lời nói đầu
Trong lịch sử phát triển của các nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn luôn có vai trò và tác dụng rất quan trọng. Gần đây, chính trong thời điểm cách mạng khoa học và công nghệ tiến triển mạnh mẽ với xu thế toàn cầu hoá xảy ra khá sôi nổi, thực tiễn quản lý kinh tế và quản lý doanh nghiệp có những biến chuyển sâu sắc thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại càng được chú trọng hơn ở khắp các nước. Chính vì vậy mà rất nhiều nước Đông á đã thu được những thành tựu rực rở và tạo nên cái đ
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1290 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số ý kiến về Thực trạng & Giải pháp phát triển các doanh nghiệp vừa & nhỏ ở Việt Nam trong thời kỳ Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược gọi là “điều kỳ diệu Đông á”. Để nối tiếp những thành công của các nước trong khu vực, quá trình công nghiệp hoá nhanh chóng ở Việt Nam cũng cần phải đi theo hướng phát triển này.
Nhìn chung, các doanh nghiệp đang chiếm phần đông trong khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam là hộ gia đình thì vẫn còn quá nhỏ bé, quá yếu ớt để có thể cạnh tranh trên trường quốc tế. Còn các doanh nghiệp nhà nước thì lại tỏ ra khá cứng nhắc và kém hiệu quả để có thể bắt kịp với nhu cầu gia tăng mạnh mẻ của thế giới. Nhiều kinh nghiệm đã chứng minh rằng chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ những doanh nghiệp có quy mô đủ lớn để có thể hoạt động một cách có hiệu quả song cũng có thể biến chuyển một cách linh hoạt chính là chìa khoá để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá một cách nhanh chóng.
Để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ và khuyến khích theo hướng “Cởi mở và nới lỏng” hơn, vì vậy môi trường đầu tư và kinh doanh của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được cải thiện một cách rỏ ràng, nhưng vẫn còn tồn tại những khó khăn và hạn chế trong các chính sách phát triển.
Trong thời gian tới cùng vói tiến trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam với việc gia nhập vào AFTA vào năm 2006 và WTO trong thời gian không xa, thì với thực trạng như hiện nay, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh vơí các nước. Vì vậy để giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực sự trở thành một động lực quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Nhà nước cần phải có một chiến lược phát triển phù hợp, có những chính sách ưu đãi và hỗ trợ thiết thực. Để doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tăng tính cạnh tranh, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho đất nước. Xuất phát từ nhận định trên qua thời gian thực tập thực tập tại Ban Phân tích và Dự báo Vĩ mô của Viên Chiến lược, tôi đã quyết định chọn đề tài: “ MộT Số ý KIếN Về THựC TRạNG Và GIảI PHáP PHáT TRIểN CáC DOANH NGHIệP VừA Và NHỏ ở VIệT NAM TRONG ThờI Kỳ cÔNG NGHIệP HOá- HIệN ĐạI HOá ĐấT Nước”
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tổng kết các lý luận và kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; Đánh giá thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam Và sau cùng là đưa ra một số giải pháp phát triển trong gian đoạn tới.
Kết cấu của đề tài bao gồm:
Chương 1: Vai trò của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chương 2 : Thực trạng phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1990-2001.
Chương 3: Một số ý kiến về giải pháp thúc đẩy phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đến năm 2010.
Trong thời gian hạn hẹp và trình độ kiến thức thực tế còn hạn chế nên Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các cô chú hướng dẫn để có thể hoàn chỉnh đề tài này tốt hơn nữa .
Qua đây Em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo: TS. Lê Huy Đức và các các cô chú trong ban Phân Tích và Dự Báo vĩ mô của Bộ kế Hoạch Đầu Tư đã giúp rất nhiều để có thể hoàn thành đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Lê Ngoc Lâm
chương I
Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
I / Nhận thức về DNVVN.
1. Doanh nghiệp và phân loại trong nền kinh tế thị trường.
Theo Luật Công ty nước ta xác định: “Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
Theo Luật Doanh nghiệp mới đưa ra và thực hiện kể từ ngày 1/1/2000 thì “Doanh nghiệp được xác định là tổ chức là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”.
Tức để công nhận là 1 doanh nghiệp, thông thường có 3 điều kiện:
- Có tư cách pháp nhân đầy đủ.
- Có vốn pháp định để kinh doanh.
- Có tên gọi và hoạt động với danh nghĩa riêng chịu trách nhiệm độc lập về mọi hoạt động kinh doanh của mình.
Các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường rất phong phú và đa dạng có thể phân loại doanh nghiệp theo từng tiêu thức khác nhau:
Thứ nhất: dựa vào quan hệ sở hữu về vốn và tài sản của doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhà nước: là doanh nghiệp do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách là chủ sở hữu.
Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do cá nhân đầu tư vốn và tự chịu trách nhiệm về toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp sở hữu hổn hợp: là doanh nghiệp đan xen của các hình thức sở hữu khác nhau trong cùng một doanh nghiệp như các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp cổ phần.
Thứ hai: dựa vào mục đích kinh doanh
- Doanh nghiệp hoạt động vì mục đích thu lợi nhuận: là một tổ chức kinh doanh được nhà nước thành lập hoặc thừa nhận, hoạt động theo cơ chế thị trường và vì mục tiêu lợi nhuận.
Doanh nghiệp hoạt động công ích (vô vị lợi): là tổ chức kinh tế thực hiện các hoạt động về sản xuất, lưu thông hay cung cấp các dịch vụ công cộng, trực tiếp thực hiện các chính sách xã hội của nhà nước hoặc thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc phòng. Những doanh nghiệp này không vì mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu là vì hiệu quả kinh tế xã hội.
Thứ ba: dựa vào lĩnh vực kinh doanh
- Doanh nghiệp tài chính: là các tổ chức tài chính trung gian như các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán,… là những doanh nghiệp có khả năng cung ứng cho nền kinh tế các dịch vụ về tài chính- tiền tệ, tín dụng, bảo hiểm…
Doanh nghiệp phi tài chính: là các tổ chức kinh tế lấy sản xuất kinh doanh sản phẩm làm hoạt động chính, bao gồm các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong các ngành nghề như: doanh nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, doanh nghiệp xây dựng cơ bản, doanh nghiệp dịch vụ…
Thứ tư: dựa vào quy mô kinh doanh
Người ta chia ra thành các doanh nghiệp lớn; doanh nghiệp vừa; và doanh nghiệp nhỏ.
Cách quy đinh thế nào là doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ còn tuỳ thuộc vào từng quốc gia, từng địa phương và trong từng thời kỳ nhất định. Có hai tiêu thức phổ biến dùng để phân loại về quy mô các doanh nghiệp.
ã Tiêu chí định tính: dựa trên những đặc điểm cơ bản của các doanh nghiệp như trình độ chuyên môn hoá, số đầu mối quản lý, mức độ phức tạp của quản lý,… các tiêu chí này phản ánh đúng bản chất của từng loại hình doanh nghiệp nhưng nó thường khó xác định trên thực tế nên nó thường chỉ làm cơ sở để tham khảo mà ít được sử dụng.
ã Tiêu chí định lượng: Dựa trên những giá trị thực của tài sản (vốn), số lao động, doanh thu… cụ thể là:
+ Tài sản (vốn) có thể là tổng giá trị tài sản, hay tài sản cố định, giá trị còn lại.
+ Số lao động: có thể là lao động trung bình, lao động thường xuyên, lao động thực tế,… của doanh nghiệp.
+ Doanh thu có thể là tổng doanh thu/ năm, tổng giá trị gia tăng/ năm…
Về tiêu chí định lượng để xác đinh quy mô của doanh nghiệp thì rất đa dạng ở nhiều nước ví dụ như:
Bảng 1: Một số tiêu chí định lượng dùng để phân loại doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở một số nước.
Nước
Tiêu chí phân loại
1. Oxtraylia
Số lao động.
2. Canada
Số lao động, doanh thu.
3. Hồng Kông
Số lao động, doanh thu.
4. Indonexia
Số lao động, doanh thu, Tổng giá trị tài sản.
5. Nhật Bản
Số lao động, doanh thu, tỷ lệ vốn góp.
6. Malaixia
Số lao động, doanh thu, tỷ lệ vốn góp.
7. Mêhicô
Số lao động, doanh thu, tỷ lệ vốn góp.
8. Philiphin
Số lao động, doanh thu, tổng giá trị tài sản.
9. Singapore
Số lao động, doanh thu, tổng giá trị tài sản.
10. Thái lan
Số lao động, doanh thu, tổng giá trị tài sản.
11.Mỹ
Số lao động.
Nguồn: Ban thương mại và đầu tư, tiểu Ban kinh doanh vừa và nhỏ của các nước APEC, 1997.
Ngoài ra còn có một số tiêu chí khác để phân loại tuỳ theo điều kiện của một số nước.
2. Nhận thức về doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.1 Theo quan niệm của các nước
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang đóng vai trò quan trọng trong đời sống thực tiển của hầu hết các nước trên thế giới. Đồng thời người ta cũng dự báo rằng trong tương lai, vai trò của chúng không hề suy giảm, thậm chí còn tăng lên. Song thế nào là doanh nghiệp vừa và nhỏ thì lại là vấn đề đang có sự tranh luận chưa đi đến thống nhất với nhiều quan niệm khác nhau.
Với các nước EU, để xác định thế nào là một doanh nghiệp vừa và nhỏ người ta đưa ra 3 tiêu thức để đánh giá, đó là :
Số lượng lao động thường xuyên được sử dụng trong doanh nghiệp đó.
Doanh số bán/ năm.
Vốn đầu tư cho sản xuất của doanh nghiệp.
Có thể nói phương pháp lượng về các tiêu chuẩn lao động, doanh số bán, vốn sản xuất mà một số nước EU và Mỹ đã áp dụng để xác định một doanh nghiệp loại vừa hay nhỏ như trên mặc dù có những ưu điểm song vẫn tồn tại những hạn chế. Nhưng cho đến nay các tiêu chuẩn đó vẫn được áp dụng để xác định về mặt quy mô của một doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là người ta xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu dựa vào tiêu chí định lượng và xác định về mặt quy mô là chính. Điều này phù hợp với nhiều nước như Nhật, Mỹ, EU …
Tuy nhiên trong các nước EU cũng có những nước như nước Anh đã sử dụng phương pháp kết hợp giữa phương pháp định lượng và định tính để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo phương pháp này, ngoài việc người ta căn cứ vào số lượng lao động thường xuyên mà doanh nghiệp sử dụng, doanh số bán/ năm, người ta còn căn cứ vào một số tiêu chí khác như số lượng tư liệu sản xuất, trình độ công nghệ,… Tuỳ theo tính chất của từng ngành. Chẳng hạn theo quy định của uỷ ban Boston (Anh) thì một doanh nghiệp được gọi là doanh nghiệp nhỏ phải đảm bảo một số tiêu chuẩn, trong đó:
Với ngành công nghiệp, số lượng công nhân phải dưới 200 người. Riêng với công nghiệp xây dựng và khai khoáng, số lượng công nhân phải dưới 25 người.
Trong thương nghiệp bán lẻ và dịch vụ, doanh số hàng năm dưới 50.000 bảng Anh, còn trong thương nghiệp buôn bán thì doanh số/ năm dưới 200 ngàn.
Trong ngành giao thông vận tải, sở hữu không quá 5 phương tiện vận tải.
Về khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước ASEAN tuy còn có sự khác nhau. Song nhìn chung các nước singapo, Malaixia, Thái lan, Philiphin đều dựa vào 2 tiêu chí cơ bản để phân định doanh nghiệp vừa hay nhỏ là những doanh nghiệp mà có số lượng lao động dưới 100 người và vốn tư bản dưới 1,2 triệu đô la Singapore. Cũng tương tự, với Malaixia con số đó là 2,5 triệu M$.
Nói tóm lại không có một khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách thống nhất mà tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia để có nhưng tiêu thức phân loại khác nhau.
