Lời mở đầu
Trong hoạt động của nền kinh tế, với tư cách là một trung gian tài chính, Ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện chức năng điều hoà vốn thông qua nghiệp vụ huy động vốn nhàn rỗi trong các bộ phận dân cư và thực hiện cho vay đối với các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và các bộ phận dân cư khác. Với chức năng cơ bản này, NHTM đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động của nền kinh tế, đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất, là cầu nối giữa đầu tư và tiết kiệm, g
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1432 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số ý kiến về thẻ ngân hàng và quản lý rủi ro trong kinh doanh thẻ tại Sở Giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Vịêt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iữa doanh nghiệp với thị trường, giúp nền kinh tế vận hành tốt. Bên cạnh đó, NHTM có chức năng vô cùng quan trọng khác mà thiếu nó NHTM không còn là một trung gian tài chính của nền kinh tế, đó là chức năng thanh toán. Thực hiện tốt chức năng này là điều kiện để NHTM hoạt động có hiệu quả, thu lợi nhuận và hơn nữa, giúp cho NHTM hoàn thành tốt tất cả các chức năng khác. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp các dịch vụ tài chính và kinh doanh tiền tệ khác.
Để thực hiện chức năng trung gian thanh toán, hệ thống ngân hàng đã ban hành nhiều hình thức thanh toán khác nhau và ngày một hoàn chỉnh theo yêu cầu thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ của nền kinh tế. Cho đến những năm giữa của thế kỷ XX, các công cụ thanh toán đã trở nên hoàn hảo hơn nhờ tính chất phi tiền mặt của nó.Và đỉnh cao của sự phát triển các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt là sự ra đời của công cụ thanh toán mới: tiền điện tử - thẻ ngân hàng.Trong bối cảnh nền tài chính tiền tệ Việt Nam hiện nay, thẻ ngân hàng - công cụ chính của dịch vụ ngân hàng bán lẻ đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam, có tác động lớn đến chính sách tiền tệ cũng như đến hiệu quả kinh doanh của các NHTM. Việt Nam với dân số gần 80 triệu dân thực sự là một thị trường có tiềm năng lớn trong lĩnh vực phát triển thẻ ngân hàng.
Cùng với quá trình trên, Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam là một trong những ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực áp dụng thẻ ngân hàng. Tuy nhiên, lĩnh vực thẻ vẫn còn rất mới mẻ đối với các ngân hàng trong nước trong đó có Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiêp và phát triển nông thôn. Để đóng góp hơn nữa cho quá trình phát triển và hoàn thiện hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt mà thanh toán thẻ điện tử là hình thức thanh toán hiện đại, tiên tiến, sau quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, Em đã chọn đề tài: “ Một số ý kiến về thẻ ngân hàng và quản lý ruỉ ro trong kinh doanh thẻ tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Vịêt Nam ” làm Khóa luận tốt nghiệp. Khóa luận gồm 3 chương:
Chương I : Những lý luận cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt và thẻ ngân hàng trong nền kinh tế thi trường.
Chương II : Thực trạng phát hành, thanh toán, quản lý rủi ro trong kinh doanh thẻ ngân hàng tại Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động và tăng cường quản lý rủi ro trong kinh doanh thẻ taị Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Do thời gian có hạn, trình độ và kinh nghiêm thực tế còn hạn chế, bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót nhát định, vì vậy , em kính mong nhận được sự góp ý bổ sung của các thầy cô giáo, các cán bộ sở giao dịch cùng toàn thể các bạn để em có thể hoàn thiện hơn kiến thức của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Ngày 09 tháng 5 năm 2004
Sinh viên
Nguyễn Thị Diệu Hương
chương I: những lý luận cơ bản về
thanh toán không dùng tiền mặt và thẻ ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.1. tổng quan về thanh toán không dùng tiền mặt.
1.1.1 Sự cần thiết và vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong hoạt động kinh tế.
1.1.1.1 Sự cần thiết của thanh toán không dùng tiền mặt.
Như chúng ta đã biết, sự ra đời và phát triển của lưu thông tiền tệ gắn liền với quá trình ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sở dĩ như vậy là do yêu cầu của quá trình trao đổi hàng hoá mà tiền tệ đã ra đời với vai trò làm trung gian trao đổi các loại hàng hoá được thực hiện dễ dàng, nhanh chóng góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Quá trình tái sản xuất xã hội là một quá trình liên hoàn và không ngừng mở rộng, trong đó tồn tại các quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá dịch vụ do đó không thể không có hoạt động thanh toán.
Khi nền sản xuất còn ở trình độ thấp, thanh toán tiền tệ chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng với khối lượng nhỏ, việc thanh toán được thực hiện bằng việc chi trả tiền mặt, sự vận động của vật tư hàng hoá gắn liền với sự vận động của một khối lượng tiền mặt nhất định. Thanh toán bằng tiền mặt lúc này tỏ ra là phương thức thanh toán hữu hiệu nhất, nó được thực hiện rất linh hoạt tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên mua bán mà ít gặp trở ngại.
Tuy nhiên, khi sản xuất hàng hoá phát triển ở trình độ cao hơn, khối lượng sản phẩm sản xuất nhiều hơn thì trao đổi hàng hoá không chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng mà mở rộng ra cả nước và quốc tế.
Lúc này, thanh toán bằng tiền mặt đã bộc lộ những hạn chế nhất định như chi phí tốn kém trong việc in ấn, bảo quản, vận chuyển, kiểm đếm, không đáp ứng các nhu cầu thanh toán lớn, ở xa và nó trở nên không an toàn. Chính vì vậy, đòi hỏi phải có một hình thức thanh toán mới để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, thanh toán không dùng tiền mặt ra đời.
Thanh toán không dùng tiền mặt ( TTKDTM ) là sự vận động của tiền tệ qua chức năng phương tiện thanh toán nhằm phục vụ các quan hệ thanh toán giữa các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội bằng cách trích chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản này sang tài khoản khác, hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của Ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng .
TTKDTM ra đời là kết quả tất yếu của quá trình phát triển ngày càng cao của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, nó nhanh chóng chiếm ưu thế và trở thành một phần không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. TTKDTM ra đời đã khắc phục được nhược điểm của thanh toán bằng tiền mặt. Có thể nói, TTKDTM mang lại hiệu quả cao, thể hiện một nền kinh tế đã và đang phát triển, các mối quan hệ về kinh tế, tài chính đã mở rộng, hoạt động của hệ thống Ngân hàng ngày càng đa dạng và phong phú. Việc phát triển các hình thức TTKDTM và hiện đại hoá các nghiệp vụ ngân hàng là minh chứng hiện thực cho sự tồn tại và phát triển hợp logic cũng như vai trò, vị trí của hệ thống Ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, có thể nói TTKDTM là phương tiện thanh toán không thể thiếu được, nó là nấc thang phát triển tất yếu của các quan hệ thanh toán trong nền kinh tế thị trường và chính nó đã, đang và sẽ đáp ứng tối đa yêu cầu của nền kinh tế hiện đại.
1.1.1.2 Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt.
Ngày nay, TTKDTM là một phần không thể tách rời các doanh nghiệp, các cá nhân và các tổ chức đoàn thể. Trong nền kinh tế thị trường, TTKDTM được thực hiện trôi trảy sẽ đem lại hiệu quả thiết thực cho tất cả các đối tác tham gia cũng như cho toàn xã hội.
- TTKDTM góp phần tăng nhanh tốc độ vận động của vật tư, hàng hoá và tiền vốn, qua đó thúc đẩy quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Như chúng ta đã biết, bất kỳ một chu kỳ sản xuất nào cũng đều bắt đầu và kết thúc bằng khâu thanh toán- từ việc mua các yếu tố đầu vào đến việc tiêu thụ các yếu tố đầu ra. Việc đẩy nhanh tốc độ thanh toán qua Ngân hàng giúp khách hàng rút ngắn được thời gian trong khâu lưu thông do đó rút ngắn thời được thời gian qua một vòng chu chuyển vốn, tăng nhanh tốc độ của quá trình sản xuất.
- Tăng tỷ trọng TTKDTM sẽ góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông từ đó tiết kiệm được chi phí của xã hội và của Ngân hàng. Cụ thể đó là những chi phí trong việc in ấn, vận chuyển, bảo quản, kiểm đếm tiền mặt… Nhờ vậy, có thể sử dụng các nguồn vốn tiết kiệm được để đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng Cơ sở hạ tầng nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, TTKDTM còn góp phần hạn chế đến mức thấp nhất các tệ nạn xã hội như tham ô, hối lộ, trộm cắp…, ngăn chặn hoạt động "rửa tiền", làm tiền giả hay đầu cơ, tích trữ…
-TTKDTM tạo điều kiện để Ngân hàng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi mở rộng tín dụng và phát triển dịch vụ Ngân hàng.
Như chúng ta đã biết, nghiệp vụ tín dụng và nghiệp vụ thanh toán luôn có mối quan hệ ràng buộc hữu cơ với nhau, chỉ khi thực hiện tốt mối quan hệ này thì Ngân hàng mới có điều kiện phát triển được. TTKDTM đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng và số dư trên tài khoản tiền gửi phải đảm bảo khả năng thanh toán khi cần thiết. Các tổ chức kinh tế và cá nhân mở tài khoản tiền gửi thanh toán ở Ngân hàng có quyền sử dụng toàn bộ số tiền đó vào bất cứ lúc nào và Ngân hàng phải có trách nhiệm thoả mãn nhu cầu đó. Tuy nhiên, có sự không ăn khớp giữa những người có nhu cầu rút tiền và gửi tiền vào, do đó hình thành một số dư tương đối lớn và ổn định về nguồn vốn ngắn hạn cho Ngân hàng. Mặt khác, Ngân hàng hoàn toàn có kế hoạch một cách tương đối chính xác nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng trong từng thời kỳ. Như vậy, ngoài phần dự trữ tiền mặt để đảm bảo khả năng chi trả, thanh toán kịp thời cho khách hàng, số còn lại, Ngân hàng có thể sử dụng để đầu tư, mở rộng tín dụng của mình. Thực tế, khối lượng tiền gửi thanh toán chiếm tỷ trọng khá cao trong toàn bộ nguồn vốn của Ngân hàng, tạo thuận lợi cho Ngân hàng trong việc giảm lãi suất cho vay. Bản chất của nguồn vốn này không phải gửi vào Ngân hàng để lấy lãi mà để sử dụng một cách chủ động, kịp thời trong thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ giữa các đơn vị và cá nhân . Làm tốt công tác thanh toán qua Ngân hàng, thu hút nhiều khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng để thanh toán là điều kiện tốt để mở rộng khối lượng tín dụng với lãi suất thấp.
- Thông qua TTKDTM, tạo điều kiện để NHTW xây dựng và điều hành CSTT một cách thuận lợi. Sở dĩ như vậy là do yêu cầu bắt buộc chủ thể tham gia TTKDTM phải có tài khoản tại NH, vì thế thông qua tình hình biến động số dư trên tài khoản của các khách hàng, Ngân hàng sẽ thu thập những thông tin cần thiết về tình hình tài chính, tình hình thanh toán của khách hàng cũng như những thông tin về dòng lưu chuyển tiền tệ… Từ đó, Ngân hàng có thể thực hiện việc quản lý và điều hành CSTT một cách thuận lợi bằng việc đưa ra những chính sách phù hợp trong từng thời kỳ.
Như vậy, TTKDTM là rất cần thiết trong nền kinh tế thị trường khi mà Ngân hàng Thương mại và các doanh nghiệp thực sự kinh doanh tự chủ bởi khi đó tính năng động, sáng tạo và yếu tố hiệu qủa luôn đặt đúng vị trí của nó.
1.1.2 Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đang áp dụng ở Việt Nam.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều hình thức thanh toán KDTM được sử dụng để thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ. Nhưng ở mỗi nước tuỳ theo mô hình kinh tế, trình độ quản lý, trình độ dân trí, tuỳ theo mức độ hoàn thiện và hiệu năng của hệ thống Ngân hàng người ta lựa chọn một số hình thức và cụ thể hoá cho phù hợp với điều kiện, đặc thù của mỗi nước.
Ơ nước ta hiện nay, nền kinh tế cơ bản đã chuyển sang nền kinh tế thị trường. Vị trí, vai trò và chức năng của doanh nghiệp, của Ngân hàng thương mại, của Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi theo mô hình kinh tế thị trường. Chính vì vậy, chế độ TTKDTM cũng được hoàn thiện hơn để phù hợp với thực tiễn.
TTKDTM được quy định trong Nghị định số 64/ 2001/ NĐ - CP ngày 20.9.2001 của Chính phủ bao gồm những hình thức sau :
1. Hình thức thanh toán bằng séc
2. Hình thức thanh toán bằng UNC - chuyển tiền
3. Hình thức thanh toán bằng UNT
4. Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng
5. Hình thức thanh toán bằng thẻ thanh toán
1.1.2.1 Thanh toán bằng séc
Séc là một hình thức thanh toán quan trọng không thể thiếu được trong TTKDTM hiện nay. Mặc dù đã ra đời từ rất sớm và ngày càng có nhiều công cụ thanh toán hiện đại nhưng thanh toán bằng séc vẫn giữ vị trí quan trọng trong TTKDTM .
Theo Nghị định số 159/ CP : Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu do Ngân hàng Nhà nước quy địn yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình trích tiền từ tài khoản tiền gửi của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên tờ séc hay người cầm tờ séc đó.
Séc là loại chứng từ thanh toán được áp dụng rộng rãi ở tất cả các nước trên thế giới, quy định sử dụng séc đã được chuẩn hoá trên Luật thương mại quốc gia và Công ước quốc tế.
Nghị định số 159/ CP quy định rõ ở Việt Nam được phép lưu hành các loại séc vô danh vá séc ký danh, được phép chuyển nhượng thông qua thủ tục ký hậu chuyển nhượng. Nghị định số 159/ CP đã đánh dấu một bước chuyển biến có ý nghĩa kinh tế lớn trong việc sử dụng séc ở Việt Nam. Theo quy định này, séc không còn là một công cụ chuyển khoản đơn thuần mà còn phát huy được vai trò là một công cụ lưu thông.
