mô lớn, với các quy chế đấu thầu hoặc chỉ định thầu cụ thể,… Trong khi đó, thực tế nhiều doanh nghiệp trong nước vốn chủ sở hữu rất thấp, nhiều công trình đã thi công xong nhưng chưa được thanh toán, dẫn tới nguồn vốn kinh doanh, dự thầu, thi công xây dựng rất hạn chế. Trong điều kiện đó, nhu cầu bảo lãnh dự thầu xây dựng, bảo lãnh thực hiện hợp đồng xây dựng, các dự án có số vốn rất lớn và tăng cao. Bởi vậy, tại các NHTM Việt Nam thời gian qua thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho DNXL phát triển rất nhanh, với quy mô và mức độ khác nhau. Bảo lãnh được coi là một trong những dịch vụ Ngân hàng có ỹ nghĩa đặc biệt quan trọng, đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển và mở rông sản xuất kinh doanh, làm giảm bớt sự căng thẳng về nguồn vốn hoạt động của các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNXL. Hầu hết các hợp đồng thi công hoặc các hợp đồng mua bán lớn đòi hỏi phải thực hiện trong thời gian dài mới hoàn tất. Điều này đặt ra một nhu cầu tài trợ. Với chức năng tài trợ, BLNH đóng vai trò như một tài sản bảo đảm hiệu quả và kinh tế hơn so với cầm cố, thế chấp, giúp các DNXL có được những khoản tín dụng thương mại quan trọng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh như những khoản tiền ứng trước… Trong kinh doanh để đạt được sụ thành công đôi khi cũng đòi hỏi phải mạo hiểm, mạnh dạn nhưng không có nghĩa là chấp nhận rủi ro. Với chức năng hạn chế thông tin không cân xứng, hạn chế tổn thất phát sinh do vi phạm hợp đồng, BLNH góp phần thúc đẩy việc ký kết các hợp đồng xây lắp. Trong suốt thời gian hiệu lực của bảo lãnh, người thụ hưởng luôn có quyền yêu cầu phát hành thanh toán bảo lãnh khi người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng (bất kể mức độ nào và thiệt hại cho người thụ hưởng là bao nhiêu). Do vậy mà người được bảo lãnh luôn chịu một áp lực của việc phải bồi hoàn hợp đồng. Trên thực tế, người thụ hưởng cũng luôn mong muốn người được bảo lãnh thực hiện hợp đồng chứ không muốn nhận bồi hoàn tài chính từ Ngân hàng, đặc biệt là trong lĩnh vực xây lắp. Do việc tìm kiếm một công ty khác để thi công tiếp công trình dở dang là không dễ dàng, tốn kém thời gian và chi phí. Vì vậy mà nhờ có BLNH mà Bên được bảo lãnh bị đốc thúc thực hiện hoàn tất hợp đồng đã ký kết. 1.2.2.2. Các loại hình BLNH được áp dụng chủ yếu trong xây lắp. a. Bảo lãnh dự thầu. Thông thường đối với hợp đồng lớn, đặc biệt là những hợp đồng thiết kế, xây dựng hay cung cấp thiết bị thì người chủ công trình thường lựa chọ đối tác thi công thông qua đấu thầu. Để tìm kiếm các Nhà thầu có năng lực và hạn chế những rủi ro khi Nhà thầu vi phạm các điều khoản tham gia dự thầu như: trúng thầu nhưng không thực hiện hợp đồng, không kê khai đúng các yêu cầu của chủ thầu…,chủ đầu từ thường yêu cầu các bên dự thầu phải ký quỹ (đặt cọc) dự thầu. Nếu vi phạm, bên dự thầu sẽ mất tiền đặt cọc. Do ký quỹ gây nên nhiều phiền phức cho cả hai bên, đặc biệt là làm cho một lượng vốn ứ đọng trong quỹ, không có khả năng sinh lời. Mặt khác, tiền ký quỹ thường có giá trị không lớn, do đó nhiều Nhà thầu sau khi ký kết hợp đồng nếu họ tìm được dự án mới sinh lời cao họ vẫn “bỏ” dự án của Chủ đầu tư và chấp nhận mất khoản tiền đã ký quỹ. Như vây, mặc dù đã ký quỹ nhưng rủi ro vẫn xảy ra, nhà đầu tư lại tốn kém hơn khi đi tìm Nhà thầu mới. Do có những hạn chế khi sử dụng phương pháp kỹ quỹ, nhiều Chủ đầu tư đã quay sang yêu cầu phải có cam kết bảo lãnh của Ngân hàng. Bằng phương thức này, Nhà thầu không cần ký quỹ mà vẫn có một sự đảm bảo chắc chắn cho các Chủ đầu tư. Bảo lãnh dự thầu là cam kết của Ngân hàng với Chủ đầu tư (hay chủ thầu) về việc trả tiền phạt cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm những quy định trong hợp đồng dự thầu. Bảo lãnh dự thầu là loại hình bảo lãnh phổ biến hiện nay ở Việt Nam. Trong thời gian vừa qua, các dự án trong các lĩnh vực giao thông, nhà ở, cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp, khu chế xuất, bến cảng, sân bay… được triển khai rộng khắp từ trung ương đến địa phương, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn. Theo cơ chế hiện hành, các đơn vị dự thầu phải có thư bảo lãnh trong hồ sơ dự thầu. Do đó, loại bảo lãnh này ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng. Giá trị bảo lãnh được tính theo tỷ lệ % khối lượng thông báo đấu thầu. Bảo lãnh dự thầu sẽ tự động mất hiệu lực trong trường hợp người được bảo lãnh không trúng thầu. b. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng Là loại bảo lãnh nhằm chống đỡ rủi ro cho người thụ hưởng (Chủ đầu tư) trong trường hợp người nhận thầu không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng xây dựng đã ký kết. Chủ đầu tư Thư BL Ngân hàng bảo lãnh HĐXD Nhà thầu HĐBL Sơ đồ 1.10: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng Bảo lãnh thực hiện hợp đồng được sử dụng thay thế cho yêu cầu ký quỹ mà chủ công trình đề nghị đối với DNXL thi công công trình để đảm bảo bồi thường vi phạm hợp đồng. Do vậy, giá trị tối đa của bảo lãnh thường tương đương với mức bồi thường (dao động ở mức 10%-15%). Bảo lãnh của Ngân hàng một mặt bù đắp một phần tổn thất cho Chủ đầu tư, mặt khác thúc đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng. c. Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước (BL hoàn thanh toán). Chủ đầu tư HĐBL Ngân hàng BL Ứng trước tiền Nhà thầu Thư bảo lãnh Sơ đồ 1.11: Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước. Trong quá trình thi công xây lắp các công trình, Nhà thầu có thể yêu cầu Chủ đầu tư ứng trước (đặt cọc trước) một khoản tiền. Tiền đặt cọc này vừa giúp Nhà thầu có một phần vốn để mua vật tư xây dựng công trình, vừa có tác dụng ràng buộc Chủ đầu tư phải nhận công trình đã đặt hàng. Tuy nhiên, đề phòng Nhà thầu không thực hiện công trình đồng thời lại không trả tiền đặt cọc, Chủ đầu tư thường yêu cầu Nhà thầu phải có bảo lãnh của Ngân hàng về việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước. Vậy bảo lãnh hoàn thanh toán là một cam kết của Ngân hàng về việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho bên hưởng bảo lãnh (Chủ đầu tư) nếu Bên được bảo lãnh (Nhà thầu) không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ. d. Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm (Bảo lãnh bảo hành). Những sản phẩm xây lắp sau khi hoàn thành chưa thể khẳng định được có đạt chất lượng hay không. Chủ đầu tư có thể lựa chọn một trong hai phương pháp đẻ bảo hiểm công trình của mình như sau: Cách 1: Chỉ thanh toán cho đơn vị dự thầu một số tiền nhất định, giữ lại từ 5%-10% giá trị công trình. Nếu sau một thời gian nhất định (khoảng 1 năm) mà chất lượng công trình vẫn đảm bảo mới trả nốt số tiền còn lại cho đơn vị nhận thầu. Nếu công trình hư hỏng, xuống cấp thì đơn vị nhận thầu phải tiến hành sửa chữa, nếu không Chủ đầu tư sẽ dùng số tiền còn lại đó để bù đắp chi phí sửa chữa. Cách 2: Chủ đầu tư trả toàn bộ giá trị cho đơn vị nhận thầu với điều kiện phải có bảo lãnh của Ngân hàng nếu chất lượng công trình không đảm bảo thì Ngân hàng phải trả toàn bộ số tiền thiệt hại cho Chủ đầu tư. Giá trị bảo lãnh từ 5%-10% giá trị hợp đồng. Loại bảo lãnh này giúp Nhà thầu không bị ứ đọng vốn mà Chủ đầu tư cũng được hạn chế đựơc rủi ro hơn nếu chất lượng công trình không được đảm bảo. Giá trị của bảo lãnh thanh toán chính bằng giá trị của hợp đồng mua bán. Hình thức phát hành :mở L/C trả chậm, trả ngay; Chấp nhận hối phiếu; Bảo chi séc; Thư bảo lãnh thanh toán. 1.3. Chất lượng bảo lãnh đối với DNXL. 1.3.1. Quan điểm về chất lượng bảo lãnh. Trong bất kỳ một nghiệp vụ BLNH nào cũng đều có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể, đó là người yêu cầu bảo lãnh, Ngân hàng bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh. Giữa các chủ thể trên có mối quan hệ mật thiết với nhau. Giữa người yêu cầu bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh là quan hệ hợp đồng kinh tế làm phát sinh nhu cầu bảo lãnh. Giữa Ngân hàng bảo lãnh và người yêu cầu bảo lãnh là quan hệ đáp ứng nhu cầu của Ngân hàng đối với yêu cầu bảo lãnh. Giữa Ngân hàng và người thụ hưởng bảo lãnh là quan hệ cam kết đảm bảo khả năng thanh toán cho người thụ hưởng khi người yêu cầu bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ cam kết của mình. Một bảo lãnh được coi là có chất lượng khi đảm bảo được chất lượng của cả ba mối quan hệ kể trên. Nói cách khác, chất lượng của bảo lãnh là việc Ngân hàng bảo lãnh đáp ứng được yêu cầu của người yêu cầu bảo lãnh, làm thoả mãn được lợi ích của người được bảo lãnh và của chính Ngân hàng. Do vậy, để đánh giá chất lượng bảo lãnh cần phải căn cứ trên ba giác độ: ● Xét trên giác độ của một Ngân hàng. Bảo lãnh có chất lượng, trước hết, phải mang lại những lợi ích về mặt tài chính, từ việc thu phí cho tới việc khai thác nguồn huy động vốn từ số tiền ký quỹ của khách hàng, và các phí dịch vụ khác đi kèm khi khách hàng tham gia bảo lãnh tại Ngân hàng. Quy mô, thời hạn, giá trị của mỗi nghiệp vụ bảo lãnh phải phù hợp với khả năng tài chính và thực lực của Ngân hàng theo hướng tích cực để đảm bảo Ngân hàng hoạt động lành mạnh và có tính cạnh tranh trên thị trường. Việc thực hiện hoạt động bảo lãnh phải đảm bảo tính an toàn nói chung cho các hoạt động của Ngân hàng, mức độ xảy ra các rủi ro thanh toán mà Ngân hàng phải trả thay cho khách hàng là tối thiểu và không gây ra những tác động xấu tới tính thanh khoản cũng như uy tín của Ngân hàng. ● Xét trên giác độ doanh nghiệp là khách hàng của Ngân hàng. Xét trên giác độ khách hàng của Ngân hàng thì doanh nghiệp được hiểu bao gồm hai chủ thể: Người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh. Bảo lãnh có chất lượng phải do một Ngân hàng có uy tín phát hành để tạo dựng niềm tin cho bên nhận bảo lãnh. Thủ tục xin cấp bảo lãnh cũng như việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh được tiến hành một cách đầy đủ và nhanh chóng, đem lại thuận lợi và cơ hội kinh doanh cho khách hàng của Ngân hàng. ● Xét trên giác độ nền kinh tế. Sẽ là phiến diện nếu như hoạt động kinh doanhNgân hàng không góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế xã hôi. Điều này thể hiện vai trò của Ngân hàng trong việc phân bổ có hiệu quả của nguồn vốn và đáp ứng có hiệu quả nhu cầu về bảo lãnh của Ngân hàng cho nền kinh tế nói chung. Xét trên giác độ nền kinh tế, chất lượng bảo lãnh được đánh giá qua các nội dung cơ bản sau: Mức độ đáp ứng yêu cầu chung về hoạt động bảo lãnh, mức độ đóng góp và sự cải thiện tốc độ tăng trưởng cho nền kinh tế quốc dân; khả năng chấp hành tốt các quy định về an toàn trong hoạt động; khả năng góp phần thực hiện các chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, góp phần phát triển các thành phần kinh tế trong nước, đa dạng hoá ngành