Để có thể hiểu rỏ hơn thế nào là một doanh nghiệp vừa và nhỏ ta tham khảo một số định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số nước trên thế giới sau:
Bảng 2: Định nghĩa Doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số nước:
Nước
Phân loại
Số lao động
số vốn
Doanh thu
1.Mỹ
Tất cả các ngành
0-500
Không
Không
2.Nhật Bản
Chế tác
Bán buôn
Bán lẻ
Dịch vụ
1-300
1-100
<50
<100
300 triệu yên
0-100
0-50
0-50
Không
3.EU
DN cực nhỏ
DN nhỏ
DN Vừa
<10
<50
<250
không
-
7 triệu Ecu
27 triệu Ecu
4.Canada
DN nhỏ
DN vừa
<100
100-500
không
<5 triệu CND$
5->20
5.New Zealand
tất cả các ngành
<50
6. Thái Lan
Sản xuất
+DN nhỏ
+DN vừa
Buôn Bán
+DN nhỏ
+DN vừa
Bán lẻ
+DN nhỏ
+DN vừa
Không
<50 triệu Bath
50-200
<50
50-100
<30
30-60
Không
7.Malaixia
Chế tác
<150
Không
< 25 triệu RM
8.Indonesia
DN nhỏ
DN vừa
Không
<20.000 USD
20.000- 1.000.000
<100.000USD
100.000- 5.000.000
9. Mêhicô
DN cực nhỏ
DN nhỏ
DN vừa
<15
16-100
101-250
Không
Không
10.Philippin
DN nhỏ
DN vừa
10-99
100-199
1,5-15 triệu Pêxô
15-60
Không
Nguồn: 1. Hồ sơ các DNVVN của APEC, 1998
2. Định nghĩa DNVVN của các nước đang chuyển đổi,UN ECE, 1999
3. Tổng quan các DNVVN của OECD, 2000.
2.2 Tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Đối với Việt Nam, việc quan niêm thế nào là một doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng còn rất khác nhau. Có thể nói cho đến nay chưa có một văn bản có tính chất pháp quy nào xác đinh rõ tiêu chuẩn một doanh nghiệp được coi là doanh nghiệp vừa hay nhỏ có giá trị chung cả nước.
Trước giai đoạn đổi mới, thường có xu hướng là coi tất cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhất là các cơ sở thủ công nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Còn các doanh nghiệp quốc doanh là doanh nghiệp lớn, đồng thời trong chính sách thường chỉ quan tâm đến các doanh nghiệp quốc doanh, thậm chí còn có “mặc cảm” với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đặc biệt là nhưng doanh nghiệp tư nhân.
Trong công cuộc đổi mới, với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế có điều kiện phát triển, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng được thể hiện rõ. Nhà nước đã có những chủ trương khuyến khích và hỗ trợ chúng. Song một khó khăn đặt ra là tiêu chí của một doanh nghiệp nhỏ, vừa là như thế nào, cần hổ trợ ra sao?…Khi đó nảy sinh những quan điển khác nhau và cũng đưa ra nhiều tiêu chí khác nhau để xác định một doanh nghiệp vừa và nhỏ, ví dụ như:
ã Ngân hàng công thương Việt Nam: Ngân hàng công thương Việt Nam coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp có dưới 500 lao động, vốn cố định dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng và doanh thu hàng tháng < 20 triệu đồng.
ã Liên Bộ Lao động và Tài chính: thông tư liên Bộ Lao động– Tài chính coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp có:
Lao động thường xuyên < 100 người.
Doanh thu hàng năm < 10 tỷ đồng.
Vốn pháp định < 1 tỷ đồng.
ã Dự án VIE/ US/ 95/ 004 hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam do UNIDO tài trợ thì
Doanh nghiệp nhỏ là:
Có lao động < 30 người.
Có vốn đăng ký < 1 tỷ đồng.
Doanh nghiệp vừa là:
Có lao động từ 31- 200 người.
Vốn đăng ký < 5 tỷ đồng.
ã Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc chương trình Việt Nam- EU: thì doanh nghiệp vừa và nhỏ được quỹ này hỗ trợ gồm các doanh nghiệp có số nhân công từ 10-500 người và vốn điều lệ từ 50.000-300.000$ tức khoảng 600 triệu đến 3,6 tỷ đồng.
ã Quỹ phát triển nông thôn (thuộc ngân hàng nhà nước): coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp có:
Giá trị tài sản không quá 2 triệu USD.
Lao động không quá 500 người.
Các tổ chức có các tiêu chí áp dụng khác nhau về việc xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ có nguyên nhân khách quan là do nhà nước chưa ban hành chính thức một tiêu chí chung để áp dụng cho tất cả các ngành nhằm xác định đối tượng thuộc doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tạm thời tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là tiêu chí được chính phủ ban hành ngày 20/6/1998 theo công văn số 681/CP _KTN thì : “Doanh nghiệp vừa và nhỏ phải có vốn điều lệ < 5 tỷ đồng và có số lao động < 200 người.”
Qua thực tiễn, có thể thấy tiêu chí này có những vấn đề đáng suy nghĩ như sau:
- Có thể chỉ dùng một tiêu chí là lao động hoặc số vốn, bởi vì hai tiêu chí đó không luôn luôn tương thích với nhau, nhất là trong điều kiện hiện nay, có những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, số vốn hoặc doanh thu khá lớn nhưng số lao động lại rất ít, đó là những lao động có chuyên môn kỹ thuật cao.
- Theo kinh nghiệm của nhiều nước, nên có tiêu chí riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, như công nghiệp, thương mại, dịch vụ, ... và cần có sự điều chỉnh qua từng thời gian, tuỳ thuộc vào yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước, vì mục đích của tiêu chí là để thực hiện những chính sách khuyến khích của nhà nước trong từng thời gian đối với từng ngành nghề.
- Tiêu chí này chỉ là quy ước hành chính để xây dựng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Từ tình hình đó đã tạo ra không ít khó khăn trong việc hổ trợ, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách có hiệu quả. Điều đó đòi hỏi cần phải sớm có một quan niệm chuẩn xác mang tính pháp lý cao đặc biệt cần có luật như một số nước về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trước khi có một quy định mang tính pháp lý cao chúng ta có thể căn cứ vào đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình chính phủ về việc xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ (tháng 12/1998) như sau:
Bảng 3: tiêu chí xác định Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam:
Ngành nghề
Doanh nghiệp vừa
Doanh nghiệp nhỏ
Vốn sản xuất(tỷ đồng)
Số lao động (người)
Doanh thu/ năm (tỷ đồng)
Vốn sản xuất(tỷ đồng)
Số lao động (người)
Doanh thu/ năm (tỷ đồng)
Sản xuất CN
<=5
<=300
<=7
<=3
<=50
<=1
Thương mại dịch vụ
<=3
<=200
<=29
<=1
<=30
<=5
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2.3 Những đặc trưng cơ bản
a. Về tình hình sản xuất kinh doanh:
Theo đánh giá của của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam thì tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong một vài năm gần đây đều cho thấy sự giảm sút. Điều này cho thấy, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đang trong tình trạng khó khăn. Bên cạnh yếu tố trượt giá và tăng tỷ giá ngoại tệ, và việc phát triển chậm của nền kinh tế, các doanh nghiệp còn thiếu chủ động trong trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tìm kiếm thị trường tiêu thụ, cũng như nguồn lực đầu vào.
b. Về vốn:
Vốn luôn là vấn đề nhức nhối của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta, có đến 55% số doanh nghiệp thiếu vốn. Bởi lẽ, do nguồn vốn của doanh nghiệp hạn chế, lại vay mượn từ các kênh tài chính phi chính thức, đặc biệt là từ bạn bè, người thân. (đồ thị 1 cho ta thấy điều đó ).
Mặt khác, thị trường chứng khoán của nước ta đã loại các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra khỏi cuộc chơi. Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi tiếp cận với khu vực tài chính chính thức đều gặp khó khăn và hạn chế lớn như: không có sự bảo lãnh của các tổ chức đại diện, lãi suất cao, khối lượng ít, thời gian ngắn, thủ tục rườm rà…
c. Về thị trường
Xem xét những yếu tố ảnh hưởng lớn đến các hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều không có thị trường tiêu thụ ổn định, đặc biệt là thị trường xuất khẩu hạn chế. Điều này được lý giải là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vục vừa qua, tuy nhiên rõ ràng nó đã thể hiện sự yếu kém và khả năng cạnh tranh không cao của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta.
d. Về công nghệ và thiết bị:
Nhìn chung, trong những năm qua các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đổi mới công nghệ ở mức độ nhất định, điều này hoàn toàn hợp lý. Công nghệ là yếu tố quyết định tới năng suất, chất lượng của sản phẩm, giúp các doanh nghiệp có thể cạnh tranh được trên thị trường. Tuy nhiên, nguồn vốn tài chính bị giới hạn không cho phép các doanh nghiệp có thể tự mình đổi mới cũng như áp dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến. Vì vậy tỷ lệ đổi mới thiết bị cũng rất thấp. Chỉ khoảng 10%/ năm tính theo vốn đầu tư. Điều này cho thấy trình độ về thiết bị công nghệ kỹ thuật của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn thấp và còn lạc hậu khá xa so với mức trung bình của thế giới.
e. Về trình độ tổ chức quản lý và tay nghề của lực lượng lao động:
Trình độ và tay nghề của người lao động và đội ngũ quản lý ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ củng là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay. Theo ước tính thì đa số các chủ doanh nghiệp và lực lượng lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay có trình độ cấp II (40- 45%), số lao động có trình độ tay nghề giản đơn, chưa được qua đào tạo chiếm khoảng 60-70%, trong khi đó chỉ có một số lượng nhỏ các chủ doanh nghiệp có trình độ đại học.
3. Những ưu thế và hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
3.1. Những ưu thế
- Dễ dàng khởi nghiệp, lúc ban đầu không đòi hỏi nhiều về mọi mặt. Do vốn ít, cơ cấu bộ máy gọn nhẹ nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng thành lập và hoạt động nhạy bén theo cơ chế thị trường, khi cần cũng dễ dàng rút lui khỏi lĩnh vực kinh doanh. Một số doanh nghiệp lớn hiện nay đã khởi nghiệp từ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Giàu tính mềm mại, linh hoạt, năng động để thích ứng nhanh thậm chí đón đầu những biến chuyển của công nghệ quản lý, những giao động, biến động từng thời kỳ hoặc lâu dài của thị trường. Đặc điểm này khiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ được mệnh danh là đơn vị tác chiến: “Đánh nhanh, thắng nhanh và chuyển hướng nhanh”. Nhiều sản phẩm của doanh nghiệp vừa và nhỏ có đặc tính chu kỳ sản phẩm ngắn nên việc huy động vốn và hoàn trả gặp ít khó khăn hơn.
- Các doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc phân bố quá trình phát triển công nghệ rông khắp về mặt địa lý giữa các vùng với nhau, cũng như bên trong vùng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ là một trong các thành tố trong chiến lược phân bổ công nghiệp theo địa bàn lãnh thổ, và thường chúng không phải là thành tố quan trong nhất. Trong quá trình công nghiệp hoá nông thôn ở nước ta hiện nay thì nó là một trong những yếu tố để thực hiên thành công. Trước tiên là ở các khu thị trấn nằm ở vị trí trung gian giữa thành phố lớn và khu vực nông nghiệp kém phát triển sau đó theo thời gian phát triển mới loan rộng ra khắp khu vục nông thôn thôn vùng sâu vùng xa.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng thu hút lao động với chi phí thấp do đó tăng hiệu quả sử dụng vốn. Lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường không đòi hỏi trình độ chuyên môn cao (trừ một số lĩnh vực như: Đồ điện công nghệ, lắp ráp các công nghệ điện tử,…), huy động được lực lượng lao động địa phương, lao động thất nghiệp và bán thất nghiệp với chi phí thấp. Điều đó sẽ có thể phát huy được mọi tiềm năng của địa phương và cơ sở.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng phát huy bản chất hợp tác sản xuất. Trong dây truyền hợp tác sản xuất mỗi doanh nghiệp vừa và nhỏ thường chỉ sản xuất một vài chi tiết hay một vài công đoạn của quá trình sản xuất một loại sản phẩm hoàn chỉnh. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn nằm trong môi trường cạnh tranh gay gắt do tính dễ khởi sự, để tránh bị đào thải thất bại các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải tiến hành hợp tác sản xuất với nhau, hoặc với các doanh nghiệp lớn. Thực tiển phát triển kinh tế của một số nước cho thấy một nền kinh tế công nhiệp sản xuất hiện đại sẽ không hoàn chỉnh và hiệu quả nếu chúng không có những doanh nghiệp lớn lẫn những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn sản xuất linh kiện phụ kiên cung cấp các dịch vụ đầu vào cho các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp lớn sẽ sử dụng các dịch vụ do các doanh nghiệp vừa và nhỏ mang lại ngoài ra các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ có thể cung cấp các chi tiết hay phụ tùng với giá rẻ hơn là giá của các doanh nghiệp lớn tự làm.
