Mục lục
Bảng ký hiệu viết tắt
CN : Chi nhánh
NHCT : Ngân hàng Công thương
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHNN : Ngân hàng nhà nước
TƯ : Trung ương
TPTD : Trưởng phòng tín dụng
CBTD : Cán bộ tín dụng
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
XD : Xây dựng
CTGT : Công trình giao thông
LN : Lợi nhuận
DPRR : Dự phòng rủi ro
Lời mở đầu
Trong xu thế chung của đất nước là hội nhập và toàn cầu hóa, các hoạt động kinh tế đang ngày càng sôi động và đi
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kèm với nó là sự mở rộng của những giao dịch thương mại cả về hình thức cũng như về quy mô. Tuy nhiên, khi giao dịch nhất là giao dịch quốc tế, giữa các bên thường gặp khó khăn khi tìm hiểu thông tin về đối tác nên không thể có sự tin tưởng để ký hợp đồng. Nhưng khó khăn này hoàn toàn có thể khắc phục được bằng dịch vụ bảo lãnh ngân hàng. Ngân hàng với uy tín của mình sẽ đứng ra cam kết cho bên thứ ba rằng khách hàng được bảo lãnh của mình sẽ thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận, ngân hàng sẽ thanh toán số tiền bảo lãnh cho bên thứ ba nếu khách hàng không thực hiện nghĩa vụ của mình.
Hiện nay, dịch vụ bảo lãnh đang là một dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao và có vị trí quan trọng so với các dịch vụ khác của ngân hàng. Thứ nhất, vì đây là một dịch vụ mới xuất hiện từ nảy sinh do nhu cầu trong hoạt động kinh tế, do đó dịch vụ này đang ở trong thời kỳ tăng trưởng theo chu kỳ sống của sản phẩm, dịch vụ. Thứ hai, dịch vụ này đem lại nhiều lợi ích cho ngân hàng hơn là chi phí phải bỏ ra, các ngân hàng rất mong muốn thực hiện dịch vụ này để đem lại nguồn thu lớn cho mình. Tuy nhiên, sự cạnh tranh đang trở nên gay gắt giữa các tổ chức tài chính đã buộc các ngân hàng phải chủ động tìm cách nâng cao chất lượng dịch vụ nói chung và chất lượng dịch vụ bảo lãnh nói riêng. Việc nâng cao chất lượng dịch vụ giờ đây đã trở thành vấn đề “sống còn” của các ngân hàng thương mại, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Căn cứ vào tình hình kinh tế, thực trạng hoạt động của ngành ngân hàng, và qua quá trình thực tập ở CN NHCT Đống Đa, em đã quyết định chọn đề tài chuyên đề tốt nghiệp là: ”Nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa” .
Chuyên đề được nghiên cứu theo những mục tiêu là tìm hiểu những lý luận chung về chất lượng bảo lãnh của NHTM; căn cứ vào lý luận chung để phân tích, đánh giá về thực trạng chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa và đưa ra những giải pháp để nâng cao chất lượng bảo lãnh của CN trong thời gian tới. Các phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong chuyên đề là phương pháp nghiên cứu của nghĩa duy vật biện chứng, kết hợp với các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp,…
Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
Chương 1: Chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
1.1.Bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
1.1.1.Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1.1.Đặc trưng của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một tổ chức có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, theo thời gian các ngân hàng ngày càng thay đổi cả về hình thức và bản chất nên rất khó khăn để hiểu ngân hàng là gì. Những ngân hàng hiện đại giờ đây đã khác biệt nhiều so với những ngân hàng cổ xưa. Những ngân hàng đầu tiên trên thế giới ra đời từ nhu cầu cần đổi tiền của các nhà buôn. Ngân hàng giúp các nhà buôn đến thành phố đổi ngoại tệ lấy bản tệ và chiết khấu thương phiếu để có vốn kinh doanh. Nhiều nhà buôn thừa vốn có nhu cầu gửi tiền lại cho các ngân hàng để đảm bảo an toàn, ngược lại có những nhà buôn thiếu tiền có nhu cầu vay ngân hàng. Từ đó, ngân hàng thu hút tiền gửi và cho vay ra đời. Sự phát triển của thương mại thế giới đã kéo theo sự ra đời các phương thức thanh toán và tín dụng mới. Hệ thống ngân hàng đã nhanh chóng phát triển thêm nhiều nghiệp vụ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao như nghiệp vụ lưu giữ đảm bảo các vật có giá, thanh toán bằng các giấy chứng nhận giá trị. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng đang ngày càng “lấn sân” sang lĩnh vực của các ngân hàng thương mại và trở nên giống với ngân hàng thương mại hơn. Vì vậy, định nghĩa về ngân hàng thương mại khó có thể được thống nhất chung. Dưới đây là hai trong rất nhiều các định nghĩa về ngân hàng thương mại đã được nêu ra, mỗi định nghĩa đều được tiếp cận trên một khía cạnh riêng của ngân hàng thương mại.
Tiếp cận trên phương diện các dịch vụ NHTM cung cấp: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.”
Dựa trên các hoạt động chủ yếu của ngân hàng:”Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán.” (Luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Chức năng của NHTM
- Chức năng trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Ngân hàng có chức năng dẫn xuất vốn cho hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế đó là: các cá nhân, tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu và các cá nhân, tổ chức thặng dư trong chi tiêu.
Ngân hàng thực hiện chức năng trung gian tài chính thông qua hai hoạt động huy động vốn và cho vay. Đây là chức năng chính của ngân hàng. Ngân hàng sinh ra để khắc phục sự không hoàn hảo sẵn có của hệ thống tài chính. Khi quan hệ tín dụng trực tiếp trở nên không phù hợp với nhau tức là người thừa vốn không thể trực tiếp cho người thiếu vốn vay, có thể do nhiều nguyên nhân như thông tin không cân xứng, rủi ro đạo đức hay sự không phù hợp về quy mô vốn, thời gian, địa điểm. Ngân hàng là giải pháp hữu hiệu nhất để khắc phục được những hạn chế của tín dụng trực tiếp.
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện chức năng chuyển hoán kỳ hạn, vì những người thặng dư vốn thường mong muốn cho vay trong một thời gian ngắn để hạn chế rủi ro trong khi những người muốn vay vốn lại thường yêu cầu thời gian vay dài. Khi đó, ngân hàng sẽ lấy một phần nguồn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Ngân hàng có thể thực hiện được điều này là do lượng vốn mà ngân hàng huy động được là rất lớn, hàng ngày có rất nhiều người gửi tiền vào ngân hàng và do tiền không có tính ghi danh nên ngân hàng có thể lấy những khoản tiền gửi này để trang trải cho những khoản thanh toán đến hạn. Tất nhiên, ngân hàng chỉ được phép sử dụng một phần nhất định nguồn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn, ngoài ra ngân hàng còn phải dự trữ bắt buộc để đảm bảo an toàn cho những người gửi tiền, đây là khoản tiền dự phòng trong trường hợp ngân hàng bị mất khả năng thanh toán.
- Chức năng tạo phương tiện thanh toán
Ngân hàng thực hiện chức năng tạo tiền thông qua hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt và cho vay. Khi các khách hàng có số dư trên tài khoản tiền gửi họ có thể chi trả mua sắm hàng hóa thông qua thẻ hoặc phát séc, séc cũng có giá trị tương đương như tiền mặt. Đồng thời tiền mà người đó gửi vào ngân hàng cũng được ngân hàng sử dụng vào việc đầu tư và cho vay. Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Như vậy, từ một lượng tiền gửi của khách hàng, ngân hàng đã nhân số tiền đó lên nhiều lần.
- Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng được coi là trung gian thanh toán lớn nhất trên hầu hết các quốc gia. Trong các nền kinh tế phát triển tiền mặt ít khi được lưu thông, người dân chủ yếu sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng. Ngân hàng sẽ thay mặt khách hàng thanh toán những khoản chi trả cho hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, ngân hàng thường không phải chi trả tiền mặt trực tiếp cho người bán mà thông qua thanh toán điện tử liên ngân hàng để ghi tăng tài khoản tiền gửi cho người bán ở ngân hàng khác. Như vậy, tiền mặt không hề ra ngoài lưu thông, quá trình thanh toán là một vòng giao dịch khép kín giữa các ngân hàng. Vì vậy, người ta thường đánh giá trình độ phát triển của nền kinh tế thông qua lượng tiền mặt được sử dụng trong lưu thông. Để việc thanh toán nhanh chóng thuận tiện và tiết kiệm chi phí thì ngân hàng có thể đưa ra nhiều dịch vụ thanh toán cho khách hàng lựa chọn như : thanh toán bằng ủy nhiệm chi, séc, nhờ thu, các loại thẻ, …
1.1.1.2. Dịch vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại
Dịch vụ trao đổi ngoại tệ
Dịch vụ trao đổi ngoại tệ là một trong những dịch vụ đầu tiên của ngân hàng. Trao đổi ngoại tệ là việc ngân hàng đổi một loại tiền này để lấy một loại tiền khác. Dịch vụ này rất quan trọng đối với khách du lịch, bởi vì có đồng bản tệ trong tay sẽ giúp họ thuận tiện hơn trong thanh toán. Tuy nhiên, hiện nay dịch vụ này đã phát triển đến một mức cao hơn trong các ngân hàng đó là kinh doanh ngoại tệ và các hợp đồng ngoại tệ phái sinh. Thông thường, việc kinh doanh ngoại tệ và cung cấp các hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai, kỳ hạn chỉ do các ngân hàng lớn thực hiện, bởi vì hoạt động này có rủi ro rất cao và đòi hỏi trình độ chuyên môn, kinh nghiệm của người kinh doanh.
Dịch vụ thanh toán
Đây là dịch vụ trong đó ngân hàng cung cấp cho khách hàng các tài khoản tiền gửi giao dịch, là loại tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ trong phạm vi số dư tiền gửi. Tuy nhiên, hiện nay ngân hàng còn phát triển loại hình dịch vụ này hơn nữa, ngân hàng có thể cho khách hàng chi tiêu vượt quá số dư tiền gửi của mình ở một mức nhất định, đó gọi là thấu chi. Thấu chi là sự kết hợp của dịch vụ cho vay và thanh toán, khi khách hàng đã tiêu vượt ra khỏi số dư tiền gửi của mình tức là khách hàng bắt đầu vay ngân hàng. Phần chênh lệch giữa số tiền chi ra và số dư tiền gửi của khách hàng chính là nợ vay ngân hàng và bị tính lãi như một khoản vay thông thường.
Dịch vụ cho vay
Hoạt động cho vay luôn là hoạt động mang lại nguồn thu chính cho ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng rất chú trọng đến việc phát triển dịch vụ cho vay của mình. Dịch vụ cho vay hiện nay đã được các ngân hàng phát triển rất đa dạng, với nhiều hình thức mới mẻ. Tuy nhiên, về bản chất dịch vụ cho vay có thể được phân loại thành các dịch vụ sau:
- Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại
Chiết khấu thương phiếu là một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên. Chiết khấu thương phiếu thực chất là việc ngân hàng mua lại các khoản phải thu của những người bán nhằm đáp ứng nhu cầu cần tiền cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Sau một thời gian nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu được mở rộng và phát triển thành hình thức cho vay trực tiếp. Những người bán có thể cầm cố các thương phiếu hoặc các tài sản có giá trị khác để vay tiền từ ngân hàng. Khi đến hạn trả nợ, những người bán sẽ trả gốc và lãi cho ngân hàng và nhận lại vật thế chấp, cầm cố.
- Cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng có nhiều nhược điểm so với cho vay thương mại như khoản vay tiêu dùng thường có quy mô rất nhỏ, thời hạn vay lại khá dài, thời gian thu hồi nợ cao, rủi ro vỡ nợ tương đối cao khiến cho mức sinh lời thấp. Ngoài ra, khoản vay tiêu dùng có mục đích để mua sắm, tiêu dùng cho nhu cầu cá nhân của người vay, không trực tiếp sinh ra nguồn tiền trả nợ cho ngân hàng, nguồn trả nợ cho khoản vay tiêu dùng chỉ căn cứ vào thu nhập trong tương lai của người tiêu dùng. Do vậy, trước đây không có nhiều ngân hàng chú trọng thực hiện dịch vụ này. Tuy nhiên, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường tài chính đã buộc các ngân hàng phải hướng tới những người tiêu dùng như những đối tượng khách hàng tiềm năng của mình. Hiện nay, dịch vụ cho vay tiêu dùng đã được phát triển ở hầu hết các ngân hàng và đang là một trong những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng cao nhất. Người tiêu dùng sẽ tiếp tục không chỉ cung cấp nguồn vốn kinh doanh quan trọng cho ngân hàng mà còn tạo ra một nguồn thu nhập quan trọng cho ngân hàng.
- Cho vay dự án
Đặc điểm của cho vay dự án là quy mô khoản vay lớn, thời gian vay dài nhưng lãi suất cao, thường đem lại cho ngân hàng nguồn lãi lớn. Các ngân hàng thường cho vay các dự án của doanh nghiệp như dự án xây dựng nhà máy, mua sắm tài sản cố định,… Nguồn trả nợ cho ngân hàng là nguồn tiền thu được từ việc bán hàng hóa dịch vụ của doanh nghiệp. Cho vay dự án là nghiệp vụ phức tạp đòi hỏi công tác thẩm định và quản lý khoản vay chặt chẽ. Do đặc điểm của khoản vay dự án là quy mô lớn nên ngân hàng thường tiến hành thu hồi gốc và lãi làm nhiều kỳ thay vì thu hồi lãi và gốc một lần vào cuối kỳ, lãi sẽ tính theo số dư gốc thực tế mà doanh nghiệp đang vay ngân hàng. Cách thu hồi nợ như vậy đã làm giảm kỳ hạn thực tế của khoản vay và là một biện pháp giảm bớt rủi ro do kỳ hạn món vay cho ngân hàng.
- Bảo lãnh (financial guarantees)
Bảo lãnh mặc dù là tài sản ngoại bảng nhưng vẫn được coi là một hình thức cho vay của ngân hàng. Thông qua bảo lãnh ngân hàng đã gián tiếp tài trợ cho khách hàng, một khoản bảo lãnh cũng chứa nhiều rủi ro như các khoản vay thông thường khác.
- Cho thuê tài chính (leasing)
Cho thuê tài chính là dịch vụ ngân hàng tiến hành cho các doanh nghiệp thuê các thiết bị trong một thời gian dài theo yêu cầu của khách hàng. Khi khách hàng cần có thiết bị giá trị lớn để hoạt động nhưng không muốn bỏ tiền ra mua thiết bị, doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng và sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính. Ngân hàng sẽ bỏ tiền ra mua thiết bị đó và cho doanh nghiệp thuê lại. Khi hết thời hạn thuê khách hàng có thể mua lại thiết bị đó do ngân hàng thanh lý. Đặc điểm của cho thuê tài chính là giá thuê và thời gian thuê phải đảm bảo sao cho khách hàng đã trả tối thiểu cho ngân hàng 2/3 giá trị của tài sản thuê.
Dịch vụ nhận tiền gửi
Dịch vụ nhận tiền gửi bao gồm rất nhiều loại như tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi và kỳ phiếu. Dịch vụ nhận tiền gửi là dịch vụ quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại và cũng là dịch vụ chịu sự kiểm soát chặt chẽ nhất. Dịch vụ này tạo ra nguồn vốn kinh doanh chủ yếu cho ngân hàng đồng thời cũng thể hiện tính chất xã hội của hoạt động ngân hàng. Bởi vì, dịch vụ nhận tiền gửi có đối tượng khách hàng hầu hết là dân cư trong xã hội, nó đáp ứng nhu cầu cất giữ tiền an toàn và sinh lợi của người dân. Nếu ngân hàng mất khả năng thanh toán những khoản tiền gửi của nhân dân, nó sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng lớn và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Vì vậy, để có thể huy động tiền gửi của dân cư các ngân hàng bắt buộc phải tham gia bảo đảm tiền gửi theo quy định của ngân hàng nhà nước, đó sẽ là nguồn thanh toán cho những người gửi tiền khi ngân hàng mất khả năng thanh toán.
Dịch vụ quản lý ngân quỹ
Dịch vụ quản lý ngân quỹ hay còn gọi là quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh. Ngân hàng có thể đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Dịch vụ bảo quản vật có giá
Trong ngân hàng, dịch vụ bảo quản vật có giá được phân thành hai loại khác nhau là cho thuê két sắt bảo quản ký thác và bảo quản an toàn các giấy tờ có giá:
- Cho thuê két sắt bảo quản ký thác
Đây là dịch vụ mà khách hàng có quyền kiểm tra tài sản có giá của mình vào bất cứ thời điểm nào. Các ngân hàng chỉ đơn thuần cung cấp kho bảo quản, két sắt và các phương tiện cần thiết khác cho các hoạt động bảo quản. Chỉ có những người trực tiếp thuê két sắt hoặc đại diện có thẩm quyền mới được ngân hàng cho phép vào kho bảo quản nhằm đảm bảo an toàn tài sản cho khách hàng.
- Bảo quản an toàn các giấy tờ có giá
Đây là dịch vụ mà ngân hàng làm nhiệm vụ quản lý các giấy tờ có giá và các chứng từ khác có liên quan giống như hình thức đại lý cho khách hàng. Việc bảo quản vật có giá liên quan trực tiếp đến việc bảo quản các chứng khoán như trái phiếu và cổ phiếu được giữ lại làm thế chấp đối với các khoản nợ vay cùng với các chứng khoán được bảo quản theo chức năng làm nghiệp vụ ủy thác.
Vì tính chất quan trọng và để đảm bảo uy tín đặc biệt với khách hàng thường chỉ có các ngân hàng lớn mới thực hiện được những dịch vụ này, bởi vì những ngân hàng lớn mới có điều kiện để hình thành các kho riêng biệt, an toàn và chắc chắn. Trong thực tế, các tổ chức tài chính và phi tài chính thường sử dụng dịch vụ bảo quản các vật có giá của ngân hàng để bảo quản cho các chứng khoán nợ của mình. Ngoài ra, ngân hàng còn làm thêm nhiệm vụ thu lãi chứng khoán và tự động chuyển lãi đó vào tài khoản của những người sở hữu chứng khoán khi được yêu cầu.
Dịch vụ ủy thác, tư vấn và môi giới đầu tư chứng khoán
- Dịch vụ ủy thác (trust services)
Ủy thác là việc ngân hàng thay mặt người ủy thác quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại. Với dịch vụ ủy thác, các ngân hàng có trách nhiệm sử dụng vốn ủy thác để đầu tư, quản lý số vốn này và phân phối thu nhập từ việc đầu tư khoản tiền đó theo các điều khoản của hợp đồng ủy thác. Dịch vụ ủy thác còn bao gồm nhiều dịch vụ như ủy thác cho vay hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư, quản lý tiền hưu trí và phân chia lợi tức. Đối với các công ty có thể sử dụng một số dạng dịch vụ ủy thác như yêu cầu ngân hàng làm đại lý phát hành trái phiếu, làm đại lý thanh toán và giữ sổ theo dõi các trái phiếu đó cho các công ty.
- Tư vấn tài chính
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính nên các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia tài chính. Nhiều ngân hàng đã tận dụng lợi thế này để cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính cho khách hàng tạo ra thêm nguồn thu cho ngân hàng. Ngân hàng có thể tư vấn cho doanh nghiệp về nhiều vấn đề như quản lý tài chính, thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
- Môi giới đầu tư chứng khoán
Trong thời gian gần đây nhiều ngân hàng đang hướng tới mục tiêu trở thành một “bách hóa tài chính”, đáp ứng được mọi nhu cầu tài chính của khách hàng. Vì vậy các ngân hàng đang ngày càng lấn sâu sang lĩnh vực chứng khoán đặc biệt là hoạt động môi giới đầu tư chứng khoán. Các ngân hàng có thể lập ra các công ty chứng khoán trực thuộc để tiến hành hoạt động môi giới đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp hơn và cũng để đối phó với những quy định khắt khe của Nhà nước về hoạt động ngân hàng.
Cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý
Hiện nay cùng với quá trình toàn cầu hóa hoạt động giao dịch thương mại đã vượt ra khỏi biên giới nhỏ hẹp của các quốc gia. Luồng vốn và luồng hàng hóa, dịch vụ đang từng giờ lưu chuyển trên khắp thế giới, từ khu vực này sang khu vực khác. Tuy nhiên, các ngân hàng do nguồn lực có hạn không thể mở chi nhánh, văn phòng ở tất cả các nơi trên thế giới. Dịch vụ ngân hàng đại lý ra đời xuất phát từ nhu cầu cần một ngân hàng ở nước ngoài thay thế phục vụ khách hàng của ngân hàng ở trong nước. Các dịch vụ ngân hàng đại lý thường là phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, thanh toán hộ, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ,…
1.1.2. Dịch vụ bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Tổng quan về bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng là loại hình dịch vụ tương đối mới so với các dịch vụ ngân hàng thương mại khác. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, nghiệp vụ bảo lãnh đầu tiên đã được thực hiện ở Mỹ. Đến đầu những năm 70, bảo lãnh bắt đầu được sử dụng trong các giao dịch thương mại quốc tế, xuất phát từ yêu cầu của các nước trong khu vực Trung Đông. Do có nguồn dầu mỏ dồi dào các nước ở khu vực Trung Đông đã giàu lên nhanh chóng, từ đó nảy sinh nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng, củng cố an ninh, quốc phòng.... Các quốc gia Trung Đông đã ký kết hợp đồng kinh tế với các nước phương Tây để triển khai và xây dựng công trình cơ sở hạ tầng cho họ. Những hợp đồng kinh tế này có giá trị rất lớn và nhiều rủi ro cho các nước chủ nhà. Để đảm bảo an toàn, họ đã đưa ra yêu cầu phải có sự đảm bảo vững chắc trong việc thực hiện các hợp đồng của các nước phương Tây thông qua hình thức bảo lãnh của ngân hàng. Đó là nghiệp vụ bảo lãnh thực hiện hợp đồng đầu tiên trên thế giới. Ngày nay, bảo lãnh ngân hàng đã trở thành một nghiệp vụ phổ biến với doanh số gia tăng một cách đáng kinh ngạc ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trong giao dịch quốc tế, bảo lãnh ngân hàng được thực hiện theo qui ước thống nhất do phòng thương mại quốc tế ICC ban hành.
Bảo lãnh ngân hàng bắt đầu có mặt ở Việt Nam vào khoảng cuối thập kỷ 80. Khi hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng trở nên phong phú, các doanh nghiệp nhận thấy cần phải có một tổ chức chuyên môn có đủ năng lực, uy tín đứng ra đảm bảo quyền lợi của các bên trong các quan hệ thương mại để giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Từ nhu cầu đó, dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã được ra đời.
Khái niệm
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết. Khách hàng sẽ bị ghi nợ bắt buộc và bị tính lãi trên số tiền đó như một khoản vay thông thường.
Bên bảo lãnh là bên phát hành bảo lãnh, có trách nhiệm thanh toán thay cho bên được bảo lãnh khi bên này không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng đã ký với bên thứ ba. Bên bảo lãnh là các tổ chức tín dụng gồm: ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phi Ngân hàng hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng.
Bên được bảo lãnh: là các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài, có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ của mình như trong hợp đồng cơ sở đã ký kết với bên thụ hưởng bảo lãnh. Ngân hàng không được bảo lãnh đối với những người sau:
Thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc), phó tổng giám đốc (phó giám đốc) của ngân hàng.
Cán bộ, nhân viên của chính ngân hàng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định bảo lãnh.