nghề nhằm thu hút nguồn lực nhàn rỗi, góp phần xoá đói giảm nghèo, phát triển cân đối giữa các vùng miền. Tóm lại, chất lượng BLNH là một chỉ tiêu tổng hợp được thiết lập dựa trên nhiều yếu tố. Đó là sự tổng hoà về quyền lợi và nghĩa vụ của ba mối quan hệ giữa ba chủ thể chính tham gia hoạt động bảo lãnh. Chất lượng bảo lãnh không phải là kết quả tự nhiên mà là kết quả của một quá trình kết hợp hài hoà giữa lợi ích của các chủ thể kinh tế. Vai trò của BLNH rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới không chỉ hoạt động của Ngân hàng mà còn tới cả nền kinh tế nói chung. Do vây, yêu cầu phải nâng cao chất lượng trong các nghiệp vụ BLNH là một vấn đề cần thực hiện. 1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng bảo lãnh của các DNXL. 1.3.2.1. Các chỉ tiêu định tính. ● Các loại hình bảo lãnh đa dạng. Không phải hầu hết các Ngân hàng đều đáp ứng đầy đủ những loại hình bảo lãnh, tuỳ theo năng lực của Ngân hàng mà Ngân hàng đưa ra những loại hình bảo lãnh khác nhau. Các loại hình bảo lãnh càng đa dạng cang chứng tỏ sự phát triển của Ngân hàng đó về mọi mặt. Việc phân tích chỉ tiêu này cũng sẽ giúp Ngân hàng biết được loại hình bảo lãnh nào của Ngân hàng thực sự hấp dẫn khách hàng, loại hình nào cần được quan tâm phát triển, từ đó xâu chuỗi và tiến hành trọn gói, hoặc song song với các dịch vụ khác. Ví dụ, trong xây lắp, do đặc tính của ng._.ác biện pháp bảo đảm tài sản khác. Đối với hồ sơ về TSBĐ thì cần kiểm tra kỹ xác nhận của cơ quan công chứng Nhà nước, cần giữ bản gốc của các giấy tờ sở hữu, giấy nộp thuế trước bạ, giấy cấp đất, cam kết thế chấp tài sản cho Ngân hàng để phòng ngừa khách hàng lừa đảo. Công tác đánh giá tài sản thế chấp phải đảm bảo đến giá trị hiện tại và dự đoán những biến động. Khi có rủi ro xảy ra cần tìm mọi biện pháp phù hợp ít gây tổn thất cho khách hàng và đảm bảo Ngân hàng thu hồi vốn nhanh. Tuy nhiên ký quỹ và TSBĐ chỉ là những biện pháp phòng bị rủi ro xảy ra, không phải là điều kiện tiên quyết để Ngân hàng bảo lãnh cho khách hàng. Khi thẩm định, các cán bộ thẩm định còn cần chú ý tới khả năng thực hiện công trình của DNXL. Trong quá trình bảo lãnh, Ngân hàng cần không ngừng kiểm tra, giám sát, đôn đốc doanh nghiệp thực hiện tốt hợp đồng. Nếu thấy có rủi ro, Ngân hàng cần tư vấn giúp đỡ doanh nghiệp, nếu không thể cứu vãn thì cần có biện pháp xử lý kịp thời để giảm thiểu tối đa mức độ thiệt hại. 3.2.5. Thực hiện nghiêm ngặt quy trình bảo lãnh. Quy trình bảo lãnh được đặt ra và thống nhất áp dụng trong toàn bộ các khâu của quá trình thực hiện bảo lãnh. Quy trình đã cụ thể hoá từng bước, từng giai đoạn của bảo lãnh, các điều kiện buộc phải tuân thủ trong một nghiệp vụ bảo lãnh từ các khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định đến khi ra quyết định bảo lãnh, phá hành thư bảo lãnh và xử lý, theo dõi sau bảo lãnh. Quy trình còn đưa ra các trình tự tác nghiệp và các khâu chịu trách nhiệm cho các cán bộ thực hiện bảo lãnh từ khi bắt đầu đến khi kết thúc nghiệp vụ. Do việc bảo lãnh thường liên quan trực tiếp đến việc cấp tín dụng cho khách hàng nên Chi nhánh phải thận trọng và coi việc xem xét phát hành thư bảo lãnh quan trọng như việc cấp tín dụng. Chi nhánh cần quan tâm tiếp cận, đánh giá ngay từ đầu tính khả thi nguồn vốn thanh toán công trình, điều kiện năng lực và hiệu quả phương án thi công của Doanh nghiệp,...trong đó việc thực hiện nghiêm ngặt quy trình bảo lãnh là một yếu tố hết sức quan trọng. - Thực hiện nghiêm ngặt quy trình bảo lãnh sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng của bảo lãnh, tránh các hiện tượng lợi dụng sơ hở trong công tác quản lý để có các hành vi chiếm đoạt, lừa đảo, tạo điều kiện thực hiện chuyên môn hoá lao động, xây dựng tác phong làm việc khoa học, nền nếp, tôn trọng các quy trình nghiệp vụ cho cán bộ trực tiếp làm nghiệp vụ bảo lãnh và các cán bộ khác có liên quan. - Thực hiện nghiêm ngặt quy trình bảo lãnh còn là trách nhiệm của doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả và bảo đảm an toàn trong kinh doanh của họ. Đồng thời làm cho trình độ quản lý và trình độ của cán bộ doanh nghiệp nâng lên, tăng khả năng hội nhập quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam trong xu hướng thực hiện các cam kết quốc tế của nước ta. 3.2.6. Đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng nguồn cán bộ. Ở thời đại ngày nay, khi cả thế giới đang ào ạt tiến vào thế kỷ tri thức, nếu không dựa vào trí tuệ và học vấn thì các NHTM không thể vươn lên mạnh mẽ trong thời đại mà chính trí tuệ và sự khôn ngoan của con người chứ không phải của cải vật chất sẵn có là sức mạnh quyết định; để cạnh tranh được trong thế giới ngày nay cần có con người biết kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng giỏi, cần có đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ tài năng, có các cán bộ quản lý điều hành và lực lượng lao động tinh thông hơn. Để có những con người như thế, hoạt động giáo dục và đào tạo cần được ưư tiên ở mức cao hơn, nhanh chân hơn, cần có phương pháp khoa học và hiệu quả để tiếp cận với tri thức toàn cầu. Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội cần quan tâm hơn tới một số quan điểm và giải pháp chủ yếu sau: Thứ nhất, cùng với việc xây dựng và đổi mới về mô hình tổ chức, Lãnh đạo Chi nhánh NHĐT & PT HN cần quan tâm đến việc từng bước xây dựng và thực hiện những chương trình phát triển đội ngũ cán bộ, xây dựng Đảng và các đoàn thể quần chúng. Trong đó xây dựng chiến lược nguồn lực cán bộ vừa có phẩm chất vững vàng, vừa có năng lực chuyên môn cần trở thành vấn đề then chốt, quyết định đối với mọi hoạt động của Chi nhánh. Xây dựng, đào tạo bồi dưỡng kết hợp với tuyển dụng cán bộ mới phải trở thành công việc được quan tâm thường xuyên. Thứ hai, trong công tác đào tạo, Chi nhánh cần có bước đi thích hợp với điều kiện cụ thể của Chi nhánh, xác định yêu cầu công việc để lập kế hoạch đào tạo cán bộ: - Hàng năm Ban lãnh đạo Chi nhánh cần cử cán bộ tham gia các khoá đào tạo nghiệp vụ và hoàn thiện chương trình đại học và sau đại học. - Có chính sách khuyến học, tạo niềm say mê học tập thường xuyên trong cán bộ nhân viên . - Tranh thủ sự tài trợ của các NHTM nước ngoài, các tổ chức quốc tế và thông qua việc triển khai các dự án hiện đại hoá ngân hàng để tạo tạo nguồn cán bộ. Có như vậy, Ngân hàng mới tiếp cận được với khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới về những kiến thức kỹ năng nghiệp vụ, quản trị điều hành ngân hàng hiện đại, nhận rõ được những yếu kém của mình, đồng thời học hỏi được kinh nghiệm đã qua, nhanh chóng rút ngắn được khoảng cách phát triển và hội nhập, nâng cao sức cạnh tranh - Phương châm đào tạo là: Cần loại cán bộ nào trước thì đào tạo trước, nội dung thiết thực, học để sử dụng ngay, đào tạo để làm việc ngay, đồng thời đào tạo cho mai sau. Thứ ba, coi trọng vấn đề đào tạo cán bộ qua thực tiễn: - Đối với cán bộ mới tuyển dụng: Chi nhánh cần tổ chức cho thực tập các mặt nghiệp vụ liên quan để củng cố lý luận đã học trong trường đại học, cung cấp thêm kinh nghiệm thực tiễn về chuyên môn, nghiệp vụ, phân công cán bộ giỏi kèm cặp hướng dẫn để có thể giao việc ngay. - Đối với cán bộ cũ: cần thông qua hiệu quả công tác, thông qua việc giao nghiên cứu các đề tài khoa học, hội thảo chuyên đề để từ đó có tổng kết đánh gía nhận xét. Thứ tư, hàng năm Ban chấp hành Đảng uỷ, Ban giám đốc cần có đánh giá phân loại cán bộ, đảng viên. Từ đó xây dựng quy hoạch, kế hoạch đề bạt cán bộ. Trong tương lai gần, nhu cầu bảo lãnh Ngân hàng sẽ ngày càng gia tăng để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Do vậy, việc mở rộng quy mô hoạt động cũng như việc đào tạo thêm cán bộ cho công tác bảo lãnh cần phải được chuẩn bị ngay từ bây giờ. 3.2.7. Khai thác hiệu quả những ứng dụng công nghệ thông tin. Nước ta đã và đang nỗ lực hội nhập với khu vực và thế giới trong bối cảnh nền khoa học kỹ thuật và công nghệ của nhân loại đang phát triển như vũ bão. Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách để thúc đẩy nhanh chóng quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và hội nhập nền kinh tế, trong đó một giải pháp lớn và hết sức quan trọng là phải đi tắt đón đầu, tận dụng tối đa lợi thế của nước đi sau, ứng dụng một cách sáng tạo thành tựu trí tuệ của thế giới để rút ngắn khoảng cách. Công nghệ thông tin là một trong những thành tựu rực rỡ nhất của nhân loại trong thời đại ngày nay mà ảnh hưởng của nó là sự bành trướng đang ngày càng rộng rãi của mạng máy tính toàn cầu Internet. Chủ trương đi tắt đón đầu là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, để biến chủ trương đó thành hiện thực trong cuộc sống lại phụ thuộc vào sự sáng tạo của mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp, mỗi cá nhân trong xã hội. Công nghệ thông tin phát triển rất nhanh, khấu hao vô hình trong lĩnh vực này là rất lớn, vì vậy đòi hỏi chúng ta phải tận dụng tối đa khả năng về con người, về thiết bị và công nghệ thì việc ứng dụng nó mới thực sự hiệu quả. Nhận thức được điều đó, Chi nhánh NHĐT & PT HN đã có những chủ động sáng tạo trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Để nâng cao hiệu quả từ ứng dụng của công nghệ thông tin hơn nữa, Chi nhánh cần chú ý nhứng điểm sau: - Luôn theo dõi cập nhật tình hình và xu hướng phát triển của công nghệ thông tin trong nước cũng như trên thế giới và ảnh hưởng của nó đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng để từ đó có kế hoạch lâu dài trong việc ứng dụng công nghệ thông tin. - Quán triệt sâu sắc chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước về công nghệ thông tin và vai trò của công nghệ thông tin đến toàn thể cán bộ công nhân viên Chi nhánh, từ đó tạo ra phong trào tự học nâng cao trình độ tin học trong toàn Chi nhánh. - Bám sát kế hoạch về phát triển công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam để có kết hoạch cụ thể tại Chi nhánh, đồng thời sát sao chỉ đạo thực hiện kế hoạch đó. - Chủ động và sáng tạo trong việc cụ thể hoá các chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước, của Ngành Ngân hàng về công nghệ thông tin trong hoàn cảnh cụ thể tại Chi nhánh. - Thực hiện tốt công tác nguồn nhân lực công nghệ thông tin tại Chi nhánh. Tạo điều kiện tối đa cho cán bộ công nghệ thông tin phát huy tính chủ động, sáng tạo trong công việc,có chính sách động viên khuyến khích kịp thời. 3.2.8. Đẩy mạnh phát triển công tác nghiên cứu khoa học tại Chi nhánh. Hoạt động nghiên cứu khoa học đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng bảo lãnh tại NHĐT & PT HN thông qua việc đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh. Chi nhánh đã tập trung nghiên cứu, hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ bảo lãnh mang tính đặc thù riêng, có