- Do tính dễ khởi sự, doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi đào luyện, trãi nghiệm cho các chủ doanh nghiệp tài năng tương lai, kể cả những người đã qua đào tạo về kinh tế lẫn những người đam mê kinh doanh. Thực tế đã chứng minh, hầu hết các doanh nghiệp lớn, kể cả tập đoàn xuyên quốc gia và đa quốc gia cũng bắt đầu từ các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể biến mơ ước làm chủ doanh nghiệp của các bạn trẻ trở thành hiện thực.
3.2 Những hạn chế.
- Mặc dù huy động vốn tương đối dễ nhưng nguồn vốn thường nhỏ, thời gian không dài. Hạn chế về mặt này làm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp rất nhiều khó khăn đầu tư công nghệ mới, sửa chữa và nâng cấp các trang thiết bị dây truyền công nghệ, cơ sở vật chất, kỹ thuật. Điều này cũng gây cản trở rất lớn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong việc thiết lập và mở rộng hợp tác với các doanh nghiệp trên thế giới. Để có thể xuất khẩu và tìm được bạn hàng làm ăn lâu dài đòi hỏi các doanh nghiệp vừa và nhỏ nỗ lực rất lớn trong chất lượng sản phẩm, chất lượng và mẫu mã của bao bì. Muốn vậy doanh nghiệp vừa và nhỏ phải thường xuyên được đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị.
- Với doanh nghiệp vừa và nhỏ làm vệ tinh cho doanh nghiệp lớn cũng gặp trở ngại về phía cầu, thị trường của doanh nghiệp vừa và nhỏ phụ thuộc vào đơn đặt hàng, hợp đồng của doanh nghiệp lớn. Mặt khác, cũng do hạn chế về tài chính và khả năng Marketing, sự giới thiệu và quảng cáo và định vị của sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đặc biệt trên thị trường Quốc tế hầu như không có. Đây cũng là một khó khăn trong quá trình hội nhập.
Không có ưu thế của kinh tế quy mô (economy of scale), tức là những thành quả và lợi ích đặc biệt mà khi chỉ từ một quy mô nhất định trở lên mới có được. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là “mèo nhỏ” nên chỉ dám và chỉ bắt được “chuột con” .
Lép vế trong các mối quan hệ (với nhà nước, với thị trường, ngân hàng…) thậm chí thường phải dựa và phụ thuộc vào các doanh nghiệp lớn, như doanh nghiệp con của doanh nghiệp mẹ, như chân rết ngoại vi của trung tâm.
- Trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp nhiều khi chỉ dựa trên thói quen, kinh nghiệm nên không tạo được sự đồng bộ cần thiết giữa các bộ phận trong doanh nghiệp. Rất nhiều chủ doanh nghiệp nhỏ chưa được đào tạo cơ bản, thiếu kiến thức về quản lý kinh doanh. Đây là hạn chế rất lớn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong xu thế hội nhập hoá, quốc tế hoá đang diễn ra nhanh chóng .
- Hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện, đang trong quá trình sửa đổi bổ sung, cơ chế các chính sách quản lý nhà nước còn những hạn chế nhất định. Một số doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng bọn gian thương đã lợi dụng những hạn chế này để làm hàng giả, hàng gian lận thương mại, trốn thuế, không tuân theo pháp luật hiện hành … điều này ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến uy tín, quyền lợi của những doanh nghiệp làm ăn chân chính, làm ảnh hưởng tới tính chất cạnh tranh lành mạnh để cùng phát triển của doanh nghiệp.
Thiếu sức phòng, tránh và chống các rủi ro, thường xuyên có rất nhiều, rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời, thì cũng có nhiều, rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ phá sản.
II/ Vai trò của Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình phát triển kinh tế .
1. Về kinh tế
Thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, đóng góp GDP
Sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong 10 năm gần đây đã đóng góp rất quan trọng làm tăng GDP, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng nhanh của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ củng góp phần làm cho tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tăng lên rõ rệt. Cho đến nay, chưa có số liệu chính thức được công bố về đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân phi nông nghiệp (hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) trong nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên theo ước tính, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 43-45% GDP, sản xuất nông nghiệp chiếm khoảng 27-28% GDP. Theo báo cáo gần đây của Tổng cục thống kê thì doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần đã tạo khoảng 8% GDP, hộ kinh tế cá thể tạo ra khoảng 8-9% GDP và các hợp tác xã tạo ra khoảng 9% GDP. Như vậy khu vực kinh tế tư nhân không kể sản xuất nông nghiệp đã tạo ra khoảng 25-26% GDP của cả nước. Khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 31% giá trị sản xuất công nghiệp hàng năm của cả nước, chiếm khoảng 78% tổng mức bán lẻ và chiếm 64% lượng vận chuyển hàng hoá của toàn xã hội. Riêng trong năm 2000, Luật Doanh nghiệp đã đẩy tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực tư nhân lên 18,3% so với 10,9% năm 1999 và là mức cao nhất trong 10 năm qua. Qua sự phát triển ngày càng tăng mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân mà tổng giá trị thuế thu được từ khu vực này ngày càng tăng. Chỉ tính riêng trong khoản thu thuế công thương nghiệp trong khu vực tư nhân hàng năm đã bằng 30% tổng thu thuế từ khu vực kinh tế nhà nước.
Bảng 4: Cơ cấu trong GDP theo thành phần kinh tế.
(%, giá hiện hành).
1999
2000
2001
GDP
100,0
100,0
100,0
Khu vực quốc doanh
38,7
39,0
39,0
Khu vực ngoài quốc doanh
49,1
47,7
48,0
Khu vực có vốn ĐTNN
12,2
13,3
13,0
Nguồn: Tổng cục Thống kê và tính toán của Viện NCQLKT TW.
Thu hút vốn, tăng thu nhập dân cư
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đóng góp quan trọng trong việc huy động vốn cho nền kinh tế. Tổng số vốn đăng ký của doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần từ 1990-1999 là 24.500 tỷ đồng chiếm 17,8% tổng vốn đăng ký kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo pháp luật (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước). Tổng số vốn đầu tư thực tế của các doanh nghiệp, công ty tư nhân có lẽ vốn còn cao hơn nhiều con số này. Tuy vậy tỷ lệ vốn đầu tư khiêm tốn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh giải thích một thực tế là tỷ trọng sản lượng này trong GDP, cũng như trong giá trị sản xuất công nghiệp còn thấp như đã nói trên. Hết năm 2000 số vốn đã đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo luật doanh nghiệp mới khoảng 24.000 tỷ đồng (khoảng 1,65 tỷ đồng USD). Tính đến tháng 3/2001 cả nước có khoảng 18.400 doanh nghiệp được thành lập theo luật doanh nghiệp mới với tổng số vốn đăng ký kinh doanh khoảng 28.000 tỷ đồng (khoảng 1,9 tỷ USD). Như vậy một lượng vốn lớn trong nhân dân đã được đưa vào sản xuất kinh doanh. Bởi phần lớn số vốn của các doanh nghiệp khu vực tư nhân là nguồn vốn phi chính thức vay của anh em, họ hàng, mua bán chịu, vay nặng lãi, chơi hụi,… nguồn vốn chính thức từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng chỉ chiếm số lượng khiêm tốn. Qua đó 500.000 chổ làm việc mới đã được tạo ra, góp phần tăng thu nhập của người lao động, giải quyết nạn thất nghiệp. Trong ngững năm tới đây để khu vực kinh tế tư nhân phát triển hơn nửa nhà nước cần tạo ra một môi trường kinh tế thông thoáng hơn, xác định rõ ràng vai trò của từng thành phần kinh tế, đặc biệt làvai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và những đóng góp quan trọng của khu vực tư nhân.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Các doanh nghiệp khu vực tư nhân đa số hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Trong năm 2000, 32% các doanh nghiệp mới thành lập trong lĩnh vực sản xuất chế biến; 26% hoạt động trong lĩnh vực thương mại; 21% hoạt động trong các loại hình dich vụ khác; 15% hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và dịch vụ thương mại; 6% còn lại hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tổng hợp. Các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất có xu hướng tăng lên, các dịch vụ ngoài dịch vụ thương mại tăng gấp nhiều lần so với trước chứng tỏ có nhiều loại hình dịch vụ mới đã xuất hiện như vậy ở thành phố, các doanh nghiệp đã làm gia tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ đáp ứng nhu c._.ầu ngày càng cao của xã hội. Việc các doanh nghiệp được hình thành ở các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa cũng làm giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp ở những vùng này, gia tăng tỷ trọng công nghiệp cơ khí, chế biến nông sản, đồng thời kéo theo sự gia tăng phát triển của các loại hình dịch vụ. Hiện nay, do sự phát triển mạnh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mà hàng loạt làng nghề truyền thống đã được khôi phục như : sản xuất đồ gổ chạm khảm, hàng mây tre đan,… góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các địa phương. Đồng thời thúc đẩy tiến trình chuyên môn hoá, công nghiệp hoá trong nông nghiệp nông thôn. Mặt khác do quy mô nhỏ nên địa bàn hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng rộng hơn (nguyên liệu và thị trường nhỏ). Sự phát triển ngày càng nhiều các doanh nghiệp mới càng làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng lên, góp phần nâng tổng GDP lên, làm giảm tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tăng tính cạnh tranh
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời góp phần tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế. Trên thị trường sẽ có nhiều doanh nghiệp hơn, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá đa dạng và phong phú hơn. Chính vì vậy mà muốn tiêu thụ được hàng hoá các doanh nghiệp cần phải tìm kiếm khách hàng, bằng mọi cách thu hút khách hàng mua sản phẩm của mình. Qua đó doanh nghiệp sẽ tự hoàn thiện mình, giảm giá bán hàng, tăng chất lượng hàng tiêu dùng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng các doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa với nhỏ đáp ứng quy mô nhỏ có thể hoạt động ở vùng sâu vùng xa, những vùng có nguyên liệu ít hơn, có thị trường nhỏ hơn mà nếu là doanh nghiệp lớn thì không phát triển được. Hơn nữa, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ và chuyển hướng kinh doanh một cách nhanh chóng. Như vậy doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể phát huy, tận dụng hết các nguồn lực địa phương. Theo một cuộc điều tra 1000 doanh nghiệp vừa và nhỏ thì có hơn 80% các doanh nghiệp đều sử dụng nguồn nguyên vật liệu được cung ứng ngay tại địa phương. Ngoài ra việc nhiều doanh nghiệp kinh doanh một mặt hàng trong một thị trường làm cho tính cạnh tranh ngày càng cao, lúc đó để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp sẽ năng động hơn, sáng tạo hơn trong sản xuất kinh doanh, đồng thời sẽ giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế .
Tăng tốc độ áp dụng khoa học công nghệ, phát triển các tài năng trong sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là người tiên phong trong các công nghệ mới, các sáng kiến kỷ thuật, bởi do quy mô không lớn, cơ cấu gọn nhẹ nên doanh nghiệp vừa và nhỏ dể dàng thay đổi công nghệ, thay thế thiết bị, áp dụng các sáng tạo kỹ thuật, thậm chí chuyển đổi thị trường một cách dể dàng nhanh chóng hơn so với các doanh nghiệp lớn. Cũng bởi do hạn chế về quy mô nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ tìm kiếm sự khác biệt với các doanh nghiệp lớn thông qua các sáng tạo độc đáo của mình. Việc hình thành phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là do quá trình tạo ra những doanh nghiệp lớn, những nhà kinh doanh giỏi. Một khi doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời nếu nó tìm được chổ đứng và khẳng định mình trên thị trường, cùng với sự sáng tạo sẵn có doanh nghiệp sẽ dần dần phát triển. Trãi qua quá trình thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh, dưới sự cạnh tranh của thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ sàng lọc ra những nhà kinh doanh có đủ phẩm chất trở thành doanh nghiệp lớn. Mặt khác, qua quá trình phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng tích tụ vốn, thay đổi công nghệ kinh nghiệm, tạo được nhiều mối quan hệ trên thị trường, chiếm lĩnh thị trường dần dần trỏ thành một doanh nghiệp lớn hơn.
2. Về xã hội.
Đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội.