Séc được dụng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ … hoặc được dùng để rút tiền mặt tại các chi nhánh Ngân hàng. Tất cả các khách hàng mở tài khoản tại Ngân hàng đều có quyền sử dụng séc để thanh toán. Thời hạn hiệu lực của séc là 30 ngày kể từ ngày chủ tài khoản phát hành séc đến ngày người thụ hưởng nộp séc vào Ngân hàng ( gồm cả ngày chủ nhật và ngày lễ ). Trường hợp nếu ngày kết thúc thời hạn hiệu lực của tờ séc là ngày nghỉ, ngày lễ thì thời hạn đó được lùi vào ngày làm việc kế tiếp.
Ơ Việt Nam hiện nay có 2 loại séc thanh toán : Séc chuyển khoản và Séc bảo chi.
. Séc chuyển khoản
Séc chuyển khoản là lệnh trả tiền của người phát hành để trao trực tiếp cho người thụ hưởng séc khi xuất trình tại ngân hàng thì ngân hàng sẽ trích một khoản tiền theo tờ séc từ tài khoản của người phát hành séc để trả cho người được hưởng có tên trong tờ séc.
Séc chuyển khoản chỉ được áp dụng trong phạm vi thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở cùng một chi nhánh ngân hàng hoặc ở hai ngân hàng khác nhau nhưng các chi nhánh này phải tham gia thanh toán bù trừ giao nhận chứng từ trực tiếp cho nhau. Khi phát hành séc thanh toán chuyển khoản, chủ tài khoản phải gạch hai đường song song chéo góc hoặc viết chữ "chuyển khoản " ở góc phía trên bên trái mặt trước tờ séc trước khi giao người thụ hưởng.
Về nguyên tắc, séc chuyển khoản phải được phát hành trên cơ sở số dư tài khoản tiền gửi hiện có tại Ngân hàng. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ để thanh toán, séc sẽ bị Ngân hàng từ chối thanh toán, chủ tài khoản phải chịu trách nhiệm thanh toán tờ séc đó và những khoản tiền phạt chi phí phát sinh liên quan đến việc khiếu nại và khởi kiện.
. Séc bảo chi là một loại séc thanh toán được Ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả bằng cách trích trước số tiền trên tờ séc từ tài khoản tiền gửi của người trả tiền sang tài khoản " Đảm bảo thanh toán séc " nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của tờ séc đó.
Séc bảo chi có phạm vi thanh toán rộng hơn séc chuyển khoản. Ngoài việc sử dụng để thanh toán giữa các chủ thể mở tài khoản tại cùng một chi nhánh Ngân hàng hoặc hai Ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ trên cùng địa bàn séc bảo chi còn được sử dụng để thanh toán giữa khách hàng mở tài khoản tại các chi nhánh trong cùng hệ thống trong phạm vi cả nước.
1.1.2.2. Thanh toán bằng UNC- lệnh chi.
UNC là lệnh của chủ tài khoản được lập trên giấy in sẵn để đề nghị ngân hàng trích một số tiền từ tài khoản của mình để chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng hoặc chuyển đi ngân hàng khác.
UNC ra đời từ khá sớm, cùng với tiến bộ Khoa học kỹ thuật, nó được sử dụng ngày một rộng rãi với các ưu thế nổi bật: an toàn, hiệu quả và đặc biệt thuận tiện khi ngân hàng thực hiện hiện đại hóa thanh toán - thanh toán điện tử ( UNC có thể được xử lý dưới dạng các chứng từ điện tử).
Đơn vị trả tiền sau khi nhận được hàng hoá, dịch vụ cung ứng, trong thời gian nhất định phải lập các UNC gửi đến Ngân hàng để trích tài khoản chuyển trả cho đơn vị thụ hưởng. Tuỳ theo phạm vi và tổ chức thanh toán, đơn vị phải lập từ 3-4 liên với đâỳ đủ nội dung và các yếu tố cần thiết. Khi lập và nộp UNC vào Ngân hàng, đơn vị trả tiền phải đảm bảo đủ số dư trên tài khoản để đảm bảo chi trả. Nếu chứng từ hợp lệ, tài khoản đủ tiền, trong phạm vi một ngày làm việc, Ngân hàng phải hoàn tất UNC đó. Nếu chứng từ không hợp lệ, hợp pháp, tài khoản không đủ số dư thì Ngân hàng không thanh toán.
Phạm vi thanh toán của UNC khá rộng, bao gồm thanh toán cùng ngân hàng, khán ngân hàng cùng hệ thống, khác ngân hàng khác hệ thống có tham gia thanh toán bù trừ hoặc thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN.
1.1.2.3 Uỷ nhiệm thu - nhờ thu.
UNT là giấy uỷ nhiệm đòi tiền do người thụ hưởng lập và gửi vào Ngân hàng phục vụ mình nhờ thu hộ tiền theo số lượng hàng hoá đã giao, dịch vụ đã cung ứng.
UNT được sử dụng rộng rãi trong việc thanh toán các hoá đơn định kỳ cho người cung ứng dịch vụ công cộng như điện, nước, điện thoại … bởi nó thường được dùng cho các giao dịch thanh toán có giá trị nhỏ nên các UNT chiếm tỷ lệ không đáng kể trong tổng các giao dịch TTKDTM.
UNT được áp dụng thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản trong cùng một chi nhánh Ngân hàng hoặc các chi nhánh Ngân hàng cùng hệ thống hoặc khác hệ thống. Khách hàng mua và bán phải thống nhất thoả thuận dùng hình thức UNT đối với những điều kiện cụ thể đã ghi trong hợp đồng kinh tế, đồng thời phải thông báo bằng văn bản cho Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng biết làm căn cứ để thực hiện các UNT. Sau khi giao hàng hoặc hoàn tất dịch vụ cung ứng, bên thụ hưởng lập giấy UNT theo mẫu của Ngân hàng, kèm theo hoá đơn gửi tới Ngân hàng phục vụ mình hoặc gửi trực tiếp đến Ngân hàng phục vụ bên trả tiền yêu cầu thu hộ. Khi nhận được giấy UNT trong vòng một ngày làm việc, Ngân hàng bên trả tiền trích tài khoản của khách hàng mình trả ngay cho bên thụ hưởng để hoàn tất việc thanh toán.
1.1.2.4 Thư tín dụng (TTD)
TTD là hình thức thanh toán theo sự thoả thuận giữa hai bên bán và mua trong điều kiện bên bán đòi hỏi bên mua phải có đủ tiền để chi trả phù hợp với giá trị hàng hoá mà bên bán đã giao theo hợp đồng hay đơn đặt hàng đã ký.
TTD thường dùng để thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở hai Ngân hàng khác nhau, có thể cùng hoặc khác hệ thống ( trường hợp khác hệ thống thì nơi Ngân hàng bên bán đóng trụ sở phải có Ngân hàng cùng hệ thống với Ngân hàng mở TTD và tham gia thanh toán bù trừ với Ngân hàng bên bán). Mỗi TTD chỉ được dùng để thanh toán cho một người thụ hưởng. Thời hạn hiệu lực của một TTD là 3 tháng kể từ ngày Ngân hàng bên mua nhận mở TTD.
1.1.2.5 Thẻ ngân hàng
Việc áp dụng hình thức thanh toán bằng thẻ được thực hiện theo quyết định số 371/ 1999/QĐ- NHNN1 ngày 19.10.1999 của Thống đốc NHNN Việt Nam.
Thẻ ngân hàng là một công cụ thanh toán do Ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng của mình để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ hay lĩnh tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động. Ơ một số nước, các hãng hay các Công ty kinh doanh lớn cũng phát hành thẻ thanh toán để thu tiền bán hàng của mình. Thẻ ngân hàng có nhiều loại nhưng có một số loại thẻ sau được sử dụng phổ biến:
- Thẻ ghi Nợ: Người sử dụng loại thẻ này không phải lưu ký tiền vào tài khoản " Đảm bảo thanh toán thẻ". Căn cứ để thanh toán thẻ là số dư tài khoản tiền gửi của chủ sở hữu thẻ tại Ngân hàng và hạn mức thanh toán tối đa do Ngân hàng phát hành thẻ quy định. Hạn mức của thẻ được ghi vào bộ nhớ của thẻ nếu là thẻ điện tử hoặc được ghi vào dải băng từ nếu là thẻ từ.
Ơ Việt Nam, thẻ ghi Nợ được quy định là thẻ loại A, loại thẻ này áp dụng cho những khách hàng có quan hệ tốt, thường xuyên và có tín nhiệm với Ngân hàng về mặt tài chính.
- Thẻ tín dụng: áp dụng với những khách hàng có đủ điều kiện được Ngân hàng đồng ý cho vay tiền để mua thẻ. Mức tiền cho vay được coi như hạn mức tín dụng và được ghi vào bộ nhớ của thẻ, khách hàng chỉ được thanh toán số tiền trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng chấp thuận.
ở việt nam thẻ tín dụng được quy định là thẻ laọi C và áp dụng cho những khách hàng được ngân hàng cho vay để sử dụng thẻ.
-Thẻ ký quỹ: muốn được sử dụng thẻ khách hàng phải tới ngân hàng làm thủ trích tài khoản tiền gửi hoặc nộp tiền mặt để lưu ký vào tài khoản" tiền gửi đảm bảo thanh toán". Sau khi kiểm soát chứng từ, bộ phạn nghiệp vụ thẻ thanh toán sẽ làm thủ tục để cáp thẻ cho chủ thẻ.
Để từng bước phát triển thẻ ở Việt nam, hiện nay các NHTM phát hành loại thẻ rút tiền tự động- thẻ ATM:Thẻ được phát hành trên cơ sở tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng phát hành.Chủ thẻ có thể sử dụng để rút tiền mặt hpạc tiếp nhận một vài dịch vụ ngân hàng thông qua các máy rút tiền tự động ATM(Automatic tellẻ Machine)
Thẻ thanh toán dù dưới hình thức nào cũng phải có đầy đủ các yếu tố: Tên chủ thẻ, tên Ngân hàng phát hành thẻ, số thẻ, nhãn hiệu thương mại và thời hạn sử dụng thẻ.
Trong thanh toán thẻ bao gồm các chủ thể sau:
- Ngân hàng phát hành thẻ: là Ngân hàng bán thẻ cho khách hàng và chịu trách nhiệm thanh toán số tiền do người sử dụng trả cho người thụ hưởng. Ngân hàng phát hành thẻ có thể uỷ nhiệm cho một số chi nhánh Ngân hàng phát hành và quản lý thẻ.
- Người sử dụng thẻ: là người trực tiếp mua thẻ tại Ngân hàng và dùng thẻ để mua hàng hoá, dịch vụ.
- Người tiếp nhận thẻ thanh toán bằng thẻ: là các doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho người sử dụng thẻ.
- Ngân hàng đại lý thanh toán : là các chi nhánh Ngân hàng do Ngân hàng phát hành thẻ quy định, Ngân hàng đại lý thanh toán có trách nhiệm thanh toán cho người tiếp nhận thanh toán bằng thẻ khi nhận được biên lai thanh toán.
Như vậy, ta thấy rằng TTKDTM với rất nhiều hình thức, có vị trí và vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế thị trường. Vấn đề đặt ra là trong công tác thanh toán còn một số tồn tại đòi hỏi ta phải xem xét tuỳ từng Ngân hàng cụ thể để có thể đưa ra những biện pháp hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM .
1.2. Thẻ ngân hàng một hình thức thanh toán hiện đại.
1.2.1 Sự ra đời và phát triển
1.2.1.1. Cơ sở hình thành và phát triển:
Thẻ là một lĩnh vực kinh doanh tương đối mới nhưng cũng đã có lịch sử hình thành và phát triển trong suốt mấy thập kỷ qua. Quan hệ giữa Khách hàng và Cơ sở chấp nhân thẻ - CSCNT là tâm điểm của kinh doanh thẻ.
Vào đầu những năm 40 của thế kỷ XX, một số CSCNT tư nhân lớn mở rộng dịch vụ bán chịu cho khách hàng và cho phép họ trả tiền hàng hoá dịch vụ vào tài khoản của mình. Nhiều CSCNT nhỏ cũng muốn thực hiện dịch vụ này nhưng nhận thấy họ không đủ khả năng. Điều đó tạo cơ hội cho các Tổ chức tài chính và ngân hàng nghiên cứu và phát triển thẻ tín dụng.
Hình thức sơ khai của thẻ là charg-it, một hệ thống mua bán chịu do John Biggins sáng lập ra năm 1946. Hệ thống này cho phép khách hàng trả tiền cho những giao dịch bán lẻ tại địa phương. Các CSCNT nộp biên lai bán hàng vào nhà băng của Biggins, nhà băng sẽ trả tiền cho họ và thu lại từ khách hàng sử dụng charg-it.
Hệ thống mua bán chịu này mở đường cho sự ra đời của thẻ tín dụng do Ngân hàng Franklin National Bank ở Long Island - New York phát hành lần đầu tiên năm 1951. Tại đây, khách hàng đệ trình đơn xin vay và được thẩm định khả năng thanh toán. Các khách hàng đủ tiêu chuẩn sẽ được duyệt cấp thẻ. Thẻ này dùng thanh toán cho các thương vụ bán lẻ hàng hoá và dịch vụ. Khi thanh toán, CSCNT sẽ ghi các thông tin về khách hàng trên thẻ vào hoá đơn bán hàng. Mọi CSCNT đều phải liên hệ với nơi phát hành thẻ yêu cầu chuẩn chi những giao dịch vượt quá một số tiền được ấn định bởi các Tổ chức tài chính ngân hàng. Sau đó, Nhà phát hành thẻ thanh toán lại cho CSCNT giá trị của hàng hoá, dịch vụ có chiết khấu một tỷ lệ nhất định để bù đắp các chi phí của khoản cho vay.
Các khách hàng - chủ thẻ rất hài lòng về sự tiện lợi khi sử dụng thẻ cũng như các khoản vay từ thẻ vì mặc dù hàng tháng họ phải trả toàn bộ các chi tiêu trong tháng nhưng họ đã có được một khoản ứng trước không phải trả lãi trong vòng một tháng.
Về phía các CSCNT, phương thức thanh toán này cũng rất hấp dẫn, họ thấy rằng các khách hàng - chủ thẻ dường như thoải mái hơn trong các quyết định mua hàng hoá dịch vụ và thực sự đã mua nhiều hàng hoá dịch vụ hơn khi dùng tiền mặt. Chấp nhận thẻ lại an toàn hơn nhiều so với dùng séc. Thêm vào đó việc sử dụng hệ thống tín dụng của các Tổ chức tài chính ngân hàng sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí hơn so với việc thiết lập một mạng lưới tín dụng cục bộ.