tính cạnh tranh cao như Đề tài: “Xây dựng chương trình điện toán quản lý nghiệp vụ bảo lãnh” nhằm hoàn thiện quy trình bảo lãnh. Trong thời gian tới, để đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học phát triển hơn nữa, góp phần phục vụ nâng cao chất lượng bảo lãnh nói chung và bảo lãnh đối với doanh nghiệp xây lắp nói riêng, Chi nhánh cần gắn hoạt động nghiên cứu khoa học với hoạt động chuyên môn hoá nghiệp vụ bảo lãnh. Hoạt động bảo lãnh đòi hỏi sự đổi mới và phát triển thường xuyên. Hoạt động nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khoa học ứng dụng tại Chi nhánh nhằm đáp ứng yêu cầu đó, giải quyết vấn đề vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn trong kinh doanh. Đây vừa là nguyên nhân, vừa là động lực và vừa là nguồn nuôi dưỡng để phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học. 3.2.9. Đẩy mạnh công tác marketing, nâng cao uy tín của Ngân hàng. Hoạt động bảo lãnh là một nghiệp vụ tín dụng dựa trên uy tín và khả năng tài chính của Bên bảo lãnh, bởi vậy để phát triển hơn nữa nghiệp vụ bảo lãnh, Chi nhánh NHĐT & PT HN nhất thiết phải nâng cao hơn nữa uy tín và vị thế của mình trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, uy tín của Ngân hàng tăng cao sẽ giúp Ngân hàng tăng được doanh thu phí từ hoạt động thông báo bảo lãng; phát triển nghiệp vụ đồng bảo lãnh và tái bảo lãnh. Marketing Ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao uy tín của Chi nhánh. Để đẩy mạnh công tác marketing, Chi nhánh cần thực hiện một số giải pháp sau: - Nỗ lực trong việc tìm hiểu thị trường, triển khai các biện pháp, kế hoạch cụ thể, sát hợp thực tế đồng thời thông qua thực tiễn mà hoàn thiện những mặt tồn tại tạo ra nhu cầu dịch vụ để thu hút khách hàng. - Không thụ động chờ khách hàng đến mà phải chủ động đến với khách hàng. - Định kỳ hàng năm, Ngân hàng cần tiến hành nghiên cứu những đánh giá đối với các sản phẩm mà Ngân hàng cung cấp. Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, Ngân hàng cần xác định được khách hàng thực sự mong muốn gì và từ đó có khả năng định vị bản thân để cạnh tranh và phát triển dựa trên tiềm lực và khách hàng sẵn có bằng cách cung cấp các sản phẩm ngân hàng có nhu cầu nhiều nhất. - Chi nhánh cần giữ được chữ tín, đồng thời cộng tác kinh doanh cùng có lợi - Chi nhánh phải ở thế chủ động, nắm bắt những cơ hội từ các dự án lớn trong Quốc gia, khu vực và trên thế giới để đề nghị hợp tác đồng bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh. 3.2.10. Một số giải pháp khác. Với đặc thù hoạt động từ khi còn là ngân hàng cấp phát vốn xây dựng cơ bản, trong nhiều năm qua, hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã triển khai hỗ trợ vốn rất lớn đối với các đơn vị hoạt động thi công xây lắp, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo tiến độ thi công và đầu tư các dự án. Thực tế hoạt động đấu thầu, thi công và thanh quyết toán trong thời gian gần đây cho thấy, nhiều công trình các đơn vị thi công nhận thầu với giá dưới giá thành, khó có khả năng đảm bảo cân đối tài chính và chất lượng thi công; nhiều công trình vẫn được triển khai thi công trong khi chưa xác định được nguồn vốn và kế hoạch bố trí vốn từng năm đã dẫn đến việc kéo dài thời gian thanh quyết toán Để đảm bảo an toàn bảo lãnh thi công xây lắp trong tình hình mới, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc các nội dung dưới đây khi thực hiện bảo lãnh cho các đơn vị thi công xây lắp: - Chi nhánh chỉ bảo lãnh đối với các Hợp đồng thi công đã xác định, chứng minh được nguồn vốn thanh toán và nguồn vốn thanh toán phải được chuyển về tài khoản của khách hàng tại Chi nhánh. Ngân hàng chỉ bảo lãnh đối với phần khối lượng đã được phê duyệt thiết kế - dự toán, được xác định trong hợp đồng giao nhận thầu và đã có tiến độ thi công rõ ràng. Đối với các đơn vị đang thi công nhiều công trình, Chi nhánh mở sổ theo dõi đến từng công trình, đảm bảo bên được bảo lãnh thực hiện đúng mục đích, đúng công trình, đúng hợp đồng thi công đã được xác định. - Chi nhánh chủ động tiếp cận từng công trình, dự án ngay từ khi triển khai duyệt dự án, trong quá trình đấu thầu để xem xét cung cấp dịch vụ, phát hành bảo lãnh đối với các Hợp đồng thi công bảo đảm hiệu quả, cân đối được tài chính cho đơn vị thi công. Chỉ bảo lãnh đối với các đơn vị đủ điều kiện và năng lực thi công. - Định kỳ hàng quý, Chi nhánh tổ chức rà soát, phân tích đánh giá khả năng tài chính của từng đơn vị thi công xây lắp, làm rõ các khoản phải thu, công nợ của từng đơn vị và hiệu quả thi công để đánh giá đúng thực trạng tài chính, làm cơ sở điều chỉnh linh hoạt giới hạn bảo lãnh và chính sách khách hàng đối với từng đơn vị. Thường xuyên thực hiện kiểm tra vật tư bảo đảm và sử dụng tiền vay bảo đảm bảo lãnh được sử dụng đúng mục đích. - Tăng cường công tác thu thập thông tin thông qua nhiều kênh khác nhau như mua thông tin của Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC), trực tiếp phỏng vấn doanh nghiệp để kiểm tra sự trung thực của khách hàng. - Thống nhất với khách hàng về các tiêu thức lập báo cáo để có cách hiểu thống nhất. Yêu cầu khách hàng trong hợp đồng thi công ký kết phải đề cập rõ về nguồn vốn, lịch thanh toán… 3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng bảo lãnh đối với DNXL tại NHĐT & PT HN. 3.3.1. Kiến nghị đối với Quốc Hội. Quốc Hội chỉ đạo sửa đổi và hoàn chỉnh các