Những năm gần đây khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, hàng loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất hiện trong các kĩnh vực như công nghiệp, chế biến, thương mại dịch vụ … góp phần làm cho nền kinh tế trở nên đa dạng và phong phú. Khách hàng trở nên “thượng đế”, hàng hóa tràn ngập thị trường với nhiều chủng loại đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Việc cạnh tranh các doanh nghiệp đã góp phần tạo ra các loại có hình thức mẩu mã đẹp, giá thành hạ đem lại lợi ích to lơn cho người tiêu dùng. Không chỉ vậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn tạo ra nguồn thu nhập, tăng sức mua của thị trường, khích thích các ngành sản xuất, thương mại dịch vụ phát triển đáp ứng mọi nhu cầu dù là nhỏ nhất của nười tiêu dùng. Với hình thức quy mô nhỏ gọn, chuyển đổi kinh doanh nhanh chóng đã giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ đi vào từng thị trường chật hẹp mà các doanh nghiệp lớn không thể chen chân vào được. Doanh nghiệp vừa và nhỏ tồn tại nhưnhư một thực thể khách quan nhằm lấp chổ trống trong nhu cầu đa dạng và phong phú của thị trường mà các doanh nghiệp lớn không đáp ứng nổi. Qua thực tiển hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta nhận thấy một điều rằng: cùng với sự ra đời và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, hàng hoá trên thị trường hết sức đa dạng, phong phú.
Giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp.
Một vai trò quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đó chính là khả năng tạo việc làm, một vấn đề xã hội bức xúc nhất hiện nay. Việt Nam là một quốc gia có dân số đông, trẻ vì vậy trung bình hàng năm có trên một triệu thanh niên gia nhập thị trường lao động, gây nên một sức ép lớn cho việc giải quyết việc làm. Sức ép về lao động trong quá trình chuyển đổi cơ cấu ngày càng tăng, nhu cầu việc làm ngày càng lớn dẫn đến sự chên lệch giữa cung và cầu, kể cả lượng lẫn chất. Trong khi khu vực nhà nước đang sắp sếp lại và tiến hành tinh giảm biên chế đã làm tạo thêm một lượng lao động lớn nữa dôi ra. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài một năm cũng chỉ thu hút được khoảng 30.000 chỗ làm mới thì số lượng người làm việc hàng năm ở khu vực kinh tế tư nhân tăng hơn rất nhiều số lượng người làm việc trong khu vực nhà nước vào những năm gần đây và hiện nay. Khu vực kinh tế tư nhân, nơi có tốc độ tăng trưởng việc làm luôn ổn định ở mức cao qua nhiều năm, đã thu hút chủ yếu người lao động và trở thành “cứu cánh cho nền kinh tế”
Bảng 5: Tốc độ tăng việc làm phân theo khu vực kinh tế (%).
Khu vực
1996 so với 1995
1997 so với 1996
1998 so với 1997
Nhà nước
21,7
4,7
0,3
Hộ cá thể
3,4
3,1
3,4
Tư nhân
13,7
12,6
16,2
Hợp tác xã
20,1
16,9
-3,7
Nguồn: Tổng cục thống kê năm 1999.
Năm 1998, trong ngành công nghiệp: 65,6% lao động làm việc trong các doanh nghiệp khu vực tư nhân; 22,4% ở trong khu vực kinh tế doanh nghiệp nhà nước; 12% ở trong khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2000, các doanh nghiệp thành lập mới tạo ra khoảng 500.000 việc làm mới (các doanh nghiệp mới đăng ký: 300.000; hộ kinh doanh: 200.000), việc tạo thêm việc làm cho người lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ thu hút một lượng lớn các thanh niên mới tham gia lực lượng lao động tránh tình trạng thất nghiệp của nhóm này. Đây là nhóm tuổi nhạy cảm, hay phát sinh những tệ nạn khi không có việc làm như trộm cắp, cờ bạc,...góp phần ổn định xã hội.
Nâng cao đời sống nhân dân, giảm chênh lệch giàu nghèo, ổn định xã hội.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mặt ở khắp mọi nơi từ đồng bằng trù phú cho đến các vùng nông thôn và miền núi. Nhưng ở bất kỳ đâu thì doanh nghiệp vừa và nhỏ đều mang đến lợi ích cho nền kinh tế, góp phần giải quyết lao động ở địa phương, nâng cao thu nhập cho người lao động. Hiện nay doanh nghiệp vừa và nhỏ giải quyết một số lượng lớn lao động cho xã hội, nhất là những lao động có trình độ học vấn thấp, lao động phổ thông, những người ích có khả năng tìm kiếm một công việc có mức lương cao hơn, qua đó nâng cao đời sống của bộ phận dân nghèo, phân phối thu nhập cho mọi tầng lớp xã hội, góp phần giảm chênh lệch giàu nghèo trong xã hội. Mọi nhu cầu vật chất lẫn tinh thần của dân cư được tăng lên. Mặt khác doanh nghiệp vừa và nhỏ còn giữ vai trò ổn định xã hội khi nền kinh tế suy thoái: trong khi doanh nghiệp lớn chịu ảnh hưởng của khủng hoảng và phải giảm lao động để giảm chi phí thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ với sự linh hoạt và năng động của mình vốn tồn tại và thậm chí còn thu hút thêm lao động cho xã hội.
III/ Kinh nghiệm phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước.
1. Kinh ngiệm của một số nước về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1 Mỹ.
Người Mỹ ít khi sử dụng thuật ngữ “các Doanh nghiệp vừa và nhỏ” mà thay vào đó, trong hầu hết các văn bản pháp lý cũng như các tài liệu nghiên cứu, họ thường sử dụng thuật ngữ “kinh doanh nhỏ” (small business) hoặc “kinh doanh nhỏ và vừa” bởi vì kinh doanh nhỏ của Mỹ không chỉ là các doanh nghiệp có thuê lao động mà còn gồm cả những việc làm tự doanh (self-employment) không thuê lao động.
Cục Quản lý kinh doanh nhỏ (SBA) Mỹ có cách định nghĩa: “kinh doanh nhỏ là một kinh doanh có ít hơn 500 lao động” đây là định nghĩa được sử dụng rộng rãi nhất và có thể coi là tiêu chuẩn về Doanh nghiệp vừa và nhỏ bán chính thức cuả Chính Phủ Mỹ.
Vào những năm gần đây, kinh doanh nhỏ của Mỹ đang trong đà phát triển thịnh vượng. Theo small business FAQ 12/2000 của SBA, các kinh doanh nhỏ hiện nay của Mỹ:
Chiếm trên 99,7% tổng số hãng kinh doanh có thuê nhân công.
Thu hút 52% lực lượng lao động trong khu vực tư nhân, 51% lực lượng lao động trong khu vực trợ gúp công cộng và 38% trong khu vực công nghệ cao.
Sản xuất ra 51% tổng sản phẩm của khu vực tư nhân.
Chiếm 31% doanh thu xuất khẩu hàng hoá
Tuy nhiên, những con số trên chưa nói hết được vai trò của kinh doanh nhỏ trong nền kinh tế Mỹ. Bởi kinh doanh nhỏ ở Mỹ không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà nó còn có ý nghĩa về mặt xã hội. Dưới đây là một số vai trò quan trọng của kinh doanh nhỏ trong nền kinh tế Mỹ:
+ Các kinh doanh nhỏ chiếm tỷ lệ áp đảo trong tổng số các kinh doanh của Mỹ.
+ Khả năng tạo việc làm của kinh doanh nhỏ là rất lớn.
+ Có vai trò cực kỳ quan trong trong đổi mới và phát triển công nghệ.
+ Kinh doanh nhỏ thúc đẩy tinh thần kinh doanh và là một kênh dẫn cơ hội cho những người yếu thế.
Vì có vai trò quan trong như vậy trong kinh tế cũng như trong xã hội nên kinh doanh nhỏ đặc biệt được sự quan tâm của Chính Phủ Mỹ. Rất nhiều chính sách được ban hành nhằm trợ gúp cho kinh doanh nhỏ :
Cải cách pháp lý: Mỹ đã nới lỏng những luật lệ ảnh hưởng tới việc gia nhập thị trường của các kinh doanh nhỏ trong các ngành như ngân hàng, điện lực và viễn thông. Đồng thời Mỹ cũng tăng cường thi hành Luật chống độc quyền.
Trợ giúp tài chính: Theo thống kê chưa đầy đủ của Viện CATO, năm 1997 Mỹ có 125 chương trình trợ gúp kinh doanh trị giá 75 tỷ USD. Trong năm 1999, Mỹ có khoảng 200 chương trình cấp liên bang tài trợ kinh doanh nhỏ đang hoạt động. Những chương trình này bao trùm mọi hoạt loạt trợ giúp tài chính như: tín dụng trực tiếp và bảo lãnh tín dụng, …
Trợ gúp về công nghệ và đổi mới: Chương trình Chuyển giao công nghệ kinh doanh nhỏ (STTR) và chương trình nghiên cứu đổi mới của kinh doanh nhỏ cung cấp một ngân quỹ lớn tài trợ trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu và triển khai của các kinh doanh nhỏ. Ngoài ra còn thành lập vườn ươm công nghệ và vườn ươm kinh doanh tại trên 50 bang.
Trợ giúp về quản lý: SBA hình thành mạng lưới các trung tâm phát triển kinh doanh nhỏ cung cấp nhũng sự trợ gúp về quản lý cho các chủ kinh doanh nhỏ thông qua các trợ gúp về tư vấn, đào tạo và kỹ thuật. Phát triển các trung tâm thông tin kinh doanh nhỏ và được thành lập ở nhiều địa phương cung cấp những thông tin mới nhất về công nghệ và thị trường.
Xúc tiến xuất khẩu: Chính phủ Mỹ ban hành nhiều chương trình và biện pháp trợ giúp hoạt động xuất khẩu của các kinh doanh nhỏ.
Vai trò của kinh doanh nhỏ ngày càng được đánh giá cao ở mỹ trong bối cảnh nền công nghiệp Mỹ đang dần dần chuyển sang kinh tế tri thức, ở đó đổi mới và sáng tạo là nguồn lực quan trọng nhất, vai trò của kinh doanh nhỏ ngày càng trở nên nỗi bật. Trên thực tế, chính các doanh nghiệp nhỏ đã có vai trò khởi đầu cho những ngành công nghệ dựa trên tri thức hiện nay của Mỹ như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,..
1.2 Nhật Bản
Do tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế, Nhật Bản đã sớm đưa ra định nghĩa chính thức về doanh nghhiệp vừa và nhỏ trong từng lĩnh vực kinh doanh, là cơ sở quan trọng để các cơ quan chức năng xác định đối tượng trợ giúp, tập trung chính sách cũng như định hướng phát triển khu vực doanh nghiệp này. Theo Luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được sửa đổi (ban hành ngày 3/12/1999) như sau:
Lĩnh vực
Số lao động tối đa
Số vốn tối đa
(triệu yên)
Chế tác và các lĩnh vực khác
300
300
Bán buôn
100
100
Bán lẻ
50
50
Dịch vụ
100
50
Số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản tăng lên nhanh chóng trong thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế. Mặc dù trong những năm gần đây, tốc độ tăng có giảm đi, song số doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn tăng lên do sự mở rộng các tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tính đến năm 1998, Nhật Bản có trên 5 triệu doanh nghiệp vừa và nhỏ (trong số đó có khoảng 4,48 triệu doanh nghiệp nhỏ), chiếm tới 99,7% số doanh nghiệp cả nước. Số doanh nghiệp này thực hiện kinh doanh ở hầu hết tất cả các lĩnh vực kinh tế, tập trung lớn nhất ở lĩnh vực bán lẻ, dịch vụ và chế tác.
Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất hùng hậu và đa dạng. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có ý nghĩa đặc biệt đối với nền kinh tế Nhật Bản trong việc tạo việc làm, thu hút lao động. Các doanh nghiệp lớn liên tục sa thải lao động, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là một nguồn quan trọng trọng thu hút số lao động bị sa thải đó. Theo số liệu của một cuộc điều tra việc làm, có khoảng 70% số lao động rời chổ làm cũ và có việc làm mới tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Có khoảng 40 triệu lao động thường xuyên ở khu vực vừa và nhỏ chiếm hơn 70% lượng lao động trong cả nước.
Khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra hơn 40% doanh thu của khu vực doanh nghiệp. Trong đó, lĩnh vực buôn bán tạo ra doanh thu cao nhất (khoảng 43% tổng doanh thu của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ). So với các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc lĩnh vực bán lẻ có tầm quan trọng cao hơn (Tạo ra gần 56% doanh thu của lĩnh vực bán lẻ).