Bên nhận bảo lãnh (bên thụ hưởng bảo lãnh) là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, được thụ hưởng các cam kết bảo lãnh của ngân hàng và có quyền yêu cầu ngân hàng đứng ra thanh toán khi chứng minh được bên được bảo lãnh đã không thực hiện hợp đồng như cam kết.
Đặc điểm của bảo lãnh
- Bảo lãnh là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho khách hàng thông qua uy tín của ngân hàng, trong đó khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi.
- Bảo lãnh là một hoạt động phái sinh bởi vì quan hệ bảo lãnh phát sinh từ quan hệ của bên nhận bảo lãnh với bên được bảo lãnh. Bảo lãnh thường có 3 bên đó là bên nhận bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh. Do đó, trong một nghiệp vụ bảo lãnh thường có sự kết hợp giữa ba hợp đồng kinh tế:
Một là hợp đồng cơ sở được ký kết giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh.
Hai là hợp đồng kinh tế giữa bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh
Ba là hợp đồng bảo lãnh của bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh
Sơ đồ mối quan hệ giữa các bên trong bảo lãnh
Ngân hàng
Hợp đồng kinh tế Hợp đồng bảo lãnh
Người yêu cầu bảo lãnh
Người thụ hưởng bảo lãnh
Hợp đồng cơ sở
- Bảo lãnh là hoạt động tài trợ ngoài bảng cân đối kế toán. Nó được xếp vào loại tài sản ngoại bảng của ngân hàng vì ngân hàng chưa phải xuất quỹ cho khách hàng sử dụng khi cam kết bảo lãnh. Khi đáo hạn, khách hàng không có khả năng thanh toán ngân hàng mới xuất tiền để thanh toán hộ và ghi nợ bắt buộc cho khách hàng. Hơn nữa, người thụ hưởng chỉ có quyền đòi hoàn trả từ phía người phát hành thư bảo lãnh khi họ đáp ứng được đầy đủ các điều kiện ghi trong thư bảo lãnh
- Nghiệp vụ bảo lãnh cũng thuộc loại nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng vì bảo lãnh cũng có rủi ro như một khoản tín dụng. Khi cấp bảo lãnh ngân hàng cũng phải thẩm định giống như khi cấp một khoản tín dụng.
- Bảo lãnh tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của ngân hàng chỉ phát sinh khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ phải bồi thường cho bên thứ ba khi khách hàng của ngân hàng không thực hiện cam kết nên rủi ro của bên thứ ba, có nghĩa là ngân hàng đã gánh chịu một phần rủi ro cho bên thứ ba. Do vậy ngân hàng phải có được mức lợi nhuận tương ứng cho rủi ro của mình. Ngân hàng sẽ tính phí bảo lãnh căn cứ vào mức độ rủi ro của từng khoản bảo lãnh.
1.1.2.2.Vai trò của bảo lãnh
Đối với nền kinh tế
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, các hoạt động tài chính trực tiếp cũng gia tăng nhanh trên toàn thế giới. Người vay thường thích bán chứng khoán trực tiếp cho nhà đầu tư hơn là vay tiền ngân hàng. Tuy nhiên, tài chính trực tiếp làm tăng mối lo ngại về rủi ro vỡ nợ của người vay, chỉ có bảo lãnh của một ngân hàng uy tín mới có thể giải quyết được vấn đề này.
Dịch vụ bảo lãnh ngân hàng đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh tiếp cận được với nguồn vốn phù hợp hay thực hiện giao dịch dễ dàng. Ví dụ như bảo lãnh vay vốn giúp những đơn vị thiếu vốn tiếp cận được với nguồn vốn phù hợp, chi phí thấp. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng giúp việc thi công các công trình lớn, quan trọng của đất nước một cách nhanh chóng, hiệu quả. Như vậy, bảo lãnh đã góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tức là thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Đối với ngân hàng
Bảo lãnh tạo điều kiện cho ngân hàng có được các khoản thu nhập bổ sung dựa trên khả năng đánh giá tín dụng đối với khách hàng mà không cần cam kết trực tiếp cung cấp vốn. Ngân hàng sẽ nhận được một khoản phí cho việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh (Phí sẽ tính trên % số tiền bảo lãnh).
Chi phí phát hành thư bảo lãnh tương đối thấp, ngân hàng không phải trích lập dự trữ bắt buộc. Ngoài ra, ngân hàng thường biết rõ về tình hình tài chính của các khách hàng xin bảo lãnh (ví dụ như khách hàng đã từng xin vay vốn của ngân hàng) nên chi phí thẩm định bảo lãnh thường thấp.
Trên thực tế rất ít khi người phát hành thư bảo lãnh bị yêu cầu phải thanh toán cho hợp đồng bảo lãnh, vì khách hàng yêu cầu bảo lãnh thường là các khách hàng đã có quan hệ tín dụng thân thiết với ngân hàng từ trước. Khi các khách hàng yêu cầu bảo lãnh, ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải ký quỹ một khoản tiền nhất định theo tỷ lệ % trên số tiền bảo lãnh. Tùy theo rủi ro của khoản bảo lãnh và khách hàng mà tỷ lệ ký quỹ thay đổi từ 0 – 100% (những khách hàng mới giao dịch với ngân hàng lần đầu hoặc có tình hình tài chính không lành mạnh ngân hàng thường bắt ký quỹ 100%). Khoản tiền này mang lại nguồn vốn kinh doanh cho ngân hàng với chi phí rất thấp.
Đối với bên được bảo lãnh
Bảo lãnh là sự tài trợ cho doanh nghiệp thông qua uy tín của ngân hàng giúp. Khi doanh nghiệp thiếu vốn, doanh nghiệp chưa đủ độ tin cậy và uy tín với bạn hàng, bảo lãnh ngân hàng sẽ hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm được nguồn vốn trong nước cũng như nước ngoài với chi phí thấp hơn so với phải đi vay ngân hàng.
Bảo lãnh ngân hàng cũng tạo ra sự tin tưởng cho các bạn hàng. Có bảo lãnh ngân hàng, các doanh nghiệp sẽ có nhiều thuận lợi khi đấu thầu, thực hiện giao dịch hay ký kết hợp đồng.
Đối với bên nhận bảo lãnh
Chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh ngân hàng là đảm bảo khả năng được thanh toán cho bên nhận bảo lãnh trong trường hợp bên yêu cầu bảo lãnh không thực hiện đúng các cam kết với bên nhận bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng mang lại sự tin tưởng cho bên thứ ba, hạn chế những tổn thất mà bên thứ ba có thể gặp phải do thông tin không cân xứng hay rủi ro đạo đức. Trước khi phát hành bảo lãnh, ngân hàng đã thẩm định các khách hàng rất kỹ và chuyên nghiệp, bên thứ ba sẽ không phải mất thời gian kiểm tra khách hàng. Bảo lãnh ngân hàng cũng có nghĩa là khách hàng được bảo lãnh sẽ phải chịu thêm sự ràng buộc, giám sát, đốc thúc của ngân hàng ngoài sự giám sát của bên thứ ba, như vậy khả năng thực hiện được cam kết trong hợp đồng sẽ cao hơn. Nếu bên được bảo lãnh không thực hiện cam kết, bên thứ ba cũng sẽ được ngân hàng bồi thường thiệt hại. Bảo lãnh ngân hàng thực tế đã mang lại rất nhiều lợi ích cho bên nhận bảo lãnh.
1.1.2.3. Phân loại bảo lãnh
Căn cứ vào bản chất bảo lãnh
- Bảo lãnh trực tiếp
Bảo lãnh trực tiếp là loại hình bảo lãnh trong đó ngân hàng phát hành bảo lãnh chịu trách nhiệm trực tiếp cho bên được bảo lãnh. Trong bảo lãnh trực tiếp thường có ba bên tham gia là ngân hàng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh.
- Bảo lãnh gián tiếp
Bảo lãnh gián tiếp là loại hình bảo lãnh trong đó ngân hàng phát hành bảo lãnh theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ cho người được bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác là bảo lãnh đối ứng. Người được bảo lãnh không p._.hải bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh, nghĩa vụ bồi hoàn thuộc về ngân hàng trung gian. Trong bảo lãnh gián tiếp có ít nhất 4 bên tham gia là ngân hàng phát hành bảo lãnh, ngân hàng trung gian, bên được bảo lãnh và bên hưởng bảo lãnh. Bảo lãnh gián tiếp được sử dụng chủ yếu trong trường hợp người thụ hưởng và người được bảo lãnh ở hai quốc gia khác nhau, ngân hàng của người được bảo lãnh không có đại lý ở nước của người thụ hưởng. Khi đó, ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh phải đề nghị một ngân hàng ở quốc gia đó phát hành bảo lãnh. Bảo lãnh gián tiếp đem lại sự an toàn cao hơn cho người thụ hưởng.
Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp
Ngân hàng phát hành
NH phát hành bảo lãnh đối ứng
Bên được bảo lãnh
Bên nhận bảo lãnh
Ngân hàng thông báo
Phát hành BL
BL đối ứng
BL Thông báo
BL
Yêu cầu BL
Ký hợp đồng
- Đồng bảo lãnh
Đồng bảo lãnh là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh cho một nghiệp vụ của khách hàng thông qua một tổ chức tín dụng làm đầu mối. Trong đồng bảo lãnh của ngân hàng, một ngân hàng sẽ đóng vai trò là ngân hàng đầu mối phát hành bảo lãnh và có sự tham gia của các ngân hàng thành viên khác. Trong trường hợp phải chi trả cho người thụ hưởng theo cam kết bảo lãnh, ngân hàng đầu mối sẽ thanh toán cho người thụ hưởng. Sau đó, ngân hàng đầu mối sẽ đòi tiền từ các ngân hàng thành viên theo tỷ lệ tham gia dựa trên các bảo lãnh đối ứng đã được phát hành. Đến lượt mình, các ngân hàng này lại tiến hành truy đòi từ người được bảo lãnh.
- Bảo lãnh đối ứng
Bảo lãnh đối ứng là bảo lãnh do tổ chức tín dụng (bên phát hành bảo lãnh đối ứng) phát hành nhằm đề nghị một tổ chức tín dụng khác thực hiện bảo lãnh cho các nghĩa vụ của khách hàng của bên phát hành bảo lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh do khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh, bên phát hành bảo lãnh đối ứng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối ứng cho bên bảo lãnh.
- Xác nhận bảo lãnh
Xác nhận bảo lãnh là bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng (bên xác nhận bảo lãnh) phát hành cho bên nhận bảo lãnh, đảm bảo khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của tổ chức tín dụng được xác nhận bảo lãnh (bên được xác nhận bảo lãnh) với khách hàng.
- Tái bảo lãnh
Tái bảo lãnh là việc một tổ chức tín dụng nhận bảo lãnh lại hợp đồng mà một tổ chức tín dụng khác đã bảo lãnh. Hai tổ chức tín dụng này sẽ thỏa thuận để phân chia phí và trách nhiệm trong cam kết bảo lãnh đó.
Căn cứ vào mục đích của bảo lãnh
- Bảo lãnh vay vốn
Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay là cam kết của ngân hàng đối với bên cho vay về việc sẽ trả gốc và lãi đúng hạn nếu khách hàng của ngân hàng không thanh toán đủ. Nhiều tổ chức tín dụng khi cho vay thường đòi hỏi người vay phải có đảm bảo. Có nhiều hình thức đảm bảo như đảm bảo bằng hàng hóa, chứng khoán, bất động sản,… và bảo lãnh vay vốn của bên thứ ba. Nhà nước, doanh nghiệp hay các tổ chức tín dụng đều có nhu cầu vay vốn, đặc biệt là phát hành trái phiếu nhưng nếu uy tín của tổ chức phát hành trên thị trường không cao thì việc phát hành trái phiếu gặp nhiều khó khăn. Những khó khăn đó đã làm nảy sinh nhu cầu về bảo lãnh vay vốn. Hiện nay trong thị trường vốn quốc tế, việc vay vốn nhất thiết phải có bảo lãnh vay vốn của ngân hàng do rủi ro trong thị trường này là rất cao.