Trong những năm tiếp theo, ngày càng nhiều Tổ chức tín dụng ngân hàng tham gia vào chương trình này. Đến năm 1959, nhiều Nhà phát hành thẻ đã tung ra một dịch vụ mới - tín dụng tuần hoàn.Với dịch vụ này, các chủ thẻ có thể duy trì số dư có trên tài khoản vay bằng một hạn mức tín dụng nếu họ hoàn thành trách nhiệm thanh toán hàng tháng. Khi đó, số tiền thanh toán hàng tháng của chủ thẻ sẽ được cộng thêm một khoản phí tình từ những khoản vay của chủ thẻ.
Tại giai đoạn này, hệ thống tín dụng thẻ vẫn chỉ dừng lại ở mối quan hệ tương đối đơn giản được xác lập giữa nhà phát hành thẻ, CSCNT và chủ thẻ.
Vào năm 1960, Bank of America giới thiệu sản phẩm thẻ đầu tiên của mình - BankAmericard. Với một nhóm nhỏ các chủ thẻ và các CSCNT, Ngân hàng này bắt đầu cấp giấy phép cho các Tổ chức tài chính khu vực hoạt động như đại diện của mình. Thẻ BankAmericard phát triển rộng khắp và trong những năm tiếp theo ngày càng nhiều các tổ chức tài chính ngân hàng trở thành thành viên của BankAmericard. Những thành công của BankAmericard đã thúc đẩy các nhà phát hành thẻ khác trên khắp nước Mỹ bắt đầu tìm kiếm phương thức cạnh tranh với loại thẻ này.
Đến năm 1966, 14 ngân hàng của Mỹ thành lập InterBank - một tổ chức mới với chức năng là đầu mối trao đổi các thông tin về giao dịch thẻ. Trong năm tiếp theo - 1967, 4 ngân hàng ở California đổi tên của họ từ California Bank Card Association thành Western States Bank Card Association (WSBA).WSBA mở rộng mạng lưới thành viên của mình sang các tổ chức tài chính ngân hàng khác ở miền tây nước Mỹ. Thẻ của họ được gọi là MasterCharge. Tổ chức WSBA cho phép InterBank sử dụng tên và biểu tượng MasterCharge của mình. Vào cuối những năm 60, một số lớn các Tổ chức tài chính ngân hàng đã trở thành thành viên của MasterCharge - đối thủ cạnh tranh của BankAmericard.
Rốt cuộc, tất cả các tổ chức tài chính ngân hàng đã hoặc đang quan tâm đến việc phát hành thẻ ở Mỹ đều trở thành thành viên của BankAmericard Hoặc MasterCharge. Các hiệp hội ngân hàng và các thành viên của họ cùng chia sẻ chi phí hệ thống hoạt động thẻ, làm cho ngay cả các tổ chức tài chính ngân hàng rất nhỏ cũng có thể tham gia vào hệ thống này. Tuy nhiên, điều này cũng có nghĩa là các nhà phát hành thẻ chỉ tìm kiếm được lợi nhuận kếch sù nếu họ biết cách phát triển rộng khắp mạng lưới khách hàng - chủ thẻ và CSCNT không chỉ giới hạn ở khu vực của mình. Lợi nhuận do hệ thống này mang lại cho tất cả các thành viên đã thúc đẩy sự tăng trưởng mạnh mẽ về mạng lưới chủ thẻ, CSCNT cũng như doanh số bán hàng bằng thẻ.
Mặc đầu nền công nghiệp thẻ có điểm khởi đầu tương đối thuận lợi nhưng thực tế đòi hỏi phải phát triển hơn nữa trên góc độ cả các khu vực và quốc gia. Để hình thức thanh toán thẻ có thể thu hút được khách hàng cần phải có một mạng lưới CSCNT rộng lớn không chỉ trên phạm vi một địa phương, một quốc gia mà phải trên các khu vực và trên toàn cầu. Và ngược lại, chương trình này chỉ có thể thu hút được các CSCNT nếu nó được sự trợ giúp bởi một số lượng lớn chủ thẻ.
Sức ép về việc phải tăng mạnh số lượng chủ thẻ làm cho nhiều Tổ chức tài chính bắt đầu phát hành thẻ một cách bừa bãi, thậm chí bỏ qua cả quá trình xét duyệt đơn xin phát hành và thẩm định khả năng tài chính của khách hàng. Nhiều Nhà phát hành thẻ lâm vào cảnh thất thoát về tín dụng và phải gánh chịu rủi ro. Khó khăn lại càng chồng chất thêm cho các Nhà phát hành thẻ bởi sự chậm trễ trong thanh toán bù trừ giữa các thành viên trong Hiệp hội. Số lượng thẻ mất cắp bị làm giả mạo tăng nhanh cùng với một số chủ thẻ cố tình chi tiêu vượt hạn mức tín dụng hoặc không có khả năng thanh toán mà vẫn tiếp tục sử dụng thẻ làm nghiêm trọng thêm mức độ tổn thất cho các Nhà phát hành thẻ. Chính vì vậy, một hệ thống quản lý thẻ hiệu quả và được tiêu chuẩn hoá để xử lý các chứng từ giao dịch và các hoạt động thẻ là vô cùng cần thiết cho các Nhà phát hành thẻ cũng như Thanh toán thẻ.
Vào năm 1977, BankAmericard trở thành VISA USA và sau đó là Tổ chức thẻ quốc tế VISA. Ngay sau đó, vào năm 1979, cùng với sự tăng trưởng về chất lượng và qui mô dịch vụ, MasterCharge trở thành Tổ chức thẻ quốc tế Mastercard. Các thành viên của hai Tổ chức thẻ quốc tế này cũng như bản thân cả hai tổ chức bắt đầu mua các chương trình phần mềm cũng như các thiết bị phần cứng phát hành, thanh toán và quản lý thẻ của các công ty bên ngoài với mục đích tiết kiệm chi phí cho các thành viên và tạo điều kiện cho ngày càng nhiều các tổ chức tài chính ngân hàng có thể tham gia hệ thống.
Hệ thống tín dụng thẻ ngày nay bao gồm cả các Tổ chức thẻ quốc tế, các tổ chức tài chính ngân hàng, các công ty cung ứng thiết bị và giải pháp kỹ thuật, các công ty viễn thông quốc tế, ... Cùng với mạng lưới thành viên và khách hàng phát triển từng ngày, các tổ chức thẻ quốc tế đã xây dựng hệ thống xử lý giao dịch và trao đổi thông tin toàn cầu về phát hành, cấp phép, thanh toán, tra soát, hoàn trả, khiếu kiện và quản lý rủi ro. Với doanh số giao dịch hàng trăm tỷ USD mỗi năm, thẻ đang cạnh tranh quyết liệt cùng tiền mặt và séc trong hệ thống thanh toán toàn cầu. Đây là một thành công đáng kể đối với một ngành kinh doanh mới chỉ có vài thập kỷ hình thành và phát triển.
1.2.1.2 Khái niệm thẻ ngân hàng
Thẻ là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hoặc rút tiền mặt trong phạm vi số dư của mình ở tài khoản tiền gửi hoặc hạn mức tín dụng được cấp theo Hợp đồng ký kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và chủ thẻ. Hoá đơn thanh toán thẻ chính là giấy nhận nợ của chủ thẻ đối với cơ sở chấp nhận thẻ. Cơ sở chấp nhận thẻ và đơn vị cung ứng dịch vụ rút tiền mặt đòi tiền chủ thẻ thông qua Ngân hàng thanh toán thẻ và Ngân hàng phát hành thẻ.
1.2.1.3. Cấu tạo và các loại thẻ thanh toán
Thẻ dù do bất cứ tổ chức tài chính hoặc phi tài chính phát hành đều được làm bằng plastic theo kích cỡ chuẩn quốc tế và ít nhất có đủ các yếu tố: nhãn hiệu thương mại của thẻ, tên và logo của Nhà phát hành thẻ, số thẻ, tên chủ thẻ và ngày hiệu lực. Ngoài ra thẻ còn có thể có thêm một số yếu tố khác tuỳ theo quy định của các Tổ chức thẻ quốc tế hoặc Hiệp hội phát hành thẻ...
Trên Thế giới có rất nhiều loại thẻ. Đứng trên từng góc độ khác nhau thì thẻ rất đa dạng và được chia thành nhiều loại.
a) Phân theo chủ thể phát hành :
Thẻ do các Tổ chức Tài chính và Ngân hàng phát hành
Thẻ do các Tổ chức phi ngân hàng phát hành
- Các sản phẩm thẻ do các tổ chức tài chính- ngân hàng phát hành có thể kể đến:
Thẻ ATM
Thẻ ghi nợ (Debit Card)
Thẻ tín dụng (Credit Card)
- Ngoài ra còn._. một số loại thẻ thanh toán khác không phải do các tổ chức tài chính ngân hàng phát hành mà do các công ty phát hành hoặc liên doanh với các tổ chức tài chính ngân hàng phát hành:
Thẻ chi tiêu (Private Label Retail Card)
Thẻ của các công ty xăng dầu (Oil Company Card)
Thẻ giải trí (Travel & Entertainment Card)
b) Phân theo công nghệ sản xuất (hay kỹ thuật):
Thẻ từ (Magnetic Card)
Thẻ thông minh (Smart Card
c) Phân theo tính chất thanh toán thẻ:
Thẻ tín dụng
Thẻ ghi nợ
Thẻ ATM
d) Phân theo phạm vi lãnh thổ:
Thẻ trong nước
Thẻ quốc tế
Hiện nay ở Việt Nam mới chỉ có 3 loại thẻ được các ngân hàng thương mại phát hành là: thẻ ATM, thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ.
1.2.1.4. Vai trò của dịch vụ thẻ trong việc phát triển KT-XH
Công cụ kích cầu
Thẻ ngân hàng được sử dụng như một công cụ kích thích tiêu dùng tại nhiều nước trên thế giới. Để kích thích tăng trưởng, trong các gói chính sách kích cầu thường có những chính sách nới lỏng hoạt động phát hành thẻ của các ngân hàng như hạ lãi suất, giảm các tiêu chí xét phát hành thẻ như độ tuổi, mức thu nhập, yêu cầu về việc làm, lãi suất. Về cơ bản, khuyến khích phát triển thẻ tín dụng là hình thức mở rộng tín dụng tiêu dùng trong dân cư. Việc mở rộng tín dụng tiêu dùng sẽ tăng sức mua, thúc đẩy tổng cầu hàng hoá, dịch vụ .
Việc kích thích cầu tiêu dùng thông qua thẻ ngân hàng là phương thức đặc biệt hiệu quả do yếu tố tâm lý của người sử dụng thẻ. Theo nghiên cứu của các tổ chức thẻ quốc tế, mức chi tiêu trung bình cho một lần mua hàng hoá dịch vụ bằng thẻ ngân hàng thường cao hơn chi tiêu bằng tiền mặt. Thực tế việc chi tiêu bằng thẻ thuận tiện và an toàn hơn rất nhiều so với sử dụng tiền mặt đồng thời yếu tố chi tiêu trước, trả tiền sau không phải chịu lãi của thẻ tín dụng cũng đóng vai trò không nhỏ trong việc chủ thẻ chi tiêu nhiều hơn.
Bản thân các tổ chức phát hành thẻ thường có các chương trình khuyến khích chi tiêu của chủ thẻ. Thông dụng nhất là các chương trình điểm thưởng, theo đó khi chủ thẻ chi tiêu bằng thẻ đến một mức nhất định nào đó sẽ nhận được các điểm thưởng. Chủ thẻ có thẻ sử dụng điểm thưởng để đổi lấy những phần quà có giá trị hoặc được ưu đãi giảm giá tại các đơn vị chấp nhận thẻ nhất định. Các tổ chức phát hành thẻ cũng thường xuyên cùng các CSCNT tổ chức các đợt khuyến mại, giảm giá cho chủ thẻ. Theo thống kê của American Express, chi tiêu của chủ thẻ tăng trung bình 35% sau khi tham gia các chương trình dành cho khách hàng của ngân hàng phát hành.
Huy động vốn trong dân cư
Hiện nay tại Việt Nam đại đa số nhân dân vẫn chưa có thói quen sử dụng các dịch vụ tài chính cá nhân thông qua hệ thống ngân hàng, các dịch vụ quen thuộc chỉ gói gọn trong các dịch vụ hết sức giản đơn như gửi tiết kiệm, vay ngân hàng. Điều đó xuất hiện một nghịch lý là trong khi nền kinh tế đang rất cần có vốn để đầu tư thì số lượng tiền mặt nhàn rỗi trong dân cư còn rất lớn.
Xét từ góc độ kinh tế xã hôi, dịch vụ thẻ ngân hàng phát triển sẽ là công cụ quan trọng để thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư. Với thẻ ghi nợ, thu nhập của chủ thẻ có thể được chuyển trực tiếp vào tài khoản cá nhân, còn chủ thẻ có thể rút tiền mặt tại các máy ATM hoặc sử dụng thẻ tại các CSCNT. Khi cần, chủ thẻ có thể gửi thêm tiền vào tài khoản tại các chi nhánh ngân hàng, thậm chí có thể gửi tiền tự động tại các máy ATM hiện đại. Như vậy, tiền đã từ các hộc tủ, két sắt của người dân đến một nơi mới là các tài khoản cá nhân trong ngân hàng. Điều đó vừa làm tăng hiệu suất sử dụng vốn của nền kinh tế, vừa an toàn, thuận tiện cho chủ thẻ. Như tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, sau khi thẻ ghi nợ Connect 24 được tung ra thị trường vào giữa năm 2002, số lượng tài khoản cá nhân mở tại ngân hàng đã tăng hơn 200% so với 2001, số dư tiền gửi tại ngân hàng cũng tăng đáng kể.
Đối với thẻ tín dụng, do phần lớn thẻ tín dụng phát hành tại Việt Nam hiện nay là thẻ có bảo đảm, chủ thẻ phải có thế chấp, kí quỹ cho ngân hàng. Khi phát hành thẻ tín dụng, chủ thẻ thường gửi tiền vào ngân hàng dưới dạng tiền gửi có kì hạn. Rõ ràng thẻ tín dụng phát hành càng nhiều, tổng hạn mức tín dụng càng lớn thì ngân hàng phát hành càng có nhiều cơ hội huy động vốn từ dân cư.