Từ năm 1988 đến nay, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn tạo ra gần 60% giá trị gia tăng của khu vực doanh nhiệp tương đương với gần 150 nghìn tỷ yên, thực sự góp phần quan trọng vào GDP của Nhật Bản.
Với vai trò rất quan trọng như vậy, trong thời kỳ phát triển kinh tế của đất nước, Nhà nước Nhật Bản đã ban hành nhiều chính sách nhằm đặt khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ vào vị trí phù hợp nhất và khẳng định tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế. Dưới đây là nội dung của các chính sách đó:
Cải cách pháp lý: Luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ mới ban hành năm 1999 trợ giúp cho việc cải cách cơ cấu để tăng tính thích nghi của doanh nghiệp vừa và nhỏ với những thay đổi của môi trường kinh tế- xã hội, tạo cơ sở cho việc tái cơ cấu công ty. Các luật tạo thuận lợi cho thành lập các doanh nghiệp mới và Luật trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới trong kinh doanh khuyến khích mạnh mẽ việc thành lập các doanh nghiệp mới, tăng nguồn cung ứng vốn rủi ro, trợ giúp về công nghệ và đổi mới. Luật xúc tiến các hệ thống phân phối có hiệu quả ở doanh nghiệp vừa và nhỏ trợ giúp cho việc tăng cường sức cạnh tranh trong lĩnh vực bán lẻ thông qua công nghệ thông tin và xúc tiến các khu vực bán hàng. Một Hệ thống cứu tế hỗ tương cũng đã được thiết lập nhằm hạn chế sự phá sản của Doanh nghiệp vừa và nhỏ…
Trợ giúp về vốn: các biện pháp trợ giúp vốn được sắp đặt bởi ba thể chế tài chính thuộc Chính phủ: Công ty Đầu tư kinh doanh nhỏ, ngân hàng Hợp tác trung ương về thương mại và công nghiệp, Công ty Đầu tư an toàn quốc gia. Trợ giúp có thể dưới dạng các khoản cho vay thông thường với lãi suất cơ bản hoặc các khoản vay đặc biệt với những ưu đãi theo các mục tiêu chính sách.
Trợ giúp về công nghệ và đổi mới: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể được hưởng các chính sách trợ giúp cho hoạt động R&D hoặc tiến hành các hoạt động kinh doanh mới dựa trên công nghệ. Các khoản trợ cấp, bảo lãnh vốn vay và đầu tư trực tiếp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ được tiến hành theo các quy định của Luật xúc tiến các hoạt động sáng tạo của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện các hoạt động kinh doanh mang tính chất đổi mới muốn tăng bằng cách phát hành thêm cổ phần hoặc trái phiếu công ty được trợ giúp bởi các quỷ rủi ro thuộc các địa phương. Còn Hệ thống nghiên cứu đổi mới kinh doanh nhỏ Nhật Bản (SBIR) cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có hoạt động kinh doanh mang tính đổi mới trong các giai đoạn đầu thiết kế sản phẩm hoặc các quy trình sản xuất mới.
Trợ giúp về quản lý: Hoạt động tư vấn quản lý kinh doanh được thực hiện thông qua Hệ thống đánh giá doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mỗi quận, huyện và chính quyền của 12 thành phố lớn đánh giá các điều kiện quản ký của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đưa ra những khuyến nghị cụ thể và cung cấp các hướng dẫn. Viện Quản lý kinh doanh nhỏ và công nghệ thực hiện các chương trình đào tạo cho các nhà quản lý…
Xúc tiến xuất khẩu: Chính phủ Nhật Bản cung cấp những hướng dẫn và dịch vụ thông tin cho doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tạo thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh ở nước ngoài. Chương trình môi giới và tư vấn kinh doanh tạo cơ hội cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản cũng như người nước ngoài có thể đăng ký trực tiếp vào cơ sở dữ kiệu trên mạng Internet và quảng cáo các loại liên kết kinh doanh hoặc liên minh chiến lược mà các doanh nghiệp đang tìm kiếm.
Khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản luôn luôn khẳng định vị trí quan trọng của mình, cho dù có những thăng trầm của nền kinh tế. Với số lượng trên 99% tổng số doanh nghiệp của cả nước, hoạt động trên mọi lĩnh vực, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhật bản đang là là một nguồn hữu hiệu đứng ra chia sẽ khó khăn mà các doanh nghiệp lớn và nền kinh tê đang gặp phải trong những năm gần đây.Với những chính sách trợ cấp của Chính phủ Nhật đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sẽ tiếp tục phát triển mạnh và trở thành một nguồn năng động tạo đà hồi phục và tăng trưởng mới của nền kinh tế Nhật Bản.
1.3 Đài Loan
Đài Loan được coi là vương quốc của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự tăng trưởng kinh tế siêu tốc của Đài Loan trong những thập kỷ vừa qua gắn liền với những đóng góp to lớn về mọi mặt của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt trong hai lĩnh vực quan trọng là tạo việc làm và xuất khuẩu. Trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á vừa qua, nền kinh tế Đài Loan vẫn không bị ảnh hưởng lắm và nó lại càng làm nỗi bật thêm những ưu điểm của hệ thống kinh tế dựa trên doanh nghiệp vừa và nhỏ của hòn đảo này.
Khác với nhiều nước, kể từ năm 1967, Đài Loan luôn luôn có một định nghĩa chính thức về doanh nghiệp vừa và nhỏ được thể chế hoá trong các văn bản luật hoặc nghị quyết của chính phủ.
Định nghĩa doanh nghiệp của Đài Loan đã được sửa đổi nhiều lần và gần đây nhất là vào đầu năm 2000. Các sự sửa đổi này thông thường là nhằm nới lỏng diện những doanh nghiệp được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện nay Đài Loan quy định:
Trong các ngành chế tác, xây dựng và khai mỏ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doang nghiệp có vốn dưới 80 triệu NT$ (khoảng 2,3 triệu USD) hoặc số người lao động thường xuyên dưới 200 người.
Trong các ngành nông nghiệp, lâm sản, ngư nghiệp, gây giống gia súc, nước, điện, năng lượng, khí ga, thương mại, vận tải, nhà kho, liên lac, tài chính, bảo hiểm, bất động sản, dịch vụ công nghiệp, dịch vụ thương mại, dịch vụ xã hội và dịch vụ cá nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp có doanh thu hàng năm dưới 100 triệu NT$ (khoảng 2,9 triệu USD), hoặc số người lao động thường xuyên dưới 50 người.
Năm 1999, Đài Loan có 1.060.738 doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 97,73% tổng số doanh nghiệp. Cho dù số lượng tuyệt đối của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Đài Loan đang tăng khá nhanh nhưng tỷ trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng số doanh nghiệp lại đang giảm sút. Lý do của sự giảm sút này là cấu trúc doanh nghiệp của Đài Loan đang tay đổi hướng về những ngành sử dụng nhiều vốn và có giá trị gia tăng cao.
Tổng số lao động ở Đài Loan năm 1999 là 9.385.000 người. Số người làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ là 7.344.000 người chiếm 78,25% tổng số lao động. ở nhiều nước khác, số lượng lao động chỉ chiếm xấp xỉ 50% tổng lực lượng lao động. Do vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có phần đóng góp nổi bật trong việc giữ cho tỷ lệ thất nghiệp của Đài Loan ở mức rất thấp vài phần trăm.
Doanh thu bán hàng năm 1999 của tất cả các doanh nghiệp đạt 23,851 tỷ NT$ trong đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ đạt 6,095 tỷ NT$.
Có thể nói rằng có được những kết quả như vậy chính là nhờ những chính sách trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ của Đài Loan. Qua gần nửa thế kỷ, những chính sách doanh nghiệp vừa và nhỏ trực tiếp của Đài Loan có một số đặc điểm quan trọng sau đây:
- Thứ nhất, những chính sách doanh nghiệp vừa và nhỏ của Đài Loan được duy trì liên tục với tính hệ thống và kế thừa rất cao ngay sau khi hòn đảo này giành quyền tự chủ về kinh tế từ sự chiếm đóng của Nhật Bản.
Thứ hai, các chính sách được thể chế hoá ở mức độ cao. Việc trợ giúp, bảo vệ doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được đưa vào văn bản pháp lý cao nhất của Đài Loan.
Thứ ba, các chính sách doanh nghiệp vừa và nhỏ của Đài Loan là sự kết hợp tương đối hài hoà giữa những biện pháp tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và những biện pháp trợ giúp trực tiếp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ tư, mạng lưới chính sách doanh nghiệp vừa và nhỏ của Đài Loan, đặc biệt là mạng lưới tư vấn, rất đa dạng và dày đặc. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với những đặc điểm riêng của mình, có thể được nhận những trợ giúp phù hợp nhất qua nhiều kênh, nhiều chương trình khác nhau của Chính phủ.
Như dã nói ở trên, Đài Loan đã ban hành và thực hiện một hệ thống các chính sách doanh nghiệp vừa và nhỏ tương đối hiệu quả và toàn diện. Dưới đây là một số biện pháp và chính sách nỗi bật được Chính phủ Đài Loan thực hiện để trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý trợ giúp cho sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ: trong các năm gần đây, Đài Loan đang xúc tiến sửa đổi một số luật nhằm tạo diều kiện thuận lợi cho các hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong đó có kể đến việc bổ sung năm 1997 một điều khoản về doanh nghiệp vừa và nhỏ vào hiến pháp Đài Loan, sửa đổi Luật Lao động vào năm 1998 nhằm mở rộng việc thuê mướn lao động nước ngoài, sửa đổi Luật Quy chế phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ vào năm 1999, sửa đổi Luật Đất đai, sửa đổi các văn bản pháp lý về bảo vệ môi trường...
Các biện pháp trợ giúp tài chính cho doanh nghiệp vừa và nhỏ: các quỹ quan trọng trợ giúp tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài loan bao gồm Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, Quỹ bảo lãnh tương hỗ, Quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và tập đoàn phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các hệ thống tư vấn dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ: Đài Loan đang xúc tiến thực hiện 10 hệ thống hướng dẫn chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các hệ thống này tạo thành một mạng lưới hướng dẫn dày đặc, với Cục quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ chịu trách nhiệm điều phối tổng thể, cung cấp thông tin, hướng dẫn chẩn đoán ngắn hạn, cung cấp hướng dẫn cho từng trường hợp... Trong năm 2000, 10 hệ thống này đã thực hiện xấp xỉ 100 kế hoạch hướng dẫn, với trên 1000 doanh nghiệp, được hưởng lợi từ kế hoạch này.
Hệ thống các doanh nghiệp trung tâm- vệ tinh: Hệ thống doanh nghiệp trung tâm- vệ tinh (CSPS) là một trong những chính sách trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ quan trọng của Đài Loan. Mục tiêu của việc tạo dựng hệ thống này là nhằm giảm chi phí và nâng cao chất lượng sản phẩm bằng cách phát triển những quan hệ hữu cơ giữa các công ty lớn và các công ty nhỏ.
Trong những năm qua, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Đài Loan đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình trong việc đưa hòn đảo này từ một nền kinh tế thuần nông sang nền kinh tế công nghiệp- dịch vụ hiện đại và mở cửa. Tuy nhiên, đang có những câu hỏi lớn về vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong bối cảnh của hòn đảo này đang chuyển sang một giai đoạn phát triển mới dựa trên các ngành sử dụng nhiều vốn và tri thức. Và đó cũng là câu hỏi đặt ra đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam.
2. Những kết luận về bài học kinh nghiệm với Việt Nam.
Qua kinh nghiệm về phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước trên, thì chúng có thể rút ra một số nhận xét mang tính chất là những bài học kinh nghiệm hết sức cần thiết trong việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta trong thời gian tới là:
Đánh giá đúng vai trò và tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính phủ nên có biện pháp nhằm cải thiện nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước, cán bộ nhà nước cũng như mọi tầng lớp nhân dân về vai trò quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong công cuộc công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước.
Có một định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách thống nhất và áp dụng chung cho nền kinh tế để các chính sách hổ trợ được đúng đối tượng và đúng mục tiêu.