- Bảo lãnh thanh toán
Bảo lãnh đảm bảo thanh toán là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thanh toán tiền theo đúng hợp đồng cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh toán đủ.
- Bảo lãnh hoàn thanh toán (bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước)
Trong hoạt động giao dịch mua bán nhiều nhà cung cấp thường yêu cầu khách hàng phải đặt cọc trước một phần tiền trong giá trị hợp đồng. Khoản tiền đặt cọc đó vừa giúp cho nhà cung cấp có một phần vốn để sản xuất kinh doanh, vừa có tác dụng ràng buộc người mua không đơn phương hủy hợp đồng. Tuy nhiên, khi ứng tiền trước người mua sẽ phải đối mặt với rủi ro người bán không cung cấp hàng đồng thời không trả tiền đặt cọc. Vì vậy, khi đặt cọc tiền người mua thường yêu cầu người bán phải có bảo lãnh hoàn thanh toán của ngân hàng. Bảo lãnh hoàn thanh toán là cam kết của ngân hàng về việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua nếu bên cung cấp không hoàn trả tiền ứng trước khi không thực hiện được hợp đồng.
- Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu
Bảo lãnh dự thầu là bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên mời thầu cam kết sẽ trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các quy định trong hợp đồng dự thầu.
Hiện nay, việc đấu thầu đã trở nên rất phổ biến đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng và cung cấp thiết bị. Khi tổ chức đấu thầu, chủ thầu thường gặp các rủi ro như các nhà thầu trúng thầu nhưng không thực hiện hợp đồng hay không kê khai đúng như yêu cầu của chủ thầu gây nhầm lẫn khi bỏ thầu. Vì vậy, để hạn chế rủi ro các chủ thầu thường yêu cầu các nhà thầu khi tham gia dự thầu phải ký quỹ (đặt cọc) hoặc có bảo lãnh dự thầu của một ngân hàng uy tín. Bảo lãnh dự thầu có giá trị bảo lãnh tương đương với số tiền ký quỹ của các nhà thầu không có bảo lãnh.
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất thay cho khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng đã được cam kết gây tổn thất cho bên thứ ba. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng một mặt để bù đắp một phần tổn thất cho bên thứ ba, mặt khác thúc đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng.
- Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm
Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm là bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các thỏa thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh, ngân hàng sẽ nộp tiền phạt thay cho khách hàng.
- Bảo lãnh hải quan
Trường hợp hàng hoá được nhập khẩu vào để trưng bày, triển lãm hoặc máy móc được nhập về để thi công công trình sau đó được đem trả lại thì doanh nghiệp không phải nộp thuế hải quan. Nhưng việc kiểm soát xem doanh nghiệp có xuất hàng hóa đó trở lại khi hoàn thành công việc không là rất khó khăn, nếu phát hiện ra cũng khó thu tiền phạt của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể được đảm bảo bằng bảo lãnh hải quan của ngân hàng. Ngân hàng sẽ đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp với tổ chức thuế quan về việc tạm nhập hàng hoá, giúp doanh nghiệp không phải xuất quỹ nộp thuế hải quan. Nếu quá thời hạn quy định mà hàng hoá, máy móc không được tái xuất thì ngân hàng bảo lãnh sẽ phải trả tiền phạt thay cho bên được bảo lãnh.
- Bảo lãnh bảo hành
Mục đích của bảo lãnh bảo hành là đảm bảo nghĩa vụ của nhà sản xuất trong giai đoạn bảo hành khi việc cung cấp hàng hóa đã hoàn thành. Loại bảo lãnh này có thể được phát hành để thay thế cho tiền giữ lại cho giai đoạn bảo hành.
- Bảo lãnh mở L/C
Bảo lãnh mở L/C là loại hình bảo lãnh đặc biệt, nó mang đặc thù của hoạt động thanh toán quốc tế do đó ngân hàng thường không tính doanh số bảo lãnh mở L/C vào doanh số bảo lãnh thông thường mà tính vào doanh số hoạt động thanh toán quốc tế. Bảo lãnh mở L/C trả chậm về bản chất là bảo lãnh vay vốn nước ngoài.
Căn cứ vào điều kiện thanh toán của bảo lãnh
- Bảo lãnh theo yêu cầu
Bảo lãnh theo yêu cầu là cam kết của ngân hàng bảo lãnh trả ngay một số tiền bồi thường cho người hưởng lợi khi nhận được khiếu nại đầu tiên chỉ rõ quyền lợi của người hưởng lợi bị vi phạm do bên xin bảo lãnh vi phạm hợp đồng mà không cần bất cứ loại giấy tờ chứng minh nào. Loại bảo lãnh này tuân theo nguyên tắc “trả tiền trước, kiện cáo sau”. Trường hợp bên xin bảo lãnh chứng minh được mình không vi phạm hợp đồng thì họ có quyền đi kiện, đòi lại số tiền mà ngân hàng đã trả cho người hưởng. Bảo lãnh theo yêu cầu gây bất lợi cho người xin bảo lãnh vì họ rất khó khăn trong việc đòi lại tiền.
- Bảo lãnh kèm chứng từ
Bảo lãnh kèm chứng từ là loại bảo lãnh mà ngân hàng chỉ tiến hành thanh toán cho người thụ hưởng khi người thụ hưởng xuất trình cho ngân hàng các chứng từ xác nhận hành vi vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh. Như vậy, bảo lãnh kèm chứng từ đã bảo vệ quyền lợi cho người được bảo lãnh tuy nhiên thời gian thanh toán cho người thụ hưởng cũng bị kéo dài thêm cho đến khi có bên thứ ba xác nhận hành vi vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh kiểm tra xong các chứng từ đó.
- Bảo lãnh kèm phán quyết của trọng tài hoặc tòa án
Đây là loại bảo lãnh mà ngân hàng cam kết thanh toán cho người thụ hưởng khi họ cung cấp cho ngân hàng một phán quyết của trọng tài hoặc toà án về việc vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh. Tuy nhiên, do thủ tục phức tạp và thời gian thanh toán kéo dài nên loại hình bảo lãnh này ít được sử dụng.
Căn cứ vào thời hạn bảo lãnh
- Bảo lãnh ngắn hạn
Bảo lãnh ngắn hạn là những bảo lãnh ngân hàng có thời hạn bảo lãnh dưới 1 năm. Bảo lãnh thanh toán do rủi ro cao nên các ngân hàng thường chỉ tiến hành bảo lãnh ngắn hạn.
- Bảo lãnh trung hạn
Bảo lãnh trung hạn là những bảo lãnh ngân hàng có thời hạn bảo lãnh từ 1-5 năm. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng do thường được áp dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản nên thường là bảo lãnh trung hạn.
- Bảo lãnh dài hạn
Bảo lãnh dài hạn là những bảo lãnh ngân hàng có thời hạn bảo lãnh từ 5 năm trở lên. Bảo lãnh dài hạn thường chiếm số lượng rất ít trong các ngân hàng do rủi ro cao.
-Gia hạn bảo lãnh
Gia hạn bảo lãnh là việc ngân hàng kéo dài thêm thời hạn bảo lãnh cho khách hàng do yêu cầu của khách hàng, xuất phát từ những nguyên nhân khách quan khiến cho khách hàng chưa thể thực hiện hợp đồng với bên thứ ba. Khi đó, với sự chấp thuận của bên thứ ba và yêu cầu của khách hàng, ngân hàng sẽ gia hạn bảo lãnh cho khách hàng.
Căn cứ vào hình thức phát hành cam kết bảo lãnh
- Phát hành cam kết bảo lãnh bằng thư bảo lãnh
Thư bảo lãnh là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín dụng về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
- Phát hành cam kết bảo lãnh bằng hợp đồng bảo lãnh
Hợp đồng bảo lãnh là thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng và bên nhận bảo lãnh hoặc giữa tổ chức tín dụng, bên nhận bảo lãnh, khách hàng và các bên liên quan (nếu có) về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
1.1.2.4. Quy trình bảo lãnh của ngân hàng
Sơ đồ quy trình bảo lãnh của ngân hàng
Ngân hàng (bên bảo lãnh)
Khách hàng của ngân hàng (bên được bảo lãnh)
Bên thứ ba (bên hưởng bảo lãnh)
(4)
(1)
(0)
(3)
(2)
Khách hàng ký kết các hợp đồng với bên thứ ba về thanh toán, xây dựng, vay vốn,… Bên thứ ba yêu cầu phải có bảo lãnh của ngân hàng.
Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi ngân hàng. Ngân hàng sẽ thực hiện phân tích khách hàng để tìm hiểu về yêu cầu bảo lãnh cũng như mức độ rủi ro của khoản bảo lãnh. Nếu đồng ý bảo lãnh, ngân hàng sẽ ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng. Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng độc lập với hợp đồng kinh tế giữa khách hàng và ngân hàng, nó thể hiện sự ràng buộc tài chính giữa ngân hàng và bên thứ ba.
Nội dung chính của hợp đồng bao gồm:
Số tiền và thời hạn bảo lãnh của ngân hàng.
Các điều khoản vi phạm hợp đồng kinh tế dẫn đến nghĩa vụ chi trả của ngân hàng.
Các tài liệu cần thiết mà bên thứ ba cần có để chứng minh sự vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh.
Hình thức bảo lãnh.
Phí bảo lãnh, số tiền ký quỹ hoặc tài sản đảm bảo cho bảo lãnh mà khách hàng phải thực hiện với ngân hàng.
Trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng khi ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba.
Ngân hàng (hoặc khách hàng) thông báo bảo lãnh cho bên thứ ba. Ngân hàng có thể thực hiện bảo lãnh dưới hình thức như phát hành thư bảo lãnh, mở thư tín dụng, ký hối phiếu nhận nợ. Lựa chọn hình thức nào tùy thuộc vào yêu cầu của bên thứ ba.
Nếu xảy ra việc vi phạm cam kết hợp đồng của khách hàng, ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với bên thứ ba theo như đã thỏa thuận với khách hàng và bên thứ ba.
Theo như hợp đồng bảo lãnh đã ký với khách hàng, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng.
1.2. Chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm
Khái niệm chất lượng
“Chất lượng là toàn bộ các đặc tính của sản phẩm hoặc dịch vụ đáp ứng được yêu cầu của người mua…Chất lượng được hiểu là sự phù hợp với mục đích và yêu cầu sử dụng” (Từ điển thuật ngữ kinh tế - Nhà xuất bản từ điển bách khoa Hà Nội 2001)
Khái niệm chất lượng dịch vụ bảo lãnh
Chất lượng bảo lãnh thể hiện mức độ bảo lãnh của ngân hàng đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với mục đích của ngân hàng, khách hàng được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh.
Đối với ngân hàng
Chất lượng bảo lãnh là mức độ lành mạnh và tăng trưởng đều của dư nợ bảo lãnh nhằm đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng. Ngân hàng có chất lượng bảo lãnh tốt tức là bảo lãnh của ngân hàng có cơ cấu phù hợp, mức tăng trưởng cao, lành mạnh và đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng.
Đối với khách hàng được bảo lãnh
Chất lượng bảo lãnh của ngân hàng cũng giống như chất lượng của các dịch vụ khác, đó là mức độ đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, giúp khách hàng nhanh chóng thực hiện được mục đích của mình khi yêu cầu bảo lãnh.