Dịch vụ thẻ ngân hàng - lợi ích kinh tế cho các bên.
Dịch vụ thẻ ngân hàng là một nhân tố góp phần giảm đáng kể chi phí và thời gian dao dịch cho mọi thành phần trong nền kinh tế. Đối với chủ thẻ, thẻ ngân hàng là một ví tiền hết sức an toàn, gọn nhẹ. Khi đi mua hàng hoá, dịch vụ người tiêu dùng không cần phải đem theo tiền mặt, khi chi trả không phải kiểm đếm. Khi sử dụng thẻ ngân hàng quốc tế, các chủ thẻ có thể chi tiêu bằng mọi đồng ngoại tệ và thanh toán sao kê bằng một loại tiền duy nhất. Mặt khác, đối với thẻ ghi nợ khi không chi tiêu tiền của chủ thẻ được đặt trong tài khoản ngân hàng vẫn sinh lãi, có thể rút tại nhiều tỉnh thành thậm chí tại nước ngoài.
Đối với các CSCNT việc chấp nhận thanh toán thẻ đem lại cơ hội thu hút những khách hàng có chất lượng. Chủ thẻ có xu hướng chi tiêu nhiều hơn khách dùng tiền mặt, cũng có nghĩa doanh số sẽ cao hơn. Khi thanh toán thẻ các điểm cung cấp hàng hoá dịch vụ cũng tiết kiệm được thời gian và công sức dành cho việc kiểm đếm, lưu giữ, vận chuyển tiền mặt. Tiền sẽ được ghi có vào tài khoản của đơn vị ngay khi ngân hàng nhận được chứng từ hoặc khi tín hiệu giao dịch điện tử được truyền về ngân hàng.
Đối với hệ thống ngân hàng, phát triển dịch vụ thẻ không chỉ đơn giản là một nguồn doanh thu mới. Dịch vụ thẻ là một dịch vụ được xây dựng trên nền tảng công nghệ tin học và viễn thông, có thể nói thẻ ngân hàng là một sản phẩm công nghệ cao. Với việc triển khai dịch vụ thẻ, các ngân hàng đồng thời tiếp cận được với những công nghệ tiên tiến trên thế giới, nâng cao trình độ của các nhân viên liên quan đến nghiệp vụ thẻ nói riêng và ngân hàng nói chung.
Xét trên góc độ tài chính và quản trị ngân hàng, các ngân hàng triển khai dịch vụ thẻ sẽ có điều kiện để hạn chế phần nào rủi ro do các nhân tố bên ngoài. Đối với các dịch vụ bán buôn, chỉ cần một khách hàng co rủi ro là có thể ảnh hưởng rất lớn đến ngân hàng. Trong khi đó với dịch vụ thẻ nói riêng và ngân hàng bán lẻ nói chung, rủi ro được san đều ra nhiều khách hàng nhỏ, cho phép ngân hàng có khả năng phản ứng và điều chỉnh các chính sách khi có sự thay đổi trong môi trường kinh doanh.
Nhìn từ toàn xã hội, dịch vụ thẻ ngân hàng phát triển sẽ cải thiện môi trường tiêu dùng, xây dựng một nền văn minh thanh toán cho dân cư góp phần đưa Việt Nam lên ngang tầm phát triển với các nước trên thế giới. Dịch vụ thẻ phát triển cũng là yếu tố tích cực để tăng doanh thu từ ngành du lịch, phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng làm cơ sở hạ tầng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài
1.2.2 Các nghiệp vụ trong kinh doanh thẻ.
1.2.2.1 Nghiệp vụ maketing.
Cũng như những ngành nghề khác, kinh doanh thẻ ngân hàng đòi hỏi chú trọng đáng kể vào công tác marketing và dịch vụ khách hàng. Về lý thuyết, marketing và dịch vụ khác hàng trong kinh doanh thẻ là khái niệm tương đối rộng, bao gồm tòan bộ các phương thức để tìm kiếm khách hàng (CSCNT và chủ thẻ), giúp họ tiếp cận, quyết định lựa chọn phương thức thanh toán phi tiền mặt này và trở thành khách hàng lâu dài của ngân hàng
Trên thực tế, marketing bao gồm các hoạt động như:
- Tiếp xúc với các đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ có tiềm năng cho hoạt động thẻ; thuyết phục họ ký kết hợp đồng chấp nhận thanh toán thẻ thông qua những lợi ích về thẻ ngân hàng và các ưu thế của các ngân hàng riêng biệt
- Cung cấp dịch vụ cho các CSCNT như: lắp đặt các thiết bị đọc thẻ, hướng dẫn quy trình nghiệp vụ, thao tác cần thiết cho hoạt động chấp nhận thẻ, tiếp nhận những yêu cầu về duy trì, bảo dưỡng máy móc thiết bị từ CSCNT.
- Tiến hành việc quảng cáo cho các CSCNT nói chung hoặc các CSCNT tiềm năng cùng với chương trình quảng cáo, khuyếch trương thẻ.
- Nâng cao tính trung thành của các CSCNT bằng cách xếp hạng, tính điểm phục vụ hoặc lượng giá trị giao dịch tại đơn vị để từ đó có thể giảm phí chiết khấu…
-Tiếp xúc với các khách hàng là cá nhân, doanh nghiệp có tiềm năng sử dụng thẻ, thuyết phục họ ký kết hợp đồng sử dụng thẻ thông qua những tiện ích của thẻ ngân hàng nói chung và các ưu thế, những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
- Duy trì mối liên hệ với chủ thẻ, khuyến khích tiêu dùng thẻ của chủ thẻ thông qua việc xây dựng các chương trình khuyến mại, điểm thưởng…
Các công cụ thực hiện marketing được chia ra làm 2 loại: công cụ phục vụ tại quầy: như những tờ rơi, tờ giới thiệu… tại nơi tiếp đón và nhận yêu cầu của khách hàng ở các chi nhánh và các công cụ phục vụ tại nơi công cộng như các panô, áp phích quảng cáo, những biển báo, lôgô và hình ảnh thẻ tại các CSCNT… Tuy nhiên, yếu tố quan trọng và đóng vai trò quyết định trong hoạt động marketing chính là con người. Các cán bộ marketing đòi hỏi vừa vững về nghiệp vụ thẻ nói chung, vừa nắm rõ thị trường, nhanh nhạy với các thông tin và có khả năng nghiệp vụ marketing.
1.2.2.2. Nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ.
Chu trình hoạt động kinh doanh thẻ:
Cơ sở chấp nhận thẻ
Chủ sở hữu thẻ
2
5
4
1a
1b
6
Ngân hàng đại lý
thanh toán thẻ
Ngân hàng phát hành
thẻ
(1a): Khách hàng lập và gửi đến Ngân hàng phát hành thẻ giấy đề nghị phát hành thẻ thanh toán ( Nếu là thẻ ký quỹ thanh toán, khách hàng phải nộp thêm UNC trích tài khoản của mình hoặc nộp tiền mặt để lưu ký tiền vào tài khoản thẻ thanh toán tại Ngân hàng phát hành thẻ).
(1b): Căn cứ với đề nghị phát hành thẻ của khách hàng, sau khi kiểm tra thủ tục lập chứng từ và các điều kiện sử dụng thẻ của khách hàng, nếu thấy đủ điều kiện, Ngân hàng sẽ phát hành thẻ để cấp cho khách hàng và hướng dẫn khách hàng sử dụng thẻ khi thanh toán. Ngân hàng phát hành thẻ phải quản lý và giữ bí mật tuyệt đối mật mã sử dụng thẻ của khách hàng.
(2): Chủ sở hữu thẻ giao thẻ cho cơ sở chấp nhận thẻ để kiểm tra, đưa thẻ vào máy thanh toán thẻ, máy tự động ghi số tiền thanh toán và in biên lai thanh toán .
(3): Cơ sở chấp nhận thẻ giao thẻ và một biên lai thanh toán cho chủ sở hữu thẻ.
(4): Cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ lập bảng kê biên lai thanh toán và gửi cho Ngân hàng đại lý thanh toán để thanh toán.
(5): Ngân hàng đại lý thanh toán dựa vào biên lai thanh toán để thanh toán cho CSCNT.
(6): Ngân hàng đại lý thanh toán thẻ với Ngân hàng phát hành thẻ qua thủ tục thanh toán giữa các Ngân hàng.
Người sử dụng thẻ có thể rút tiền mặt nhưng mỗi lần không quá 10 triệu đồng. Nếu mất thẻ, người sử dụng phải thông báo ngay bằng văn bản cho Ngân hàng phát hành thẻ biết để thông báo cho Ngân hàng đại lý thanh toán thẻ báo cho cơ sở tiếp nhận thẻ biết. Khi sử dụng hết hạn mức hoặc hết thời hạn sử dụng của thẻ, nếu có nhu cầu, người sử dụng thẻ phải đến Ngân hàng phát hành thẻ làm thủ tục sử dụng tiếp.
a) Nghiệp vụ phát hành thẻ.
Ngân hàng phát hành thẻ phát hành thẻ cho khách hàng. Ngân hàng phát hành thẻ có trách nhiệm quản lý hệ thống tài khoản thẻ, hệ thống phát hành thẻ và các hoạt động liên quan sử dụng thẻ.
b) Nghiệp vụ thanh toán thẻ.
Vai trò của ngân hàng thanh toán là thiết lập và duy trì mạng lưới các CSCNT trong nghiệp vụ thẻ cũng như vai trò của ngân hàng phát hành là thiết lập và duy trì quan hệ với các chủ thẻ. Quản lý tốt hệ thống CSCNT có thể thu lợi nhuận cho nhà thanh toán và nhiều lợi ích khác cho việc liên kết. Các NHTM thực hiện nghiệp vụ thanh toán thẻ phải đầu tư hệ thống máy móc xử lý và quản lý giao dịch. Các ngân hàng thu phí chấp nhận thẻ từ các CSCNT để bù đắp cho chi phí đầu tư, phí trao đổi thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng và thu lợi nhuận.
Như vậy, ta thấy rằng TTKDTM với rất nhiều hình thức, có vị trí và vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế thị trường. Vấn đề đặt ra là trong công tác thanh toán còn một số tồn tại đòi hỏi ta phải xem xét tuỳ từng Ngân hàng cụ thể để có thể đưa ra những biện pháp hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM .
1.2.2.3 Nghiệp vụ tra soát và bồi hoàn.
Bước này chỉ phát sinh trong quá trình thanh toán khi mà nhà phát hành hoặc chủ thẻ không chấp nhận thanh tán giao dịch và thực hiện khiếu nại hoặc đòi bồi hoàn. Việc nhà bồi hoàn thực hiện khiếu kiện giao dịch theo yêu cầu của chủ thẻ (giao dịch chưa được cung ứng, số tiền giao dich không đúng…) hoặc vì một lý do nào đó(CSCNT không xin cấp phép, thẻ nàm trong danh sách thẻ cấm lưu hành, thẻ hết hạn…)thì gọi là quá trình tra soát và đòi bồi hoàn.khi đó, ngân hàng phát hành yêu cầu tổ chức thẻ quốc tế ghi nợ cho ngân hàng thanh toán và gửi các thông tin liên quan cho ngân hàng thanh toán. Ngân hàng thanh toán dựa vào các thông tin này để tiến hành tra soát đối với CSCNT.
1.2.3 Quản lý rủi ro trong kinh doanh thẻ.
Trong kinh doanh, dù ở bất cứ lĩnh vực nào cũng có thể gặp phải rủi ro.Kinh doanh thẻ cũng không nằm ngoài quy luật đó. Ván đề quan trọng là các ngân hàng phải nghiên cứu, phân tích, từ đó hạn chế tối đa rủi ro có thể gặp phải.
1.2.3.1. Các loại rủi ro thường gặp.
Đơn phát hành thẻ với thông tin giả mạo(Fraudulent Application)
Thẻ giả(Counterfeit Card)
Thẻ mất cắp, thất lạc và bị sử dụng(Lost-Stolen Card)
Chủ thẻ không nhận được thẻ do ngân hàng phát hành gửi và thẻ bị sử dụng(Never Received issue)
Tài khoản của chủ thẻ bị người khác lợi dụng để sử dụng(Account Takeover)
Thẻ bị giả mạo để sử dụng qua dịch vụ thanh toán thẻ qua thư, điện thoại(Mail, Tele phone order)
Nhân viên cơ sở chấp nhận thẻ giả mạo hoá đơn thanh toán thẻ
Thẻ bị giả mạo qua tạo băng từ giả(Skimming).
Ngoài các loại rủi ro chính trên, còn một số nguy cơ rủi ro khác có thể xuất hiện nếu các ngân hàng thương mại không chú trọng đúng mức đến việc quản lý hệ thống xử lý dữ liệu và quản trị hệ thống kỹ thuật.
1.2.3.2. Hoạt động quản lý rủi ro.
Bộ phận quản lý rủi ro tại các ngân hàng có kinh doanh thẻ được coi là bộ phận xương sống (backbone) trong hoạt động thẻ, thực hiện các chức năng:
- Ngăn ngừa và điều tra các hành vi sử dụng thẻ giả mạo;
- Quản lý danh mục các tài khỏan liên quan tới những thẻ đã được thông báo mất, thất lạc;
- Xây dựng các kế hoạch theo dõi việc bảo mật phôi thẻ, thẻ đã in và thẻ hỏng, thẻ thu hồi;
- Cập nhật thông tin trên các Danh sách thẻ mất cắp, thất lạc;
- Hợp tác với cơ quan có thẩm quyền liên quan trong việc điều tra, xử lý các hành vi vi phạm hợp đồng, giả mạo;
- Theo dõi và quản lý hoạt động của Trung tâm Thẻ, bao gồm cả hoạt động của các cán bộ;
- Tổ chức tập huấn cho nhân viên CSCNT và chủ thẻ về các biện pháp phòng ngừa giả mạo.
