Một số ý kiến về kinh doanh XNK ở Việt Nam hiện nay
Lời nói đầu
Ngày nay trên thế giới xu thế quốc tế hoá về cả sản xuất lẫn thương mại diễn ra vô cùng mạnh mẽ, vì thế không có một quốc gia nào có thể tách rời nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới, không một dân tộc nào có thể phát triển đất nước mình bằng cách tự lực cánh sinh và đóng cửa nền kinh tế nước mình.
Nhận thức rõ được xu hướng phát triển tất yếu của nhân loại Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương xây dựng nền kinh tế Việt na
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1408 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số ý kiến về kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m trở thành nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Từ đó Việt Nam đã tiến hành thực hiện chính sách mở cửa. Từ khi thực hiện chính sách này, Việt Nam đã thiết lập được nhiều mối quan hệ ngoại giao trong khu vực và trên thế giới, một sự kiện quan trọng đó là Việt Nam đã ra nhập ASEAN. Mở cửa nền kinh tế Việt Nam đã thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế thương mại làm cho xuất nhập khẩu ngày càng sôi động thông qua xuất nhập khẩu nước ta có thể đón nhận những thành tựu khoa học kỹ thuật những kinh nghiệm quí báu trong quá trình phát triển kinh tế của các nước đi trước để có sự áp dụng phù hợp với nền kinh tế Việt Nam. Nhờ có hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam đã từng bước thực hiện công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên để thực hiện tốt hoạt động xuất nhập khẩu là một điều vô cùng khó khăn, bất kỳ một quốc gia nào cũng đều muốn đẩy mạnh xuất khẩu hạn chế nhập khẩu để thu ngoại tệ, đẩy mạnh phát triển kinh tế trong nước và đồng thời nâng cao vai trò và vị trí của quốc gia trên trường quốc tế, muốn vậy cần phải có một tiềm lực mạnh về kinh tế đó là khoa học kỹ thuật và công nghệ phải ở trình độ cao, nguồn vốn rồi rào, trình độ quản lý kinh tế cao... như thế mới có thể sản xuất được các sản phẩm có chất lượng tốt giá cả rẻ có khả năng cạnh tranh lớn trên thị trường quốc tế.
Hiện nay tuy Việt Nam đã và đang tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế thông qua quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế song nền kinh tế vẫn còn nhiều khiếm khuyết, cụ thể đó là trình độ khoa học và công nghệ còn ở mức thấp, cơ sở hạ tầng chưa được hoàn thiện để có thể "tiêu hóa" được các nguồn vốn đầu tư lớn, trình độ quản lý còn chưa cao, thu hút vốn đầu tư còn chưa có hiệu quả... Do vậy, sản phẩm sản xuất chưa có sức cạnh tranh cao trên trường quốc tế, nhà nước vẫn còn phải dùng bảo hộ mậu dịch để giúp sản phẩm trong nước có thể tồn tại được. Chính vì thế câu hỏi: "Làm thế nào để thúc đẩy xuất nhập khẩu phát triển thuận lợi" đang đặt ra làm đau đầu những người quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay. Vì lý do này nên trong quá trình thực tập tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, em đã tìm hiểu về lĩnh vực xuất nhập khẩu với mong muốn có thể đóng góp những ý kiến bé nhỏ để giúp cho hoạt động xuất nhập khẩu của nước nhà ngày càng có hiệu quả hơn. Đề tài chuyên đề thực tập của em là: "Một số ý kiến về kinh doanh XNK ở Việt Nam hiện nay".
Nội dung chuyên đề gồm có:
Lời nói đầu
Phần I: Lý luận chung về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
I. Hoạt động kinh tế xuất nhập khẩu và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường:
II. Nội dung và tổ chức hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá:
Phần II: Thực trạng xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay
I. Xuất nhập khẩu giai đoạn 1991 - 1995
II. Tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 1996 - 1997
Phần III: Đánh giá về thực trạng xuất nhập khẩu trong những năm qua
I. Đánh giá tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 1991 - 1995
II. Đánh giá tình hình xuất nhập khẩu trong 2 năm 1996 - 1997
Phần IV: Một số kiến nghị thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay
I. Kiến nghị về phương diện tạo nguồn hàng xuất khẩu
II. Kiến nghị về công tác quản lý vĩ mô hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay:
III. Kiến nghị về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trên giác độ vi mô
Phần I:
Những vấn đề lý luận chung về hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu
I. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường:
1. Tính tất yếu của thương mại quốc tế:
Hiện nay, trên thế giới kinh tế thị trường đã trở thành định hướng phát triển kinh tế của nhiều quốc gia. sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển là tiền đề quan trọng cho kinh tế thị trường phát triển, nó kéo theo sự phát triển không ngừng của trao đổi, lưu thông hàng hoá và của sự phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất.
Sự phát triển mạnh mẽ của trao đổi và lưu thông hàng hoá diễn ra từ trao đổi hàng hoá giữa các vùng của một đất nước đã vươn lên vượt ra ngoài biên giới quốc gia, đánh dấu sự ra đời của hoạt động kinh doanh buôn bán thương mại quốc tế.
Như vậy, thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán, thương mại quốc tế là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phù thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa người sản xuất hàng hoá riêng biệt của nhiều quốc gia.
Lịch sử đã chứng minh rõ rằng: các quốc gia không thể tồn tại tách biệt với thế giới bên ngoài mà có thể đảm bảo được đủ điều kiện vật chất và phát triển. Việc trao đổi buôn bán hàng hoá với nước ngoài cho phép một quốc gia có thể mở rộng sản xuất, tăng khả năng tiêu dùng, có nghĩa là một quốc gia có khả năng tiêu thụ tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với giới hạn khả năng sản xuất trong nước khi thực hiện chế độ tự cấp. Do đó có thể hiểu được giữa các nước ngày càng có sự phụ thuộc lẫn nhau trong việc buôn bán trao đổi hàng hoá. Với sự đa dạng về điều kiện tự nhiên trình độ khoa học kỹ thuật và tư bản của mỗi nước thương mại quốc tế đã ra đời trên cơ sở các nước tự chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng cụ thể và xuất khẩu các mặt hàng cuả mình để nhập khẩu các hàng hoá cần thiết từ nước khác, điều này đem lại lợi thế cho mỗi quốc gia, vì thế hiện nay cả những nước có nền kinh tế rất thấp cũng có thể quan hệ buôn bán với các nước có nền kinh tế hiện đại, phát triển cao (ví dụ như quan hệ buôn bán giữa nước ta với các nước Nhật Bản, Đức, Pháp, Mỹ...). Ngoài các sản phẩm được sản xuất dựa trên sự khác nhau của điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội thì phần lớn số lượng thương mại quốc tế phụ thuộc vào các mặt hàng không xuất phát từ những điều kiện đặc trưng vốn có về sản xuất của các nước. Lợi thế mà thương mại quốc tế trao đổi khi các quốc gia trao đổi buôn bán các mặt hàng này đã được David Ricardo - nhà kinh tế học người Anh phát triển thành lý thuyết lợi thế so sánh. Trong lý thuyết về lợi thế so sánh, D. Ricardo đã chỉ ra cơ sở dẫn đến trao đổi và lợi ích mà các bên tham gia thu được ngay cả khi một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối ở bất kỳ mặt hàng nào (Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith - Lý thuyết này nêu lên rằng một quốc gia sẽ sản xuất mặt hàng mà việc sản xuất có nhiều ưu thế và thuận lợi hơn các nước khác). Lý thuyết lợi thế so sánh khẳng định mỗi nước chuyên môn hoá vào các sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh thì thương mại sẽ có lợi cho cả hai bên. Lý thuyết này được xây dựng dựa trên các giả thiết đã được đơn giản hoá sau đây:
+ Chỉ có hai nước sản xuất hai mặt hàng.
+ Nhân tố sản xuất duy nhất là lao động chỉ có thể di chuyển được trong từng nước mà không di chuyển được giữa các nước.
+ Chi phí sản xuất (hay chi phí cơ hội) là không đổi.
+ Công nghệ sản xuất không thay đổi và khác nhau giữa các nước.
+ Thương mại hoàn toàn tự do
Lý thuyết lợi thế so sánh phát biểu rằng nếu mỗi quốc gia thực hiện chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng mà nước đó có lợi thế so sánh thì tổng sản lượng của tất cả các mặt hàng sẽ tăng lên và tất cả các nước sẽ trở nên sung túc hơn. Trong trường hợp 1, nước tỏ ra kém hiệu quả hơn nước khác trong việc sản xuất tất cả các mặt hàng thì vẫn tồn tại cơ sở dẫn đến chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi. Cụ thể là quốc gia thứ nhất sẽ tập trung vào sản xuất mặt hàng có mức lợi nhỏ hơn (nghĩa là mặt hàng có lợi thế so sánh và mặt hàng có múc lợi thế cao hơn). Để chứng minh nguyên lý lợi thế so sánh D. Ricardo đã dùng những ví dụ cụ thể bằng số,cụ thể như sau:
Mô hình đơn giản của Ricardo.
Quốc gia
Mặt hàng
Anh
Pháp
Da (m)
Lúa mì (tấn)
10h
20h
20h
30h
Theo bảng trên để sản xuất ra 1m da ở Anh cần10 giờ lao động, nhưng ở Pháp cần 20 giờ có nghĩa là trong 1 giờ ở Pháp sản xuất được1/20m da còn ở Anh sản xuất được 1/10m da suy ra năng suất sản xuất da ở Anh cao gấp 1/10:1/20 = 2 lần ở Pháp; Để sản xuất ra 1 tấm lúa mì ở Anh cần 20 giờ lao động còn ở Pháp cần 30 giờ như vậy trong 1 giờ lao động, ở Pháp sản xuất được 1/30 tấn lúa mì còn ở Anh sản xuất được 1/20 tấn lúa mì tức là năng suất lao động sản xuất lúa mì ở Anh cao gấp 1/20 : 1/30 = 1,5 lần ở Pháp.
Tóm lại rõ ràng ở Anh có lợi thế tuyệt đối ở cả 2 mặt hàng (da và lúa mì) nhưng do năng suất lao động của Anh trong sản xuất lúa mì chỉ bằng 1,5 lần ở Pháp trong khi đó năng suất lao động sản xuất da của Anh lại gấp 2 lần ở Pháp, do vậy ở Pháp có lợi thế so sánh về mặt hàng lúa mì, còn ở Anh có lợi thế so sánh về mặt hàng da. Theo Ricardo Pháp nên chuyên môn hoá sản xuất lúa mì còn Anh nên tập trung sản xuất da. Nếu đưa ra một tỷ lệ trao đổi thích hợp giữa lúa mì và da (ví dụ 1 tấn lúa mì bằng 1,7m da) thì ta sẽ tính toán được sản lượng tăng thêm và lợi ích mà cả hai nước thu được nhờ thực hiện chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi hai mặt hàng trên. Trong khi qui luật về lợi thế so sánh được coi là một nguyên lý quan trọng của kinh tế học thì cách giải thích của Ricardo lại không được các nhà kinh tế học chấp nhận bởi lao động không phải là yếu tố duy nhất và có thể khác nhau tuỳ theo trình đọ đào tạo của mỗi nước, năng suất và phương tiện cũng khác nhau giữa các nước. Để giải quyết vấn đề này các nhà kinh tế học tân cổ điển đã đưa ra lý thuyết về chi phí cơ hội để giải thích cho buôn bán giữa các quốc gia. Đó là lý thuyết của Heckscher - Ohlin. Khác với quan điểm của các nhà kinh tế cổ điển cho rằng lợi thế so sánh dựa trên sự khác biệt giữa các quốc gia về các yếu tố sản xuất (sẵn có và sẵn sàng được sử dụng) và sự khác biệt về tỉ lệ, hàm lượng các yếu tố đó được dùng để sản xuất các mặt hàng.
Mô hình Heckscher - Ohlin được xây dựng dựa trên một số giả thuytết đã được đơn giản hoá, cụ thể là:
+ Có 2 nước, 2 mặt hàng và 2 yếu tố sản xuất đồng nhất.
+ Công nghệ sản xuất như nhau.
+ Thị hiếu của hai nước giống nhau.
+ Mỗi mặt hàng luôn sử dụng nhiều một cách tương đối một yếu tố sản xuất.
+ Cạnh tranh hoàn hảo trên cả hai thị trường hàng hoá và thị trường các yếu tố sản xuất.
+ Các yếu tố sản xuất có thể di chuyển tự do trong mỗi nước nhưng không thể di chuyển trong hai nước.
+ Sản xuất được đặc trưng bởi lợi suất không nthay đổi theo qui mô.
+ Chuyên môn hoá không hoàn toàn.
+ Buôn bán hoàn toàn tự do và chi phí vận tải bằng 0. Với các giả thuyết trên, lý thuyết Heckscher - Ohlin phát biểu rằng "Một quốc gia có lợi thế so sánh ở mặt hàng nào sử dụng nhiều một cách tương đối yếu tố sản xuất dồi dào của quốc gia đó. Khi đó quốc gia đó sẽ thực hiện chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu mặt hàng có lợi thế so sánh này".