Đối với bên nhận bảo lãnh
Chất lượng bảo lãnh là mức độ bảo lãnh của ngân hàng đáp ứng được yêu cầu của bên nhận bảo lãnh. Đó là tạo ra sự tin tưởng cho bên nhận bảo lãnh rằng khi bên được bảo lãnh không thực hiện đúng theo cam kết gây ra thiệt hại, bên nhận bảo lãnh sẽ được đền bù thiệt hại từ phía ngân hàng.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
Doanh số bảo lãnh: phản ánh tổng giá trị bảo lãnh của ngân hàng tại một thời điểm. Mặc dù doanh số bảo lãnh được hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán của ngân hàng nhưng khi tính toán các tỷ lệ an toàn vốn ngân hàng sẽ phải chuyển đổi doanh số bảo lãnh như doanh số của các khoản cho vay khác. Một ngân hàng có chất lượng bảo lãnh tốt tất yếu phải có doanh số bảo lãnh cao.
Giá trị ghi nợ bắt buộc cho khách hàng: phản ánh giá trị các khoản bảo lãnh mà ngân hàng phải thanh toán hộ khách hàng. Khi ngân hàng thanh toán cho bên thứ ba, ngân hàng sẽ ghi khoản thanh toán đó như một khoản nợ bắt buộc cho khách hàng. Khách hàng có trách nhiệm phải thanh toán gốc và lãi đúng hạn như các khoản cho vay thông thường khác. Chất lượng bảo lãnh tốt có nghĩa không có khoản bảo lãnh nào ngân hàng phải ghi nợ bắt buộc cho bên được bảo lãnh.
Giá trị ghi nợ bắt buộc trên tổng số dư bảo lãnh: là tỷ lệ % giá trị bảo lãnh mà ngân hàng phải thanh toán hộ khách hàng trong tổng số dư bảo lãnh của ngân hàng. Ngân hàng có chất lượng bảo lãnh tốt sẽ được thể hiện trực tiếp qua độ lớn của chỉ tiêu này.
Nợ bảo lãnh quá hạn: là số dư các cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với khách hàng không được thanh toán khi đến hạn.
Nợ bảo lãnh quá hạn trên tổng doanh số bảo lãnh: là tỷ lệ % số dư các cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với khách hàng không được thanh toán khi đến hạn trong tổng số dư bảo lãnh của ngân hàng. Một ngân hàng có chất lượng bảo lãnh yếu tức là có nợ bảo lãnh quá hạn, và rất yếu khi tỷ lệ nợ bảo lãnh quá hạn trên tổng doanh số bảo lãnh trên 25% (theo quyết định số 400/2004/NHNN quy định về việc xếp loại ngân hàng thương mại cổ phần của nhà nước và nhân dân)
Lợi nhuận thu được từ bảo lãnh: là phần chênh lệch giữa doanh thu từ hoạt động bảo lãnh và chi phí trong hoạt động bảo lãnh. Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh chính là các khoản phí bảo lãnh ngân hàng thu được, chi phí từ hoạt động bảo lãnh là các khoản bảo lãnh ngân hàng phải thanh toán cho khách hàng nhưng không được khách hàng hoàn trả hoặc chi phí thanh lý tài sản đảm bảo bảo lãnh của khách hàng, mức dự phòng rủi ro ngân hàng phải trích lập cho các khoản bảo lãnh, chi phí quản lý,… Ngân hàng có chất lượng bảo lãnh tốt tức là hoạt động bảo lãnh đó phải mang lại lợi nhuận cao cho khách hàng. Tuy nhiên trong thực tế ngân hàng không tách riêng chi phí của hoạt động bảo lãnh với các hoạt động khác của ngân hàng, nên không thể xác định được cụ thể chỉ tiêu này. Tuy nhiên chúng ta có thể đánh giá được chỉ tiêu này qua doanh thu phí bảo lãnh của ngân hàng và một phần chi phí thống kê được.
Các khoản bảo lãnh có vấn đề: mặc dù chưa đến hạn kết thúc hợp đồng bảo lãnh song trong quá trình theo dõi, nhân viên ngân hàng nhận thấy khách hàng có vấn đề như không thanh toán đúng hạn các khoản vay khác cho ngân hàng, có nguy cơ không thực hiện được cam kết do những lý do chủ quan. Khi đó các khoản bảo lãnh cho khách hàng sẽ được phân loại giống như các khoản vay thông thường khác. Ngân hàng cũng phải trích lập tỷ lệ dự phòng rủi ro cho khoản bảo lãnh. Các khoản bảo lãnh có vấn đề là những khoản bảo lãnh cho các khách hàng có khoản nợ bị xếp loại 3,4,5. Những món bảo lãnh này có nguy cơ gây thiệt hại cho ngân hàng trong tương lai. Một ngân hàng có chất lượng bảo lãnh tốt sẽ không có những khoản bảo lãnh có vấn đề.
Cơ cấu bảo lãnh: thể hiện tỷ trọng của các loại hình bảo lãnh trong tổng doanh số bảo lãnh. Một ngân hàng có chất lượng bảo lãnh tốt khi có cơ cấu bảo lãnh hợp lý, phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế.
Trong các chỉ tiêu trên, những chỉ tiêu phản ánh rõ nét nhất chất lượng bảo lãnh của ngân hàng là chỉ tiêu doanh số bảo lãnh, cơ cấu bảo lãnh, tỷ lệ ghi nợ bắt buộc trên tổng số dư bảo lãnh và lợi nhuận thu được từ bảo lãnh.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
1.3.1. Nhân tố thuộc về Ngân hàng thương mại
Xếp hạng ngân hàng
Hạng của ngân hàng là vị trí, tiềm lực của ngân hàng đó được đánh giá trong ngành. Hạng của ngân hàng được tính thông qua tính điểm dựa trên các chỉ tiêu tổng quan tình hình hoạt động của ngân hàng như hoạt động huy động vốn, cho vay, khả năng thanh toán,…
Chất lượng bảo lãnh của ngân hàng được quyết định bằng mức độ tin tưởng của bên nhận bảo lãnh đối với ngân hàng bảo lãnh hay uy tín của ngân hàng đó. Uy tín của một ngân hàng được thể hiện qua vị trí của ngân hàng đó trong ngành và được định lượng qua chỉ tiêu xếp loại ngân hàng. Ngân hàng được xếp loại cao là những ngân hàng làm ăn có hiệu quả, có khả năng thanh toán tốt, cam kết bảo lãnh của ngân hàng đó sẽ có giá trị cao. Ngược lại các ngân hàng xếp loại thấp là những ngân hàng làm ăn thua lỗ, khả năng thanh toán thấp, tiềm lực yếu, khi đó bản thân ngân hàng còn đang gặp khó khăn đương nhiên những cam kết bảo lãnh của ngân hàng không có nhiều giá trị.
Các ngân hàng muốn có được chất lượng dịch vụ bảo lãnh tốt thì phải xếp hạng tín dụng cao hơn khách hàng của mình. Nếu chất lượng tín dụng của nhiều ngân hàng giảm sút, thì các đối thủ cạnh tranh là các tổ chức tài chính phi ngân hàng và các ngân hàng nước ngoài sẽ giành được thị phần lớn hơn. Đặc biệt, trong giao dịch quốc tế thì hạng của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng bảo lãnh. Bởi vì, trong giao dịch quốc tế hiểu biết về nhau giữa các bên là rất ít và khó có điều kiện để xác minh, do đó người ta cần có những xếp hạng ngân hàng khách quan, tiêu chuẩn của các tổ chức quốc tế. Những ngân hàng ít tên tuổi hoặc xếp hạng thấp sẽ có chất lượng cam kết bảo lãnh thấp và sẽ không mang lại sức mạnh đàm phán cho khách hàng trong hợp đồng với bên thụ hưởng.
Chính sách tính phí và mức ký quỹ bảo lãnh của ngân hàng
Mức phí bảo lãnh phản ánh chi phí mà khách hàng phải bỏ ra để được ngân hàng bảo lãnh đồng thời lại là tỷ lệ sinh lời đủ để bù đắp cho những rủi ro mà ngân hàng phải chịu. Ngân hàng nào cũng muốn có mức phí bảo lãnh cao nhất có thể để tạo ra nguồn thu bảo lãnh lớn. Tuy nhiên, phí bảo lãnh cao mà dịch vụ ngân hàng không đem lại cho khách hàng độ thỏa dụng tương xứng thì chắc chắn ngân hàng đó không thể cạnh tranh được với các ngân hàng khác và nhanh chóng mất khách hàng. Vì vậy, một ngân hàng có chất lượng bảo lãnh tốt chỉ khi ngân hàng đó xây dựng được một mức biểu phí phù hợp, đó là mức biểu phí thể hiện được sự cân bằng giữa chi phí bỏ ra và lợi ích nhận được của khách hàng, nhưng cũng phải cân bằng được giữa rủi ro ngân hàng phải gánh chịu với lợi nhuận ngân hàng thu được.
Mức ký quỹ của khách hàng được ngân hàng quyết định căn cứ vào mức độ rủi ro của khoản bảo lãnh, là tấm đệm cho ngân hàng khi khách hàng không hoàn trả tiền đã được ngân hàng thanh toán hộ theo cam kết bảo lãnh. Nếu khách hàng kí quỹ bằng tiền sẽ giúp ngân hàng có thêm nguồn vốn chi phí thấp để kinh doanh sinh lời. Do đó, các ngân hàng đều muốn khách hàng ký quỹ nhiều vừa đảm bảo an toàn cho ngân hàng, vừa giúp ngân hàng có vốn kinh doanh. Tuy nhiên, nếu ngân hàng bắt khách hàng ký quỹ số tiền quá nhiều, khách hàng sẽ bị ứ đọng vốn trong ngân hàng, không có đủ vốn hoạt động và làm giảm khả năng sản xuất kinh doanh, từ đó có thể dẫn đến nguy cơ khách hàng mất khả năng thanh toán. Như vậy, ký quỹ lớn đem lại lợi ích cho ngân hàng nhưng cũng có thể làm tăng rủi ro cho ngân hàng. Ngân hàng có chất lượng bảo lãnh tốt tức là phải xây dựng được mức ký quỹ phù hợp vừa đảm bảo an toàn cho ngân hàng vừa không làm ảnh hưởng đến hoạt động của khách hàng.
Quy trình thực hiện bảo lãnh của ngân hàng
Một quy trình bảo lãnh tốt phải đảm bảo tính chặt chẽ, dầy đủ không bỏ sót các bước quan trọng, đồng thời phải đáp ứng được yêu cầu nhanh chóng, tránh rườm rà làm mất quá nhiều thời gian và làm ảnh hưởng đến việc ký kết hợp đồng giao dịch của khách hàng. Quy trình bảo lãnh có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng bảo lãnh của ngân hàng. Nếu quy trình bảo lãnh đã trở nên lạc hậu so với thực tế sẽ làm cho công tác thẩm định của ngân hàng thiếu chính xác, có thể dẫn tới đánh giá không đúng về khách hàng. Trong quy trình bảo lãnh, việc thẩm định và quản lý bảo lãnh phải được chú trọng và thực hiện kỹ nhất.
Thái độ phục vụ, tính chuyên nghiệp, trình độ chuyên môn của nhân viên ngân hàng
Bảo lãnh cũng là một dịch vụ ngân hàng do đó chất lượng bảo lãnh được thể hiện trong sự hài lòng của khách hàng khi đến thực hiện yêu cầu bảo lãnh. Nó được quyết định bởi mức độ nhiệt tình, chuyên nghiệp của các nhân viên ngân hàng; mức độ nhanh gọn, đơn giản trong thủ tục bảo lãnh và uy tín của ngân hàng bảo lãnh. Điều này cũng phụ thuộc một phần vào nhận xét chủ quan của từng khách hàng. Điều quan trọng hơn là những nhân viên tín dụng của ngân hàng phải có trình độ chuyên môn tốt để thẩm định và quản lý khoản bảo lãnh. Trình độ chuyên môn, phẩm chất của nhân viên tín dụng có ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng bảo lãnh nói riêng. Nhân viên tín dụng là người trực tiếp thực hiện quy trình bảo lãnh trong từng nghiệp vụ bảo lãnh cụ thể. Nếu người nhân viên có nghiệp vụ yếu sẽ không thực hiện được các bước quy trình bảo lãnh một cách chính xác, nhanh chóng cho khách hàng, và làm giảm chất lượng của khoản bảo lãnh. Những sai sót, gian dối của nhân viên tín dụng sẽ dẫn đến sự đánh giá sai lệch về khách hàng và khoản bảo lãnh, có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng làm ngân hàng bị thiệt hại và làm giảm chất lượng bảo lãnh của ngân hàng.