Kinh doanh thẻ ngân hàng càng phát triển thì lĩnh vực quản lý rủi ro càng được đầu tư nhiều hơn. Các chuyên gia trong lĩnh vực này là những người thực sự am hiểu về thẻ và công nghệ hiện đại bởi trước khả năng thu lời siêu lợi nhuận, các tổ chức tội phạm quốc tế đã tận dụng công nghệ hiện đại, bằng mọi cách thu thập các dữ liệu về thẻ, tài khỏan của khách hàng, từ đó thực hiện các hành vi giả mạo, gây tổn hại khôn lường về tài chính cũng như uy tín cho ngân hàng, chủ thẻ…
Chương II: Thực trạng phát hành, thanh toán quản ly rủi ro trong kinh doanh thẻ ngân hàng tại sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam
2.1 Khái quát chung về hoạt động của Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam
2.1.1 Sự hình thành và phát triển của Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam
Theo quyết định số232/QĐ/HĐQT- 02 Ngày 13/05/1999 của chủ tịch hội đồng quản trị NHN0 & PTNT Việt Nam, SGD NHN0 & PTNT Việt Nam được hình thành trên cơ sở sắp xếp lại sở kinh doanh hối đoái. Trước đây NHN0 & PTNT Việt Nam có hai đầu mối : đầu mối ngoại tệ do sở kinh doanh hối đoái và đầu mối nội tệ do SGD1 đảm nhiệm. Đến năm 1999, do sự tồn tại và tách biệt của chức năng đầu mối nội tệ và ngoại tệ trong cả hệ thống NHN0 & PTNT Việt Nam đã gây khó khăn cho khách hàng. Chính vì thế mà chức năng và nhiệm vụ đầu mối nội tệ và ngoại tệ được thu về một mối đó là SGD NHN0 & PTNT Việt Nam. Khi đó SGD1 trở thành một chi nhánh hoạt động bình thường và không giữ chức năng đầu mối nữa. Trong cơ cấu bộ máy tổ chức thì SGD là đơn vị hạch toán phụ thuộc, đại diện uỷ quyền của NHN0 & PTNT Việt Nam, có sự tự chủ kinh doanh theo phân cấp, bảng cân đối tài sản theo NHN0 & PTNT Việt Nam, chịu sự ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ với NHNN, chịu trách nhiệm cuối cùng về các nghĩa vụ do cam kết của SGD trong phạm vi uỷ quyền. SGD có trụ sở đặt tại số 2-Láng Hạ , trong những năm qua SGD đang dần phát triển và hoàn thiện xứng đáng đi đầu trong toàn hệ thống . Sở giao dịch là thành viên thực hiện chức năng trực tiếp kinh doanh đa năng và chức năng Sở đầu mối trong toàn hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam.
Sở giao dịch thực hiện các nghiệp vụ chủ yêú là: Điều hoà vốn nội, ngoại tệ trong hệ thống NHNo ; đầu mối thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ cho các đơn vị thành viên trong toàn hệ thống NHNo và các doanh nghiệp là khách hàng của Sở giao dịch; Kinh doanh tiền tệ trên thị trường liên Ngân hàng, thị trường mở, tham gia thị trường chứng khoán; Nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ với nhiều hình thức; Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng VND và ngoại tệ; Thực hiện cơ chế ưu đãi lãi suất và dịch vụ Ngân hàng đối với khách hàng.
Sở giao dịch thực hiện các dịch vụ Ngân hàng như: thanh toán quốc tế; Chuyển tiền nhanh trong nước và nước ngoài qua mạng SWIFT và mạng máy tính trong hệ thống NHNo; Nhận chuyển tiền kiều hối; Mua bán ngoại tệ tiền mặt, bảo lãnh, uỷ thác, chiết khấu, tái chiết khấu bộ chứng từ; Máy rút tiền tự động (ATM), thanh toán thẻ; thực hiện quan hệ đại lý thanh toán và dịch vụ Ngân hàng đối với các Ngân hàng nước ngoài, đầu tư hùn vốn liên doanh, mua cổ phần và các hình thức đầu tư khác….
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của sở giao dịch.
Trụ sở của Sở giao dịch được đặt tại số 2 Láng hạ, Quận Ba Đình, Hà nội.
- Mô hình tổ chức của Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam :
Phòng
kinh
doanh
kế
hoạch
tổng
hợp
Phòng
kế toán
ngân
quỹ
Phòng
kinh
doanh
ngoại tệ
Phòng
hành
chính
Phòng
thanh
toán
quốc tế
Phòng
SWIFT
Phòng
kiểm
tra
kiểm
toán nội
bộ
phó GIáM ĐốC
phó GIáM ĐốC
phó GIáM ĐốC
GIáM ĐốC
Phòng vi tính
- Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban:
Phòng kinh doanh kế hoạch tổng hợp : Nhiệm vụ chính là huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế, cho vay đối với nền kinh tế. Ngoài ra, phòng còn có nhiệm vụ lên kế hoạch tổng hợp , dịch vụ dự án, thông tin phòng ngừa rủi ro.
Phòng kinh doanh ngoại tệ : Nhiệm vụ chính là quản lý vốn nội ngoại tệ và mua bán ngoại tệ, thực hiện dự trữ bắt buộc và đảm bảo khả năng thanh toán ngoại tệ.
Phòng kế toán- ngân quỹ : Thực hiện hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, theo dõi các quỹ, vốn tập trung toàn hệ thống NHN0 & PTNT Việt Nam,hạch toán kết quả tài chính. Ngoài ra còn tổ chức lưu trữ hồ sơ tài liệu, lập các báo cáo kế toán, cung cấp thông tin tài chính phục vụ lãnh đạo, chỉ đạo hoạt độnh kinh doanh.
Phòng hành chính: thực hiện các công việc hành chính quản trị, lễ tân bảo vệ an toàn cơ quan.
Phòng thanh toán quốc tế : Bên cạnh thực hiện các nghiệp vụ thanh toán trực tiếp tại SGD, mở và theo dõi các thư bảo lãnh, thư tín dụng ,còn thực hiện chiết khấu và tái triết khấu chứng từ .
Phòng SWIFT : Quản trị điều hành mạng SWIFT của NHN0 & PTNT Việt Nam, duy trì quan hệ đại lý với các ngân hàng trên thế giới và phục vụ thanh toán quốc tế cho toàn hệ thống
Phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ : Thực hiện việc kiểm tra giám sát , kiểm toán nội bộ.
Phòng vi tính : thực hiện các vấn đề liên quan tới mạng máy tính của SGD và giải quyết khi có sự cố .
Mỗi phòng có một chức năng, nhiệm vụ riêngnhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau dưới sự lãnh đạo trực tiếp của ban giám đốc SGD. Dưới sự quan tâm chỉ đạo của ban lãnh đạo sở cùng với sự kết hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, sự cố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên, SGD NHN0 & PTNT Việt Nam đang từng bước khẳng định được mình, nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường, góp phần vào sự phát triển của toàn ngành cũng như toàn nền kinh kế.
Với cơ cấu tổ chức chặt chẽ và nhận thức được vai trò quan trọng trong hoạt động của toàn hệ thống, ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên, các phòng ban đã lỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tích trong hoạt động kinh doanh của mình. Giữ vững phương châm mà ban lãnh đạo của NHN0 & PTNT Việt Nam đề ra ngay từ khi SGD thành lập : “ Là bạn của tất cả khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế “ trên nguyên tắc “ tự nguyện , bình đảng cùng có lợi trong khuôn khổ phát luật của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông lệ quốc tế, các quy định hiện hành của thống đốc NHNN và của Hội đồng quản trị NHN0 & PTNT Việt Nam”. Các công tác kinh doanh tiền tệ, cung ứng các dịch vụ ngân hàng như công tác thực hiện các nhiệm vụ theo uỷ quyền của NHN0 & PTNT Việt Nam, được sở giao dịch từng bước xây dựng theo hướng ngân hàng hiện đại , đảm bảo khả năng thanh toán nhanh, chính xá c an toàn. Vì vậy, ngày càng cải thiện được hình ảnh cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với SGD , đồng thời đóng góp thành tích không nhỏ vào hệ thống NHN0 & PTNT Việt Nam. Với những thành tích đã đạt được đó SGD được coi là 1 trong 4 đơn vị có hoạt động lớn nhất trong hệ thống.
2.1.3 Khái quát tình hình hoạt động của sở giao dịch NHN0 & PTNT Việt Nam trong những năm gần đây.
Là một dơn vị mới thành lập trên địa bàn có hơn 50 tổ chức tín dụng hoạt động. Nhiều chi nhánh NHTM trong nước cũng như nước ngoài có công nghệ tiên tiến cộng thêm bề dày lịch sử trong kinh doanh SGD NHN0 & PTNT Việt Nam phải hoạt động trên một môi trường cạnh tranh gay gắt nhất là cạnh tranh về lãi suất.
Bên cạnh đó, đối tượng cho vay chủ yếu của SGD NHN0 & PTNT Việt Nam là các doanh nghiệp nhà nước có vốn tự có thấp, thiếu các dự án mang tính khả thi, hoạt đông kinh doanh của các doanh nghiệp này là đang trong giai đoạn khó khăn về tiều thụ sản phẩm, tỷ gía ngoại tệ tăng gây khó khăn cho việc nhập vật tư, vật liệu cho sản xuất, cho việc đổi mới quy trình công nghệ điều này dẫn đến các doanh nghiệp làm ăn có hiệu qủa quá thấp. ảnh hưởng đến kết qủa kinh doanh và tốc độ giải Ngân của Sở.
Tuy nhiên SGD NHN0 & PTNT Việt Nam cũng đã có những thuận lợi trong quá trình hoạt động đó là :
Sở có một vị trí thuận lợi đó là trụ sơ đặt tại số 2 Láng Hạ - Đống Đa Hà nội một quận lớn trong thành phố Hà Nội, với diện tích 14 Km2, dân số khoảng 40 vạn người, là quận tập chung nhiều khu công nghiệp và các doanh nghiệp – đây là khách hành tiềm năng của SGD.
Do mới thành lập được hơn 4 năm nên trong suốt quá trình hoạt động của SGD có thể rút ra những bài học kinh nhiệm từ các Ngân Hàng khác. Mặt khác, SGD được thành lập trong giai đoạn nền kinh tế có nhiều chuyển biến tích cực , điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và SGD nói riêng.
Là một ngân hàng mà kết qủa hoạt động ảnh hưởng rất lớn đến toàn hệ thống (ngoài chức năng kinh doanh trực tiếp còn trực tiếp thực hiện nghĩa vụ theo lệnh của tổng giám đốc NHN0 & PTNT Việt Nam, đầu mối thực hiện các uỷ nhiệm của NHN0 & PTNT Việt Nam ) nên sở giao dịch đã nhận được chỉ đạo sát sao của ban lãnh đạo NHN0 & PTNT Việt Nam.
Trước những khó khăn và thuận lợi sau hơn 4 năm hoạt động SGD đã xác định rõ mục tiêu và giải pháp trong chỉ đạo và điều hành và đã bước đầu đạt được những hiệu quả đáng khích lệ . luôn tăng trưởng vượt mức kế hoạt, luôn đáp ứng tốt các nhu cầu của khách hàng.
Với bước đi đúng hướng SGD NHN0 & PTNT Việt Nam luôn luôn được Đảng uỷ, ban lãnh đạo NHN0 & PTNT Việt Nam khen ngợi đánh giá cao và được công nhận là lá cờ đầu của ngành.
2.1.3.1 Về việc thực hiện các nhiệm vụ theo uỷ quyền của NHN0 & PTNT Việt Nam.
Đầu mối thanh toán quốc tế.
Theo thống kê đến 31/12/2003 có 752 ngân hàng đại lý tại 91 quốc gia trên thế giới, tăng 50 ngân hàng so với năm 2002 , 95 ngân hàng và 17 quốc gia so với năm 2001.
Với 65 chi nhánh nối mạng thanh toán SWIFT, tăng 13 chi nhánh so với năm 2002, 12 chi nhánh so với 2001.
Trong năm 2003 SGD thực hiện chuyển tiếp 125.809 điện, tăng 35,3% so với năm 2002 và tăng 57.8% so với năm 2001, trong đó có 55.145 điện chuyển ra nước ngoài, tăng 21 % so với năm 2002, 47 % so với năm 2001 và 59.733 điện chuyển vào hệ thống NHN0 & PTNT Việt Nam, tăng 38% so với năm 2002 và 40% so với 2001. Từ số liệu trên ta có thế thấy rằng việc thực hiện nhiệm vụ đầu mối thanh toán quốc tế là rất tốt , biểu hiện kết quả tăng trưởng khá ổn định qua các năm.
Quản lý tài khoản nội- ngoại tệ của NHN0 & PTNT Việt Nam.
Nhìn chung SGD đã thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nội – ngoại tệ của NHN0 & PTNT Việt Nam đảm bảo dự trữ bắt buộc, an toàn khi thanh khoản. Thường xuyên tham gia giao dịch trên thị trường mở, thị trường đấu thầu trái phiếu kho bạc để duy trì tài sản có hợp lý, có tính linh hoạt cao và được coi như một công cụ để vay triết khấu và tái cấp vốn tại NHNN khi có nhu cầu về vốn , ngoài việc duy trì đủ dự trữ bắt buộc và nguồn vốn đảm bảo kha năng thanh toán toàn hệ thống, SGD đã tích cực tìm kiếm thị trường tốt để kinh doanh vốn khả dụng như gửi qua đêm, tuần, tháng, mua tín phiếu kho bạc… đảm bảo an toàn và hiệu qủa trong kinh doanh.
Bảng 1 : kết qủa quản lý tài sản nội ngoại tệ của SGD
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
Tổng số
Tổng số
Tăng(giảm)
%
Tổng số
Tăng(giảm)
%
Số dư tiền gửi USD trung bình ( triệu đồng)
150
173,2
15,3
233.9
35,2
Doanh sốtiền gửi kỳ hạn VNĐ (tỷ đồng)
350
544,1
55,4
882,4
62.2
Nguồn : báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh của SGD 2001-2003
Điều hoà các loại vốn, quỹ của NHN0 & PTNT Việt Nam.