ở đây cần làm rõ thêm về khái niệm "Yếu tố sản xuất dồi dào". Khi nói một mặt hàng nào đó sử dụng nhiều một yếu tố sản xuất so với mặt hàng khác không có nghĩa là đề cập đến số lượng tuyệt đối. Quan trọng là các yếu tố sản xuất đã được sử dụng với tỷ lệ như thế nào trong sản xuất từng mặt hàng ở các nước khác nhau. Tương tự khi nói rằng một yếu tố sản xuất nào đó là dồi dào không có nghĩa là xét về mặt giá trị tuyệt đối mà là xét tới tỷ lệ giữa yếu tố đó với các yếu tố sản xuất khác được sử dụng trong sản xuất hoặc nói đến tỷ lệ giá cả của các yếu tố đó. Khi so sánh chi phí sản xuất hàng hoá nào đó giữa các nước, ta thấy tại mỗi nước chi phí cơ hội giữa các mặt hàng có sụ khác biệt với nhau từ đó ta so sánh chi phí cơ hội để sản xuất ra mặt hàng nào đó giữa các nước, nước nào có chi phí cơ hội thấp nhất sẽ đi vào chuyên môn hoá sản xuất mặt hàng đó.
Tóm lại, dù có lý giải về lý do dẫn đến thương mại quốc tế theo những góc độ, cách thức khác nhau nhưng tất cả các nhà kinh tế học đều có chung ý tưởng đó là: Thương mại quốc tế là một tất yếu, đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia vào quá trình này tạo nên hiệu quả kinh tế cao cho nền sản xuất ở mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.
2. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế Việt Nam
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang chuyển sang cơ chế thị trường, thương mại quốc tế đã tạo điều kiện để đảm bảo lưu thông hàng hoá thông thương với nước ngoài khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta và của thế giới trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế. Thương mại quốc tế đã trở thành điều kiện tòn tại và phát triển của nền kinh tế nước ta, cho phép nước ta mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng hơn so với thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu được thể hiện cụ thể như sau:
a. Xuất khẩu:
+ Xuất khẩu mang lại nguồn thu nhập ngoại tệ quan trọng cho các nước nói chung và nước ta nói riêng, xuất khẩu góp phần đáng kể trong việc cải thiện cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối đẩy mạnh việc nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ tiên tiến và nhiên liệu cho phát triển công nghiệp.
+ Xuất khẩu cho phép nước ta phát huy được lợi thế so sánh của mình sử dụng có hiệu quả nguồn lao động và tài nguyên thiên nhiên phong phú trong chính sách "Hướng về xuất khẩu".
+ Cùng với sự gia tăng của xuất khẩu, nền kinh tế sẽ phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực sản xuất chế tạo hàng hoá cho xuất khẩu từ đó thu hút được một lượng lớn người lao động, đồng thời do yêu cầu khắt khe của thị trường quốc tế về chất lượng, mẫu mã, chủng loại... của hàng hoá nên tay nghề của người lao động sẽ được nâng cao tạo ra đội ngũ lao động lành nghề cho nền kinh tế. Đây là một tiền đề quan trọng giúp cho việc chuyển về chất từ cơ cấu nông - công nghiệp sang cơ cấu công - nông nghiệp.
+ Tăng cường xuất khẩu thúc đẩy đổi mới công nghệ, trang bị các loại máy móc thiết bị hiện đại hơn để có thể cung cấp ngày càng nhiều các loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ có chất lượng ngày càng cao để có thể đáp ứng được nhu cầu khắt khe và điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trường quốc tế.
+ Xuất khẩu đóng vai trò quyết định trong việc tăng cường sự hợp tác phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế, đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập vào sự phát triển chung của kinh tế khu vực và thế giới, trở thành một mắt xích quan trọng trong quá trình phân công lao động quốc tế, từ đó góp phần nâng cao uy tín của Việt nam trên trường quốc tế.
b. Nhập khẩu:
- Nhập khẩu tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại và hoạt động nhập khẩu đã cung cấp 60% - 100% nguyên nhiên vật liệu sản xuất trong nước của Việt Nam. Nhập khẩu tác động mạnh đến việc đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất nhờ đó mà công nghệ sản xuất được nâng cao và năng suất lao động tăng nhanh. Trong giai đoạn hiện nay của nền kinh tế đất nước, để đảm bảo phát triển kinh tế với tốc độ nhanh thì nhu cầu về nhập khẩu cũng gia tăng, nhất là máy móc thiết bị và công nghệ mới, nguyên vật liệu mà trong nước chưa thể sản xuất được hoặc không thể đáp ứng được đầy đủ. Nhập khẩu làm cho thị trường trong nước dồi dào, phong phú hơn, giải quyết được tình trạng khan hiếm hàng hoá trên thị trường, điều hoà quan hệ cung cầu tạo môi trường cạnh tranh kích thích người sản xuất trong nước phải cải tiến hoàn thiện chất lượng mẫu mã bao bì của sản phẩm đáp ứng được nhu cầu cao của người tiêu dùng.
Tóm lại, hoạt động nhập khẩu đóng vai trò hết sức to lớn và cần thiết, nó làm cho nền kinh tế nước ta gắn liền, hoà nhập với nền kinh tế thế giới, nó không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho đất nước, tránh nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới mà còn tạo ra lợi thế về chính trị xã hội cho đất nước trong những trường hợp nhất định.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu:
Xuất nhập khẩu hàng hoá có vai trò tích cực đối với nền kinh tế của mọi quốc gia, tuy nhiên không phải là không có những mặt bất lợi cho nền kinh tế. Dễ thấy rằng các bất lợi đó gồm có những vấn đề như: xuất nhập khẩu nếu không có sự quản lý điều tiết tốt thì dễ gây nên việc xuất nhập khẩu có thể bóp nghẹt các ngành sản xuất trong nước, nhất là các ngành công nghiệp non trẻ, có thể làm mất cân đối về cung cầu gây ra những cú sốc lớn về kinh tế...
Để khắc phục những hạn chế nêu trên đó của xuất nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế của đất nước và đời sống của dân sư, nhà nước phải luôn tiến hành quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu thông qua chính sách ngoại thương - đây là chính sách của nhà nươc có ảnh hưởng đến thương mại quốc tế thông qua việc đánh thuế hoặc trợ cấp hoặc thông qua những hạn chế về xuất nhập khẩu. Là chính sách tác động và quản lý hoạt động xuất nhập khẩu cho nên mỗi một quốc gia hoạt động ngoại thương có các đặc trưng khác nhau thì chính sách ngoại thương cũng khác nhau. Chính sách ngoại thương của nước ta có nhiệm vụ là tạo điều kiên thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh tham gia sâu vào sự phân công lao động quốc tế mở mạng hoạt động xuất khẩu, bảo vệ thị trường trong nước nhằm đạt được những mục tiêu và yêu cầu về kinh tế chính trị xã hội trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
Mỗi một quốc gia trong mỗi thời kỳ phát triển đều có những chính sách ngoại thương với những mức độ khác nhau, nhưng thông thường những chính sách ngoại thương được chính phủ sử dụng để quản lý và điều tiết hoạt động XNK (các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động XNK) gồm có:
a. Thuế quan:
Thuế xuất nhập khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu, góp phần bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước.
Tuy nhiên thuế quan cũng gây ra khoản chi phí xã hội do sản xuất trong nước tăng lên không hiệu quả, và do giảm mức tiêu dùng trong nước. Do đó, chính phủ thực hiện chính sách thuế quan cần thận trọng trong việc việc xác định thuế xuất nhập khẩu đối với từng nhóm hàng cụ thể để đảm bảo sự hài hoà các mục tiêu do thuế quan tác động.
b. Hạn ngạch (quota) xuất nhập khẩu:
Hạn ngạch xuất nhập khẩu là quy định của chính phủ về số lượng và giá trị của một mặt hàng được nhà nước cho phép xuất nhập khẩu trong một thời gian nhất định.
Chính sách về hạn ngạch xuất nhập khẩu nhằm quản lý hoạt động xuất nhập khẩu của chính phủ. Chính phủ dùng hạn ngạch để bảo hộ sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên thực hiện cán cân thanh toán. So sánh với thuế quan thì hạn ngạch xuất nhập khẩu có những tác động khác đến hoạt động kinh tế, đó là hạn ngạch xuất nhập có những tác động đến hoạt động kinh tế, đó là hạn ngạch xuất nhập khẩu không đem lại khoản thu cho ngân sách nhà nước, nó đem lại lợi nhuận lớn và còn có thể là sự độc quyền cho những ai may mắn xin được giấy phép xuất nhập khẩu theo hạn ngạch. Do đó sẽ gây ra tiêu cực trong quan hệ xin cấp giấy phép hạn ngạch xuất nhập khẩu giữa cơ quan chủ quản và các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu.
c. Trợ cấp xuất nhập khẩu:
Để tạo điều kiện tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm về mặt giá cả trên thị trường thế giới, trong một số trường hợp chính phủ phải thực hiện trợ cấp xuất khẩu. Trợ cấp xuất khẩu sẽ làm tăng giá nội địa của hàng xuất khẩu giảm tiêu dùng trong nước và tăng sản lượng xuất khẩu.
d. Tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là giá cả đồng tiền của nước này được tính theo đồng tiền nước khác. Tỷ giá hối đoái tăng sẽ ảnh hưởng đến cán cân thanh toán làm tăng nhập khẩu giảm xuất khẩu dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại và ngược lại.
Chính vì thế mà nhà nước sẽ chủ động tác động đến tỷ giá hối đoái để có thể tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu ở một mức tốt nhất có thể được nhằm chống thâm hụt cán cân thương mại thúc đẩy kinh tế phát triển.
e. Hàng rào phi thuế quan (Cấm hẳn xuất khẩu hoặc nhập khẩu một số loại hàng hoá nào đó):
Việc cấm nhập khẩu hoặc xuất khẩu một số loại hàng hoá nào đó tuỳ thuộc vào chính sách kinh tế củamỗi nước. Đây là hình thức bảo hộ mậu dịch tuyệt đối bằng biện pháp hành chính để loại hoàn toàn đối thủ cạnh tranh trên thị trường nội địa.
Trừ một số loại hàng hoá có hại cho an ninh quốc gia, có hại cho cuộc sống của nhân dân như ma tuý, vũ khí, văn hoá phẩm đồi truỵ, có quốc gia còn cấm cả những loại hàng hoá bình thường như lương thực thực phẩm, phương tiện đi lại, thuốc chữa bệnh, thuốc lá... để bảo vệ sản xuất trong nước.
Xét về mặt ngắn hạn, biện pháp này có tác dụng đối với một ngành một lĩnh vực nào đó. Nhưng xét về mặt dài hạn thì biện pháp này chỉ có lợi cho từng bộ phận dân cư vì hàng hoá bị cấm nhập khẩu sẽ đắt lên, chính phủ không thu được thuế xuất nhập khẩu của những hàng hoá bị cấm đồng thời làm tăng tình trạng buôn lậu những hàng hoá bị cấm xuất nhập khẩu vì lợi nhuận cao. Đối với người sản xuất kinh doanh, ban đầu thì có lợi nhưng về lâu dài do được che chắn bằng biện pháp hành chính (bảo hộ mậu dịch tuyệt đối) nên sản phẩm sẽ không được cải tiến nâng cao do đó sẽ giảm sức cạnh tranh, chất lượng không được hoàn thiện và sự non kém sẽ lại gia tăng.
Ngoài những nhân tố nêu trên chính phủ còn sử dụng một số các biện pháp khác như tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm xuất nhập khẩu, tiêu chuẩn an toàn lao động về mức độ ô nhiễm môi trường; biện pháp bảo đảm tín dụng hoặc thực hiện tín dụng cấm bán phá giá và các biện pháp như điều ước và hiệp định mậu dịch.
II. Nội dung và tổ chức hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá:
Xuất nhập khẩu hàng hoá là hoạt động buôn bán hàng hoá ở phạm vi quốc tế, nó không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân. Vì vậy xuất nhập khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại có thể đem lại hiệu quả đột biến rất lớn, nhưng cũng có thể gây ra thiệt hại không nhỏ do phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia hoạt động xuất nhập khẩu chưa có thể dễ dàng khống chế được.
Hoạt động xuất khẩu gồm nhiều khâu, đó là nghiên cứu tiếp cận thị trường trong và ngoài nước để từ đó lựa chọn được mặt hàng xuất nhập khẩu, đối tác kinh doanh sau đó tiến hành giao dịch ký kết hợp đồng, tiến hành tổ chức thực hiện hợp đồng, cuối cùng là hoàn thành các thủ tục thanh toán và thanh lý hợp đồng.