Tạo dựng một môi trường chính sách đồng bộ và rõ ràng, cải cách thủ tục hành chính để xúc tiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính phủ cần thành lập Cục doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiệm vụ quản lý, xây dựng chính sách, kế hoạch, chương trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thiết lập các hệ thống chính sách để khuyến khích và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt trong vấn đề hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ về tài chính, công nghệ, thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm...
Thành lập các tổ chức chuyên giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở cả trung ương và địa phương. Hầu hết các quốc gia đều có các hệ thống tổ chức giúp đỡ này, và nhà nước nên có các chính sách ưu đãi đối với các tổ chức hỗ trợ này.
Sử dụng có hiệu quả cá chính sách ưu đãi về tài chính, thuế và các biện pháp hỗ trợ khác để khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển cân bằng ở các ngành.
Sử dụng có hiệu quả hệ thống pháp luật, chính sách và biện pháp kinh tế vĩ mô để khuyến khích quan hệ hợp tác giửa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với nhau, các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhà nước.
Chương II
Thực trạng phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1990-2001
I/ hiện trạng phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam trong thời gian qua
Trước năm 1986 các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh nói chung, doanh nghiệp tư nhân nói riêng chưa thực sự được sự quan tâm khuyến khích, hỗ trợ phát triển. Một phần do Đảng ta chủ trương: (đối với doanh nghiệp tư bản tư doanh phải cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng con đường công tư hợp doanh (năm 1976 tư bản mại bản và tư sản lớn bị xoá bỏ). Trong việc cải tạo tiểu thủ công nghiệp, Đảng ta chủ trương: “Đối với tiểu thủ công nghiệp, thủ công nghiệp và những ngành dịch vụ cần thiết cho xã hội, phải sắp xếp lại theo ngành dưới sự quản lý của nhà nước”. Để củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong các xí nghiệp quốc doanh. Ngày 21/1/1981 Hội đồng Chính phủ đã ban hành quyết định 25/CP về: “Một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động và sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính cho các xí nghiệp quốc doanh”. Do vậy mà các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tới thời kỳ này thường phải hoạt động núp bóng dưới các hình thức khác nhau như: Tổ hợp gia đình, hợp tác xã, xí nghiệp công tư hợp doanh.
Theo số liệu thống kê sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng riêng trong công nghiệp cả nước có 1913 xí nghiệp công tư hợp doanh (trong đó miền Bắc có 1279 xí nghiệp, miền Nam có 634 xí nghiệp với 520.000 cán bộ, công nhân). Trong đó phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra có hàng vạn cơ sở tiểu thủ công nghiệp với trên 100 nghìn người lao động. Sau hơn 10 năm cải tạo xã hội công chủ nghĩa, đến năm 1985 số doanh nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh trong công nghiệp tăng lên tới 3.220 xí nghiệp, số hợp tác xã, tổ hợp tiểu thủ công nghiệp lên đến 22.971 cơ sở, khu vực tư nhân, cá thể còn 1951 cơ sở.
Sau năm 1986 với Đại hội Đảng VI với chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thừa nhận sự tồn tại của các hình thức sở hữu khác nhau, đã tạo điều kiện thuận lợi và đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cũng từ đó hàng loạt các doanh nghiệp sản xuất tư nhân, cá thể hộ gia đình ra đời và phát triển. Từ năm 1986 đến nay, với các chính sách đổi mới kinh tế chính thức được thừa nhận và tồn tại lâu dài. Tiếp đó, hàng loạt các văn kiện ra đời đã tạo cơ sở pháp lý và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần phát triển sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ được quan tâm đúng mức. Như báo cáo của Thủ tướng Phan Văn Khải đã nói: “việc phát triển và nâng cao hiệu quả các loại hình kinh tế hợp tác, hợp tác xã chưa được quan tâm đúng mức, kinh tế tư nhân trong thực tế còn bị kỳ thị, phân bịêt đối xử, nên chưa giải toả được tâm lý e ngại đầu tư, kinh doanh làm giàu” (Theo báo doanh nghiệp số 48/1999), vì thế khu vực này đã có tốc độ tăng trưởng nhanh, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, đặc biệt tạo việc làm, tăng thu nhập dân cư và làm cho nền kinh tế năng động hơn. Gần 20 năm đổi mới, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã phát triển nhanh chóng về số lượng, từ một con số không đáng kể vào năm 1986 tăng lên tới hơn 30 nghìn doanh nghiệp vào năm 1998 và hiện năy đã hơn 42 nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ (theo số liệu của vụ Doanh nghiệp- Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Các doanh nghiệp này tập trung chủ yếu vào các ngành thương mại dịch vụ, công nghiệp xây dựng và đã tạo công ăn việc làm cho hơn 90% lao động trong cả nước. Theo đánh giá của một số chuyên gia thì sản lượng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng khoảng 60-69% trong tổng sản lượng và chiếm khoảng 25-26% trong GDP.
1. Số lượng và mức vốn đăng ký kinh doanh
Theo quy định tạm thời của Chính phủ doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có số vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động trung bình dưới 200 người. Quy định này củng chỉ rỏ là tuỳ tình hình kinh tế- xã hội của từng địa phương c._.Cung cấp thông tin.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang rất thiếu thông tin về thị trường, công nghệ, luật pháp, kinh tế, khách hàng, đối tác kinh doanh … Do đó cần thiết hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp.
Các giải pháp hỗ trợ thông tin có thể là:
-Thành lập các ngân hàng dữ liệu về các doanh nghiệp vừa và nhỏ, về thị trường, công nghệ, thể chế… để cung cấp hoặc bán cho doanh nghiệp với giá hợp lý.
-Phổ biến các thông tin về pháp luật, chính sách,…thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
-Phổ biến kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh bằng nhiều hình thức.
-Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước, kí kết hợp đồng kinh tế với các đối tác trong và ngoài nước.
-Tổ chức các câu lạc bộ để doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể trao đổi học tập kinh nghiệm của nhau.
-Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ xây dựng cơ sở dữ liệu và sử dụng các quản lý thông tin hiện đại như máy vi tính, mạng thông tin,… để các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc các cơ sở dữ liệu hiện đại trong và ngoài nước.
2. Hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách hỗ trợ.
Hoàn thiện hệ thống chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là vấn đề cấp thiết hiện nay, Vì:
Với số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ khá lớn như hiện nay, các giải pháp hỗ trợ trực tiếp đến tận các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất khó mà chỉ có thông qua chính sách hỗ trợ vĩ mô mới có thể tác động diện rộng. Thực tế trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam cho thấy việc tháo gỡ trong chính sách có tác động rất nhanh chóng tới toàn bộ nền kinh tế. Nhờ đó mà chỉ trong thời gian ngắn đã làm cho Việt Nam từ một nước phải nhập khẩu gạo (trên 40 vạn tấn/ năm) thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới (gần 2 triệu tấn/ năm)
Mặc dù các chính sách của Nhà nước hiện nay có vai trò to lớn trong việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng trong chính sách còn nhiều trở ngại cho phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là trong chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Dưới đây là một số đề xuất về đổi mới chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
2.1. Chính sách tín dụng.
Bao gồm việc tạo lập, huy động và sử dụng vốn. Các giải pháp về tháo gỡ vốn có vai trò rất lớn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cần thiết phải có hai nhóm giải pháp tác động đến tình hình vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ: chính sách vốn chung (tác động tới toàn bộ nền kinh tế, trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ) và chính sách vốn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ .
* Chính sách vốn chung: Chính sách vốn có tác động mạnh đến việc cải thiện tình hình vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn an toàn, thuận lợi và có hiệu quả, cần thiết phải đổi mới theo hướng:
-Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ: có chính sách chống độc quyền kinh doanh ngân hàng, giảm mức dự trữ bắt buộc, Nhà nước chỉ nên điều tiết lãi suất bằng phương pháp thị trường mở và dự trữ bắt buộc, điều chỉnh lãi suất trần một cách linh hoạt sát với cung cầu vốn trên thị trường. Việc khống chế mức lãi suất trần cứng nhắc như hiện nay sẽ làm hoạt động cho vay của các ngân hàng bị hạn chế đáng kể.
-Mở rộng cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng: giải pháp này nhằm thiết lập lãi suất thị trường thực sự, ổn định lãi suất, giảm bớt phiền hà cho khách hàng trong việc vay vốn.
-Giảm bớt các thủ tục vay vốn: mở rộng mạng lưới cho vay và các hình thức huy động, khuyến khích cạnh tranh hợp pháp.
-Phát triển quỹ tín dụng nhân dân.
-Phát triển các định chế tài chính cung cấp vốn trung và dài hạn như thị trường chứng khoán, thị trường vốn trung - dài hạn.
-Khuyến khích các doanh nghiệp huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu…
* Chính sách và các giải pháp về vốn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ như trên đã phân tích, do yếu thế nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tiếp cận với các nguồn vốn. Vì vậy, ngoài chính sách vốn chung cho các doanh nghiệp, cần thiết phải có ưu đãi vốn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để hỗ trợ cho các doanh nghiệp này phát triển bình thường. Để hỗ trợ vốn có hiệu quả cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần thiết phải đổi mới chính sách vốn đối với các doanh nghiệp này theo hướng ưu đãi lãi suất và khuyến khích thành lập các trung tâm hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ :
-Ưu đãi lãi suất: như trên đã phân tích, lãi suất tiền vay là khá cao đối với các doanh nghiệp và càng cao đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, do số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế khá lớn, mà nguồn tài chính lại có hạn nên không thể ưu đãi tất cả các doanh nghiệp này. Do vậy, trong chính sách ưu đãi vốn (khác với ưu đãi thuế) cần chọn đúng đối tượng thì với nguồn lực ít mới có thể hỗ trợ hiệu quả. Chỉ nên ưu đãi lãi suất cho các doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh hiệu quả, các doanh nghiệp gắn với nhiệm vụ chiến lược và hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư vào công nghệ mới, sản xuất thử, nghiên cứu khoa học, đào tạo nghề, các hoạt động dịch vụ tư vấn,… Tuy nhiên, để có thể hỗ trợ được nhiều doanh nghiệp trong điều kiện nguồn tài chính có hạn, cần phải có các giải pháp đặc biệt. Một trong những giải pháp đó là trợ cấp lãi suất cho đối tượng được hỗ trợ, tức là bù chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay.
- Thành lập các quỹ hỗ trợ: huy động các nguồn vốn để thành lập quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các nguồn đó có thể là: từ ngân sách Nhà nước trung ương, địa phương, từ các doanh nghiệp lớn, từ các tổ chức trong và ngoài nước. Quỹ này có thể do Nhà nước quản lý và cũng có thể thuê một trung tâm chuyên trách quản lý. Việc sử dụng quỹ này do Nhà nước quản lý với sự nhất trí của nhà tài trợ thông qua trung gian là người chuyên trách về vốn (thường là ngân hàng). Quỹ này hỗ trợ cho các hoạt động như: đào tạo chủ doanh nghiệp, đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ, trung tâm tư vấn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hoạt động về cung cấp thông tin kinh tế, khoa học, công nghệ… cần thiết cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
-Thành lập trung tâm bảo lãnh: đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một trong những khó khăn lớn nhất là không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Do đó cần tổ chức trung gian làm cầu nối giữa doanh nghiệp và ngân hàng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn. Một trong các hình thức đó là quỹ bảo lãnh tín dụng vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn, vừa là hình thức ràng buộc chặt chẽ giữa người vay (doanh nghiệp) và người cho vay (ngân hàng), tổ chức trung gian (các công ty bảo lãnh) và Nhà nước, nhờ đó mà giảm bớt mức độ rủi ro khi vay vốn.
2.2. Chính sách đất đai
Đất đai là một yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh phổ biến là nhỏ bé, phân tán, diện tích mặt bằng chật hẹp, phải tận dụng nhà ở để sản xuất. Các cơ sở này gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng mặt bằng sản xuất. Nguyên nhân một phần do các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu vốn, giá đất cao, phần khác do còn nhiều vướng mắc trong những qui định hiện hành như: quyền sở hữu sử dụng đất không rõ ràng, dứt khoát… Để góp phần tháo gỡ những khó khăn về đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, cần thiết phải có những giải pháp tháo gỡ như:
-Nghiên cứu sửa đổi các qui định hiện hành chưa phù hợp, đặc biệt là vấn đề thời hạn giao đất, việc quyền sử dụng đất.
-Mở rộng quyền cho chính quyền địa phương trong việc cấp đất sử dụng vào mục đích sản xuất và cho thuê đất.