1.3.2. Nhân tố thuộc về khách hàng
Năng lực của khách hàng
Năng lực của khách hàng được đánh giá trên những khía cạnh như năng lực quản lý, tư cách pháp lý, năng lực sản xuất kinh doanh và năng lực tài chính. Năng lực của khách hàng cho thấy khách hàng có thể thực hiện được hợp đồng hay không. Nếu năng lực của khách hàng yếu thì khoản bảo lãnh sẽ có rủi ro cao, có thể dẫn đến chất lượng thấp.
Rủi ro trong kinh doanh của khách hàng
Rủi ro trong kinh doanh phản ánh mức độ doanh thu của khách hàng bị ảnh hưởng bởi môi trường kinh doanh. Nếu doanh nghiệp có rủi ro kinh doanh cao, rủi ro của khoản bảo lãnh sẽ cao, có thể dẫn đến chất lượng bảo lãnh không tốt.
Tư cách đạo đức của khách hàng
Yếu tố chủ yếu được đánh giá trong tư cách đạo đức là tính trung thực của khách hàng. Chất lượng của khoản bảo lãnh phụ thuộc rất nhiều vào công tác thẩm định và quản lý của ngân hàng, điều này chỉ có thể thực hiện được dựa trên sự hợp tác của khách hàng. Nếu khách hàng cố tình lừa dối ngân hàng bằng cách đưa ra các thông tin giả, các báo cáo tài chính không chính xác thì công tác thẩm định của ngân hàng sẽ bị gây nhiễu có thể có những đánh giá sai lệch và thực hiện những khoản bảo lãnh chất lượng kém.
1.3.3. Nhân tố thuộc về bên nhận bảo lãnh
Đạo đức của bên nhận bảo lãnh
Đạo đức của bên nhận bảo lãnh cũng được phân tích trên khía cạnh chủ yếu là tính trung thực. Bên nhận bảo lãnh có thể cố tình lừa dối ngân hàng bằng cách lập các chứng từ giả mạo đòi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, khi đó chất lượng khoản bảo lãnh của ngân hàng cũng sẽ bị giảm sút.
1.3.4. Nhân tố thuộc về Nhà nước
Các quy định của Nhà nước về bảo lãnh
Bảo lãnh cũng như tất cả các hoạt động khác đều phải chịu sự điều tiết của cơ quan Nhà nước. Các quy định của Nhà nước về bảo lãnh có tác dụng định hướng, quản lý và giám sát hoạt động bảo lãnh của ngân hàng, do đó nó có ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động bảo lãnh. Nếu hệ thống quy định, chính sách của Nhà nước lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của hoạt động bảo lãnh sẽ làm giảm chất lượng bảo lãnh của các ngân hàng. Nếu hệ thống chính sách của Nhà nước phù hợp với thực tế, điều tiết hiệu quả hoạt động bảo lãnh thì nó sẽ góp phần nâng cao chất lượng bảo lãnh của các NHTM.
Các quy định khác
Các quy định pháp lý của Nhà nước sẽ tác động đến đời sống kinh tế chính trị của toàn xã hội. Nếu các quy định của Nhà nước phản ánh đúng theo thực tế sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp có môi trường phát triển thuận lợi, lành mạnh cũng sẽ là điều kiện cho chất lượng bảo lãnh của ngân hàng tốt hơn. Ngược lại, nếu quy định của Nhà nước trở nên lỗi thời không có tác dụng điều tiết nền kinh tế mà lại kìm hãm nền kinh tế phát triển, sẽ tác động xấu đến môi trường kinh doanh. Trong tình hình đó, hoạt động của các doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng rất nhiều, rủi ro kinh doanh tăng lên, do đó sẽ làm giảm chất lượng bảo lãnh của ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng chất lượng bảo lãnh của
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
2.1. Khái quát về Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
2.1.1.Tổng quan về Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Đống Đa
2.1.1.1. Lịch sử phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa (CN NHCT Đống Đa) hiện nay là ngân hàng thương mại quốc doanh trực thuộc Ngân hàng Công Thương Việt Nam, có trụ sở chính tại 187 phố Tây Sơn – phường Quang Trung – Quận Đống Đa – Hà Nội. CN NHCT Đống Đa đã phát triển qua rất nhiều giai đoạn, các giai đoạn này có thể được khái quát như sau:
Năm 1955 – 1957: CN NHCT Đống Đa trước đây là Phòng công thương nghiệp Ô Chợ Dừa thuộc chi nhánh ngân hàng nhà nước thành phố Hà Nội.
Năm 1957: Phòng công thương nghiệp Ô Chợ Dừa được nâng cấp thành Chi điếm Ngân hàng Nhà nước khu phố Đống Đa có trụ sở đặt tại 237 phố Khâm Thiên – Hà Nội.
Năm 1972 – 1987: Chi điếm ngân hà._.uy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN ngày 25/8/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước;
+ Quyết định số 1348/2001/QĐ-NHNN ngày 29/10/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi một số quy định liên quan đến thu phí bảo lãnh của các tổ chức tín dụng;
+ Quyết định số 112/2003/QĐ-NHNN ngày 11/2/2003 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/8/2000 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước;
+ Thông tư số 02/TT-NHNN14 ngày 16/04/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn việc bảo lãnh nộp thuế nhập khẩu đối với hàng tiêu dùng của các tổ chức tín dụng.
+ Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng
Hiện nay CN đã bắt đầu triển khai thực hiện bảo lãnh theo quy chế bảo lãnh được ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN và văn bản hướng dẫn của NHCT Việt Nam.
NHCT Việt Nam cũng đã ban hành quyển sổ tay tín dụng cung cấp đầy đủ, thống nhất hướng dẫn cho các bước của quy trình tín dụng nói chung và quy trình bảo lãnh nói riêng.
Nguyên nhân chủ quan
Do nhận thức được xu hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam và của thị trường dịch vụ tài chính ngân hàng, CN đã có kế hoạch phát triển đúng đắn, đồng bộ. CN đã đầu tư nhiều để nâng cao trang thiết bị làm việc cũng như hệ thống công nghệ ngân hàng nhằm góp phần hiện đại hoá hoạt động ngân hàng.
Hơn nữa kết quả này có được còn nhờ vào những nỗ lực phấn đấu, không ngừng trau dồi, hoàn thiện chuyên môn nghiệp vụ của tập thể cán bộ công nhân viên trong CN. Đặc biệt các cán bộ tín dụng luôn cố gắng hết sức mình để cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tín dụng nói chung và dịch vụ bảo lãnh nói riêng một cách tốt nhất.
Với bề dày thành tích là chi nhánh cấp 1 có thời gian hoạt động lâu năm của hệ thống NHCT Việt Nam, CN NHCT Đống Đa đã tạo ra được cho mình uy tín vững chắc trong cộng đồng kinh tế. CN NHCT Đống Đa luôn mang lại sự tin tưởng tuyệt đối trong các cam kết bảo lãnh cho các tổ chức, cá nhân hưởng bảo lãnh vì danh tiếng, uy tín hoạt động của mình.
Nguyên nhân nữa là khách hàng được bảo lãnh của CN chủ yếu là các khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu năm, có uy tín. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng của CN đã rất chú trọng đến công tác thẩm định khách hàng trước khi cấp bảo lãnh nên hiện nay CN vẫn chưa gặp tổn thất phải thanh toán hộ khách hàng.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Từ những phân tích về chất lượng bảo lãnh ở phần trên, chúng ta có thể thấy chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa về cơ bản chưa thật sự tốt. Có rất nhiều biểu hiện minh chứng cho nhận xét này:
Về doanh số bảo lãnh
Doanh số bảo lãnh phát sinh của CN NHCT Đống Đa có nhiều biến động thất thường trong các năm. Năm 2005, doanh số bảo lãnh phát sinh tăng mạnh nhưng sang năm 2006 doanh số bảo lãnh lại giảm đáng kể.
Về các nghiệp vụ bảo lãnh
Hiện nay các nghiệp vụ bảo lãnh của chi nhánh chưa thực sự đa dạng và phong phú. Nhiều loại bảo lãnh chưa bao giờ được thực hiện ở CN như nghiệp vụ bảo lãnh bao tiêu hàng hóa,… Nghiệp vụ bảo lãnh chủ yếu và thường xuyên là bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh bảo hành, bảo lãnh mở L/C….Thời hạn bảo lãnh thường ngắn và doanh số thực hiện từng loại bảo lãnh cũng không cao và có biến động thất thường.
Về cơ cấu bảo lãnh của CN:
Khách hàng của chi nhánh chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp nhà nước có quan hệ truyền thống, lâu năm. Đối tượng khách hàng của CN còn nhiều hạn chế, không phù hợp với xu hướng phát triển chung của nền kinh tế, điều này đã quyết định đến cơ cấu bảo lãnh của CN. Cơ cấu bảo lãnh của CN có nhiều bất hợp lý, trong đó cơ cấu chủ yếu nghiêng về phía tỷ trọng của các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp lớn. Vì vậy cơ cấu bảo lãnh theo tỷ lệ ký quỹ đa phần vẫn là các khoản bảo lãnh ký quỹ 0% và ký quỹ 5%. Cơ cấu bảo lãnh không hợp lý chính là biểu hiện rõ nét, minh chứng cho sự chưa hoàn thiện trong chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa.
Về thu nhập từ dịch vụ bảo lãnh:
Doanh thu từ dịch vụ bảo lãnh của chi nhánh khá thấp, khoảng trên 20 tỷ, chiếm một tỷ trọng nhỏ (xấp xỉ 10%) trong tổng doanh thu của CN. Dịch vụ bảo lãnh chưa thực sự được CN coi trọng và phát triển một cách đúng mức. So với các dịch vụ tín dụng khác, dịch vụ bảo lãnh thường chỉ là dịch vụ đi kèm theo, tức là các khách hàng bảo lãnh thường là các khách hàng có quan hệ tín dụng từ trước với CN.
Về mức độ an toàn của chi nhánh khi thực hiện bảo lãnh:
Mặc dù cho đến nay CN chưa từng phải thanh toán bảo lãnh hộ khách hàng nhưng hoạt động bảo lãnh của CN vẫn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao, khi rủi ro xảy ra tổn thất sẽ rất lớn.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân khách quan:
- Do sự thiếu đồng bộ trong các quy định của nhà nước:
Hiện nay CN NHCT Đống Đa thực hiện quy trình bảo lãnh căn cứ vào những điều khoản quy định trong quy chế bảo lãnh do NHNN Việt Nam ban hành và các văn bản hướng dẫn của NHCT Việt Nam. Các văn bản này được ban hành ra nhằm định hướng, điều tiết cho hoạt động bảo lãnh của NHTM. Tuy nhiên, giữa các văn bản nhiều khi còn chưa thống nhất với nhau, chưa theo kịp với thực tiễn hoạt động và còn thường xuyên bị sửa đổi. Một môi trường pháp lý còn nhiều điều bất ổn đã gây khó khăn rất nhiều cho các NHTM nói chung và CN NHCT Đống Đa nói riêng. Các NH vì thế không dám mạnh tay trong việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh vì lo sợ các quy định sẽ lại được sửa đổi theo chiều hướng khác.
Nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập ngày càng nhiều với thủ tục rất đơn giản và hoạt động giao dịch rất sôi động. Tuy nhiên quy định của nhà nước để điều tiết các giao dịch này còn rất hạn chế vì có quá nhiều kẽ hở trong luật pháp và các quy định của Nhà nước. Vì vậy, rủi ro trong hoạt động bảo lãnh của các NHTM nói chung và CN NHCT Đống Đa nói riêng là rất cao. Có quá nhiều các doanh nghiệp của tư nhân được thành lập chỉ là các “công ty ma”, rủi ro lớn và khó kiểm soát buộc CN NHCT Đống Đa còn chưa thể triển khai rộng rãi dịch vụ bảo lãnh đến đối tượng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh.