Là đầu mối nhận điều hoà vốn nội, ngoại tệ của các chi nhánh trong toàn hệ thống NHN0 & PTNT Việt Nam, SGD luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Từ tháng 4/2001 SGD tập trung hạch toán điều vốn nội tệ cho toàn hệ thống ( trước đây phân tán ở Đà Nẵn TPHCM, Cần Thơ ). Tính đến 31/12/2002 có khoảng 105 chi nhánh NHN0 & PTNT Việt Nam mở tài khoản tại sở giao dịch tăng 7 chi nhánh so với năm 2002 và 11 chi nhánh so với năm 2001 với khối lượng giao dịch tăng nhanh, có thể cụ thể theo bảng sau:
Bảng 2 : Kết qủa điều hành vốn
Nguồn : báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh của SGD 2001-2003
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
Tổng số
Tổng số
Tăng(giảm)
%
Tổng số
Tăng(giảm)
%
Điều vốn ngoại tệ
( triệuUSD)
2300
4006
74, 2
7023
75.3
Điều vốn nội tệ
( Tỷ VNĐ)
106
127
19,8
157.1
23,7
2.1.3.2 Khái quát hoạt động kinh doanh của sở giao dịch.
Về huy động vốn
Tổng nguồn vốn huy động đến ngày 31/12/2003 dạt 3.810 tỷ đồng tăng 1.120 tỷ đồng (tăng 41,6%) so với 31/12/2002 đạt 101% kế hoạch năm 2003 được giao.
Cơ cấu nguồn vốn theo thời gian :
Tiền gửi không kỳ hạn 2003 là 1.182 tỷ đồng chiếm 31 % trong tổng số nguồn vốn huy động; tăng 3 tỷ đồng so với năm 2002
Tiền gửi có kỳ hạn 2003 là 2.628 tỷ đồng chiếm 69 % trong tổng nguồn vốn tăng 1.117 tỷ đồng so với năm 2002. Trong đó , tiền gửi từ 12 tháng trở lên là 1.759 tỷ đồng tăng 749 tỷ đồng so với 2002 chiếm 45.6% tổng nguồn vốn.
Cơ cấu vốn tính theo thành phần kinh tế:
Tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu của dân cư 2003 là 1.225 tỷ đồng tăng 49 tỷ đồng (4%) so với năm 2002 chiếm 32.1% tổng nguồn vốn.
Tiền gửi các tổ chức kinh tế , tổ chức tín dụng 2003 là 2.585 tỷ đồng tăng 1.071 tỷ đồng (tăng70,7%) so với năm 2002 chiếm 68% tổng nguồn vốn.
Cho vay vốn
Công tác tín dụng ngày càng có những chuyển biến tích cực tổng dư nợ cho vay cho đến ngày 31/12/2003 là 930 tỷ đồng dư nợ quá hạn là 4,57 tỷ đồng chiếm 4,88% tổng dư nợ, qua số liệu cho thấy rằng đây là một kết quả rất tốt càng khẳng định thêm rằng SGD đang ngày càng làm ăn có hiệu quả, các phòng ban phối hợp với nhau rất nhịp nhàng và ăn khớp. Không những thế sở giao dịch còn mở quan hệ tín dụng với những khách có tình hình hoạt động kinh doanh không ổn định như : tổng công ty xây dựng công nghiệp, công ty vật tư ngân hàng, xí nghiệp may xuất khẩu, công ty XNK đường biển … cùng với việc thực hiện đúng quy trình tín dụng, tăng cường và nâng cao công tác kiểm trao, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay nên có thể nhìn một các khách quan công tác tín dụng của SGD có sự tăng trưởng khá tốt và ổn định. Cụ thể :
Bảng 3 : Kết quả cho vay vốn của sở giao dịch.
(Đơn vị tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
Tổng số
Tổng số
Tăng(giảm)
%
Tổng số
Tăng(giảm)
%
1. Doanh số cho vay
830
1014
22
1375
35,6
2. Doanh số trả nợ
612
603
- 1,4
610
1,1
3. Dư nợ
454
861
90
930
8,1
Trong đó
Dư nội tệ
179
203
13,4
383
88,6
Dư ngoại tệ
275
658
1,8
547
- 16,7
4. Nợ quá hạn
8,6
5.7
- 33,7
4,57
-19,8
Nguồn báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh SGD 2001 – 2003
2.1.3.3 Về công tác kế toán, thanh toán và ngân quỹ
Với số lượng người không nhiều song phòng kế toán đã cố gắng để hoành thành vượt mức kế hoạch cụ thể 31/12/2003 quản lý 3292 tài khoản trong đó có 574 tài khoản ATM và 2575 tài khoản cá nhân , 143 tài khoản của các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính
Tổng thu tiền mặt VNĐ là 1.596 tỷ đồng tăng 5.3 % so với năm 2002.
Tổng chi tiền mặt VNĐ là 1.984 tỷ đồng tăng 7,5 % so với năm 2002.
Tổng thu tiền mặt USĐ là 262 triệu tăng 1.3 % so với năm 2002.
Tổng chi tiền mặt USĐ là 264 triệu tăng 2% so với năm 2002
Tổng thu tiền mặt EUR là 13 triệu tăng 43 % so với năm 2002.
Tổng chi tiền mặt EUR là 13 triệu tăng 40% so với năm 2002
Và trong 2003 đã sử lý kịp thời 15.64 triệu động tiền giả .
Các nghiệp vụ chuyển tiền điện tử, chuyển tiền điện tử liên ngân hàng cũng tăng nhanh càng chứng tỏ nghiệp vụ kế toán, ngân qũy trong năm qua hoạt động khá tốt.
2.1.3.4. Về công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ
Trong quá trình hoạt động SGD luôn coi công tác kiểm tra, kiểm soát trên cơ sơ nghiêm túc kiểm điểm và rút kinh nhiệm về những tồn tại, qua đó chỉ đạo cá phòng nghiệp vụ liên quan xây dựng kế hoạt sửa sai , tổ chức chấn chỉnh theo kế hoạt và thường xuyên báo cáo kết quả thực hiện theo đúng quy định.
Kết quả đã làm được năm 2003: phát hiện ra 205 chứng từ sai sót , kiểm tra công tác tín dụng 6 lần, công tác kế toán tài chính 12 lần , phúc tra sửa sai nghiệp vụ thanh toán quốc tế …
2.1.3.5 Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Kể từ tháng 3/1999 SGD được giao nhiệm vụ là đầu mối duy nhất thanh toán và kinh doanh ngoại tệ. Để hỗ trợ cho chức năng này, SGD đã tiếp nhận hệ thống REUTERS phục vụ nhu cầu hoạt động kinh doanh ngoại tệ đồng thời đóng góp phần đảm bảo nhu._.g cấp giao dịch 24/24 giờ là chưa có khả năng. Với thực trạng của các NHTMVN hiện nay, tôi xin đề xuất ba giải pháp có thể lựa chọn để xây dựng một hệ thống kết nối toàn bộ mạng lưới giao dịch tự động ATM của các ngân hàng nội địa như sau:
Giải pháp 1 - Sử dụng khung hệ thống sẵn có của SGD NHNo & PTNT VN: theo cách này, hệ thống giao dịch tự động ATM của SGDNHNN&PTNTVN sẽ là xương sống của hệ thống ATM cả nước. Các ngân hàng khác sẽ thực hiện kết nối hệ thống ATM của mình với hệ thống ATM của SGDNHNN&PTNTVN và phải tuân theo các tiêu chuẩn kỹ thuật của hệ thống này, kết nối trực tuyến vào hệ thống thanh toán trực tuyến và hệ thống ngân hàng bán lẻ và đảm bảo cung cấp dịch vụ 24/24 giờ. Nhưng cũng có khó khăn lớn là SGDNHNN&PTNTVN phải đầu tư nâng cấp hệ thống đảm bảo xử lý giao dịch của toàn bộ hệ thống NHTMVN, phải xây dựng giao diện với các hệ thống của các NHTMVN khác. Hơn nữa, để đi đến giải pháp này, các ngân hàng thương mại khác sẽ phải cân nhắc khi tham gia do không muốn phụ thuộc quá lớn vào chuẩn và vào hệ thống của SGD NHNN&PTNTVN.
Giải pháp 2 - Sử dụng một bên thứ ba trong nước làm nhà xây dựng và điều hành hệ thống: Bên thứ ba này có thể là một công ty độc lập hoặc Cục Công nghệ tin học của NHNN. Công ty này sẽ xây dựng lên một chuẩn kỹ thuật và yêu cầu các ngân hàng tuân thủ, đầu tư cho hệ thống kết nối và được hưởng phí giao dịch. Cách này có thể giải quyết các xung đột về lợi ích giữa các ngân hàng, tạo nên một hệ thống đồng bộ, thống nhất. Nhược điểm của phương án này là chi phí đầu tư lớn, thời gian triển khai dài, các ngân hàng có thể không có được sự chủ động cần thiết. Vấn đề lựa chọn công ty đủ năng lực và đạt yêu cầu của các NHTMVN không phải đơn giản trong điều kiện hiện nay. Công ty này phải có đủ năng lực tài chính, khả năng quản lý hệ thống, hiểu biết về nghiệp vụ thẻ và có phương án kinh doanh hợp lý. Nếu chọn Cục Công nghệ tin học NHNN làm nhà xây dựng và điều hành hệ thống cũng phát sinh nhiều vấn đề cần lưu tâm. Đây là cơ quan quản lý ngành phải kiêm nhiệm việc kinh doanh và phải tham gia đầu tư cũng với các NHTMVN. Ngoài việc phải đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, các chuyên gia sẽ phải đào tạo thêm để nâng cao nghiệp vụ thanh toán và nghiệp vụ thẻ cũng như hệ thống kết nối để đảm bảo sự vận hành thông suốt của hệ thống.
Giải pháp 3 - Sử dụng hệ thống của Tổ chức thẻ quốc tế: các ngân hàng Việt Nam có thể sử dụng dịch vụ triển khai và vận hành mạng lưới thanh toán tự động do một TCTQT cung cấp. Tổ chức này sẽ đầu tư xây dựng hệ thống, đặt ra các tiêu chuẩn về công nghệ kỹ thuật và nghiệp vụ cho các ngân hàng thành viên và thu phí xử lý giao dịch. Tổ chức thẻ Visa International đã có kinh nghiệm tham gia triển khai kết nối hệ thống giao dịch tự động nội địa tại một số nước trong khu vực. Thực hiện phương án này, các ngân hàng có khả năng tận dụng công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm của các tổ chức thẻ quốc tế, thời gian triển khai hệ thống ngắn. Tuy nhiên chỉ có những ngân hàng là thành viên của Visa và có hệ thống quản lý và xử lý giao dịch thẻ đạt tiêu chuẩn của Visa mới được tham gia. Lựa chọn hướng này cũng sẽ làm hệ thống NHTMVN phải phụ thuộc vào TCTQT Visa và không thể ngăn cản sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam vào hệ thống. Hệ thống này cũng sẽ không thể kết nối với hệ thống thanh toán liên ngân hàng hiện tại để thành một hệ thống thống nhất hoạt động hiệu quả và đem lại lợi ích cho toàn bộ hệ thống NHTMVN và NHNNVN có thể quản lý dễ dàng hơn.
Cả ba giải pháp nêu trên đều có ưu thế và khó khăn khác nhau, cần phải xem xét và cân nhắc để tìm giải pháp thuận lợi và phù hợp với tình hình thực trạng của hệ thống NHTMVN.
3.2.2.3 Thành lập trung tâm thanh toán liên ngân hàng về thẻ.
Các nước phát triển đã xây dựng và thực hiện mô hình hệ thống thanh toán liên ngân hàng cho giao dịch thẻ với sự tham gia của các ngân hàng trong phạm vi một nước hoặc thậm chí một khu vực từ những năm 80. ở châu Âu, hệ thống này trở nên cực kỳ phát triển mang một thương hiệu riêng là Europay. Hệ thống Europay trước khi sát nhập vào TCTQT Mastercard International có quy mô và tầm cỡ như một TCTQT bao gồm rất nhiều ngân hàng tại tất cả các nước châu Âu. Ngay tại khu vực ASEAN nhiều nước trong khu vực đã thực hiện rất tốt và có hiệu quả mô hình kết nối hệ thống giao dịch tự động và thanh toán liên ngân hàng cho giao dịch thẻ, điển hình là Singapore và Thái lan. Việc kết nối được thực hiện thông qua một trung tâm chuyển mạch tự động. Ngoài việc xử lý giao dịch, trung tâm này còn là nơi trao đổi giao dịch và thực hiện thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng. Thường các nước triển khai hệ thống này do nhu cầu thanh toán giao dịch kết nối hệ thống ATM. Không chỉ dừng lại với việc xử lý giao dịch ATM, các nước còn phát triển trung tâm này thành nơi xử lý giao dịch và thực hiện thanh toán bù trừ toàn bộ giao dịch thẻ cả thẻ nội địa và thẻ quốc tế thực hiện thông qua mạng lưới CSCNT được trang bị POS của các ngân hàng.
Tại Việt Nam, hệ thống thanh toán liên ngân hàng đã được đi vào hoạt động nhưng chỉ xử lý các giao dịch chuyển tiền giữa các ngân hàng với nhau. Các giao dịch thẻ nội địa do không có một trung tâm xử lý riêng cho Việt Nam nên các ngân hàng phải thanh toán và xử lý giao dịch thông qua các TCTQT. Quá trình thanh toán này buộc các ngân hàng phải chịu phí trao đổi (Interchange Fee) của các TCTQT cho các giao dịch thẻ nội địa như giao dịch thẻ quốc tế. Do mức phí trao đổi cao như vậy, các ngân hàng Việt Nam không có khả năng hạ thấp mức phí thanh toán thẻ (Discount Rate) đặc biệt cho các giao dịch do họ phát hành tại mạng lưới CSCNT tại Việt Nam. Do vậy không tạo điều kiện khuyến khích chủ thẻ Việt Nam chi tiêu bằng thẻ cũng như khuyến khích các CSCNT Việt Nam chấp nhận thẻ do các NHTMVN phát hành.
Việc thành lập một trung tâm thanh toán bù trừ cho giao dịch thẻ trong nội địa Việt Nam là cần thiết. Hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam lớn và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có mở tài khoản tiền gửi tại SGD NHNo&PTNT Việt nam . SGD NHNo&PTViệt nam rất dễ dàng thoả thuận với từng ngân hàng về cơ chế thanh toán cũng như mức phí trao đổi để triển khai thanh toán bù trừ cho các giao dịch thẻ do SGD NHNO&PT Việt nam phát hành được sử dụng tại các CSCNT thuộc ngân hàng đó nhằm mục đích giảm phí phải trả cho các TCTQT. Tuy vậy, đây không phải là giải pháp tổng thể. Giải pháp tổng thể phải đầu tư xây dựng một hệ thống thanh toán thẻ liên ngân hàng kết nối với hệ thống thanh toán liên ngân hàng hiện tại và hệ thống xử lý giao dịch ATM và POS. Có như vậy, các ngân hàng có thể kết nối, xử lý giao dịch và thanh toán bù trừ cho nhau. Các ngân hàng sẽ có điều kiện ưu tiên áp dụng mức phí chiết khấu thanh toán thẻ tín dụng giao dịch nội địa đặc biệt thấp cho các CSCNT để khuyến khích việc sử dụng thẻ cũng như việc chấp nhận thẻ của khách hàng cả chủ thẻ vàCSCNT.