1. Nghiên cứu thị trường:
Nguyên tắc hoạt động thương mại là bán những gì mà thị trường cần chứ không phải bán những gì mà người bán có . Chính vì thế trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu phải tiến hành nghiên cứu thị trường để biết được những thông tin cần thiết về thị trường như khách hàng, hàng hoá, đối thủ cạnh tranh và các yếu tố trong mỗi luồng thông tin đó nhằm phục vụ cho việc ra quyết định cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu được đúng đắn. Nghiên cứu thị trường gồm có các công việc sau:
a. Nghiên cứu về sản phẩm xuất nhập khẩu:
- Mục đích của việc nghiên cứu sản phẩm xuất nhập khẩu là để lựa chọn ra mặt hàng kinh doanh thích hợp mạng lại hiệu quả lớn nhất, như đã nói ở trên, nhà kinh doanh phải bán ra những mặt hàng mà thị trường cần chứ không bán những thứ mà mình có, vì lẽ đó, khi tiến hành hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nhà kinh doanh phải nghiên cứu thị trường sản phẩm xuất nhập khẩu để từ đó tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu dựa trên cơ sở nhu cầu của khách hàng điều này có nghĩa là cần thoả mãn được các vấn đề sau:
+ Cần nắm được mặt hàng mà thị trường đang cần: Điều này đòi hỏi chủ thể kinh doanh phải nhạy bén, biết thu thập, phân tích và sử dụng các thông tin về thị trường trong nước (thị trường nhập khẩu) và thị trường ngoài nước (thị trường xuất khẩu), vận dụng đượccác mối quan hệ bạn hàng để có được các thông tin cần thiết về mặt hàng, qui cách, chủng loại cũng như chất lượng của mặt hàng mà thị trường đang cần.
+ Tình hình tiêu thụ hiện tại của các mặt hàng: Ta biết rằng việc tiêu dùng các mặt hàng thường tuân theo một tập quán tiêu dùng nhất định phụ thuộc vào thời gian tiêu dùng, thị hiếu tiêu dùng, qui luật của quan hệ cung cầu... Khi nắm vững được tập quán tiêu dùng của thị trường, chủ thể kinh doanh sẽ dễ dàng hơn trong việc nắm bắt và thoả mãn nhu cầu của thị trường trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
+ Xác định "pha" mà sản phẩm đang tồn tại. Mỗi mặt hàng đều có một thời gian tồn tại khác nhau nhưng chúng đều phải trải qua một "chu kỳ sống" gồm 4 "pha":
- Pha triển khai: Đây là thời gian mà trên thị trường hầu như chưa có các sản phẩm cạnh tranh. Giai đoạn này cần đẩy mạnh việc quảng cáo, xúc tiến để khách hàng biết tới sản phẩm.
- Pha tăng trưởng: là giai đoạn trên thị trường đã có sự cạnh tranh, sản phẩm đã được nhiều người biết đến. Thời gian này cần đẩy mạnh bán hàng, đưa ra sản phẩm độc đáo tạo môi trường tốt tăng khả năng lựa chọn cho khách hàng.
- Pha bão hoà: Sự cạnh tranh đã tăng đến mức khốc liệt giữa các chủ thể tham gia, lúc này cần đưa ra chính sách sản phẩm khác biệt để tiến tới kinh doanh mặt hàng đặc biệt giai đoạn này chi phí thường rất lớn.
- Pha suy tàn: là lúc sản phẩm đã bị lấn át bởi các sản phẩm cạnh tranh khác, lúc này nên rút ra khỏi thị trường, nên tính toán và dự đoán chính xác thời điểm này để tránh thiệt hại.
+ Tình hình sản xuất các mặt hàng: cần phải tìm hiểu rõ tình hình cung cấp mặt hàng mà chủ thể kinh doanh xuất nhập khẩu định xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Phải làm rõ được các yếu tố: khả năng sản xuất, tập quán sản xuất, thời vụ sản xuất, tốc độ phát triển sản xuất, mức độ tiến bộ khoa học kỹ thuật của sản xuất... để có cơ sở đảm bảo cho việc thu mua hàng hoá và có được nguồn hàng ổn định cho xuất khẩu và nhập khẩu.
b. Nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước:
Để kinh doanh xuất nhập khẩu có hiệu quả cần phải tìm hiểu thị trường trong và ngoài nước nhằm trả lời câu hỏi xuất khẩu cái gì, nhập khẩu mặt hàng nào, dung lượng của thị trường hàng hoá đó ra sao, sự biến động của thị trường hàng hoá đó như thế nào, ai là bạn hàng, phương thức giao dịch như thế nào... Công việc nghiên cứu cần nắm vững các yếu tố sau:
+ Thị trường và dung lượng thị trường: Nắm bắt các thông tin về thị trường hàng hoá theo nhóm hàng - Đây là điều kiện cần thiết để hiểu rõ về hàng hoá đó trên thị trường, nó bao gồm toàn bộ quá trình tái sản xuất của một ngành sản xuất hàng hoá cụ thể trong lĩnh vực lưu thông sản xuất và phân phối hàng hoá. Nghiên cứu thị trường hàng hoá để hiểu rõ qui luật vận động của các mặt hàng, qui luật này được thể hiện qua những biến đổi về nhu cầu, điều kiện cung cấp, giá cả hàng hoá đó trên thị trường. Từ đó chủ thể kinh doanh xuất nhập khẩu có thể giải quyết hàng loạt những vấn đề có liên quan tới thị trường khi kinh doanh như thái độ tiếp thu của người tiêu dùng, yêu cầu của thị trường hàng hoá, khả năng tiêu thụ tiềm năng, năng lực cạnh tranh của hàng hoá, các hình thức và biện pháp thâm nhập thị trường.
Đối với các chủ thể kinh doanh xuất nhập khẩu, việc tìm hiểu nắm bắt dung lượng thị trường của hàng hoá mình cần xuất nhập khẩu là điều rất quan trọng. Có thể coi dung lượng của thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên phạm vi thị trường nhất định trong một thời kỳ nhất định, dung lượng thị trường không cố định mà thay đổi theo diễn biến của tình hình do tác động tổng hợp của nhiều nhân tố khác nhau trong giai đoạn nhất định.
+ Các yếu tố làm dung lượng thị trường thay đổi có tính chất chu kỳ: đó là sự vận động của tình hình kinh tế các nước xuất khẩu mặt hàng đó, tính thời vụ trong sản xuất lưu thông và phân phối hàng hoá, nghiên cứu những ảnh hưởng của sự vận động này có ý nghĩa rất quan trọng quyết định việc định thời gian và đối tác giao dịch.
+ Các yếu tố ảnh hưởnglâu dài đến sự biến đổi dung lượng thị trường, đó là: Những thành tựu của khoa học kỹ thuật, cho phép người tiêu dùng được thoả mãn ngày một tốt hơn những nhu cầu phong phú đa dạng, nói cách khác nhờ có tiến bộ của khoa học kỹ thuật mà dung lượng thị trường được mở rộng hơn. Các biện pháp, các chính sách của chính phủ hoặc chiến lược phát triển của các tập đoàn lớn cũng có ảnh hưởng lớn đến sự thay đoỏi dung lượng của thị trường. Thị hiếu và tập quán tiêu dùng của thị trường cũng là nhân tố ảnh hưởng quan trọng tới sự biến đổi dung lượng thị trường, với yếu tố này các nhà kinh doanh có thể tác động bằng các biện pháp tiếp thị để hướng dẫn và thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng. Ngoài ra còn có các yếu tố khác như khả năng sản xuất các mặt hàng thay thế...
+Các nhân tố ảnh hưởng có tính chất tạm thời đến dung lượng của thị trường đó là việc đầu cơ gây đột biến về cung cầu,sự thay đổi tình hình chính trị xã hội, xcác biến động của thời tiết, thiên nhiên...vv.
+ Nhân tố giá cả thị trường:
Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời nó biểu hiện tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế. Giá cả luôn gắn với thị trường, do đó luôn bị biến động bởi chịu tác động của nhiều nhân tố trong thị trường. Phân tích và xác định xu hướng biến động của giá cả trên thị trường quốc tế và thị trường trong nước là cơ sở để giúp chủ thể hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu xác định mức giá tối ưu cho mặt hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu.
Trong buôn bán quốc tế việc mua bán vận chuyển hàng hoá giữa các quốc gia, các khu vực trong thời gian dài với nhiều chính sách thuế khác nhau làm cho sự biến động của giá cả cũng trở nên phức tạp, đòi hỏi các chủ thể kinh doanh phải luôn theo dõi nắm bắt sự biến động của giá cả quốc tế và giá cả trong nước từ đó có những tính toán để xác định chính xác và khoa học giá cả để có được mức giá tối ưu, làm cho giá cả trở thành một công cụ thực sự trong buôn bán quốc tế.
Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu giá cả hàng hoá chính là giá gộp gồm giá gốc (giá nguyên thuỷ) và các chi phí. Giá thay đổi tuỳ thuộc vào điều kiện và cơ sở tính giá. Giá của các hàng hoá xuất nhập khẩu bao gồm các yếu tố sau:
- Giá trị hàng hoá đơn thuần (giá nguyên vật liệu + tiền lương).
- Bao bì.
- Chi phí vận chuyển, bốc xếp, kho bãi.
- Thuế xuất khẩu (với hàng hoá xuất khẩu) hoặc thuế nhập khẩu (với hàng nhập khẩu).
- Chi phí mua bảo hiểm (đối với hàng hoá xuất khẩu còn với hàng nhập thì có thể không có).
- Các chi phí khác.
Giá cả quốc tế là giá có tính chất đại diện đối với một loại hàng hoá nhất định trên thị trường quốc tế. Đó là giá của những giao dịch thương mại thông thường không kèm theo một điều kiện nào và được tính theo ngoại tệ tự do chuyển đổi.
Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường quốc tế là một công việc phức tạp vì xu hướng biến động của giá cả trên thị trường quốc tế rất phức tạp khó xác định, vì thế công việc nghiên cứu rất khó khăn tón ké._.m, nhưng nó lại rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu vì nắm được xu thế biến động của giá cả sẽ hạn chế được rủi ro từ đó nâng cao được lợi nhuận.
2. Lựa chọn đối tác kinh doanh xuất nhập khẩu:
- Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chủ thể kinh doanh sẽ luôn có rất nhiều bạn hàng, tuy nhiên để kinh doanh có hiệu quả đồng thời tránh được các rủi ro trong kinh doanh, chủ thể kinh doanh phải biết lựa chọn trong số các bạn hàng để chọn ra một số đối tác tốt nhất cho hoạt ddộng kinh doanh của mình. Đây là một vấn đề rất khó khăn và tế nhị, các chủ thể kinh doanh có thể lựa chọn dối tác kinh doanh theo nhiều cách khác nhau trong các trường hợp khác nhau. Song các căn cứ thông thường được dùng để lựa chọn đó là:
+ Quan điểm kinh doanh của đối tác.
+ Lĩnh vực kinh doanh của đối tác.
+ Khả năng về tài chính (vốn lưu động và tài sản cố định) của đối tác.
+ Uy tín cùng các mối quan hệ trong kinh doanh của đối tác.
+ Con người (xét về mọi mặt: tư cách đạo đức, tài năng...) đại diện cho đối tác trong khi kinh doanh và phạm vi trách nhiệm của họ.
Ngoài các cơ sở trên trong việc lựa chon đối tác kinh doanh xuất nhập khẩu, chủ thể kinh doanh thường lựa chọn những bạn hàng có thể trực tiếp làm chức năng xuất nhập khẩu để hạn chế những hoạt động trung gian không cần thiết, bên cạnh đó các bạn hàng có quan hệ làm ăn lau dài quen thuộc sẽ được ưu tiên khi lựa chọn.
Muốn kinh doanh xuất nhập khẩu có hiệu quả cần lựa chọn một cách sáng suốt và chính xác đối tác làm ăn của mình.
3. Lập phương án kinh doanh:
Sau khi đã có kết quả của công việc nghiên cứu thị trường và phân tích giá cả cũng như xác định được đối tác làm ăn buôn bán, chủ thể kinh doanh xuất nhập khẩu tiến hành lập phương án kinh doanh - đây là kế hoạch hoạt động cụ thể trong tương lai của đơn vị kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu đã đặt ra. Các bước công việc gồm có:
+ Đánh giá tổng quát về thị trường và các bạn hàng: Dựa trên cơ sở phân tích về thị trường, về bạn hàng, về giá cả... để rút ra các kết luận tổng thể về mặt thuậnlợi và khó khăn trong quá trình kinh doanh.
+ Lựa chọn mặt hàng xuất nhập khẩu cụ thể và điều kiện giá cả, phương thức kinh doanh thời gian kinh doanh xuất nhập khẩu.
+ Đề ra các mục tiêu cụ thể cần đạt được trong kinh doanh gồm mục tiêu về doanh số, mục tiêu về lợi nhuận, mục tiêu uy tín, vị thế... Đây là một công việc cần thiết vì muốn làm tốt công việc nào đó cần phải biết rõ mình cần phải làm những gì để từ đó có những biện pháp thực hiện cụ thể phù hợp.
+ Xây dựng các biện pháp, phương thức thực hiện - Đây chính là công cụ để thực hiện các mục tiêu đặt ra từ trước.
+ Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của quá trình kinh doanh: Ta thấy sau một quá trình kinh doanh (một chu kỳ kinh doanh, thường là 1 tháng hoặc 1 năm) người kinh doanh phải đánh giá tình hình kinh doanh của mình. Nếu không đánh giá được hiệu quả kinh tế hoặc đánh giá sai thổi phồng thì hậu quả sẽ khó lường dẫn đến rủi ro thua lỗ trong các giai đoạn kinh doanh tiếp theo. Chính vì vậy trong khi lập kế hoạch kinh doanh cũng cần phải đánh giá sơ bộ về kết quả mà dự án kinh doanh sẽ đem lại từ đó sẽ hạn chế được các rủi ro trong khi thực hiện.