bộ luật liên quan đến công chứng, thế chấp, sở hữu tài sản và các văn bản dưới luật về các vấn đề: cấp chứng thư sở hữu, chuyển nhượng, đăng ký, thế chấp, xác nhận thế chấp, đăng ký giao dịch bảo đảm… Bổ sung, sửa đổi Luật doanh nghiệp theo hướng quy định cụ thể danh mục tài sản cầm cố, thế chấp, các quy định cho phép Ngân hàng được xử lý tải sản đã được cầm cố, thế chấp cho Ngân hàng. Quốc Hội đưa vào chương trình xây dựng pháp luật việc tiến hành xem xét ban hành pháp lệnh về bảo lãnh, tiến tới xây dựng Luật bảo lãnh. Pháp lệnh hay Luật bảo lãnh phải thể hiện được những nôi dung cơ bản sau đây: - Những quy ước thống nhất do Phòng thương mại quốc tế ban hành, trực tiếp là ấn phẩm số 458 xuất bản năm 1978: Các quy tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu; ấn phẩm số 510 do ICC ban hành… Theo đó, phân tích rõ quyền lợi và nghĩa vụ của Bên bảo lãnh, Bên nhận bảo lãnh và Bên thứ ba nếu có. Những chế tài xử phạt và cơ quan giải quyết tranh chấp. - Những quy định trong Luật dân sự của nước ta, nội dung quy định về bảo lãnh và tái bảo lãnh. - Những nội dung có liên quan đến bảo lãnh trong Luật các TCTD. - Những quy định trong Nghị định giao dịch bảo đảm, Nghị định bảo đảm tiền vay, văn bản về cầm cố, thế chấp và bảo lãnh ngân hàng… - Những cam kết của Việt Nam trong Hiệp định thương mại Việt Mỹ, cam kết gia nhập WTO, AFTA… trong đó chú trọng đến những quy định về dich vụ tài chính, đến nghiệp vụ bảo lãnh theo thông lệ quốc tế. Theo đó, Luật hay Pháp lệnh về bảo lãnh càng chi tiết và cụ thể bao nhiêu càng tốt. Đồng thời dứt khoát phải đảm bảo thông lệ quốc tế trong nội dung văn bản pháp lý này. 3.3.2. Kiến nghị đối với Chính phủ và các Bộ, ngành. - Đẩy nhanh tiến độ sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước theo hướng tập trung phát triển các Tổng công ty và doanh nghiệp lớn, có mức vốn điều lệ ở mức trung bình trong khu vực, hoàn toàn có khả năng tự chủ về vốn trong kinh doanh. Đồng thời bằng mọi biện pháp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá, sắp xếp lại, giao bán khoán doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả để nguồn vốn Nhà nước có điều kiện tập trung phát triển những ngành nghề, lĩnh vực kinh tế trọng điểm. - Các giải pháp của Nhà nước cần tạo điều kiện cho việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước như giảm thuế lợi tức trong các năm đầu mới thực hiện cổ phần hoá, miễn lệ phí trước bạ cho các doanh nghiệp có tỷ lệ cổ phần bán ra ngoài công chúng cao, ưu tiên tín dụng cho các doanh nghiệp cổ phần, đẩy mạnh phát triển thị trường chứng khoán, tiếp tục phát triển và hoàn chỉnh thị trường tiền tệ, thị trường vốn và thị trường tài chính. - Bộ Tài chính cần chỉ đạo và Tổng cục thuế cần tổ chức tốt việc kiểm tra buộc các doanh nghiệp hạch toán theo đúng pháp lệnh kế toán thống kê, đảm bảo số liệu tài chính xuất trình cho Ngân hàng là trung thực, chính xác. - Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành cần thực hiện nghiêm túc quy chế đấu thầu thực hiện hợp đồng theo thông lệ quốc tế, đảm bảo chắc chắn các công trình gọi thầu có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đúng tiến độ, tránh chậm trễ do thiếu ngân sách hay chậm thanh toán. - Tháo gỡ khó khăn cho NHTM trong trường hợp bảo lãnh cho một doanh nghiệp vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng. Trước mắt, có thể áp dụng đối với các công trình, dự án lớn mang tính chất trọng điểm quốc gia và các dự án được đánh giá là có hiệu quả kinh tế xã hội cao. - Có các giải pháp để xử lý đối với các khoản thế chấp bằng bất động sản của doanh nghiệp Nhà nước, các vướng mắc trong thế chấp đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Có chính sách thuế và BHXH đối với doanh nghiệp Nhà nước còn nợ trong lĩnh vực xây lắp do các doanh nghiệp thường bị thanh toán chậm, nhỏ giọt trong nhiều năm trong khi các doanh nghiệp này vẫn phải nộp BHXH và thuế đầy đủ. - Cần có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đứng ra làm tổng thầu khi có đủ năng lực. Hiện nay, các Nhà thầu Việt Nam, đặc biệt là các Tổng công ty có đủ năng lực thi công nhưng vẫn đang phải làm thầu phụ cho các Nhà thầu nước ngoài nên dẫn đến quyền lợi cho các doanh nghiệp bị thua thiệt, uy tín bị hạn chế. Bên cạnh đó cần có quy chế, có thể là quy định mức giá sàn, không để cho các doanh nghiệp trong nước bỏ thầu quá thấp dẫn tới thua lỗ hoặc thực hiện hợp đồng kéo dài, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng các khoản bảo lãnh dự thầu, hay bảo lãnh thực hiện hợp đồng xây dựng. - Có cơ chế để thành lập các liên doanh, liên kết Ngân hàng – Nhà thầu để đảm bảo sức mạnh cho các Nhà thầu (Nhà thầu có khả năng thi công, ngân hàng cung cấp tài chính, dịch vụ) từ đó khẳng định vị trí của các Nhà thầu Việt Nam trên trường quốc tế. - Có cơ chế, chính sách mạnh mẽ hơn trong giải phóng mặt bằng thi công các dự án hay hình thành các khu công nghiệp, tạo điều kiện cho dự án thi công đúng tiến độ, đúng hợp đồng, các doanh nghiệp triển khai trong khu công nghiệp đúng thời hạn. - Trong luật doanh nghiệp quy định về việc thành lập DNXL ngoài vốn điều lệ cần cho thêm những chỉ tiêu về giá trị TSCĐ của DNXL để tránh việc thành lập những DNXL ma hoặc những doanh nghiệp chuyên đấu thầu sử dụng quan hệ để trúng thầu và bán gói thầu cho một doanh nghiệp khác thi công, làm giảm chi phí thực tế cho công trình, ảnh hưởng tới chất lượng công trình. 