-Cho thuê, đấu thầu những cơ sở sản xuất bị giải thể.
-Tăng thời hạn sử dụng và miễn, giảm thuế đối với phần vốn bỏ vào việc mở mang đất đai, tận dụng đất thừa, ao hồ, đầm lầy,… để đưa vào sản xuất.
-Đơn giản hóa thủ tục thuê đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp, khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả kinh tế – xã hội cao hơn.
-Tiến tới cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực ngoài quốc doanh được hưởng những quyền lợi về sử dụng đất như với các doanh nghiệp Nhà nước: được Nhà nước giao quyền sử dụng đất, được thuê đất theo giá như doanh nghiệp Nhà nước phải trả, được hưởng đầy đủ 5 quyền lợi với người có quyền sử dụng đất như Luật Đất đai (1993) đã qui định.
-Hình thành các khu công nghiệp tập trung để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Khuyến khích các doanh nghiệp liên kết xây dựng hạ tầng để cho thuê mặt bằng, nhà xưởng với giá ưu đãi, đó là cách thức xây dựng “khu công nghiệp nội địa” mà thành phố Hà Nội đang làm.
2.3. Chính sách thuế
Thời gian qua, Việt Nam đă xây dựng được một hệ thống thuế khoá toàn diện cho nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề nảy sinh cần phải giải quyết là các mức thuế còn quá cao so với các nước trong khu vực, có quá nhiều loại thuế và các mức thuế khác nhau, đễ khuyến khích đầu tư hoặc các hoạt động ưu đãi khác mà nhiều trường hợp giảm thuế và lúc đó lại có quá nhiều mức thuế suất để áp dụng. Những đặc điểm này đã làm cho hệ thống thuế trở nên phức tạp và dẫn tới sự phân biệt đối xử đối với những người nộp thuế. Kinh nghiệm đã cho thấy, thuế suất hợp lý thì thu được thuế cho ngân sách nhà nước, ngược lại thuế suất quá cao thì người dân sẽ tìm mọi cách để tránh thuế. Cùng với mức thu nhập tương đối thấp của các nhân viên thu thuế, các vấn đề này cũng tạo ra những động cơ mạnh mẽ và những cơ hội cho việc thương lượng giữa các người nộp thuế và nhân viên thu thuế về mức thuế phải nộp. Khi thuế suất quá cao, nhũng người nộp thuế sẽ cố gắng trốn thuế một cách hợp pháp thông qua các khe hở của pháp luật (được tạo bởi những trường hợp miễn giảm thuế và nhiều loại thuế suất) hoặc trốn lậu thuế bất hợp pháp bằng cách che dấu thu nhập, làm sai sổ sách kế toán hoặc hối lộ nhân viên thu thuế. Kết quả nói chung là thu hẹp ngân sách nhà nước.
Khi đã ý thức được các vấn đề này, thì chúng ta cần đổi mới chính sách thuế theo hai nội dung:
* Hệ thống thuế chung đổi mới theo các hướng:
-Đơn giản hóa hệ thống thuế suất, hạ mức thuế suất.
-Tránh đánh thuế chồng chéo (sớm chuyển hết sang thuế GTGT).
-Cải cách cơ chế định– thu (nộp)- kiểm tra thuế theo hướng có sự độc lập giữa các bộ phận này và có thể kiểm tra lẫn nhau.
-Thực hiện cơ chế tự khai báo mức thuế, Nhà nước kiểm định và doanh nghiệp tự nộp thuế…
-Bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đồng thời ưu tiên các doanh nghiệp trong nước hơn các doanh nghiệp nước ngoài. Hiện nay có tình trạng trái ngược: các doanh nghiệp có vốn đầu tư ngoài có nhiều ưu thế hơn, mạnh hơn thì chỉ nộp thuế lợi tức10-15% trong khi đó các doanh nghiệp trong nước phải nộp thuế lợi tức tới 35-50%.
* Chính sách thuế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: cần đổi mới theo hướng mở rộng đối tượng được ưu đãi thuế, tăng mức độ ưu đãi thuế, tăng mức độ ưu đãi,…
-Mở rộng đối tượng được ưu đãi: đến nay các chính sách thuế của Nhà nước, loại đối tượng được ưu đãi về thuế không nhiều, chỉ các doanh nghiệp mới thành lập sau 1993 (mà phần lớn đã quá hạn 2 năm được ưu đãi như luật định), các doanh nghiệp ở vùng núi, hải đảo một số doanh nghiệp trong ngành chế biến nông sản. Như vậy là trong chính sách ưu đãi thuế chưa quan tâm đến sự yếu ớt của các doanh nghiệp vừa và nhỏ để hỗ trợ các doanh nghiệp này đứng vững và kinh doanh có hiệu quả. Do đo trong chính sách thuế cần mở rộng đối tượng hơn nữa, như vậy mới nuôi dưỡng được nguồn thu, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích lũy để phát triển sản xuất, mở rộng qui mô.
-Tăng mức độ ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ: thời gian qua, mức ưu đãi đã tăng lên nhưng vẫn còn rất dè dặt, chỉ miễn, giảm thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ 1-2 năm, trong khi mức ưu đãi thuế ở nhiều nước là từ 4-5 năm. Hơn nữa mức giảm thuế còn thấp, số đối tượng được miễn giảm thuế còn ít. Do đó, để các doanh nghiệp có tích lũy ban đầu cho phát triển sản xuất thì cần thiết phải tăng mức ưu đãi thuế từ 3 đến 5 năm. Miễn thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư công nghệ hiện đại, công nghệ sạch. Miễn thuế cho các khâu như chi phí đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp cũng như đầu tư vào sản xuất sản phẩm mới.
-Có hình thức và mức độ ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, huy động nhiều vốn. Hiện nay đang có tình trạng doanh nghiệp càng huy động nhiều lao động (chi phí biên tăng lên) thì mức thuế càng cao. Như vậy sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng qui mô. Các nước phát triển đều có chính sách để mở rộng qui mô doanh nghiệp, vì qui mô quá nhỏ sẽ không có hiệu quả.
2.4. Đổi mới chính sách thương mại, hỗ trợ xuất khẩu.
- Tiếp tục thu hẹp các mặt hàng cấm xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng xuất khẩu có điều kiện. Điều kiện để xuất khẩu những mặt hàng hạn chế xuất khẩu cần có quy định rõ ràng để tránh hiện tượng phân biệt đối xử trong cấp giấy phép, nhất là giữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp nhà nước.
- Thành lập Quỹ tín dụng xuất khẩu để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia xuất khẩu bao gồm: (1) Hình thức tín dụng và hạn mức tín dụng; (2) Mức lãi suất và thế chấp; (3) Nguồn tài chính của Quỹ; (4) Quan hệ với Quỹ hỗ trợ xuất khẩu thành lập theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước; (5) Quan hệ với các ngân hàng thương mại.
- Xoá bỏ cơ chế “đầu mối xuất khẩu” đối với một số mặt hàng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ động hơn trong việc tìm đối tác xuất nhập khẩu. Nếu có cũng chỉ nên thông qua một hiệp hội xuất nhập khẩu do các thành viên tham gia hoàn toàn với tư cách tự nguyện.
- Thành lập Hệ thống bảo hiểm xuất khẩu nhằm mục tiêu hạn chế những rủi ro đi liền với hoạt động xuất khẩu. Bao gồm một số hình thức bảo hiểm như bảo hiểm xuất khẩu toàn bộ, bảo hiểm hoá đơn xuất khẩu, bảo hiểm rủi ro ngoại hối, bảo hiểm hợp động công nghệ, bảo hiểm bảo đảm xuất khẩu,...
- Cải cách thủ tục hải quan: Đơn giản hoá các thủ tục trong việc mở tờ khai hải quan, nghiên cứu việc sử phạt một cách hợp lý khi chủ hàng tính thuế sai, rút ngắn quy trình khai. ..
Hiên nay thương mại điện tử đang trở thành một phương thức thương mại hiện đại phá vỡ dần những quan niệm về không gian cũng như thời gian trong thương mại. Chính phủ cần hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tìm hiểu và khai thác hình thức thương mại điện tử này. Với thương mại điện tử, các doanh nghiệp vừa và nhỏ dù ở miền núi xa xôi cũng có thể tiếp cận được với thị trường thế giới, thông qua đó những khó khăn về địa cư, quy mô đã được khắc phục một phần. Trong thời gian tới, Chính phủ cần hỗ trợ các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề tiếp cận với thương mại điện tử, mở các trang Web để quảng bá sản phẩm, dịch vụ của mình.
2.5. Chính sách phát triển nguồn nhân lực.
Các nhà doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Họ là người trực tiếp sử dụng các nguồn lực để tạo ra của cải vật chất, trực tiếp quản lý người lao động. Do đó nhiều nước rất chú trọng phát triển đội ngũ này. Tại Việt Nam, đội ngũ các nhà kinh doanh hiện nay còn nhiều vấn đề bất cập. Do đó cần thiết phải đào tạo các nhà kinh doanh: cung cấp kiến thức về luật pháp, kinh tế, công nghệ quản lý… Các hình thức đào tạo có thể là:
-Mở các lớp ngắn hạn đào tạo về kinh doanh và pháp luật …
-Thành lập các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng về quản lý doanh nghiệp.
-Khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo nghề cho các doanh nghiệp như: miễn, giảm thuế, cho vay ưu đãi, cấp vốn…
-Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tìm hiểu thị trường ngoài nước.
-Đầu tư cho các trung tâm dạy nghề hiện có ở các địa phương, xây dựng các trung tâm mới đáp ứng với nhu cầu đào tạo nghề hiện nay.
-Sử dụng quỹ đào tạo lại cho cả việc đào tạo nghề ở các doanh nghiệp.
-Khuyến khích các doanh nghiệp tự đào tạo, trích một phần trong thuế nghĩa vụ của doanh nghiệp giữ lại làm thuế đào tạo, giảm phần chi phí đào tạo trong tổng thu nhập chịu thuế cho các doanh nghiệp (như dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp).
2.6. Chính sách hỗ trợ phát triển công nghệ.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do giới hạn chế về quy mô va nguồn tài chính, nên khả năng tiếp cận thị thường công nghệ không phải là công nghệ hiện đại và tiên tiến nhất trên thế giới mà là sự lựa chọn công nghệ phù hợp và tối ưu đối với mình. Vì vậy, các biện pháp để hoàn thiện việc tiếp cận công nghệ của doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ như sau:
* Cho phép khấu hao nhanh máy móc và thiết bị với một khoản thuế khấu trừ khi xác định thuế lợi tức. Đễ khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư cho máy móc và thiết bị mới, thuế thu nhập doanh nghiệp cần cho phép khấu trừ nhanh máy móc và thiết bị mới. So với giá trị khấu hao theo "đường thẳng", khấu hao nhanh cho phép khấu trừ giá trị máy móc và thiết bị ở mức độ cao hơn. Điều này có ý nghĩa rất lớn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì họ đã có thể bớt ra một phần để có thể đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
* khuyến khích các hợp đồng thuê tài chính, thuê mua và bán trả góp để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận hoặc nâng cấp máy móc thiết bị mới một cách tốt hơn. Nhièu doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng mua máy móc mới, đồng thời các doanh nghiệp này rất khó vay các khoản tín dụng từ ngân hàng. Hình thức thuê mua là một giải pháp cho vấn đề này bởi vì các doanh nghiệp có thể mua máy móc, thiết bị mới nâng cấp sử dụng cho hoạt động kinh doanh của mình mà họ không phải thanh toán toàn bộ số tiền khi mua hàng. Thay vào đó, họ phải trả số tiền thuê máy móc nhỏ hơn nhiều. Mua trả góp có một hiệu quả tương tự, cho phép doanh nghiệp thanh toán tiền mua máy móc trong một khoảng thời gianthay vì phải thanh toán ngay khi mua hàng. Do đó các văn bản pháp luật cần tạo điều kiện thuận lợi để các thoả thuận thuê tài chính, thuê mua và các hợp đồng trả góp đượcthực hiện dể dàng nhằm giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận được với máy móc thiết bị công nghệ mới.