Tóm lại, việc lập phương án kinh doanh là rất quan trọng và cần thiết vì một phương án kinh doanh được lập ra một cách khoa học dựa trên cơ sở của sự phân tích tỉ mỉ đúng đắn và chính xác về thị trường, bạn hàng và về bản thân chủ thể kinh doanh có ý nghĩa quyết định đến sự thành hay bại của hoạt động kinh doanh nói chung và của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng.
4. Giao dịch và ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu:
Sau khi đã tiến hành 3 phần công việc trên, chủ thể kinh doanh xuất nhập khẩu tiến hành giao dịch nắm các đầu mối buôn bán tức là tìm kiếm các bạn hàng trong và ngoài nước với mục đích có thể lựa chọn được bạn hàng phù hợp để hoạt động kinh doanh có hiệu quả (an toàn và có lãi) bởi vì trên thực tế có nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu bị phá sản do đối tác kinh doanh không có đủ độ tin cậy và khả năng kinh doanh lại hạn chế.
Với nhiều hình thức giao dịch như gặp gỡ trực tiếp để bàn bạc đàm phán thoả thuạn hoặc thông qua thư từ, điện tín... nhà kinh doanh xuất nhập khẩu có thể tìm hiểu được thị trường bạn hàng trong và ngoài nước để tiến hành kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Để nắm bắt bạn hàng được tốt doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cần gặp gỡ trực tiếp với bạn hàng để biết được thực trạng của bạn hàng như vậy mới đảm bảo độ tin cậy và an toàn trong kinh doanh.
Kết quả của việc giao dịch là phải đưa đến một thoả thuận nào đó trong mối quan hệ kinh doanh, khi các bên tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu đã đi đến được những thoả thuận trong quan hệ buôn bán kinh doanh thì đi đến ký kết hợp đồng ngoại thương. Ký kết hợp đồng cần lưu ý mấy điểm sau:
+ Hợp đồng cần được trình bày sáng sủa rõ ràng, phản ánh đúng nội dung đã thoả thuận, không để tình trạng mập mờ nhiều cách hiểu.
+ Hợp đồng cần đầy đủ, đề cập tới mọi vấn đề tránh việc phải áp dụng tập quán một nước để giải quyết những vấn đề bên kia không đề cập tới. Các điều khoản trong hợp đồng phải tuân đúng luật pháp quốc tế cũng như luật của các quốc gia các bên tham gia ký kết hợp đồng.
+ Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng phải là ngôn ngữ mà các bên tham gia ký kết hợp đồng phải thông thạo.
+ Người ký hợp đồng phải có đầy đủ thẩm quyền chịu trách nhiệm về nội dung được ký kết.
Tóm lại là trong hợp đồng ký kết phải có đầy đủ các nội dung và mức độ thống nhất cần thiết, tránh những sai sót đáng tiếc có thể xảy ra.
5. Thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu:
Hợp đồng xuất nhập khẩu được thực hiện tốt hay không đều ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu và uy tín của học trong hoạt động kinh doanh sẽ giảm đi dẫn đến thị trường sẽ bị thu hẹp lại do phía bạn hàng và đối tác có thể chấm dứt sự hợp tác kinh doanh.
Sau khi ký kết hợp đồng cần xác định rõ trách nhiệm nội dung và trình tự công việc phải làm và cố gắng không để xảy ra sai sót vì những sai sót sẽ gây ra thiệt hại cho các bên với các sai sót xảy ra phải khiếu nại yêu cầu đối tác thực hiện các nhiệm vụ và quyền lợi theo hợp đồng.
Trình tự thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu được diễn tả trong sơ đồ trang 22.
Riêng đối với các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu để thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu, cần phải thực hiện theo trình tự công việc sau:
a. Xin cấp giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá: Giấy phép xuất nhập khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá. Các công việc cần tiến hành khi xin giấy phép xuất nhập khẩu đó là thu thập hồ sơ gồm: Đơn xin phép xuất nhập khẩu hàng hoá, phiếu hạn ngạch, bản sao hợp đồng xuất nhập khẩu đã ký kết, hồ sơ liên quan đến việc mở thư tín dụng L/C của các bên tham gia hợp đồng, sau đó gửi lên cơ quan chủ quản.
b. Chuẩn bị hàng xuất nhập khẩu:
Sau khi đã xin được giấy phép xuất nhập khẩu, chủ thể kinh doanh xuất nhập khẩu tiến hành chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu (chủ thể kinh doanh nội địa) hoặc hàng hoá nhập khẩu (là sự chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu của đối tác), nó bao gồm các phần việc sau:
- Thu gom tập trung thành các lô hàng.
- Bao bì, đóng gói hàng hoá.
- Đóng hoặc dán nhãn hiệu, mã số hàng hoá.
c. Thuê tàu chở hàng hay uỷ thác thuê tàu chở hàng: Kinh doanh xuất nhập khẩu bao giời cũng bao gồm việc chuyên chở hàng qua biên giới cửa khẩu, chính vì thế phải thuê mướn tàu bè chở hàng, công việc này phải căn cứ vào các yếu tố sau:
- Đặc điểm của hàng hoá (nếu là đồ dễ vỡ phải thuê những phương tiện như máy bay...).
- Điều khoản hợp đồng mua bán.
- Điều kiện vận tải.
Thông thường trong nhiều trường hợp các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu thường hay uỷ thác việc thuê tàu bè cho một công ty vận tải thuê tàu như Vietfrach, Tranoi...
d. Kiểm tra chất lượng hàng xuất nhập khẩu: Đây là công việc cần thiết vì đó là sự tiếp tục quá trình thực hiện hợp đồng. Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu bảo gồm cả kiểm nghiệm và kiểm dịch qua hai cấp: cơ sở và cửa khẩu (đối với hàng xuất khẩu) còn đối với hàng nhập khẩu thì tuỳ theo chức năng của các cơ quan có quyền kiểm tra.Đối với chủ hàng hoá xuất nhập khẩu nếu phát hiện thấy có tổn thất, thất thoát thì phải kháng nghị bằng văn bản lên cơ quan chủ quản.
e. Mua bảo hiểm:
Vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu trong quá trình vận chuyển thường có rủi ro xảy ra vì vậy để hạn chế bớt thiệt hại, đảm bảo an toàn cho kinh doanh xuất nhập khẩu, cần mua bảo hiểm cho hàng hoá. Thông thường ở Việt Nam, khi cần các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu mua bảo hiểm cho hàng hoá của mình tại công ty bảo hiểm Việt Nam (tức Bảo Việt).
Hợp đồng bảo hiểm (mua bảo hiểm) gồm các loại sau:
- Bảo hiểm mọi rủi ro.
- Bảo hiểm có bồi dưỡng tổn thất riêng.
- Bảo hiểm miễn bồi thường tổn thất riêng.
Ngoài ra còn có bảo hiểm đình công, bảo hiểm lao động...
f. Làm thủ tục hải quan:
Thủ tục hải quan là công cụ để quản lý hành vi buôn bán theo pháp luật của nhà nước để kiểm tra giấy tờ có sai sót giả mạo hay không để thống kê số liệu về hàng xuất nhập khẩu. Vì vậy hàng hoá xuất nhập khẩu khi qua biên giới phải thông qua sự kiểm tra của cơ quan hải quan.
Chủ thể kinh doanh khi xuất khẩu hay nhập khẩu hàng hoá phải làm các thủ tục hải quan sau:
- Khai báo chi tiết về hàng hoá vào tờ khai, việc kê khai phải chính xác.
- Xuất trình các thủ tục giấy tờ của việc xuất nhập khẩu hàng hoá để hải quan kiểm tra.
-Xuất trình hàng hoá: hàng hoá phải được xắp xếp thuận tiện cho việc kiểm tra.
Sau khi kiểm tra giấy tờ và hàng hoá hải quan sẽ ra một trong các quyết định sau:
- Cho hàng qua cửa khẩu (thông quan).
- Cho hàng hoá quan biên giới sau khi chủ hàng đã nộp thuế xuất nhập khẩu.
- Không cho phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu khi phát hiện sự mờ ám hoặc trái phép của giấy tờ hoặc hàng hoá. Chủ hàng hoá xuất nhập khẩu phải có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc các quyết định của hải quan, nếu vi phạm sẽ bị buộc tội hình sự.
g. Giao nhận hàng hoá với tàu:
- Giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu đúng yêu cầu đòi hỏi chủ kinh doanh phải nắm vững chi tiết hàng hoá và lập bản đăng ký chuyên chở gồm tên hàng hoá, lấy mã hiệu, số lượng, trọng lượng của hàng hoá. Chủ thể kinh doanh xuất nhập khẩu đưa bản đăng ký cho hãng tàu để lấy sơ đồ xếp hàng ở trên tàu, theo dõi đều đặn để biết được ngày giờ đến lượt bốc hàng của mình vào cảng và bốc hàng lên tàu dưới sự giám sát của hải quan về kiểm đếm sau đó đổi hồ sơ để lấy đơn từ vận chuyển hàng hoá.
- Giao nhận với người nhập khẩu theo qui định của chính phủ ta, các hãng nhập khẩu do công ty cảng đảm nhận với cảng theo trình tự là: khi hàng hoá về đến cảng thì cảng sẽ thông báo cho người đến nhận hàng hoá được giao theo lô.
h. Làm thủ tục thanh toán:
Đây là khâu quan trọng và là kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch kinh doanh thương mại quốc tế. Thanh toán trong xuất nhập khẩu có nhiều hình thức khác nhau, thông thường thì hai hình thức thanh toán dưới đây được áp dụng phổ biến nhất.
+ Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C).
Để được giao hàng thì người thanh toán phải mở thư tín dụng, tuy vậy trước khi giao hàng cần kiểm tra lại xem L/C (letter of credit) có mở đúng hợp đồng hay không.
Đây là một phương thức thanh toán thông dụng, thực chất đây là sự thoả thuận trong đó có một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người xin mở thư tín dụng) sẽ trả tiền cho người thứ ba hoặc trả cho bất cứ người nào theo lênh của người thứ ba đó (người hưởnglợi) hoặc sẽ trả, chấp nhậnmua hối phiếu do người hưởng lợi phát hành hoặc cho phép ngân hàng khác trả tiền, mua hối phiếu khi đã xuất trình đầy đủ các chứng từ qui định và thực hiện mọi điều kiện được giao.
Phương thức này có tính đảm bảo rất cao nhưng chi phí thực hiện khá tốn kém.
+ Thanh toán bằng phương thức nhờ thu:
Là phương thức mà người bán sau khi đã hoàn thanh nghiệp vụ giao hàng sẽ ký phát hối phiếu đòi tiền người mua nhờ ngân hàng thu hộ số tiền ghi trên tờ hối phiếu đó.
Có hai loại nhờ thu là : Nhờ thu phiếu trơn.
Nhờ thu kèm chứng từ.
Ngoài hai phương thức thanh toán nêu trên còn có một số phương thức thanh toán nữa như: Chuyển tiền, thư đảm bảo trả tiền.
I. Khiếu nại (nếu có).
Trong các trường hợp xảy ra tranh chấp phải khiếu nại thì các bên tham gia hợp đồng xuất nhập khẩu cần bảo đảm các yêu cầu sau:
- Thận trọng kịp thời tỷ mỉ.
- Khẩn trương giải quyết.
- Tiến hành rút kinh nghiệm cho đợt giao hàng sau.
Phần II:
Thực trạng xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay
I. xuất nhập khẩu giai đoạn 1991 - 1995:
1. Tình hình kinh tế Việt Nam trước những năm 1991 - 1995:
Trước năm 1991 tình hình trong nước có nhiều mặt không thuậnlợi. Cụ thể: kinh tế chậm phát triển, nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 1986 -1990 chỉ là 3,9% mỗi năm, tài chính tiền tệ lâm vào cảnh khó khăn bế tắc, thu ngân sách so với GDP bình quân đạt 14%, mức bội chi ngân sách nhà nước rất cao, bình quân đạt trên 8% GDP, tốc độ tăng giá hàng tiêu dùng cao, khả năng trả nợ nước ngoài thấp, đời sống nhân dân tuy đã được cải thiện hơn trước nhưng vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn. Tình hình chính trị trong khu vực và thế giới cũng có nhiều diễn biến bất lợi cho ta: Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ nên thị trường và nguồn viện trợ của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu giảm đột ngột và không còn, thêm nữa Mỹ tiếp tục bao vây kinh tế Việt Nam, các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cách hạn chế ta trên nhiều mặt. Song Đảng, Nhà nước và nhân dân đã có nhiều cố gắng không những đứng vững mà còn vươn lên đạt những thành tựu quan trọng.
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm 8,3% (mục tiêu đề ra chỉ là 5,5 - 6,5%)
- Cơ cấu kinh tế tuy chuyển dịch còn chậm nhưng đúng hướng, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá trong các năm tới. Tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp từ 37,9% năm 1990 còn 26,5% năm 1995. Công nghiệp và xây dựng cơ bản từ 23,3% năm 1990 tăng lên 30% năm 1995; Dịch vụ từ 38,8% năm1990 tăng lên 43,5% năm 1995.