3.3.3 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. ● Phát triển Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC). Hệ thống thông tín dụng sử dụng hiệu ứng “đẩy” và hiệu ứng “chặn” để thu hẹp phạm vi lựa chọn khách hàng tín dụng cũng như để giải quyết vấn đề về rủi ro đạo đức. Với hiệu ứng chặn, nó giúp ngăn chặn những khách hàng xấu trong việc tiếp cận tín dụng ngân hàng. Với hiệu ứng đẩy thì ngược lại, nó giúp các khách hàng tốt có nhiều cơ hội tiếp cận với tín dụng ngân hàng với mức chi phí hợp lý. Đặc biệt nó hỗ trợ đắc lực cho việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuyển đổi cơ cấu người vay từ khu vực không chính thức sang khu vực chính thức. Như vậy, CIC hoạt động hiệu quả sẽ góp phần nâng cao chất lượng bảo lãnh - một loại hình tín dụng ngân hàng. Trong thời gian qua, CIC đã mang lại nhiều thành tựu. Tuy nhiên trong thời gian tới NHNN cần thực hiện những giải pháp sau: - Củng cố đội ngũ cán bộ, áp dụng công nghệ mới, hiện đại hoá và tự động hoá tất cả công đoạn xử lý nghiệp vụ để tạo ra nhiều sản phẩm thông tin; đẩy mạnh việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin nhằm hỗ trợ có hiệu quả cho hoạt động của các tổ chức tín dụng và phục vụ cho hoạt động giám sát của NHNN. Đồng thời đi sau phân tích, đánh giá xếp loại tín dụng doanh nghiệp, kịp thời dự báo, cảnh báo nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. - Thanh tra NHNN Chi nhánh Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương cùng CIC phối hợp đôn đốc, kiểm tra việc báo cáo, khai thác thông tin của các TCTD, đồng thời có biện pháp xử lý kiên quyết, kịp thời đối với những đơn vị vi phạm chế độ báo cáo thông tin tín dụng. - Giảm chi phí khai thác thông tin để khuyến khích các TCTD tìm kiếm thông tin về khách hàng thông qua CIC. Đối với các quy định hiện hành về bảo lãnh, trường hợp khách hàng ký quỹ 100% giá trị bảo lãnh thì yêu cầu thủ tục, hồ sơ đơn giản hơn. Hoặc NHTM có thể căn cứ đề nghị của khách hàng để phát hành thư bảo lãnh, chứ không cần phải qua các thủ tục như Quy chế bảo lãnh hiện hành. Trong quá trình thanh tra, NHNN cần chấp nhận cho NHTM thực hiện đúng các yêu cầu an toàn trong nghiệp vụ bảo lãnh ● Có văn bản chỉ đạo và hướng dẫn các NHTM thực hiện hạch toán các khoản bảo lãnh trong nội bảng cân đối tài chính, để phản ánh đúng thực chất hơn và có biện pháp phòng ngừa rủi ro. Không nên để đến khi khách hàng không trả được thì mới hạch toán vào nội bảng. ● Nâng cao chất lượng công tác thanh tra giám sát nói chung và thanh tra giám sát nghiệp vụ bảo lãnh nói riêng. Bởi vì nghiệp vụ này khá phức tạp và đã gây lơi lỏng, ít được chú ý như nghiệp vụ tín dụng. 3.3.4. Kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. - Cho phép các Chi nhánh cấp một thành lập phòng bảo lãnh chuyên trách do trong thời gian tới, cùng với chiến lược tăng vốn điều lệ của Ngân hàng, thẩm quyền phê duyệt bảo lãnh của Chi nhánh cấp một cũng được nâng lên. Việc thành lập Phòng bảo lãnh là một tất yếu khách quan. - Thường xuyên tổ chức những lớp tập huấn ngắn hạn đến dài hạn cho cán bộ Chi nhánh, không những đào tạo trong nước mà còn cử đi học tập ở nước ngoài. Tổ chức các buổi tọa đàm, mời các chuyên gia nước ngoài đến để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm. Cần có chính sách tiền lương, đãi ngộ hợp lý tránh tình trạng chảy máu chất xám. - Cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ tại các Chi nhánh để hoạt động bảo lãnh được diễn ra một cách an toàn. Đưa vào ứng dụng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, đồng bộ. Tạo điều kiện cho Chi nhánh mở rộng hoạt động, mở rộng quan hệ với các ngân hàng khác với các hợp đồng bảo lãnh lớn, thời hạn bảo lãnh dài. 3.3.5. Kiến nghị đối với Chủ đầu tư (Bên A) và Nhà thầu (Bên B). ● Đối với Chủ đầu tư (Bên A). Việc đấu thầu cần theo đúng quy định của pháp luật để đảm bảo tính khách quan, tính hiệu quả và quyền lợi cho các Nhà thầu đủ năng lực và công trình có chất lượng. Trong hồ sơ mời thầu cần quy định năng lực, uy tín của Ngân hàng phát hành bảo lãnh để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mình. Nội dung của các thư bảo lãnh trong hồ sơ mời thầu cần đáp ứng các quy định theo quy chế đấu thầu của Nhà nước, theo thông lệ quốc tê, cụ thể cần đề cập và làm rõ các yếu tố sau: Số tiền bảo lãnh. Thời gian (thời hạn) hiệu lực của thư bảo lãnh. Các điều khoản vi phạm, trả tiền. - Cần xác định rõ tuần tự các bước bảo lãnh: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh đảm bảo chất lượng công trình. ● Đối với Nhà thầu (Bên B). Các Nhà thầu cần có quan hệ hợp tác với nhau để tránh hiện tượng phá giá làm thiệt hại cho các Nhà thầu. Thực hiện các quy định của pháp luật trong quản lý xây dựng cơ bản: quy chế đấu thầu, quy chế bảo hành công trình… Cần tìm hiểu kỹ các điều kiện hợp đồng, nghĩa vụ do Chủ đầu tư yêu cầu. Nếu phát hiện yêu cầu của Chủ đầu tư quá “khắt khe” thì nên trao đổi, làm rõ. Cần lựa chon ngân hàng để phát hành bảo lãnh: - Có tiềm lực tài chính vững mạnh, dịch vụ đầy đủ, trọn gói để phục vụ doanh nghiệp thi công khi trúng thầu. - Có kinh nghiệm, uy tín để tạo sự tin tưởng cho Chủ đầu tư, nâng cao khả năng trúng thầu. - Có hiểu biết về xây dựng, có thủ tục, trình tự bảo lãnh rõ ràng, khoa học. Đội ngũ cán bộ có năng lực, nhiệt tình và có khả năng tư