* Tiếp tục loại bỏ những quy định về luật pháp và chính sách đối với việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay vốn còn những trở ngại ngăn cản các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận với công nghệ mới, việc loại bỏ những trở ngại này và việc hoàn thiện khả năng tiếp cận công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể thực hiện theo các biện pháp sau đây:
- Chính sách, cơ chế kinh tế của nhà nước phải tạo được nhu cầu đổi mới công nghệ, khuyến khích đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Nhà nước hỗ trợ tập trung cho các nghiên cứu cơ bản có định hướng ứng dụng để chuẩn bị cho sự hình thành các ngành sản xuất mới.
- Chỉ nên quy định khung giá cho các hợp đồng chuyển giao công nghệ có liên quan đến ngân sách nhà nước, không nên áp đặt giá hợp đồng chuyển giao của các doanh nghiệp, đơn giản hoá việc phê chuẩn hợp đồng chuyển giao công nghệ.
- Nhà nước chấp nhận cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhập khẩu một số thiết bị đã qua sử dụng trong một số lĩnh vực phù hợp với khả năng vốn và kỹ thật của doanh nghiệp. Điều này cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ nâng cao năng lực sản xuất của mình một cách tiết kiệm hơn mà vẫn không biến đất nước thành một “bãi rác” của những máy móc hư hỏng.
- Thành lập “Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật”, trung tâm sẽ cung cấp các dịch vụ về các vấn đề mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp phải.
- Giảm chi phí sử dụng Internet xuống ngang với mức đang được áp dụng ở các nước Đông Nam á khác. Internet đã trở thành một nguồn thông tin chủ yếu mà ở đó các công nghệ và bí quyết kỹ thuật có thể dược chuyển tới những công dân bình thường. Việc truy cập Internet là một yếu tố cần thiết để các công dân Việt Nam có thể học hỏi những công nghệ mới.
3. Phát triển mạng lưới các tổ chức tư vấn trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hiện nay, đã có nhiều tổ chức phi chính phủ thực hiện các dịch vụ tư vấn, xúc tiến, trợ giúp được hình thành và hoạt động, hình thành một mạng lưới đa dạng và phong phú phục vụ doanh nghiệp. Đại thể có thể chia ra ba lĩnh vực như: (1) tư vấn phát triển kinh doanh: tư vấn về thị trường, tìm kiếm nguồn lực tài chính, tư vấn đầu tư, ứng dụng công nghệ mới, lập kế hoạch/dự án kinh doanh,...; (2) tư vấn về quản trị doanh nghiệp: tư vấn về kỹ năng quản lý sản xuất, quản lý nhân sự, tiền lương, về pháp luật,...; và (3) là mở các lớp đào tạo ngắn ngày về từng chuyên đề, tổ chức tham quan trong nước và ra nước ngoài, giúp đỡ triển lãm hàng hoá có chất lượng cao,... Hoạt động của các tổ chức tư vấn đó đã đóng góp nhất định trong việc trợ giúp các doanh nghiệp từ lúc khởi nghiệp kinh doanh cho đến trong suốt quá trình kinh doanh.
Như vậy trên thực tế, thị trường tư vấn đã hình thành và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, thị trường tư vấn được hình thành một cách tự phát, thiếu một chiến lược phát triển dài hạn và một cơ chế thích hợp. Trong tình hình đó, bản thân bản thân các tổ chức tư vấn cũng đang tự mình mày mò để hoạt động; đồng thời cũng còn nhiều doanh nghiệp chưa có thói quen sử dụng các loại hình dịch vụ tư vấn một cách bài bản như một loại dịch vụ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, vì vậy:
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ: cần khuyến khích sử dụng rộng rãi hơn nữa các dịch vụ tư vấn trong hoạt động của mình, từ khi khởi sự kinh doanh cũng như trong toàn bộ quá trình kinh doanh của mình, coi đây là một dịch vụ chất xám cung cấp một cách khách quan và độc lập cho khách hàng nhằm trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ xác định hoặc phân tích các vấn đề liên quan đến quản lý, khuyến nghị các giải pháp và trợ giúp thực hiện khi có yêu cầu. Mục đích cuối cùng của tư vấn là nâng cao hiệu quả và hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ, qua đó góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội.
Đối với Nhà nước: thì càng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy mở mang nhanh chóng ngành dịch vụ tư vấn, cụ thể là 5 điểm sau đây:
- Hình thành khung pháp lý cho các hoạt động dịch vụ tư vấn, khẳng định tư vấn là một nghề và có những chính sách ưu đãi thích hợp, tạo sân chơi bình đẳng giữa các tổ chức tư vấn thuộc cơ quan nước, các đoàn thể và tư vấn dân doanh. Nghiên cứu định chế về hoạt động uỷ quyền, tạo điều kiện cho các công ty tư vấn có thể tiến hành các công việc như một đại diện uỷ quyền có tư cách pháp nhân cho thân chủ.
- Xây dựng một hệ thống quy chế về bảo hiểm tư vấn cho hoạt động của tổ chức tư vấn để tăng sự tín nhiệm của khách hàng; Mức độ bảo hiểm và bảo lãnh đối với từng loại hợp đồng tư vấn phải thật phù hợp, tránh gây khó khăn cho các nhà tư vấn.
- Về thuế, nên coi đây là một loại hình dịch vụ chất xám cần được khuyến khích, không nên xếp ngang hàng với các dịch vụ kinh doanh thương mại khác: cần phải xem lại thuế VAT đối với các dịch vụ tư vấn không nên đánh thuế với thuế suất là 10% hay 5% mà phải giảm bớt thuế suất; bãi bỏ quy định về giá trần đối với các chi phí tư vấn hoặc những khoản không hợp lý khác liên quan đến hoạt động tư vấn như khống chế chi phí viết điều lệ cho các doanh nghiệp cổ phần hoá nhỏ hơn 2 triệu đồng.
- Mở rộng việc giới thiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng những loại hình cũng như những tổ chức tư vấn đang hoạt động để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng lựa chọn và tiếp cận với các tổ chức tư vấn phù hợp, thuận tiện nhất đối với mỗi doanh nghiệp.
- Có chính sách khuyến khích việc đào tạo nhũng người hành nghề tư vấn, nhằm chuyên môn hoá ngành, nghề tư vấn, nâng cao trình độ cũng như kiến thức nghề nghiệp cho chuyên gia tư vấn. Có chính sách giữ lại các chuyên gia giỏi, khắc phục tình trạng các chuyên gia giỏi chuyển sang làm việc cho các tổ chức nước ngoài sau khi đã được đào tạo, tích luỹ kinh nghiệm từ các tổ chức tư vấn trong nước.
4. Hỗ trợ kỹ thuật và cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng kinh tế là điều kiện cơ bản, là tiền đề rất quan trọng thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp. ở nhiều vùng trong cả nước, cơ sở hạ tầng như giao thông, điện, nước kém phát triển. Đó là trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng rất tốn kém, chậm thu hồi vốn và ít sinh lãi nên các doanh nghiệp không muốn đầu tư. Hơn nữa, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ sức đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Do đó rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước. Theo kinh nghiệm của các nước thì đây là một trong những lĩnh vực hỗ trợ chủ yếu của Nhà nước. Tuy nhiên do ngân sách Nhà nước trung ương và địa phương còn hạn chế nên cần:
-Đầu tư theo trọng điểm, tập trung vào các công trình mang lại hiệu quả kinh tế– xã hội cao.
-Kết hợp Nhà nước, địa phương và nhân dân cùng làm. Tại một số địa phương đã có một số mô hình có hiệu quả: kết hợp giữa vốn của nhà nước, một phần vốn và quản lý của địa phương với một phần vốn và lao động của dân, của các doanh nghiệp .
Trước hết, cần nhanh chóng ban hành Nghị định về cơ chế, chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ để làm cơ sở pháp lý cho việc hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.
Kết luận
Như một tác động của quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đã phát triển nhanh chóng, đồng thời có những đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế quốc dân. Mặc dù vậy sự phát triển của các doanh nghiệp này trong những năm qua còn rất nhiều hạn chế, điều đó phần nào chứng tỏ tiềm năng của chúng ta còn chưa được khai thác triệt để.
Vì thế thông qua Chuyên đề tốt nghiệp này bằng phương pháp nghiên cứu khoa học, trên cơ sở phân tích, tổng hợp, đánh giá và rút ra những vấn đề cấp thiết cho công tác nghiên cứu, phần nào đã làm sáng tỏ được tình hình thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay, và cũng phần nào thấy rõ được những khó khăn tồn động của doanh nghiệp vừa và nhỏ, từ đó đưa ra một số giải pháp hữu hiệu nhất nhằm khuyến khích sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp phần vào tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Do điều kiện và khả năng nghiên cứu có hạn, Luận văn này khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả hy vọng sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp chân thành từ các Thầy cô giáo và bạn bè, cùng những người quan tâm đến sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay.
Tài liệu tham khảo
- Vũ Quốc Tuấn- Hoàng Thu Hoà: “Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh nghiệm nước ngoài và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam”. NXB bản thống kê, 2001.
- Goro Ono: “Chính sách công nghiệp cho công cuộc đổi mới, một số kinh nghiệm của Nhật Bản” NXB chính trị quốc gia. Hà Nội, 1998.
- Đảng cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX”, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2001.
- UNDP và MPI/DSI “Việt Nam hướng tới 2010”, nhà xuất bản chính trị quốc gia, T11/ 2001.
- Niên giám thống kê 1999, 2000.
- “Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội Trung Quốc 1996-2050”.
- Vụ hợp tác kinh tế đa phương- Bộ Ngoại giao: “Những cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, 2001
- “Luật Doanh nghiệp”: NXB chính trị quốc gia. Hà Nội, 1999.
- “Kinh tế Việt Nam”, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, 2002.
- Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân số 1..10 do chương trình phát triển dự án Mê Kông MPDP thực hiên, năm 2000
- Tạp chí phát triển kinh tế các số:114; 118; 121 năm 2000.
- Tạp chí cộng sản các số 4, 18/2001; số 1, 9/2002.
- Ngoài ra còn có một số tạp chí khác như: Nghiên cứu lý luận, Thông tin lý luận, Luật kinh tế, Thời báo kinh tế sài gòn, Báo Đầu tư,...
Phụ lục bảng biểu và đồ thị
* Các bảng biểu sử dụng trong Luận văn:
Bảng 1 : Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước................5
Bảng 2 : Định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số nước.......................7
Bảng 3 : Tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam...................10
Bảng 4 : Cơ cấu trong GDP theo thành phần kinh tế từ năm 1999-200..….......15
Bảng 5 : Tốc độ tăng việc làm phân theo khu vực thể chế...............................18
Bảng 6 : Thống kê các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo hai tiêu
Chí lao động và vốn...........................................................................30
Bảng 7 : Số lượng các doanh nghiệp mới thành lập....….................................30
Bảng 8 : Số lượng và số vốn Đăng ký của các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh giai đoạn 1991-2002.............................................31
Bảng 9 : Tỷ trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo tiêu chí
vốn trong các loại hình doanh nghiệp................................................32
Bảng 10: Số lượng và vốn của các loại hình doanh nghiệp mới thành lập.......33
Bảng 11: Quy mô của các loại hình doanh nghiệp..........................................34
Bảng 12: Mức vốn trung bình của từng loại hình doanh nghiệp..................…35
Bảng 13: Cơ cấu doanh nghiệp vừa và nhỏ theo ngành và số lao động...........36
Bảng 14: Các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân phân
theo ngành kinh tế năm 1999.......................................................... 38
Bảng 15: Tỷ trọng lao động trong các loại hình doanh nghiệ......................... 39
Bảng 16: Cơ cấu lao độngphân theo thành phần kinh tế năm 2001(%)...........40
Bảng 17: Cơ cấu lao động trong doanh nghiệp theo khả năng
chuyên môn.......................................................................................41
Bảng 18: Phân bố doanh nghiệp khu vực tư nhân theo vùng lãnh thổ..............42
Bảng 19: Tỷ lệ đóng góp vào tăng trưỏng xuất khẩu của các doanh nghiệp....43
Bảng 20: Tỷ trọng xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp............................... 44
Bảng 21: Dự báo tỷ trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong GDP.........64
* Các Đồ thị sử dụng trong Luận văn
Đồ thị 1:Cơ cấu nguồn vốn doanh nghiệp vừa và nhỏ.....................................10
Đồ thị 2:Sự tăng trưởng của các doanh nghiệp tư nhân...................................31
Đồ thị 3: Xuất khẩu năm 2001 của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
qua các châu lục..............................................................................45
mục lục
Trang
Lời nói đầu
Phụ lục bảng Biểu và đồ thị.................................................................80
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0058.doc