- Năng lực của khách hàng được bảo lãnh còn thấp:
Năng lực tài chính, vốn tự có, năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Rủi ro kinh doanh của các doanh nghiệp rất lớn vì vậy rủi ro bảo lãnh của các ngân hàng khá cao, và việc phát triển, mở rộng cũng như nâng cao chất lượng bảo lãnh còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, người dân và bản thân nhiều doanh nghiệp cũng chưa thật sự hiểu rõ về dịch vụ bảo lãnh, không thấy được tiện ích của dịch vụ bảo lãnh. Vì vậy, nhu cầu bảo lãnh trong nền kinh tế chưa cao nên doanh số bảo lãnh của CN còn thấp và cơ cấu bảo lãnh vẫn chỉ tập trung vào một số doanh nghiệp có quan hệ làm ăn lâu dài.
Nguyên nhân chủ quan
- CN chưa chú trọng đến việc tìm một cơ cấu khách hàng hợp lý
Khách hàng được bảo lãnh ở CN chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp quốc doanh lâu năm, có quan hệ truyền thống với CN, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực giao thông và xây dựng cơ bản. Chính vì chưa chú trọng vào việc đa dạng hóa khách hàng nên chất lượng bảo lãnh của CN phụ thuộc rất lớn vào rủi ro kinh doanh của khách hàng. Nếu có một sự cố xảy ra trong lĩnh vực giao thông làm cho các doanh nghiệp trong ngành này bị đình chỉ hoạt động thì CN sẽ gặp tổn thất rất lớn.
- Do đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng chưa có đủ kinh nghiệm và kỹ năng cần thiết trong phân tích, thẩm định khách hàng.
Hiện nay, đội ngũ nhân viên làm việc tại chi nhánh chủ yếu là những cán bộ trẻ, có năng lực, nhiệt tình và tận tâm với công việc nhưng thiếu kinh nghiệm, kỹ năng cần thiết. Vì vậy, họ còn gặp nhiều khó khăn và sai sót trong công tác thẩm định các điều kiện bảo lãnh, đặc biệt là với các khoản bảo lãnh cho các dự án có quy mô lớn.
- Do chính sách ký quỹ của CN còn nhiều bất cập
Khách hàng của chi nhánh chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh lớn, có uy tín, vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp quen được Nhà nước ưu ái. Vì vậy, để giữ khách hàng CN thường phải áp dụng một chính sách ký quỹ nới lỏng cho họ. Các doanh nghiệp này khi yêu cầu bảo lãnh thường không phải ký quỹ hoặc chỉ ký quỹ ở mức 5%. Mức ký quỹ quá ít và tỷ trọng của các khoản bảo lãnh này lại rất lớn mặc dù sẽ đem lại nhiều phí bảo lãnh hơn cho ngân hàng nhưng làm tăng rủi ro tiềm ẩn trong các khoản bảo lãnh và làm giảm chất lượng bảo lãnh của CN.
- CN chưa chú trọng đến việc thực hiện thống nhất và khoa học quy trình bảo lãnh:
Tuy đã phân rõ trách nhiệm của từng cán bộ tín dụng trong quy trình bảo lãnh nhưng công tác thẩm định vẫn chưa được thực hiện một cách chặt chẽ và nghiêm túc. Nhiều khi việc thẩm định chỉ mang tính hình thức, quyết định có bảo lãnh hay không chủ yếu dựa trên mối quan hệ truyền thống, lâu năm và lịch sử của khách hàng.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
3.1. Định hướng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa trong thời gian tới
3.1.1. Định hướng chung của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
Năm 2006 là một mốc thời gian quan trọng đánh dấu sự kiện gia nhập WTO của nước ta. Từ đây, đất nước ta chắc chắn sẽ có những thay đổi lớn cả về kinh tế, xã hội và văn hóa. Nền kinh tế sẽ ngày càng phát triển và đi liền với nó là sự cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, trong đó ngân hàng tài chính là lĩnh vực sẽ gặp phải sự cạnh tranh lớn nhất. Các NHTM đang cố gắng xoay xở để tự cứu lấy mình trước “cơn bão” cạnh tranh, thâu tóm và sáp nhập sắp đến trong những năm tới. CN NHCT Đống Đa nói riêng và NHCT Việt Nam nói chung cũng không nằm ngoài xu hướng chung này.
Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội trong thời gian tới, định hướng chung của toàn hệ thống ngân hàng Công thương Việt Nam trong những năm tới là đổi mới cơ cấu, hiện đại hóa hệ thống và không ngừng tăng tiềm lực tài chính của ngân hàng. Theo đó, mục tiêu hoạt động cụ thể của CN NHCT Đống Đa trong năm tới là:
- Giảm tỷ lệ nợ xấu xuống mức thấp nhất, tỷ lệ nợ quá hạn không quá 5% tổng dư nợ.
- Tăng dư nợ đạt tiêu chuẩn của chi nhánh, tập trung tăng dư nợ trung và dài hạn đồng thời hướng tới đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ do phần lớn các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của CN trong đó quan trọng nhất là nâng cao chất lượng tín dụng.
- Tăng tổng nguồn vốn huy động, đặc biệt là các nguồn vốn chi phí thấp như tiền gửi thanh toán.
- Sắp xếp lại bộ máy tổ chức của chi nhánh theo hướng gọn nhẹ, giảm biên chế đồng thời tuyển chọn những nhân viên năng động, trẻ, có năng lực thay thế.
- Đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng, phát triển các dịch vụ mới, hiện đại đem lại nhiều tiện ích và sự thuận lợi cho khách hàng.
3.1.2. Định hướng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
Nằm trong hệ thống mục tiêu hoạt động của CN trong thời gian tới, mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và nâng cao chất lượng bảo lãnh nói riêng đã được cụ thể hóa như sau:
- Tiến tới một cơ cấu bảo lãnh hợp lý và an toàn, trong đó tỷ trọng các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm phần lớn. Khi đó, chính sách ký quỹ của CN cũng sẽ phù hợp hơn.
- Tăng cường công tác tìm kiếm khách hàng mới đặc biệt là các thành phần kinh tế tư nhân, mở rộng và đa dạng hóa các nghiệp vụ bảo lãnh vì mục tiêu không ngừng tăng trưởng doanh số bảo lãnh lành mạnh để đem lại thu nhập cao cho ngân hàng.
- Xây dựng được quy trình bảo lãnh khoa học vừa đáp ứng được yêu cầu về thời gian vừa đáp ứng được nguyên tắc “sàng lọc và hiệu quả” trong hoạt động của ngân hàng.
- Phát triển đội ngũ cán bộ nhân viên thực hiện dịch vụ bảo lãnh về chất cũng như về lượng, không những giỏi chuyên môn mà còn phải có tư cách đạo đức tốt.
- Phối hợp hiệu quả dịch vụ bảo lãnh với các dịch vụ khác để đem lại độ thỏa dụng tối ưu cho khách hàng của CN.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
3.2.1. Xây dựng một chính sách marketing hiệu quả để thực hiện đa dạng hóa khách hàng, tiến tới một cơ cấu bảo lãnh hợp lý, an toàn
Như đã nói ở trên, khách hàng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp có quan hệ truyền thống lâu năm, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực giao thông và xây dựng cơ bản. CN hiện nay không có nhiều các khách hàng mới, vì vậy muốn nâng cao chất lượng bảo lãnh CN cần phải đa dạng hóa khách hàng. Để làm được điều này, trước hết CN cần thực hiện các việc sau:
- Bên cạnh việc giao thêm công tác tiếp thị dịch vụ, tư vấn khách hàng cho các cán bộ tín dụng, CN cần thành lập bộ phận Marketing nghiên cứu chuyên nghiệp để xây dựng cho mình môt thương hiệu mạnh.
- Nghiên cứu thị trường, phân nhóm khách hàng và phân tích các đặc điểm của từng nhóm khách hàng. Từ đó, xác định được nhu cầu và động cơ của khách hàng khi lựa chọn ngân hàng bảo lãnh và xây dựng được một chính sách phí, mức ký quỹ, các dịch vụ kèm theo phù hợp với đặc điểm của từng nhóm khách hàng.
- Đa dạng hóa không có nghĩa là cung cấp một cách lan man, không có trọng điểm. CN cần tìm ra thị trường mục tiêu cho dịch vụ bảo lãnh của mình, để tập trung chính sách Marketting cho đối tượng khách hàng này.
- Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của CN trong việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh, xác định vị trí của mình trong ngành, xác định các đối thủ cạnh tranh trực tiếp và gián tiếp . Từ đó tìm ra những khoảng trống thị trường phù hợp với mình để cung cấp dịch vụ bảo lãnh hiệu quả.
3.2.2. Tuân thủ nghiêm túc quy trình bảo lãnh mà Ngân hàng Công thương Việt Nam đã đề ra
Quy trình bảo lãnh do NHCT Việt Nam đề ra là chuẩn mực chung được áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống NHCT. Để có được quy trình này các cán bộ cảu NHCT Việt Nam đã phải nghiên cứu và tìm ra những bước cần làm trong quá trình tiếp nhận yêu cầu bảo lãnh đến khi kết thúc bảo lãnh, những tiêu chuẩn đánh giá hợp lý nhất. Vì vậy, CN cần phải tuân thủ thực hiện quy trình một cách nghiêm túc, tạo điều kiện cho NHCT Việt Nam kiểm soát và theo dõi dễ dàng tình hình bảo lãnh của CN để kịp thời ngăn chặn, xử lý kịp thời những sai sót có thể xảy ra. Khi thực hiện bảo lãnh theo một quy trình bảo lãnh chặt chẽ, khoa học CN mới có thể hạn chế được các kẽ hở trong công tác quản lý, tránh được hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tiền. Nếu không thực hiện nghiêm túc quy trình bảo lãnh thì CN không thể thực hiện được mục tiêu nâng cao chất lượng bảo lãnh của mình.
3.2.3. Xây dựng một chính sách phí và mức ký quỹ hợp lý
Chính sách phí và mức ký quỹ là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng bảo lãnh của CN. Hiện nay CN đang áp dụng một biểu phí chung cho tất cả các dịch vụ bảo lãnh đó là: mức phí tính 1%/năm cho phần số dư bảo lãnh có ký quỹ ; mức phí tính 2%/năm cho phần số dư bảo lãnh không ký quỹ. Biểu phí này đã phần nào cân đối được mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận của ngân hàng. Tuy nhiên, biểu phí này chưa thực sự cân đối giữa lợi ích và chi của khách hàng được bảo lãnh. Trước đây trong quyết định 283/2000/QĐ–NHNN có quy định mức phí bảo lãnh không quá 2%/năm, nhưng quy định này đã được bỏ trong quy chế bảo lãnh mới đi kèm theo quyết định 26/2006/QĐ-NHNN, thay vào đấy là quy định cho phép các NHTM cung cấp một mức phí thỏa thuận, linh hoạt cho bên được bảo lãnh. Căn cứ vào quy định của NHNN và thực tế dịch vụ của mình, CN phải xây dựng chính sách phí sao cho khách hàng không cảm thấy quá đắt so với những gì mình nhận được, như vậy mới khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh. Sau đây là một số giải pháp được đề xuất nhằm giúp CN có một chính sách phí phù hợp:
- CN nên xây dựng một biểu phí chi tiết cho từng loại nghiệp vụ bảo lãnh vì mỗi loại bảo lãnh tiềm ẩn mức độ rủi ro khác nhau. Như vậy, khi muốn tập trung phát triển, mở rộng loại nghiệp vụ bảo lãnh nào, CN có thể hạ mức phí bảo lãnh của nghiệp vụ bảo lãnh đó xuống mà không làm ảnh hưởng đến các nghiệp vụ bảo lãnh khác.