vấn tốt. - Có quan hệ đại lý và quan hệ thanh toán với các ngân hàng quốc tế có uy tín để xử lý nghiệp vụ bảo lãnh cho các đối tác liên doanh, liên danh, đồng thời có khả năng tìm hiểu,cung cấp thông tin về các đối tác nước ngoài. KẾT LUẬN Bảo lãnh là một nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, cho đến nay nó dần khẳng định tầm quan trọng với bản thân ngân hàng cũng như với toàn bộ nền kinh tế. Nằm trong hoạt động kinh doanh chung của ngân hàng, bảo lãnh có ảnh hưởng rất nhiều đến các dịch vụ khác của ngân hàng và chúng có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Nếu nghiệp vụ bảo lãnh được thực hiện tốt một mặt nó thúc đẩy các hoạt động khác của ngân hàng phát triển, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của ngân hàng trên thị trường, một mặt nó làm tăng thu nhập cho ngân hàng thông qua phí bảo lãnh. Nói cách khác, bảo lãnh là chất xúc tác quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế. Do đó, phát triển và nâng cao chất lượng bảo lãnh nói chung và bảo lãnh đối với doanh nghiệp xây lắp nói riêng là một trong những định hướng phát triển của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO, các DNXL sẽ có nhiều cơ hội phát triển và thách thức cũng không nhỏ với sự xuất hiện của các DNXL nước ngoài, tạo ra nhu cầu lớn bảo lãnh cho lĩnh vực này. NHĐT & PT HN cần nắm bắt được xu thế mới xây dựng cho mình một chiến lược nâng cao chất lượng bảo lãnh linh hoạt và thích hợp với từng giai đoạn phát triển, xây dựng một chiến lược marketing đồng bộ nhằm đa dạng hoá đối tượng khách hàng , một chính sách phí bảo lãnh hợp lý…Giải pháp trước mắt là NHĐT & PT HN cần phải xây dựng uy tín của mình không chỉ đối với DNXL Việt Nam mà cả nước ngoài thông qua sự nỗ lực không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ và công nghệ của Ngân hàng. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Quản trị Ngân hàng thương mại,NXB Taì Chính 2001 2. Nguyễn Thái Cẩn, Quản lý tài chính trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. 3. Trần Đức Dục, Nguyễn Quang Vinh, Tổ chức sản xuất và tổ chức bộ máy quản lý xí nghiệp xây lắp. 4. Nguyễn Xuân Khương, Đào Nguyên Vinh, Phân tích thống kê hoạt động kinh tế của xí nghiệp xây lắp. 5. Lê Hồng Tâm,Thực trạng bảo lãnh tại các NHTM Nhà nước, Tạp chí Ngân hàng, số chuyên đề tháng 6/2003. 6. Lê Hông Tâm, Bàn thêm về vai trò, chức năng của bảo lãnh ngân hàng, Tạp chí Ngân hàng, số 10 tháng 7/2003. 7. Lê Hồng Tâm, các hình thức và nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, Tạp chí Ngân hàng, số 4 tháng 7+8 năm 2003. 8. Trần Bùi Quốc Huệ, Nhận diện rủi ro trong bảo lãnh xây dựng và giải pháp phòng ngừa, Tạp chí Ngân hàng. số 8 năm 2008. 9. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam,Quyết định 9488/QĐ-TD3, Quyết định ban hành Chính sách khách hàng. 10. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Công văn 6676/CV-TD1, Tiếp tục tăng cường chấn chỉnh công tác tín dụng trong lĩnh vực xây lắp. Phụ lục Mức xếp hạng khách hàng Theo hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của BIDV thì khách hàng được xếp hạng theo các mức sau: STT Mức xếp hạng Ý nghĩa 1 AAA Đây là khách hàng có mức xếp hạng cao nhất. Khả năng hoàn trả khoản vay của khách hàng được xếp hạng này là đặc biệt tốt. 2 AA Khách hàng xếp hạng AA có năng lực trả nợ không kém nhiều so với khách hàng được xếp hạng AAA. Khả năng hoàn trả khoản nợ của khách hàng được xếp hạng này là rất tốt. 3 A Khách hàng xếp hạng A có thể có nhiều khả năng chịu tác động tiêu cực của các yếu tố bên ngoài và các điều kiện kinh tế hơn các khách hàng được xếp hạng cao hơn. Tuy nhiên khả năng trả nợ vẫn được đánh giá là tốt. 4 BBB Khách hàng xếp hạng BBB có các chỉ số cho thấy khách hàng hoàn toàn có khả năng hoàn trả đầy đủ các khoản nợ. Tuy nhiên, các điều kiện kinh tế bất lợi và sự thay đổi của các yếu tố bên ngoài có nhiều khả năng hơn trong việc làm suy giảm khả năng trả nợ của khách hàng. 5 BB Khách hàng xếp hạng BB ít có nguy cơ mất khả năng trả nợ hơn các nhóm từ B đến D. Tuy nhiên, các khách hàng này đang phải đối mặt với nhiều rủi ro tiềm ẩn hoặc các ảnh hưởng từ các điều kiện kinh doanh, tài chính và kinh tế bất lợi,các ảnh hưởng này có khả năng dẫn đến sự suy giảm khả năng trả nợ của khách hàng 6 B Khách hàng xếp hạng B có nhiều nguy cơ mất khả năng trả nợ hơn các khách hàng nhóm BB. Tuy nhiên, hiện thời khách hàng vẫn có khả năng hoàn trả khoản vay. Các điều kiện kinh doanh, tài chính và kinh tế nhiều khả năng ảnh hưởng đến khả năng và thiện chí trả nợ của khách hàng. 7 CCC Khách hàng xếp hạng CCC hiện thời đang bị suy giảm khả năng trả nợ, khả năng trả nợ của khách hàng phụ thuộc vào độ thuận lợi của các điều kiện kinh doanh, tài chính và kinh tế. Trong trương hợp có các yếu tố bất lợi xảy ra, khách hàng có nhiều khả năng không trả được nợ. 8 CC Khách hàng xếp hạng CC hiện thời đang suy giảm nhiều khả năng trả nợ. 9 C Khách hàng xếp hạng C trong trường hợp đã thực hiện các thủ tục xin phá sản hoặc có các động thái tương tự nhưng việc trả nợ của khách hàng vẫn đang được duy trì. 10 D Khách hàng xếp hạng D trong trường hợp đã mất khả năng trả nợ, các tổn thất đã thực sự xảy ra; không xếp hạng D cho các khách hàng mà việc mất khả năng trả nợ mới chỉ là khả năng, dự kiến. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33196.doc
Tài liệu liên quan