- Đời sống của các tầng lớp dân cư từng bước ổn định và cải thiện, các mặt xã hội có những chuyển biến tích cực.
- Các cơ chế, chính sách luật pháp đã ban hành tuy chưa đồng bộ nhưng đã tạo nên những động lực phát triển cơ sở pháp lý để nhà nước quản lý bằng pháp luật.
- An ninh quốc phòng được giữ vững đảm bảo nhân dân yêu ổn làm ăn sinh sống.
Tuy nhiên còn có những khó khăn tồn tại là:
- Chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, nguy cơ tụt hậu so với bên ngoài còn lớn.
- Hệ thống tài chính tiền tệ vẫn còn nhiều hạn chế cần phải xử lý,quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô chưa theo kịp yêu cầu của sự đổi mới, bộ máy quản lý nhà nước còn cồng kềnh, thủ tục hành chính còn nhiều tầng nhiều cấp rườm rà, luật pháp còn chưa được nghiêm, kém hiệu lực.
- Các mặt xã hội còn nhiều tồn tại bức xúc như các tệ nạn xã hội vẫn còn tồn tại chưa có giải pháp giải quyết dứt điểm.
2. Sơ lược về tình hình thương mại Việt Nam từ 1991 - 1995:
Thương mại Việt Nam thời kỳ 1991 - 1995 đã phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, góp phần tác động tích cực đối với nền kinh tế quốc dân trong sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa đất nước từng bước đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường trong nước và thế giới.
Kim ngạch xuất nhập khẩu 5 năm 1991 - 1995 như biểu sau:
Biểu 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu 5 năm 1991 - 1995
(Đơn vị: triệu USD)
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Xuất nhập khẩu
1991
2087,1
2338,1
4425,2
1992
2580,7
2540,7
5121,4
1993
2985,2
3924,0
6909,2
1994
3600,0
5000,0
8600,0
1995
5335,4
8593,75
13929,15
Cộng:
16588,4
22396,55
38984,95
( Nguồn: Kế hoạch phát triển thương mại 1996 - 2000 - Bộ Thương mại)
Như vậy kim ngạch xuất nhập khẩu tăng gấp hơn 2 lần so với thời kỳ 1986 - 1990 trong đó xuất khẩu tăng trên 2,8 lần, nhập khẩu tăng 1,7 lần. Cán cân thanh toán được cải thiện khá, từ năm 1989 về trước, kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 1/3 kim ngạch nhập khẩu, nhờ chính sách khuyến khích xuất khẩu quản lý chặt chẽ nhập khẩu nên trong thời kỳ 1991 - 1995 nhập siêu không lớn và nguồn nhập siêu chủ yếu do nhập khẩu các công trình thiết bị toàn bộ theo các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong 5 năm từ 1991 - 1995, kinh tế đối ngoại đã phát triển và đạt được những thành công đáng kể kim ngạch xuất nhập khẩu tăng không ngừng, tốc độ xuất khẩu tăng bình quân 19% mỗi năm, nhập khẩu tăng bình quân 32,3% mỗi năm. Thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng, trong thời kỳ 1991 - 1995, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với các nước và các tổ chức quốc tế mà những thời kỳ trước chưa làm được, từ năm 1990 về trước ta mới có quan hệ thương mại với 40 nước đến năm 1995 ta đã có quan hệ thương mại với 104 nước và tổ chức quốc tế.
Thị trường trong nước 5 năm 1991-1995 ngày càng được mở, rộng đổi mới và nâng cao hiệu quả trên phạm vi cả nước: Chuyển từ cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, giao nộp sản phẩm ,cấp phát tem phiếu sang mua bán theo cơ chế thị trường; Chuyển từ lưu thông vật tư, hàng hoá do thương nghiệp quốc doanh, hợp tác xã mua bán là chủ yếu qua nhiều cấp hành chính sang nhiều thành phần kinh tế tham gia lưu thông hàng hoá trên thị trường; Chuyển từ thị trường chia cắt theo địa giới hành chính tự cấp tự túc sang thị trường thống nhất cả nước có mối quan hệ quốc tế và khu vục ;Việc quản lý hàng hoá chuyển từ quản lý theo mệnh lệnh kế hoạch chỉ tiêu sang quản lý nhà nước và chính sách lưu thông hàng hoá theo pháp luật
Từ những sự chuyển đổi đó đã tạo ra thị trường có nhiều chủ thể thuộc các hình thức sở hữukhác nhau cùng hoạt động với nhiều qui mô và hình thức kinh doanh, nhờ đó đã huy động được các tiềm năng về vốn,về kỹ thuật, về tay nghề của các thành phần kinh tế vào quá trình lưu thông hàng hoá với tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng bình quân hàng năm là 41%, cụ thể được thể hiện qua biểu 2:
Biểu 2:Tổng mức bán lẻ hàng hoá 5 năm 1991-1995
( Đ.vị :tỷ đồng)
Năm
Quốc doanh
Tập thể
Tư nhân
Tổng cộng
1991
9000,8
662,4
23740,4
33403,6
1992
12370,6
563,7
38280,2
51214,5
1993
14650
612
52011,3
67273,3
1994
20130
673
64442
85245
1995
36195,6
1334,4
129270
166800
Cộng 5 năm 1991-1995
92347
3845,5
307743,9
403936,4
(Nguồn:Kế hoạch phát triển thương mại1996-2000. Bộ Thương Mại)
Hàng hoá được tự do lưu thông, có nhiều thành phần kinh tế tham gia đã tạo nên sự cạnh tranh trên thị trường, tình trạng độc quyền bị hạn chế, các qui luật của nền kinh tế hàng hoá đã tác động đến quá trình sản xuất kinh doanh và cuộc sống của mỗi gia đình.
Nền kinh tế thị trường đã thúc đẩymạng lưới thương mại và dịch vụ mở rộng theo các cấp độ khác nhau phù hợp với yêu cầu của lưu thông hàng hoá. Đến tháng 9-1994 đã có 6190 doanh nghiệp chuyên kinh doanh thương mại gồm 1650 doanh nghiệp nhà nước ; 2104 doanh nghiệp tư nhân; 2413 công ty TNHH; 23 công ty cổ phần; Ngoài ra còn có gần 1 triệu hộ buôn bán nhỏ.
Thương nghiệp quôc doanh đã có sự chuyển đổi phương thức, giữ vững được khâu bán buôn, khống chế bán lẻ một số mặt hàng thiết yếu ( Xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón, đường, giấy, muối iốt...) đảm bảo các cân đối lớn, thực hiện các mặt hàng chính sách đối với miền núi và chính sách xã hội. Thương nghiệp quốc doanhđang trong quá trình chuyển mình, tạo thành lực lượng kinh tế mạnh của nhà nước, kinh doanh đạt hiệu quả hơn.
Tổng giá trị hàng hoá bán cho sản xuất và tiêu dùng tăng trưởng nhanh, trong đó hàng hoá sản xuất trong nước chiếm khoảng 63%, hàng nhập khẩu chiếm 37%. Thương mại đã tạo ra giá trị hàng hoá gia tăng chiếm khoảng 14% GDP. Tuy nhiên hoạt động kinh doanh trên thị trường trong nước lúc này còn có một số tồn tại không nhỏ, đó là:
+ Coi nặng kinh doanh hàng ngoại, chú trọng hàng hoá cao cấp, coi nhẹ việc khai thác kinh doanh hàng sản xuất trong nước, chưa chú trọng kinh doanh hàng nông sản ít lời.
+ Coi trọng hoạt động kinh doanh ở thành thị, coi nhẹ việc mở rộng thị trường ở nông thôn miền núi, vùng ven biển, hải đảo, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng cao.
+ Nhiều doanh nghiệp bung ra kinh doanh tổng hợp và có không ít doanh nghiệp quốc doanh không vốn, thiếu cán bộ am hiểu nghiệp vụ và thị trường nhưng vẫn được lập ra và cứ hoạt động gây nên tình trạng mua bán manh mún rối ren, đẩy chi phí lưu thông lên cao, dẫn đến tình trạng ép giá đầu vào, nâng giá đầu ra thị trường trong nước và bị chèn giá ở thị trường nước ngoài.
+Chưa thiết lập được kênh lưu thông hàng hoá thông suốt ổn định giữa người sản xuất, nhà buôn và người tiêu dùng để hỗ trợ lẫn nhau. Còn nặng về kinh doanh tổng hợp và khi thấy mặt hàng nào có lợi cao thì đổ xô tranh mua tranh bán không tính đến lợi ích lâu dài, tạo ra các cơn sốt hoặc khan hiếm giả tạo tác động xấu đến sản xuất và đời sống.
+ Thương nghiệp quốc doanh thể hiện vai trò trên thương trường còn yếu, kém hiệu quả, bình quân cứ 100 đồng vốn sau 1 năm chỉ thu được thêm 7,4 đồng lãi. Nhiều doanh nghiệp sử dụng tài sản của nhà nước chủ yếu để nuôi sống bộ máy, 14,3% đơn vị bị thua lỗ , trên 12% đơn vị trong trạng thái bấp bênh, 45,32% doanh nghiệp lãi nhỏ hơn 8% / năm, trong khi đó tỉ lệ tăng giá trên 14%/ năm
+Kỷ cương pháp luật bị vi phạm , văn minh thương nghiệp chưa được xác lập, vẫn còn tình trạng kinh doanh không đăng ký, không có giấy phép hành nghề, buôn lậu trốn thuế, bán hàng giả...vv khai thác khe hở của chính sách làm sâu sắc thêm khía cạnh tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
+ Công tác dự báo thu thập và xử lý thông tin để định hướng hoạt động của các doanh nghiệp trong giai đoạn 1991-1995 tuy đã được thực hiện và mang lại một số tác dụng tốt , nhưng về mặt cung cấp thông tin định hướng, các nội dung dự báo chưa đạt tới chất lượng đủ để giúp cho việc điều hành chỉ đạo cũng như chưa đủ yếu tố và sự kịp thời cho lãnh đạo có đủ thông tin để can thiệp kịp thời vào sự biến động của thị trường, đảm bảo quan hệ cung cầu, chưa giúp được các nhà kinh doanh có điều kiện khai thác các mặt lợi và tránh được các bất lợi trước các diễn biến về cung cầu thị trường giá cả.
+Cơ sở vật chất kỹ thuật của nghành thương mại được hình thành trong cơ chế cũ không thích hợp với cơ chế mới, lạc hậu về kỹ thuật... vv. Song trong giai đoạn 1991-1995 vẫn chưa được đầu tư đổi mới về số lượng và chất lượng, các kho tàng, bến bãi, cửa hàng, trạm, trại thường quá lớn, cồng kềnh và đồ sộ nên hoạt động kém hiệu quả vì phải chịu khấu hao lớn.
3. Tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 1991 - 1995:
a. Về xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu 5 năm 1991 - 1995 đạt 16,5884 tỷ USD bằng 110,6% so với chỉ tiêu được quốc hội thông qua (từ 12 - 15 tỷ USD), bình quân tăng 19% mỗi năm. Tốc độ tăng xuất khẩu hàng năm như sau:
- Năm 1991 giảm 13,2% so với năm 1990.
- Năm 1992 tăng 23,6% so với năm 1991.
- Năm 1993 tăng 15,7% so với năm 1992.
- Năm 1994 tăng 20,6% so với năm 1993.
- Năm 1995 tăng 48,2% so với năm 1994.
- Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cân đối nguồn ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhu cầu nhập khẩu vật tư, nguyên nhiên vật liệu, thiết bị, hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân góp phần chông lạm phát, bình ổn giá cả và tăng nhanh tốc độ phát triển tổng sản phẩm trong nước (GDP) hàng năm từ 8 - 8,5%.
- Hàng hoá xuất khẩu thông qua chế biến đang có chiều hướng tăng (năm 1990 là 5%, năm 1991 lên 8,5% năm 1992 là 23%, năm 1993 là 20%, năm 1994 là 21 - 22% năm 1995 là 23%) nên đã góp phần giải quyết được việc làm cho nhân dân tích cực đổi mới công nghệ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới tăng nhanh giá trị hàng hoá và kim ngạch xuất khẩu, phù hợp với xu thế phát triển.
Về cơ cấu các nhóm hàng xuất khẩu trong thời kỳ 1991 - 1995 như sau: Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 32,8% hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm 18,1%, hàng nông lâm thủy hải sản chiếm 49,1%. Tuy nhiên xu thế nhóm hàng công nghiệp chiếm tỷ trọng ngày một gia tăng đặc biệt là công nghiệp nhẹ mà chủ yếu là hàng dệt may mặc và giày dép. Tỷ trọng xuất khẩu của các địa phương có xu hướng tăng dần hàng năm: năm 1991 đạt 36,4%, năm 1995 đạt 45% kim ngạch xuất khẩu.
Các nhóm hàng xuất khẩu đều tăng đáng kể cả về khối lượng và giá trị như hàng công nghiệp nặng và khoáng sản từ 697 triệu USD năm 1991 lên 1098 triệu USD năm 1994, hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp từ 300 triệu USD năm 1991 tăng lên 770 triệu USD vào năm 1994, hàng nông lâm thuỷ sản từ 1088 triệu USD năm 1991 lên 1732 triệu USD năm 1994.
Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong 5 năm 1991 - 1995 đã đạt giá trị khối lượng và tốc độ tăng đáng kể như dầu thô, gạo, hàng dệt và may mặc, cà phê, thuỷ sản, hạt điều, cao su, than đá... Cụ thể như sau:
Biểu 3: Tình hình xuất khẩu 5 năm 1991 - 1995 Đơn vị: triệu USD
Nhóm hàng
1991
1992
1993
1994
1995
Tổng cộng 5 năm: 91-95
Hàng nông, lâm sản
803,5
968,5
1015,4
1243
1897
5927,4
Hàng thuỷ sản
285,4
307,8
428,3
489
711,4
2221,9
Hàng CN nhẹ và tiểu thủ CN
300,1
349,6
526,8
770
1067,1
3013,6
Hàng CN nặng và khoáng sản
698,1
954,8
1014,7
1098
1659,9
5425,5
Tổng giá trị xuất khẩu
2087,1
2580,7
2985,2
3600
5335,4
16588,4
(Nguồn: Thực hiện xuất khẩu 5 năm 1991 - 1995. Bộ Thương mại)
Biểu 4
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong 5 năm 1991 - 1995
Mặt hàng
Đơn vị
1991
1992
1993
1994
1995
Tổng
Dầu thô
1000 tấn
3917
5446
6153
6942
9129,5
31587,5
Than đá
1000 tấn
1173
1623
1565
2137
2608,4
9106,4
Thiếc
Tấn
3440
3537
2969
2550
3556,95
16052,95
Hàng may mặc dệt
Triệu USD
158
221
335
550
770,67
2034,67
Hàng giầy dép, túi da
Triệu USD
16
60
90
118,57
284,57
Gạo
1000 tấn
1033
1946
1724
1950
2371,3
9024,3
Lạc nhân
1000 tấn
78,9
62,8
105,5
100
130,42
477,62
Cao su
1000 tấn
62,9
81,9
96,7
105
130,42
476,92
Cà phê
1000 tấn
93,8
116,2
122,7
156
201,56
690,26
Điều qui hạt
1000 tấn
30,7
51,7
47,8
90
130,42
350,62
Chè các loại
1000 tấn
8,0
13
21,2
17,3
29,64
89,14
Thịt chế biến
1000 tấn
25
12,2
19,7
10,5
21,34
88,74
Tơ tằm
Tấn
430
750
1185,65
2365,65
Hàng rau quả
Triệu USD
15,8
14,3
24
25
35,57
114,67
Hàng thuỷ sản
Triệu USD
285,4
307,7
427,2
489
711,39
2220,69
Hàng lâm sản
Triệu USD
175,5
140,8
97,5
96
118,56
628,36
(Nguồn: Thực hiện xuất khẩu 5 năm 1991 - 1995 - Bộ Thương mại)
Những năm đầu kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 tình trạng hàng hoá xuất khẩu của ta còn manh mún do kinh tế hàng hoá chưa phát triển. Từ năm 1993, chúng ta đã hình thành dần các ngành sản xuất hàng hoá tạo ra một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có khối lượng và giá trị xuất khẩu lớn như dầu thô, gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hải sản, hàng dệt và may mặc... và đến năm 1994 đã xuất hiện một số mặt hàng có kim ngạch lớn như hạt điều chế biến, giầy xuất khẩu, những mặt hàng này có sức cạnh tranh và có chỗ đứng trên thị trường thế giới. Những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu từ 100 triệu USD trở lên được coi là hàng chủ lực thì trước đây chỉ có 3 - 4 mặt hàng đến năm 1995 đã lên đến 12 mặt hàng.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được còn tồn tại một số vấn đề như:
+ Tuy có sự chuyển biến theo hướng xuất khẩu hàng chế biến nhưng tổng thể thì hàng hoá xuất khẩu của ta phần lớn vẫn còn ở dạng thô và nguyên liệu, hàng hoá chế biến chiếm tỷ trọng còn thấp, chưa có mặt hàng xuất khẩu chủ lực nào giá trị lớn hàng tỷ USD.
+ Chưa có qui hoạch vùng sản xuất hàng xuất khẩu lớn và đồng bộ, hàng hoá phần nhiều còn ở dạng tự nhiên thu gom, chưa qua chế biến, thậm chí chưa có phân loại phẩm cấp kích cỡ... nên sức cạnh tranh kém, lúc này đẩy mạnh việc thực thi chiến lược sản xuất chế biến hàng xuất khẩu là rất cần thiết.
b. Về nhập khẩu:
- Nhập khẩu 5 năm 1991 - 1995 đạt 22,39655 tỷ USD bằng 159,97% so với chỉ tiêu kế hoạch (12 - 14 tỷ USD) được quốc hội thông qua tăng bình quân hàng năm là 32,3%. Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu hàng năm như sau:
- Năm 1991 giảm 15,1% so với năm 1990.
- Năm 1992 tăng 8,6% so với 1991.
- Năm 1993 tăng 54,4% so với năm 1992.
- Năm 1994 tăng 27,4% so với năm 1993.
- Năm 1995 tăng 71,8% so với năm 1994.
Tỷ trọng nhập khẩu của các địa phương tăng dần hàng năm từ 29,9% năm 1991 lên 36,5% năm 1995.
Cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu có thay đổi, tỷ trọng nhập khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ được nâng cao từ 15,2% năm 1991 lên 39,5% năm 1995, Việc nhập khẩu các công trình thiết bị toàn bộ như: Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, hệ thống đường dây tải điện 500 KV và nhiều xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng chế biến nông sản, thuỷ sản... nói chung đã phát huy được hiệu quả, đã góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hàng nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ được nhập khẩu đảm bảo thoả mãn về cơ bản, nhu cầu sản xuất trong nước như xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón, hoá chất cơ bản, bông sợi... tránh được những cơn sốt hàng hoá kéo dài.
Hàng tiêu dùng thiết yếu được nhập khẩu đáp ứng nhu cầu đời sống của nhân dân. Hàng tiêu dùng xa xỉ và không thiết yếu được quản lý chặt chẽ và khống chế chỉ ở mức 13,9% đến 16,5% so với tổng giá trị nhập khẩu hàng năm.
Tình hình nhập khẩu cụ thể như bảng 5 và 6 :
Biểu 5: Tình hình nhập khẩu 5 năm 1991 - 1995
Đơn vị: Triệu USD
Nhóm hàng
1991
1992
1993
1994
1995
Tổng
Thiết bị toàn bộ và dầu khí
318,5
175,1
287,7
738
1171,875
2691,175
Thiết bị lẻ và dụng cụ phụ tùng
190,7
372,1
634,6
912
1718,75
3828,15
Nguyên nhiên vật liệu
1503,7
1572,7
2388,9
27300
4687,5
12882,8
Hàng tiêu dùng
325,2
420,8
612,8
620
1015,625
2994,425
Tổng trị giá nhập khẩu
2338,1
2540,7
3925
5000
8593,75
22396,55
(Nguồn: Thực hiện nhập khẩu hàng hoá 5 năm 1991-1995 - Bộ Thương mại)
Biểu 6
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu trong 5 năm 1991 - 1995
Mặt hàng
Đơn vị
1991
1992
1993
1994
1995
Tổng
Xi măng
1000 tấn
7
43,4
310,4
1200
3437,5
4998,3
Sắt thép
1000 tấn
113
343
686,3
500
781,25
2423,55
Phân U._.ạnh.
5. Rau, hoa, quả:
* Hoa tươi: Vụ đông xuân (từ tháng 11 đến tháng 3 hàng năm) ở phía Bắc Việt Nam rất thuận tiện cho việc trồng hoa cây cảnh cho các loại hoa rất đẹp được châu Âu ưa chuộng. Thời gian này hàng năm các nước châu Âu lại là mùa băng giá không trồng được hoa gì phải nhập hoa tươi từ nhiều nước khác nhau. Hoa tươi Việt Nam có thể xuất khẩu lớn (kể cả hoa phong lan ở Đà lạt) đạt hàng trăm triệu USD nhưng xuất khẩu hoa tươi là việc rất khó khăn từ khâu trồng trọt, chăm sóc, cắt hoa, bao bì đóng gói vận chuyển và giao hàng đúng thời gian chủng loại số lượng theo yêu cầu của khách hàng nước ngoài. Vì vậy nên khuyến khích các hội làm vườn, hội trồng hoa cây cảnh đi sâu vào nghề nghiệp và làm marketing ở tầm vi mô từ đó đề xuất với Nhà nước về những cơ chế chính sách khuyến khích thoả đáng cho ngành này vì đây là ngành rất khó làm đòi hỏi công phu tỷ mỷ và không thể nhanh chóng có số lượng lớn ngay, không dễ có ngay thị trường, nên định hướng chính sách là miễn giảm tất cả các khoản đóng góp từ trong nội địa đến khâu xuất khẩu, tạo thuận lợi nhanh chóng trong các khâu thủ tục, cho dù trước mắt việc xuất khẩu hoa tươi kim ngạch rất nhỏ nhưng là góp gió để thành bão.
* Rau tươi: Việt Nam có khả năng trông rất nhiều loại rau như xà lách, rau thơm, hành tây, cà chua, dưa chuột, bắp cải, súp lơ, tỏi ớt... mà nhu cầu thế giới rất cần. Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu với số lượng rất hạn chế chính là vấn đề bảo quản chế biến. Vì vậy phải đầu tư gấp các dây chuyền chế biến hiện đại như sấy khô, đồ hộp... để xuất khẩu được khối lượng lớn. Muốn vậy phải có chính sách riêng để thu hút đầu tư hoặc lập liên doanh chế biến.
* Quả: Việt Nam có rất nhiều loại quả có giá trị dinh dưỡng cao và là đặc sản của vùng nhiệt đới như nhãn lồng, vải thiều, mơ, mận, bưởi, cam, dứa, xoài, sầu riêng... Muốn xuất khẩu được phải tìm các bạn hàng đối tác từ các nước có công nghệ và kinh nghiệm chế biến như: Đài Loan, Trung Quốc, Israel, Nhật, ý... có chính sách rộng rãi về lợi nhuận để thu hút họ vào và cùng với các địa phương lập nên phương án từ khâu trồng, giống, thu hoạch đến xây dựng nhà máy chế biến nhà máy đồ hộp hiện đại và chuẩn bị thị trường xuất khẩu.
6. Hạt điều:
- Việt Nam hiện nay đã trong khoảng 130000 ha cây điều, tập trung nhiều ở các tỉnh Miền Đông Nam Bộ và rải rác từ Quảng Nam - Đà Nẵng đếm các tỉnh Tây Nguyên. Về thị trường tiêu thụ hạt điều ít gặp khó khăn do nhu cầu tiêu thụ trên thế giới ngày càng tăng và xu thế mở rộng sang nhiều nước ở Bắc Mỹ, Tây Âu, các nước công nghiệp phát triển, các nước công nghiệp mới (NIC) có nhu cầu lớn về hạt điều tinh chế. Vì vậy mục tiêu đến năm 2000 cần phải đầu tư thiết bị công nghệ chế biến để chuyển hầu hết sang xuất khẩu hạt điều dưới dạng chế biến.
7. Thịt chế biến:
Dự kiến mục tiêu xuất khẩu thịt chế biến đạt 60 - 80 ngàn tấn, đến năm 2000 có giá trị xuất khẩu 80 triệu USD đến 100 triệu USD. Để đạt mục tiêu này Việt Nam cần làm các công việc sau:
+ Cải tạo giống lợn cho tỷ lệ nạc đạt 50% - 60% và trọng lượng đạt trên 70 kg/con.
+ Cải tạo giống bò nuôi theo công nghệ tiên tiến cho chất lượng thịt mềm.
+ Xây dựng các nhà máy chế biến có công nghệ cao hiện đại và các hệ thống kiểm dịch động thực vật đạt tiêu chuẩn quốc tế.
+ Xây dựngnhà máy chế biến và thuộc da có công nghệ cao để làm các sản phẩm bằng da xuất khẩu.
8. Dâu tơ tằm:
- Hiện nay Việt Nam chỉ mới sản xuất khoảng 1000 tấn, chất lượng tơ còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường thế giới mà nhu cầu thế giới rất lớn về mặt hàng từ tơ tằm, thị trường tiêu thụ tơ tằm và sản phẩm tơ tằm rất lớn như: ý, Nhật, Đại hàn, Trung Quốc, Pháp, CHLB Đức, Anh đều muốn nhập tơ tằm cao cấp và các loại vải lụa dệt kim cao cấp từ tơ tằm; Các nước Trung Đông có nhu cầu lớn nhập áo choàng đen bằng tơ tằm dùng cho phụ nữ đạo Hồi nhưng họ đòi hỏi chất lượng tơ dệt và may mặc rất cao; Các nước Mỹ, EC, Châu Âu... muốn nhập các sản phẩm bằng tơ tằm: hàng dệt kim (áo ấm, quần áo lót), hàng lụa tơ tằm (sơ mi nữ, áo đầm dài áo thể thao cho phụ nữ, quần Tây, váy đầm, cà vạt, comlet, vet phụ nữ...), tất cả những mặt hàng này đều đòi hỏi chất lượng rất cao vì đây là loại hàng chỉ để bán cho những người giàu có.