- Chi nhánh cũng cần phải căn cứ vào công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng trong việc xây dựng biểu phí. Với các khách hàng có rủi ro thấp hơn nên được hỗ trợ, khuyến khích bằng cách giảm mức phí.
Chính sách mức ký quỹ có mục tiêu là giảm rủi ro, tăng độ an toàn cho ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng nào cũng đều muốn khách hàng ký quỹ nhiều, vừa an toàn vừa có thêm nguồn vốn chi phí thấp để kinh doanh. Tuy nhiên, khi khách hàng ký quỹ tức là khách hàng đã bị chiếm dụng vốn, có thể làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng. Chính sách ký quỹ cũng là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngân hàng bảo lãnh của khách hàng, bởi vì không có doanh nghiệp nào muốn mình bị chiếm dụng vốn quá nhiều, tiền nằm nhàn rỗi không sinh lời. Một chính sách ký quỹ hợp lý phải đảm bảo được hai mục tiêu: thứ nhất là tạo ra độ an toàn nhất định cho ngân hàng, thứ hai là ở mức có thể chấp nhận được của khách hàng, tức là không làm giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Để xây dựng được chính sách ký quỹ hợp lý chi nhánh có thể thực hiện các giải pháp sau:
- Gắn mức ký quỹ với mức độ rủi ro của khách hàng và mức độ rủi ro của khoản bảo lãnh. Ví dụ bảo lãnh thanh toán có rủi ro lớn hơn các nghiệp vụ bảo lãnh khác cho nên mức ký quỹ cho nghiệp vụ bảo lãnh này phải cao hơn; đồng thời khách hàng yêu cầu bảo lãnh có rủi ro cao (đánh giá thông qua công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng) thì sẽ phải ký quỹ nhiều hơn các khách hàng có mức rủi ro thấp hơn. CN có thể xây dựng cách tính mức ký quỹ thực tế thông qua phương pháp đánh trọng số cho mức ký quỹ căn cứ vào rủi ro bảo lãnh và mức ký quỹ căn cứ vào rủi ro của khách hàng. CN cũng có thể lập bảng liệt kê mức ký quỹ cụ thể cho từng trường hợp.
- Chi nhánh nên áp dụng phương thức trả lãi cho khoản tiền ký quỹ của các doanh nghiệp như các khoản tiền gửi thông thường, để khuyến khích các doanh nghiệp ký quỹ, tăng tính cạnh tranh với các ngân hàng khác.
3.2.4. Hoàn thiện đội ngũ cán bộ bảo lãnh
Yếu tố con người luôn là yếu tố quyết định trong công việc. Vì vậy, CN muốn thực hiện được mục tiêu nâng cao chất lượng bảo lãnh không thể không chú ý đến vấn đề con người. Cán bộ tín dụng là những người sẽ trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, tiếp nhận và thẩm định hồ sơ bảo lãnh. CN cần tập trung hoàn thiện chất lượng cán bộ tín dụng bằng những biện pháp sau:
- Thực hiện điều chỉnh, sắp xếp cán bộ cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của hoạt động bảo lãnh nói riêng, hoạt động tín dụng nói chung.
- Có chính sách tuyển dụng cán bộ hợp lý, thu hút được nguồn lao động có chất lượng cao, có phẩm chất tốt. Biện pháp hữu hiệu nhất là tuyển chọn các sinh viên giỏi của các trường khối kinh tế. Ưu điểm của lực lượng sinh viên mới ra trường là đội ngũ lao động trẻ, năng động, ham học hỏi, có tinh thần sáng tạo, hăng hái tuy nhiên còn thiếu kinh nghiệm. Sau khi tuyển chọn Ban lãnh đạo CN có thể tổ chức các khóa đào tạo nâng cao chuyên môn, áp dụng hình thức gửi các nhân viên mới đi theo học hỏi các cán bộ có kinh nghiệm, làm việc lâu năm trong nghề.
- Tăng cường công tác giáo dục, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho các cán bộ tín dụng.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để phát hiện kịp thời những sai sót, gian lận trong quá trình làm việc của các nhân viên.
3.2.5. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định trong bảo lãnh
Chất lượng bảo lãnh phụ thuộc rất nhiều vào khách hàng. Khách hàng có thể mất khả năng thực hiện nghĩa vụ đã cam kết hoặc cố tình chây ỳ không thực hiện nghĩa vụ, như thế đều gây ra tổn thất cho ngân hàng và làm giảm chất lượng bảo lãnh của ngân hàng. Vì vậy, để nâng cao chất lượng bảo lãnh CN nhất thiết phải hoàn thiện công tác thẩm định trong bảo lãnh.
Thực tế, khả năng ngân hàng phải thanh toán hộ khách hàng trong hợp đồng bảo lãnh hiếm khi xảy ra, nhưng điều này cũng không có nghĩa là công tác thẩm định trong bảo lãnh của ngân hàng đã được thực hiện nghiêm túc và chặt chẽ.
Muốn nâng cao chất lượng thẩm định, trước hết ban lãnh đạo cần phải tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình thẩm định của các cán bộ tín dụng. Công tác thẩm định khách hàng có bốn nội dung cơ bản đó là phân tích tư cách và năng lực pháp lý, năng lực điều hành và quản lý; đánh giá tình hình hoạt động của khách hàng; phân tích và đánh giá tình hình tài chính của khách hàng; phân tích khả năng thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh. Cán bộ tín dụng cần phải thực hiện đầy đủ và chi tiết, không được bỏ sót nội dung nào.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước
3.3.1.1. Về môi trường pháp lý
Hiện nay, CN NHCT Đống Đa thực hiện bảo lãnh cho khách hàng chủ yếu dựa vào quy định trong quy chế bảo lãnh do NHNN Việt Nam ban hành, công văn hướng dẫn của NHCT Việt Nam và một số văn bản luật, dưới luật khác của Chính phủ. Tuy nhiên, đến nay vẫn tồn tại quá nhiều bộ luật, văn bản chi phối hoạt động ngân hàng: Luật tổ chức tín dụng, Luật dân sự, Luật doanh nghiệp và rất nhiều nghị định, thông tư hướng dẫn đã gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng trong quá trình nghiên cứu và thực hiện. Hơn nữa, các văn bản quy định này lại thường xuyên có sự điều chỉnh, thay đổi và nhiều khi không thống nhất với nhau.
Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cần sớm ban hành một hệ thống văn bản pháp luật chung về bảo lãnh ngân hàng trên các tiêu chí sau:
- Các văn bản phải đồng bộ và nhất quán với nhau.
- Các văn bản luật phải có hiệu quả và khả thi, tức là luật phải bảo vệ được quyền lợi chính đáng của các bên tham gia bảo lãnh, khuyến khích hoạt động bảo lãnh phát triển.
- Phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch thương mại quốc tế đặc biệt là đối với hoạt động bảo lãnh có liên quan đến yếu tố nước ngoài.
- Các văn bản này cần có tính ổn định, tránh thay đổi thường xuyên sẽ gây ra tâm lý lo lắng, kìm hãm sự phát triển của hoạt động bảo lãnh.
3.3.1.2. Về môi trường kinh doanh
Nhà nước cần tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, khi đó nhu cầu về dịch vụ bảo lãnh ngân hàng chắc chắn sẽ tăng cả về chất và lượng.
Nhà nước cần hướng tới xây dựng một môi trường kinh doanh phải đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh, thông tin công khai. Một môi trường như vậy không chỉ thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển mà còn tạo điều kiện hỗ trợ rất nhiều cho công tác thẩm định bảo lãnh của ngân hàng.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Hiện nay, CN NHCT Đống Đa thực hiện hoạt động bảo lãnh theo quyết định số 26/2006/QĐ – NHNN về việc ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng. Quyết định này đã thay thế các quyết định trước đây là Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN ngày 25/8/2000; Quyết định số 386/2001/QĐ-NHNN ngày 11/4/2001 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN ngày 25/8/2000; Quyết định số 1348/2001/QĐ-NHNN ngày 29/10/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi một số quy định liên quan đến thu phí bảo lãnh của các tổ chức tín dụng; Quyết định số 112/2003/QĐ-NHNN ngày 11/2/2003 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN ngày 25/8/2000 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước; Thông tư số 02/TT-NHNN ngày 16/04/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn việc bảo lãnh nộp thuế nhập khẩu đối với hàng tiêu dùng của các tổ chức tín dụng.
Mặc dù quyết định này đã được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung so với các văn bản trước đây nhưng nó vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu là văn bản định hướng cụ thể và chi tiết cho hoạt động bảo lãnh của NHTM. Vì vậy, Ngân hàng nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện quy chế về bảo lãnh ngân hàng nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các NHTM và các doanh nghiệp khi thực hiện bảo lãnh. Chỉ khi có nền tảng pháp luật phù hợp thì việc nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh của các NHTM mới có cơ sở thực hiện được.
NHNN cần đổi mới và tăng cường công tác thanh tra, giám sát đối với các tổ chức tín dụng, tập trung vào thanh tra chất lượng tín dụng trong đó có chất lượng bảo lãnh, công tác quản trị điều hành…để phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm. NHNN cần đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại NHTM theo hướng nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức, tiếp tục xử lý nợ tồn đọng nhằm tăng cường năng lực tài chính của các NHTM.
3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam
NHCT Việt Nam là cơ quan trực tiếp quản lý hoạt động của CN NHCT Đống Đa. Do đó, NHCT Việt Nam cần thường xuyên hoàn thiện những văn bản hướng dẫn bảo lãnh sao cho phù hợp với thực tế, với quy định của nhà nước và với đặc điểm kinh doanh của các chi nhánh trực thuộc. Cụ thể, NHCT VN cần đổi mới quyển sổ tay tín dụng đã lạc hậu để phù hợp hơn với thực tiễn, hoàn thiện quy trình tín dụng nói chung và quy trình bảo lãnh nói riêng.
Đồng thời NHCT Việt Nam cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong toàn hệ thống để phát hiện và xử lý kịp thời những sai phạm. NHCT Việt Nam phải xóa bỏ hoàn toàn những tư tưởng bao cấp vốn đã ăn sâu vào suy nghĩ, hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước để đổi mới cơ chế hoạt động, đem lại sự năng động cho toàn hệ thống. Điều đó, chỉ có thể thực hiện được thông qua cổ phần hóa ngân hàng. Vì vậy, việc nhanh chóng tiến hành cổ phần hóa sẽ mang lại một môi trường hoạt động cạnh tranh, năng động hơn cho các CN trong đó có CN NHCT Đống Đa.
NHCT Việt Nam nên tổ chức thường xuyên các chương trình đào tạo, nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ nhân viên trong hệ thống ngân hàng.
Kết luận
Dịch vụ bảo lãnh ngân hàng ở nước ta hiện nay đang trong quá trình trở thành một dịch vụ ngân hàng phát triển, đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế. Nhận thức được tiềm năng của dịch vụ bảo lãnh, CN NHCT Đống Đa luôn tìm cách nâng cao tính cạnh tranh của mình trong việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh để nhanh chóng khẳng định được vị thế và chiếm lĩnh thị trường đầy màu mỡ này. Tuy nhiên, CN còn gặp nhiều khó khăn và chưa tìm ra được phương hướng cũng như các biện pháp cụ thể để đạt được mục tiêu, định hướng nâng cao chất lượng bảo lãnh của mình. Vì vậy, thông qua chuyên đề tốt nghiệp, em xin trình bày một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng bảo lãnh của chi nhánh NHCT Đống Đa căn cứ vào những lý luận chung về chất lượng bảo lãnh và thực trạng chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa. Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế về mặt nhận thức, đồng thời thời gian nghiên cứu cũng chưa lâu nên chuyên đề của em không tránh khỏi có những khiếm khuyết, sai sót. Em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn!
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3724.doc