3.2.2.4. Phát hành thẻ tín dụng.
Trước hết SGD NHNo & PTNT Việt Nam nên triển khai phát hành thẻ tín dụng vì đây là loại thẻ đã được các ngân hàng thương mại khác phát triển sớm hơn rất nhiều.Thẻ tín dụng giúp cho chủ thẻ có thể rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ trong phạm vi hạn mức tín dụng của mình được ngân hàng phát hành thẻ cấp.Đây là hình thức chi tiêu trước trả tiền sau rất thuận tiện cho khách hàngvà ngân hàng sau khi thẩm định và đưa ra hạn mức tín dụng cho khách hàng thì ngân hàng sẽ được hưởng một mức phí nhất định.
3.2.2.5 Phát hành thẻ ghi nợ
Mặc dù thẻ tín dụng được chi tiêu trước, trả tiền sau nhưng tâm lý người Việt Nam rất thận trọng trong việc tiêu tiền, nhất là tiền của người khác. Vì vậy, việc phát hành thẻ ghi nợ tạo cho khách hàng có khả năng tiêu tiền của chính mình là một việc các ngân hàng thương mại cần lưu tâm. Việc phát hành thẻ loại này sẽ phá bỏ ngại ngần của khách hàng trong sử dụng thẻ. Ngân hàng có thể tạo thêm những thuận tiện khác cho khách hàng như: cho phép khách hàng được sử dụng quá số dư trong những trường hợp đặc biệt với một mức độ nào đó, trả lãi tiền gửi không kỳ hạn trên tài khoản thẻ ghi nợ ...
3.2.2.6 Phát hành thẻ liên kết
Thêm vào đó, cần triển khai việc phát hành thẻ liên kết giữa ngân hàng và các doanh nghiệp lớn như xăng dầu, bưu điện, hàng không, ... hoặc với các trung tâm thương mại. Việc phát hành thẻ loại này mang lại lợi ích thêm cho các bên liên quan. Khách hàng sử dụng loại thẻ này sẽ có những ưu đãi đặc biệt khi thanh toán tại các doanh nghiệp liên kết. Doanh nghiệp liên kết và ngân hàng sẽ có thêm một lượng khách hàng truyền thống của bên đối tác. Ngân hàng góp phần tiếp thị khách hàng, tăng doanh số... cho bên liên kết và ngược lại, bên liên kết sẽ góp phần tiếp thị phát triển dịch vụ cho ngân hàng.
3.2.3 Giải pháp về nghiệp vụ
3.2.2.1 Quy trình nghiệp vụ.
Đến tháng 10 năm 1999, Ngân hàng Nhà nước mới ban hành Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. Trước đó, các ngân hàng tự động xây dựng quy trình nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ của mình, không theo một chuẩn thống nhất. Căn cứ vào Quy chế mới ban hành của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng có khả năng xem xét và chỉnh sửa lại Quy trình nghiệp vụ của ngân hàng mình, tuân thủ quy định của Ngân hàng Nhà nước, đảm bảo chặt chẽ an toàn nhưng phải gọn nhẹ, tránh thủ tục rườm rà cho khách hàng.
3.2.3.2 Tăng cường quản lý rủi ro.
Tăng cường quản lý rủi ro cho phát hành và thanh toán thẻ là mối quan tâm hàng đầu của Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Việc xây dựng quy trình nghiệp vụ của mỗi bộ phận chặt chẽ an toàn, việc đảm bảo cho hệ thống quản trị dữ liệu hoạt động ổn đinh, hiệu quả đã góp 90% cho quản lý rủi ro.
Một chủ thẻ có thể sử dụng thẻ của mình để chi tiêu trên khắp thế giới tại các cơ chấp nhận thẻ (CSCNT) thích hợp. Luồng thông tin và luồng chu chuyển tiền liên quan đến việc chi tiêu này của chủ thẻ là rất lớn và luôn vận động. Do vậy đặt ra yêu cầu bức thiết về công nghệ ( hệ thống quản lý và xử lý thông tin: phần cứng phần mềm tại ngân hàng và các thiết bị đầu cuối chấp nhận thanh toán thẻ tại các cơ sở cung ứng hàng hoá dịch vụ) cũng như nhân sự quản lý đối với SGD NHNo & PTNT Việt Nam. Hệ thống quản lý này đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ đạt chất lượng cao cho khách hàng - chủ thẻ, CSCNT và việc phòng ngừa rủi ro, thiệt hại do nạn lừa đảo, giả mạo gây ra.
3.2.4 Giải pháp về chính sách khách hàng
3.2.4.1 Tổ chức tuyên truyền và giới thiệu về thẻ ngân hàng.
Trước hết là đưa thẻ thanh toán tiếp cận với mọi người dân, làm cho nó thực sự là một bộ phận thiết thực của đời sống bình thường. Do đó cần đẩy mạnh tuyên truyền, quảng cáo để đông đảo dân chúng biết về lợi ích kinh tế, sự tiện lợi khi dùng thẻ. Hoạt động này được thực hiện qua nhiều phương tiện thông tin đại chúng: tivi, báo chí, tờ rơi ,v.v... nhằm tác động mạnh mẽ vào nhận thức của mọi người, phá vỡ rào cản tâm lý ngần ngại của người dân trước những dịch vụ mới để họ thấy rằng chi tiêu bằng thẻ là kinh tế, an toàn và tiện lợi.
Bộ phận dân cư thành thị là đối tượng chủ thẻ tiềm năng của các ngân hàng thương mại. Trong đó phải kể đến đối tượng đầu tiên là những người làm việc trong các cơ quan nước ngoài, cơ sở liên doanh đầu tư nước ngoài, các văn phòng đại diện quốc tế đặt trụ sở tại Việt Nam; những người làm việc ở một số ngành có thu nhập cao như: dầu khí, ngân hàng, bưu điện, hàng không...; chủ doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân... Đây là những người có thu nhập khá, ôn định , có nhu cầu hay có điều kiện thường xuyên đến các siêu thị, đi công tác trong nước và nước ngoài, đi du lịch, nghỉ tại khách sạn... Rõ ràng đây là đối tượng chính và đầy tiềm năng và có xu hướng tăng lên trong phát hành, sử dụng thẻ mà Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam cần tập trung vào khai thác
Một số lượng khác chiếm tỷ lệ không lớn trong dân cư thành thị nhưng cũng khá đông đảo đó là các viên chức Nhà nước, cán bộ có chức có quyền trong các cơ quan hành chính Nhà nước có nhu cầu thường xuyên đi công tác trong và ngoài nước nhưng những chi tiêu cá nhân đó đều do cơ quan thanh toán theo chế độ quy định của Nhà nước. Đây cũng là một đối tượng để phát triển việc sử dụng thẻ giúp cho các tổ chức, doanh nghiệp Nhà nước không phải trích tiền mặt ngoại tệ tạm ứng cho họ khi đi công tác. Sử dụng thẻ, họ sẽ không phải mất tiền ký quỹ khi ở tại khách sạn, thuận tiện hơn trong việc bảo quản thẻ thay cho tiền mặt.
Một đối tượng được nhắm đến là những người nước ngoài: các nhà đầu tư, các chuyên gia cư trú và không cư trú tại Việt Nam... có nhu cầu sử dụng thẻ trong thời gian công tác cho các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Đây là một lực lượng không đông đảo, khoảng dưới 1 triệu người nhưng có nhu cầu chi tiêu thường ngày lớn. Phát triển phát hành thẻ cho đối tượng này, Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam sẽ có nhiều khả năng tăng doanh số sử dụng thẻ, tạo điều kiện thuận lợi mở rộng mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ. Tuy nhiên, điều kiện đảm bảo phát hành thẻ cho loại đối tượng này phải hết sức thận trọng, tránh sự lợi dụng của các tổ chức tội phạm quốc tế chuyển ngân ra nước ngoài và phát hành thẻ giả mạo.
Một đối tượng nữa tuy còn chiếm một tỷ lệ nhỏ bé nhưng đang ngày càng tăng, đó là lượng học sinh, sinh viên được gia đình bảo lãnh phát hành thẻ để sử dụng trong thời gian học tập và làm việc ở nước ngoài.
3.2.4.2 Mở rộng mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ
Thực chất thanh toán thẻ là nghiệp vụ cung cấp tín dụng tiêu dùng cá nhân, nghĩa là phải đặc biệt chú ý đến sở thích, nhu cầu của chủ thẻ. Muốn tăng nhu cầu phát hành và sử dụng thẻ, NHNN&PTNTVN phải chú trọng mở rộng các điểm cung cấp dịch vụ, hàng hoá có chấp nhận thanh toán bằng thẻ sao cho người dân có thể thoả mãn mọi nhu cầu sinh hoạt tại các CSCNT này. Hiện tại ở Việt Nam, mạng lưới CSCNT vẫn tập trung chủ yếu tại các thành phố lớn, khu du lịch như Hà nội, thành phố Hồ chí minh, Vũng tàu .v.v... Nguồn khách du lịch nước ngoài sử dụng thẻ mang lại nhiều ngoại tệ cho đất nước nhưng bên cạnh đó cần chú ý khai thác thị trường trong nước vẫn còn tương đối bỏ ngỏ. Có thể thấy trong xã hội mỗi thành viên đều có những mối quan hệ kinh tế khác nhau cũng như phải chi tiêu cho vô số nhu cầu cần thiết như: tiền điện, tiền nước, xăng dầu, phí điện thoại .v.v. Nếu những chi phí này đều được trả bằng thẻ thông qua hợp đồng với công ty cung cấp các dịch vụ trên thì số lượng thẻ phát hành và doanh số thanh toán thẻ nhất định sẽ tăng lên rất nhiều. Ngoài ra ngân hàng có thể trợ giúp bằng cách thoả thuận với các công ty, cơ quan để chính những đơn vị này bảo lãnh phát hành thẻ thanh toán cho nhân viên của mình. Như vậy ngay cả những người có mức thu nhập trung bình cũng có thể được hưởng những tiện ích của thẻ trong cuộc sống.
3.3. Một số kiến nghị
Để việc sử dụng và thanh toán thẻ mở rộng và phát triển, các ngân hàng thương mại và đặc biệt là SGD NHNo & PTNT Việt nam rất cần sự trợ giúp của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Hội các ngân hàng thanh toán thẻ Việt Nam. Do vậy để thực hiện thẻ tại SGD NHNo & PTNT Việt nam em xin nêu một số kiến nghị.
3.3.1. Kiến nghị với nhà nước.
Sự quan tâm của Chính phủ đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với mọi ngành mọi cấp. Nếu Chính phủ có những chính sách và biện pháp hỗ trợ mạnh mẽ về chính sách thuế, về quy định pháp luật ... các ngân hàng thương mại Việt Nam có điều kiện tích cực triển khai dịch vụ thẻ ngân hàng, góp phần phát triển kinh tế xã hội, thực hiện chủ trương ổn định tiền tệ, giảm tiền mặt trong lưu thông, thực hiện thành công công cuộc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
Kinh nghiệm ở một vài nước trong khu vực như Trung quốc, Philippin, Thái lan..., trong thời gian đầu triển khai dịch vụ thẻ ngân hàng, Chính phủ tại các nước này đã có sự hỗ trợ vô cùng mạnh mẽ trên tổng thể cả về chính sách thuế, đầu tư công nghệ, các quy định về pháp luật... thậm chí cả những biện pháp rất chi tiết như: quy định mức phí thanh toán tối thiểu áp dụng cho các CSCNT, bắt buộc các doanh nghiệp trả lương cho cán bộ nhân viên thông qua hệ thống tài khoản tại ngân hàng... Chính vì vậy, dịch vụ thẻ ngân hàng của các nước này có điều kiện phát triển với tốc độ rất nhanh.
Thị trường thẻ Việt Nam là thị trường mới nên giả mạo thẻ chưa nhiều, với quy mô còn nhỏ. Hầu hết các vụ thẻ giả mạo và giao dịch giả mạo đều được các ngân hàng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan pháp luật ngăn chặn kịp thời. Tuy vậy, cùng với sự phát triển của thị trường tài chính và thị trường thẻ Việt Nam, nước ta sẽ không nằm ngoài tầm ngắm của các tập đoàn tội phạm quốc tế tấn công. Hiện nay, trong Bộ luật hình sự của ta chưa có quy định tội danh và khung hình phạt cho tội phạm làm và tiêu thụ thẻ giả cũng như lừa đảo hoặc cấu kết để thực hiện giao dịch thẻ giả mạo. Chính vì vậy, trong một số vụ cấu kết giả mạo giao dịch thẻ và tiêu thụ thẻ giả bị phát hiện vừa qua, người phạm tội chủ yếu bị quy kết vào tội tiêu thụ tiền giả, đền lại số tiền lừa đảo cho ngân hàng hoặc cho CSCNT và chấp hành hình phạt theo quy định. Cần phải có quy định tội danh và khung hình phạt nghiêm khắc trong Bộ Luật Hình sự cho loại tội phạm sử dụng thẻ giả và cấu kết lừa đảo giả mạo giao dịch thẻ để ngăn chặn và phòng ngừa. Trong khi quan hệ giữa các NHTMVN là thành viên của các TCTQT và các TCTQT được điều chỉnh bởi luật và quy định của các TCTQT thì quan hệ giữa các NHTMVN và khách hàng được điều chỉnh bởi Pháp luật Việt Nam. Mặc dù các điều luật của các TCTQT mà NHTMVN và TCTQT thoả thuận tuân thủ nói chung không mâu thuẫn với Pháp luật Việt Nam nhưng trong một vài trường hợp đặc biệt đã và sẽ xảy racó những khó khăn cho các NHTMVN trong việc phân xử tranh chấp phát sinh, gây phí tổn về tài chính.