Việt Nam muốn tham gia thị trường thế giới với khối lượng lớn về mặt hàng này thì cần phải:
+ Phải cải tạo giống tằm cho chất lượng tơ tốt theo thị hiếu của thị trường thế giới. Nhanh chóng áp dụng việc đổi giống tằm tơ ví dụ giống của ý, Hàn Quốc, Nhật Bản.
+ Xây dựng và phát triển cơ sở vật chất cho nuôi tằm. Hiện đại hoá các nhà máy ươm tơ dệt lụa bằng các thiết bị công nghệ cao để có sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường. Các yêu cầu về chất lượng hàng tơ tằm trên thế giới đều đòi hỏi rất cao và khắt khe, nếu khâu nuôi tằm và sản xuất không đổi mới hoặc nếu ngại tốn kém trong khâu đầu tư đổi mới công nghệ, cứ làm theo tập quán quen thuộc hoặc nhập thiết bị không tiên tiến thì sẽ không có người mua và sẽ vấp trở lại tình trạng cũ: hô hào làm ra nhưng không tiêu thụ được.
9. Hàng da và giày:
- Các loại sản phẩm da và giày làm bằng da rất được thị trường thế giới ưa chuộng nhu cầu của thế giới về mặt hàng này càng ngày càng tăng ước tính đến năm 2000 nhu cầu của thế giới về giày da lên tới 4 tỷ đôi và các sản phẩm bằng da lên tới 1 tỷ USD.
- Việt Nam đang có đàn lợn, bò trâu, dê... độ vài chục triệu, cho nên có khả năng không nhỏ về nguồn nguyên liệu để mở rộng công nghiệp thuộc da và sản xuất các sản phẩm bằng da và giày da, có thể đạt tới sản lượng 60 triệu đôi giày và hàng chục triệu USD sản phẩm bằng da. Khó khăn lớn nhất của Việt Nam là thiếu thiết bị hiện đại để sản xuất da và giày da nên chất lượng giày da chưa đảm bảo được yêu cầu của thị trường thế giới. Trong khi đó không ít người đã lao vào xuất khẩu da muối (nguyên liệu thô) hoặc cho nước ngoài đầu tư đến khâu thuộc da rồi xuất khẩu - đây là một sự lãng phí lớn và thêm nữa lại không tạo được công ăn việc làm cho người lao động.
- Mặt hàng giày da có thị trường xuất khẩu lớn nhưng cũng như các hàng hoá xuất khẩu khác, đòi hỏi chất lượng giày da phải đạt tiêu chuẩn của thị trường quốc tế. Biện pháp tốt nhất hiện nay là:
+ Thực hiện liên doanh với ý, Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc để mua thiết bị và bán sản phẩm cho họ hoặc buộc các nhà đầu tư phải tiến hành thêm một bước từ thuộc da sang sản xuất sản phẩm da và bao tiêu.
+ Trước mắt cần có báo động cho các liên doanh đầu tư nước ngoài về không cho phép kéo dài việc chỉ làm đến khâu thuộc da rồi xuất khẩu.
10. Hàng dệt và may mặc:
- Nhu cầu mặc của con người rất lớn, dân ở các nước có thu nhập càng cao thì nhu cầu mặc càng được đặc biệt coi trọng. Từ năm 1986 ngành dệt may mặc Việt Nam phát triển mạnh (ngành dệt phát triển với tốc độ yếu hơn). Do có những lợi thế so sánh tốt nên ngành dệt may Việt Nam ngày càng phát triển mạnh. Tuy nhiên để góp sức cho sản phẩm có tổng sản lượng lớn và sức cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế thì chúng ta cần phải chú ý đến các yếu tố sau:
+ Về Nhà nước: phải có trách nhiệm hỗ trợ bằng chính sách ưu đãI về tài chính (hỗ trợ vốn) cho các doanh nghiệp dệt và may hàng xuất khẩu để đầu tư trang thiết bị lại, có chính sách và cơ chế thuận lợi hơn về thoái thuế cho các doanh nghiệp trong khâu tạm nhập nguyên phụ liệu.
+ Phần các nhà kinh doanh: Các doanh nghiệp, nhất là tư nhân, một mặt cần mở rộng việc tiếp cận thị trường tìm khách hàng và xuất khẩu hàng dệt và may mặc sang các nước khác ngoài các nước đã và đang là thị trường của mình. Cần tìm mọi cách buôn bán với các công ty của Mỹ, để tạo điều kiện thuận lợi mới về hàng may mặc ở thị trường cực lớn này, đồng thời cần khắc phục mọi khó khăn đang tồn tại để phục hồi thị trường SNG và Đông Âu - Đây cũng là một thị trường rất lớn và lại đòi hỏi chất lượng không quá gay gắt.
11. Than:
- Việt Nam có trữ lượng than ở Quảng Ninh, có dự báo trữ lượng than nâu ở sâu trong lòng đất đồng bằng Bắc Bộ. Đến nay, ta đã xuất khẩu than sang hơn 16 nước trên thế giới 80% lượng than được bán sang các nước châu á trong đó chủ yếu là Nhật Bản và Hồng Kông, kim ngạch không lớn lắm trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Hiện nay, ngoài những khó khăn không nhỏ về chi phí đầu tư xây dựng cơ bản, bốc đất đá, khai thác sàng tuyển, chi phí vận tải cũng lớn nếu bán ở thị trường xa.
Vì vậy nên cân nhắc các mặt lợi và bất lợi trong đầu tư để tăng sản lượng xuất khẩu than đến đâu là hợp lý và cũng cần tính cả về qui hoạch lâu dài đối với tài nguyên than nói riêng và các loại tài nguyên khoáng sản khác trong quan niệm khai thác tài nguyên là không tái tạo được.
12. Về hàng công nghiệp nặng và khoáng sản xuất khẩu:
- Đây là một trong những vấn đề lớn liên quan đến các quan điểm phát triển kinh tế và công nghiệp dịch vụ, liên quan đến chính sách công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp nặng và khoáng sản cần chú ý hai vấn đề sau:
+ Về hàng công nghiệp nặng cần chú tâm đến vấn đề công nghệ để tránh nguy cơ tụt hậu quá xa so với thế giới.
+ Về khoáng sản cần có kế hoạch khai thác và xuất khẩu một cách hợp lý tiết kiệm vì khoáng sản khi đã bị khai thác là không tái sinh được.
II. Kiến nghị về công tác quản lý vĩ mô hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay:
1. Đổi mới hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý hoạt động xuất nhập khẩu:
Hai hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu là một khâu quan trọng trong kinh tế đối ngoại. Do đó đổi mới hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý ngoại thương là cần thiết và cấp bách. Cần thống nhất quan điểm để thiết kế phù hợp với hệ thống kinh tế mở và phù hợp với chủ trương đưa nền ngoại thương Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực - Một xu thế khách quan đang diễn ra ở nhiều nước trên thế giới.
ở nước ta, trong giai đoạn quá độ, trong khuôn khổ pháp luật Nhà nước có thể xúc tiến mạnh mẽ xuất khẩu, xoá bỏ các cản trở nhất là về tổ chức cơ chế, thể chế và các thủ tục đang tác động đến xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Cụ thể là:
a. Nên xem xét lại chế độ cơ quan chủ quản:
- Chế độ cơ quan chủ quản mang tính chất hành chính bao cấp cũ không đáp ứng được đòi hỏi của phát triển xuất nhập khẩu trong giai đoạn mới. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ là các thực thể kinh tế trong xã hội, họ chỉ chịu trách nhiệm trước pháp luật, chỉ cần đăng ký hoạt động đúng pháp luật và làm đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước.
b. Miễn giảm thuế xuất khẩu:
- Tiếp tục điều chỉnh một cách cơ bản chính sách thuế nói chung theo hướng miễn giảm đối với sản phẩm xuất khẩu, chỉ đánh thuế những sản phẩm không khuyến khích xuất khẩu hoặc đánh phụ thu khi có lợi nhuận siêu ngạch.
c. Mở rộng chế độ trợ cấp xuất khẩu:
- Để tăng khả năng cạnh tranh về giá của sản phẩm xuất khẩu trên thị trường quốc tế trong một số trường hợp phải trợ cấp xuất khẩu. Hiện nay hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam hầu hết sức cạnh tranh còn kém vì thế nên mở rộng chế độ trợ cấp xuất khẩu, đặc biệt là đối với nông sản xuất khẩu dưới hai hình thức trực tiếp và gián tiếp.
d. Hạn chế sử dụng đến mức tối đa các công cụ hành chính trong điều tiết xuất nhập khẩu:
- Biện pháp điều tiết và kích thích xuất nhập khẩu chủ yếu phải áp dụng biện pháp kinh tế. Biện pháp hành chính chỉ nên sử dụng trong trường hợp bất khả kháng hoặc cấp bách nếu có cũng nên qui định chỉ trong thời gian ngắn. Cụ thể là:
+ Nên xoá bỏ dần chế độ hạn chế người trực tiếp làm xuất khẩu từ đó sẽ giúp cho tổng kim ngạch xuất khẩu có thể tăng lên nhanh chóng.
+ Nên nới lỏng chế độ hạn ngạch (chỉ nên hạn ngạch đối với những loại hàng có cam kết số lượng với nước ngoài và một số mặt hàng quan trọng mà nhà nước qui định).
+ấn định dứt khoát những loại hàng cấm nhập hoặc xuất khẩu. Khi đã cấm phải cấm tuyệt đối, huỷ bỏ chế độ "trường hợp đặc biệt".
+ Xem xét lại chế độ chuyên ngành, nên ấn định hẳn những loại hàng chỉ do công ty nhà nước làm như thuốc nổ, thuốc độc, vũ khí... còn lại các chủ thể kinh tế đều có quyền kinh doanh.
+ Cần xem lại chế độ giao chỉ tiêu xuất khẩu cho các doanh nghiệp và cần sửa đổi ngay cơ chế xuất khẩu để trả nợ, hướng cơ bản là xác định đúng tỷ giá thanh toán hợp lý, không để tỷ giá đó quá hẹp (vì sẽ không có người làm) đồng thời không để quá rộng rãi ưu ái (vì có qúa nhiều người chạy chọt khắp các cửa xin và tranh giành chỉ tiêu trả nợ).
+ Tiếp tục huỷ bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất nhập khẩu theo từng chuyến hàng vì thủ tục này rất rườm rà phức tạp gây ra nhiều tiêu cực. Muốn vậy phải kiện toàn được hệ thống điện toán phủ kín toàn mạng hải quan trong nước để cung cấp đầy đủ thông tin về hàng thực xuất, thực nhập cho Bộ Thương mại để từ đó phân tích đánh giá để đề xuất tham mưu cho nhà nước điều khiển hoạt động xuất nhập khẩu.
* Các ý kiến trên là nhằm chuyển hẳn từ quản lý hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế và bằng pháp luật. Các cơ quan nhà nước không còn tham gia trực tiếp vào quá trình kinh doanh, các chủ thể kinh doanh không còn bị hạn chế ràng buộc như trước mà hoạt động kinh doanh theo pháp luật.
2. Đối với chính sách chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu:
- Để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu cần có chính sách chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng sau:
+ Giảm xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong cơ cấu hàng xuất khẩu nhằm ngày càng có giá trị gia tăng trong giá trị hàng xuất khẩu và coi đó là giải pháp để có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu một cách đột biến.
+ Tìm cách tăng kim ngạch các sản phẩm xuất khẩu truyền thống mà thị trường thế giới còn cần, đi đôi với tăng tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu mới theo yêu cầu tiêu dùng hiện đại.
+ Nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu bằng chất lượng, giá cả, thời gian giao hàng... muốn vậy phải tìm tòi học hỏi để ngày càng thành thạo trong marketing.
3. Đối với chính sách quản lý nhập khẩu hàng hoá:
Chính sách quản lý nhập khẩu hàng hoá phải đáp ứng được yêu cầu sau:
+ Bảo đảm nhập khẩu đúng định hướng là ưu tiên nhập vật tư hàng hoá thiết yếu cho xây dựng sản xuất và đời sống mà nền kinh tế quốc dân chưa có điều kiện đáp ứng, góp phần ổn định thị trường ổn định nền kinh tế và đời sống xã hội.
+ Các Bộ phải có trách nhiệm nghiên cứu đề xuất với chính phủ những chính sách bảo hộ một cách hết sức hợp lý nền sản xuất trong nước, hỗ trợ các ngành và cơ sở sản xuất phát triển để đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm nước ngoài nhất thiết không bảo hộ cho những mặt hàng và những cơ sở không chịu nỗ lực đổi mới để vươn lên mà cứ giữ công nghệ cũng như cung cách quản lý cũ kỹ lạc hậu và đơn vị bao cấp bù lỗ.