3.3.2. Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng chiến lược cho các NHTMVN cũng như đề ra các chính sách hỗ trợ cho các NHTMVN phát triển dịch vụ thẻ ngân hàng thông qua các giải pháp:
- Phối hợp với các TCTQT và các NHTMVN trong việc hoạch định chiến lược khai thác thị trường, thúc đẩy hoạt động dịch vụ thẻ ngân hàng, định hướng ứng dụng các thành tựu của công nghệ thẻ đã, đang và sẽ được áp dụng trên Thế giới và trong khu vực .
- Chính sách quản lý ngoại hối hiện nay đã có quy định về đồng tiền thanh toán thẻ tại các CSCNT và đồng tiền thanh toán thẻ với ngân hàng tuỳ theo hình thái đầu tư vốn nhưng chưa có quy định về hạn mức tín dụng của thẻ tín dụng quốc tế và hạn mức sử dụng ở nước ngoài của thẻ ghi nợ quốc tế do các NHTMVN phát hành. Trong chính sách Quản lý Ngoại hối cần phải có quy định riêng về hạn mức tín dụng cho thẻ tín dụng quốc tế cũng như hạn mức sử dụng ở nước ngoài của thẻ ghi nợ quốc tế phân theo các loại đối tượng khác nhau nhằm mục đích vừa quản lý tốt việc sử dụng thẻ của khách hàng, tránh việc lợi dụng thẻ để chuyển ngoại tệ ra nước ngoài nhưng phải đảm bảo tạo điều kiện cho việc phát hành thẻ của các NHTMVN và việc sử dụng thẻ của khách hàng không bị hạn chế hoặc phiền hà do thủ tục rườm rà.
- Đảm bảo tín dụng: Chính sách tín dụng phải có quy định riêng về cấp và thẩm định tín dụng thẻ tuỳ theo từng đối tượng khách hàng nhằm tạo điều kiện cho các NHTMVN tự chịu trách nhiệm về việc cấp tín dụng thẻ cho khách hàng, tăng lượng khách hàng được tín chấp, giảm khách hàng phải có điều kiện đảm bảo. Không thể quy định điều kiện đảm bảo tín dụng cho khách hàng sử dụng thẻ như điều kiện đảm bảo tín dụng đối với các khoản cho vay thông thường, có thể nới rộng trong một phạm vi nhất định. Tuy vậy khả năng thanh toán và thu nhập của khách hàng phải đặc biệt lưu tâm vì tín dụng thẻ là tín dụng tuần hoàn, khách hàng phải có thu nhập thường xuyên, ổn định để đảm bảo khả năng chi trả.
- Thành lập Trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro cho hoạt động thẻ: Việc thúc đẩy dịch vụ thẻ, khuyến khích người tiêu dùng sử dụng thẻ tín dụng có tác dụng kích cầu, tạo đà cho phát triển kinh tế. Nó cũng góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ và công nghệ ứng dụng trong ngành ngân hàng. Tuy vậy, việc tín dụng tiêu dùng tăng trưởng quá nhanh trong một thị trường tài chính còn những lỗ hổng lớn về mặt đánh giá tín dụng và quản lý rủi ro sẽ là một con dao hai lưỡi.
Một Tổ chức thông tin tín dụng thực chất là một thư viện lưu trữ các thông tin tín dụng cá nhân. Các thông tin này được thu thập từ các tổ chức tín dụng và một số tổ chức cơ quan nhà nước khác để lập nên những hồ sơ tín dụng cá nhân. Sau đó các hồ sơ được cung cấp cho những tổ chức tín dụng, giúp họ đánh giá nhanh chóng và chính xác các khách hàng. Bản thân các tổ chức thông tin tín dụng không đưa ra đánh giá hoặc xếp hạng khách hàng mà chỉ thuần túy cung cấp các thông tin phục vụ cho quá trình đó. Việc cho điểm, xếp hạng phải được thực hiện thông qua chương trình cho điểm tín dụng của từng tổ chức tín dụng với những tiêu chí cụ thể tùy vào điều kiện và mục đích kinh doanh của từng tổ chức.
Các ngân hàng Việt Nam hiện nay vẫn chưa có hệ thống đánh giá tín dụng đúng nghĩa. Việc cho vay cá nhân cũng như phát hành thẻ tín dụng trong đa số trường hợp phải dựa trên thế chấp, cơ sở dữ liệu thống nhất và tập trung về khách hàng cá nhân hầu như không tồn tại. Đứng trên bình diện cả nước rất đáng mừng là hiện nay Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thành lập Trung tâm thông tin tín dụng để thu thập thông tin và phòng ngừa rủi ro cho các tổ chức tín dụng. Nhưng hoạt động và hiệu quả đối với các ngân hàng thương mại của Trung tâm này vẫn gặp phải hai khó khăn chính.
Khó khăn thứ nhất: Xuất phát cơ sở dữ liệu khách hàng cá nhân của các ngân hàng thương mại. Do đặc thù của các ngân hàng Việt Nam, các ngân hàng lớn được tổ chức theo mô hình hai cấp, trung ương và chi nhánh. Việc quản lý dữ liệu không được tiến hành tập trung, sự nối kết giữa các chi nhánh và trung ương lại không được thường xuyên, liên tục khiến cơ sở dữ liệu của khách hàng trở nên thiếu chính xác và không được cập nhật liên tục. Như vậy, chất lượng thông tin khi đưa đến Trung tâm thông tin tín dụng cũng không được bảo đảm.
Khó khăn thứ hai: Cần đề cập đến là các ngân hàng thương mại chưa có một hệ thống xử lý dữ liệu để đánh giá tín dụng một cách chính xác. Như trong hoạt động thẻ tín dụng hiện nay, việc đánh giá chủ thẻ và cho ra quyết định về mức thế chấp cho thẻ nằm trong tay phụ trách các chi nhánh phát hành. Điều này làm cho việc đánh giá khách hàng thực tế là không tồn tại, đại đa số các chủ thẻ đều phải thế chấp hoặc có bảo đảm thanh toán của cơ quan.
Đề án hiện đại hóa Ngân hàng thương mại Việt Nam do World Bank hỗ trợ có một mảng rất lớn liên quan đến ngân hàng bán lẻ. Cùng với việc đề án đang đi vào giai đoạn kết thúc, tin chắc rằng dựa trên thành công của đề án, hệ thống cơ sở dữ liệu khách hàng của các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ đạt tiêu chuẩn để làm cơ sở xây dựng một hệ thống thông tin tín dụng đầy đủ và hiệu quả trong toàn ngành ngân hàng.
Việc thành lập một Tổ chức thông tin tín dụng với sự tham gia của tất cả các tổ chức tài chính tín dụng toàn quốc là một hướng đi đúng để giảm thiểu rủi ro tín dụng. Thông qua hệ thống, khi một khách hàng có hành vi sai trái về tín dụng, thông tin đó sẽ được toàn thể giới tài chính biết đến. Thậm chí uy tín của khách hàng đó với tổ chức khác như thuế vụ, hải quan vv… cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Có biện pháp xử phạt nghiêm khắc đối với những vi phạm quy chế hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng nhằm tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh, tránh để các chi nhánh ngân hàng nươc ngoài lợi dụng những điều quy định không chặt chẽ để lách luật hoặc cố tình vi phạm thông qua việc liên kết với các ngân hàng cổ phần, góp phần tạo điều kiệ cho các NHTMVN có điều kiện phát triển.
3.3.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Ngân hàng nông nghiệp và phát tiển nông thôn Việt Nam cần phải có chiến lược về con người cho nghiệp vụ kinh doanh thẻ. Đặc biệt là chiến lược đào tạo, cử những cán bộ có trình độ và tâm huyết đi học ở nước ngoài với những khoá học dài hạn có bài bản tránh tình trạng đi học một vài ngày theo kiểu đi tham quan là chính và sau khi được đào tạo về lý thuyết cán bộ cần phải được thực tập tại các ngân hàng có hệ thống thanh toán thẻ tiên tiến, hiện đại có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh này.Khi các cán bộ này về ngân hàng làm việc sẽ trở thành hạt nhân trong cơ cấu tổ chức và họ cần phaỉ có trách nhiệm truyền đạt lại những gì đã được nghiên cứu, học tập cũng như kinh nghiệm thu được trong quá trình học tạp ở ngân hàng bạn cho những đồng nghiệp đang công tác tại trung tâm thẻ.
Đầu tư theo chiều sâu như vậy, ngân hàng vừa tiết kiệm được chi phí vừa mang lại hiệu quả cao.
Đối với việc đầu tư công nghệ, kỹ thuật mới đặc biệt là các chương trìnhquản lý hệ thống ngan hàng cần phải thẩm định, nghiên cứu kỹ càng, có thể đi tham khảo thực tập và xem xét trên thực tế mà các ngân hàng bạn đang sử dụng hệ thống chương trình đó để có thể đánh giá được một cách chính xác về chất lượng cũng như hiệu quả mà nó mang lại để có quyết định đầu tư đúng đắn.
Ngân hàng nông nghiệp cần sớm xin phép nhân nàng nhà nước để trích lập quỹ dự phòng rủi ro riêng cho nghiệp vụ kinh doanh thẻ, trên cơ sở lấy nguồn từ nguồn kinh phí nghiệp vụ hàng năm.
Thành lập tiểu ban mà các thành viên là cán bộ của trung tâm thẻ nghiên cứu để xây dung đề án tách trung thẻ thành trung tâm hoạt động độc lập trong tương lai gần.
Giao nhiệm vụ cho bộ phận nghiệp vụ xây dung quy trình nghiệp vụ kinh doanh thẻ.
Kết luận
Triển khai nghiệp vụ kinh doanh thẻ ngân hàng là một bước đi đúng đắn của Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, bước đi đó nằm trông định hướng chiến lược của Sở giao dịch ngân hàng nông nghệp và phát triển nông thôn Việt Nam, nó cũng phù hợp với chủ trương hiện đại hoá công nghệ ngân hàng của chính phủ và là cơ sở thuận lợi để tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, góp phần xây dựng một môi trường tiêu dùng văn minh hiện đại. Tạo điều kiện cho ngân hàng Việt Nam hội nhập vào cộng đồng tài chính và ngân hàng quốc tế.Tuy nhiên để có thành công và phát triển bền vững trong lĩnh vực kinh doanh này các ngân hàng cần phải quan tâm tới công tác quản lý rủi ro, sử dụng những biện pháp có hiệu quả nháy nhằm hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất có thể.
Với tinh thần trên, khóa luận dã tập chung làm rõ lý luận cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt và thẻ ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Trên cơ sở xem xét những vấn đề mang tính lý luân cơ bản đó, khoá luận đã rút ra được những kết quả đạt được và những tồn tại cần được xem xét và giải quyết tại Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Từ những tồn tại, hạn chế về phát hành thanh toán, quản lý rủi ro tại SGD NHNo & PTNT Việt nam. Khoá luận đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động và quản lý tốt hơn về rủi ro trong kinh doanh thẻ ngân hàng tại SGD NHNo & PTNT Việt nam.
Thực tế việc đi sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam để tìm ra nguyên nhân và những giải pháp để mở rộng phạm vi sử dụng và thanh toán thẻ là việc làm hết sức cần thiết đối với thị trường thẻ Việt Nam.
Để hoàn thành khoá luận này, tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, các thầy cô giáo khoa Tài chính-Ngân hàng Trường Đại học DLĐĐ, đặc biệt là sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của Thầy giáo Vũ Thiện Thập, cùng các cán bộ Phòng Kế toán- Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do thời gian thực tập có hạn, vấn đề nghiên cứu mới và phức tạp, vì vậy Khoá luận không tránh khỏi những sai sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để vấn đề nghiên cứu được hoàn thiện, đóng góp một phần nhỏ bé xây dựng sự nghiệp phát triển thẻ tại thị trường Việt Nam.
Lời cam đoan
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em. Các số liệu, kết quả nêu trong khoá luận là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế tại đơn vị.
Sinh viên
Nguyễn Thị Diệu HươngDanh mục tài Liệu tham Khảo
Tạp chí Khoa học Ngân hàng năm 1999, 2000, 2001
Tạp chí Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 1999, 2000, 2001
Quy chế về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ban hành theo Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Quy chế về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ban hành theo Quyết định của Tổng giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Báo cáo thường niên của Hội các ngân hàng thanh toán thẻ Việt Nam năm 1997, 1998, 1999, 2001.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam.
Giáo trình Kế toán ngân hàng-Học viện ngân hàng năm 2003.
Danh mục các bảng biểu
Bảng 1 : kết qủa quản lý tài sản nội ngoại tệ của SGD 32
Bảng 2 : Kết qủa điều hành vốn 32
Bảng 3 : Kết quả cho vay vốn của sở giao dịch……………………34
Bảng 4 : Kết quả kinh doanh ngoại tệ của SGD…………………...36
Bảng 5: Kết quả hoạt động tài chính của SGD 36
Bảng 6: Doanh số TTKDTM tại SGD qua 3 năm 2001 - 2003. 38
Bảng 7: Xu hướng biến động của TTKDTM tại SGD 39
Bảng 8: Số mónTTKDTM tại SGD. 40
Bảng 9: Báo cáo số lượng và doanh số sử dụng thẻ ATM do SGD NHNo & PTNT Việt Nam đã phát hành. 42
Bảng 10: Báo cáo doanh số thanh toán và phát hành. 43
Danh mục các chữ viết tắt
SGD NHNo & PTNT: Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
NHTW : Ngân hàng trung ương
NHNNVN : Ngân hàng nhà nước Việt Nam
NHTMVN : Ngân hàng thương mại Việt Nam
CSTT : Chính sách tiền tệ
ATM : Thẻ rút tiền tự động
TTD : Thư tín dụng
UNC : Uỷ nhiệm chi
UNT : Uỷ nhiệm thu
TTKDTM : Thanh toán không dùng tiền mặt
CSCNT : Cơ sở chấp nhận thẻ
TCTQT : Tổ chức thẻ quốc tế
Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn nhà giáo ưu tú Vũ Thiện Thập đã trực tiếp hướng dẫn em và các thầy giáo khoa tài chính ngân hàng đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận.
Em xin gửi lời cảm ơn tới ban lãnh đạo và các cô chú, anh chị phòng kế toán, tín dụng SGD NHNo &PTNT Việt nam, trong đợt thực tập vừa qua đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Sinh viên
Nguyễn Thị Diệu HươngMục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33817.doc