+ Cần đặc biệt quan tâm áp dụng cách nhập khẩu có chọn lọc nhằm vào nhập thiết bị và công nghệ hiện đại để phục vụ "Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu". Hiện nay 2/3 thiết bị kỹ thuật của ta nhập từ các nước có trình độ công nghệ trung gian làm ra sản phẩm không đủ chất lượng để cạnh tranh, do đó cần phải hướng vào việc chuyển nhanh sang nhập khẩu thiết bị kỹ thuật hiện đại từ các nước có công nghệ nguồn và phát triển như: Nhật, Mỹ, Tây Âu. Chính sách nhập khẩu của ta phải là ưu tiên nhập thiết bị và công nghệ tiên tiến "phù hợp", kế đó là nhập nguyên nhiên liệu công nghiệp cần thiết cho sản xuất chế biến hàng xuất khẩu mà trong nước chưa cung cấp được. Doanh nghiệp nhập khẩu phải thực sự là chỗ dựa cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước để thực hiện chủ trương: Đổi mới, hiện đại hoá thiết bị và công nghệ phục vụ công cuộc Công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Trong thời gian tới vẫn cần hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng nhất là hàng xa xỉ.
+ Phải kiên quyết ngăn chặn nhập hàng chất lượng thấp, hàng tiêu dùng giá rẻ tràn ngập thị trường thông qua buôn bán biên mậu và buôn lậu trốn thuê, lậu thuế. Nếu xử lý không tốt công việc ngăn chặn này thì nhân công trong nước sẽ thừa ứ, thiếu việc làm dẫn đến hậu quả chính trị xã hội phức tạp và bóp chết nền sản xuất trong nước về hàng chế biến, sẽ không có điều kiện để vươn ra thị trường thế giới.
4. Đối với chính sách gắn lưu thông hàng hoá nội địa và hoạt động xuất nhập khẩu với người sản xuất:
Trong cơ chế cũ, sản xuất gắn với thương nghiệp theo sự phân công của kế hoạch làm cho sản xuất và thương nghiệp nhất là ngoại thương bị tách rời, không thực sự xuất phát từ yêu cầu của thị trường. Phát huy tiềm năng các thành phần kinh tế, gắn lưu thông hàng hoá nội địa và hoạt động xuất nhập khẩu đối với người sản xuất. Thương nghiệp ngày càng trở thành cầu nối hữu cơ hữu ích giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa sản xuất và xuất khẩu, giữa nhập khẩu với sản xuất từ đó tác động thúc đẩy quá trình thay đổi cơ cấu sản xuất, đổi mới công nghệ cũng như tạo điều kiện nhập khẩu, xuất khẩu cho người sản xuất giúp cho người sản xuất đáp ứng đúng yêu cầu xã hội, bằng giá cả và chất lượng tạo sức cạnh tranh trên thị trường. Trong trường hợp này công tác marketing và tổ chức thông tin thị trường là rất quan trọng. Nhà nước cũng như người kinh doanh và người sản xuất phải đặc biệt quan tâm tới công tác này.
+ Phần nhà nước: có trách nhiệm cung cấp thông tin và lo marketing ở tầm vĩ mô, bao gồm thu thập thông tin một số nước trên thế giới để phân tích, dự báo và đưa ra định hướng kịp thời hàng ngày; tổ chức ký kết các hiệp định các cam kết quốc tế và khu vực để tạo cơ sở pháp lý và bảo hộ hoạt động và lợi ích của các doanh nghiệp. Chỉ ra chính sách mặt hàng, chính sách thị trường, thương nhân và bạn hàng ở các khu vực và các nước; tổ chức giúp cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước tiếp xúc, giao dịch, thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại...
+ Phần các doanh nghiệp: có trách nhiệm nghiên cứu các thông tin, các định hướng và chỉ dẫn của Nhà nước để đi sâu vào làm marketing ở tầm vi mô tìm mặt hàng, bạn hàng cụ thể, ký kết hợp đồng mua bán cụ thể, gắn với sản xuất trong nước để tạo ra nguồn hàng giao dịch đúng theo hợp đồng, giữ tín nhiệm trong làm ăn kinh doanh.
5. Đối với chính sách chuyển dịch cơ cấu thị trường:
- Chuyển dịch cơ cấu sản xuất và hàng hoá xuất khẩu phải gắn liền với chính sách chuyển dịch cơ cấu thị trường phù hợp với yêu cầu khách quan của nhu cầu thị trường. Hiện nay 80% giá trị hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam tập trung vào thị trường châu á - Thái Bình Dương, chủ yếu là Nhật, Singapo... nếu không nghiên cứu để định ra một cách hợp lý cân bằng quan hệ thương mại thì dễ dẫn tới ngày càng bị cuốn sâu vào buôn bán trong khu vực là chủ yếu.
- Như vậy Việt Nam cần phải cân bằng quan hệ thương mại nói riêng và kinh tế đối ngoại nói chung với các khu vực thị trường thế giới theo đúng chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại. Việt Nam cần phải có chính sách thích hợp để mở rộng thị trường, ngoài thị trường châu á ta cần phải xâm nhập và chiếm lĩnh các khu vực thị trường rộng lớn khác như châu Âu, châu Mỹ... nhằm giúp sức đưa kinh tế thương mại Việt Nam tham gia tích cực vào thị trường thế giới.
6. Chính sách trong việc tham gia vào cộng đồng thương mại thế giới:
- Bất kỳ một quốc gia nào cũng phải có sự tham gia vào các cộng đồng thương mại thế giới để có thể tận dụng sự giúp đỡ của khối cộng đồng mà mình tham gia nhằm tăng cường các hoạt động kinh tế đối ngoại của mình. Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Vừa qua ta đã tham gia ASEAN, điều này đã tác động không nhỏ tới hoạt động kinh tế của Việt Nam, cụ thể là mối liên hệ buôn bán hai chiều giữa các nước thành viên ASEAN và Việt Nam tiến triển tốt - đây chính là một thị trường cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Do đó ta cần có các hoạt động thích hợp để phấn đấu tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới khác như:WTO, APEC, GSTP, các hoạt động đó có thể là tăng cường phát triển kinh tế trong nước và đồng thời vận động các nước các tổ chức quốc tế ủng hộ cho quá trình hội nhập của Việt Nam.
7. Phát huy khả năng của các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu:
- Trong một nền kinh tế đối ngoại nhiều thành phần có các chủ thể kinh doanh cần thiết phải có doanh nghiệp nhà nước (quốc doanh) làm chủ đạo, đồng thời mở rộng ra các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác (trong đó tư doanh). Tất cả các doanh nghiệp này khi thành lập và hoạt động phải tuân thủ các điều kiện cần thiết do pháp luật qui định đối với từng hoạt động kinh doanh. Về nguyên tắc các điều kiện về pháp lý phải được áp dụng bình đẳng với mọi doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế. Lâu nay quan hệ giữa các thành phần kinh tế quốc doanh - tư doanh chưa được giải quyết thoả đáng cả trong hoạt động kinh tế nội bộ và trong ngoại thương. Vấn đề này càng trở nên cấp bách trong tình hình hiện nay: Nội thương và ngoại thương không còn phân ranh giới và gắn chặt với nhau trong quá trình mở rộng quan hệ kinh tế với thế giới. Vì vậy ta phải tiến hành ngay các vấn đề sau:
+ Đối với doanh nghiệp quốc doanh nên chọn lọc để Nhà nước lập nên một số công ty lớn trực thuộc chính phủ (không thuộc Bộ nào cả). Những công ty đó sẽ xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực, đảm bảo cho chính phủ nắm được quyền quản lý kinh tế xã hội (ví dụ như nhiên liệu, vũ khí, viễn thông...).. Khi đã nắm một số mặt hàng chủ lực đó các công ty nhà nước phải nắm chắc bằng thực lực, vốn, và khả năng tổ chức kinh doanh, không cửa quyền và nhất là phải tránh để xảy ra tình trạng khá phổ biến là các công ty quốc doanh thiếu vốn lại sử dụng vốn tư nhân dẫn đến quốc doanh chỉ là bình phong để thành phần khác lợi dụng thậm chí thông đồng cấu kết với các thành phần khác lợi dụng làm giàu bất chính và thao túng trở lại. Phải củng cố lại các doanh nghiệp quốc doanh trên những ngành hàng và ngành kinh tế chủ yếu nhất, củng cố về chất lượng và thực lực để thực sự là công cụ của nhà nước, giúp nhà nước nắm chắc và điều khiển được nền kinh tế theo định hướng XHCN.
+ Cần thừa nhận và khuyến khích tối đa xuất nhập khẩu kể cả các thành phần kinh tế khác. Cần làm rõ và thống nhất hai quan điểm là : Tất cả các thành phần kinh tế các tổ chức và cá nhân được quyền kinh doanh bất cứ hàng hoá gì mà nhà nước không cấm; Tất cả các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ thực thi chức trách quản lý của mình đối với những gì mà luật pháp qui định.
+ Cần loại bỏ tư tưởng quá coi trọng kinh tế quốc doanh dẫn đến xem thương các thành phần kinh tế khác. Có những chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất nhập khẩu.
* Tóm lại cần tận lực khai thác lợi thế của các thành phần kinh tế, trong đó nhà nước chỉ chọn lựa nắm thật chắc một số doanh nghiệp quốc doanh để phát triển và mở rộng kinh doanh xuất nhập khẩu; trong hoạt động kinh doanh không phân biệt quốc doanh hay tư doanh miễn là đảm bảo hoạt động sinh lợi cho mình, có lợi cho xã hội và hoạt động kinh doanh đúng theo qui định của pháp luật.
III. Các kiến nghị về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trên giác độ vi mô:
(Xét cho từng mặt cụ thể: xuất khẩu hoặc nhập khẩu).
1. Đối với xuất khẩu:
- Ta đã biết mục tiêu xuất khẩu đến năm 2000 của Việt Nam là đạt 13,2 tỷ USD. Để đạt được mục tiêu đó, kinh doanh xuất khẩu cần chú ý đến các vấn đề sau:
a.Như đã nói ở phần II, ta cần hạn chế bằng cả biện pháp kinh tế và biện pháp hành chính việc xuất khẩu nguyên liệu thô và sơ chế. Cụ thể cần phấn đấu để trong thời gian ngắn giảm xuất khẩu quặng thô, dầu thô và các tài nguyên khác mà chưa qua chế biến.
Cần chuyển từ xuất khẩu gạo, cà phê hạt, hạt điều thô, thịt, rau, quả... sang xuất khẩu thực phẩm chế biến (thức ăn, thực phẩm, cà phê nhân đánh bóng và hoà tan, hạt điều chế biến... nhất là chế biến tinh, bao bì hiện đại tiện cho bảo quản và sử dụng). Vì vậy, cần nhanh chóng nhập khẩu thiết bị kỹ thuật chế biến nông sản thực phẩm phù hợp với yêu cầu của từng thị trường tiêu thụ
Phải chuyển nhanh từ xuất dầu mỏ và khí đốt dạng thô (làm nguyên liệu) sang xuất khẩu sản phẩm lọc dầu (xăng, dầu, NAFTA) sau đó chuyển sang xuất khẩu dầu mỏ kỹ thuật cao và các sản phẩm hoá dầu chế biến sâu trên cơ sở nguyên liệu dầu khí (phân bón, hoá chất công nghiệp, chất dẻo, thuốc nhuộm, hóa chất thử nghiệm...) để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp hiện đại trong nước đồng thời xuất khẩu sản phẩm hoá chất ra nước ngoài. Muốn vậy phải áp dụng các giải pháp rất năng động sáng tạo mà nhiều nước đã có nhiều cách làm để khẩn trương xây dựng và hoàn chỉnh dần các nhà máy lọc dầu hoá dầu với công nghệ cao để trong thời gian tới có sản phẩm xuất khẩu.
Phải tăng nhanh các sản phẩm tiêu dùng chế biến tinh xảo như quần áo may sẵn, giày dép có chất lượng kỹ thuật cao, hợp thời trang kiểu dáng được đổi mới liên tục, các sản phẩm gia dụng khác (chất dẻo, sản phẩm điện kỹ thuật gia đình, đồ da, đồ đạc làm bằng gỗ và các chất liệu khác), phát triển công nghệ sản xuất: lụa tơ tằm, quần áo tơ tằm, giầy dép và đồ dùng bằng sợi dứa dại, sợi chuối...
b. Phát triển dịch vụ gia công cơ khí điện tử phần cứng, nhằm khai thác cao nhất lợi thế so sánh tiềm năng to lớn về nguồn nhân lực và giá nhân công trong giai đoạn còn tương đối rẻ này. Nhanh chóng mở ra và phát triển xuất khẩu dịch vụ và kỹ thuật phần mềm, lúc đầu làm dịch vụ xử lý dữ liệu trên máy tính điện tử sau đó tiến tới lập chương trình cho máy tính điện tử, với nhận thức mới về lợi thế so sánh về nguồn tài nguyên đích thực là nguồn nhân lực Việt Nam, nhằm có chương trình kế hoạch chính sách và biện pháp thiết thực làm cho hướng phát triển này sớm trở thành hiện thực mở ra nguồn xuất khẩu mới cho đất nước.
2. Đối với nhập khẩu:
- Để thực hiện được mục tiêu về nhập khẩu mà nhà nước đã đề ra trong kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 thì trong hoạt động nhập khẩu cần phải chú ý đến các vấn đề sau:
a. Đổi mới hiện đại hoá thiết bị và công nghệ phục vụ công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Cần nhập những công nghệ hiện đại để phục vụ "Công nghiệp hóa hướng về XK"tạo ra nhiều sản phẩm đạt chất lượng quốc tế, có sức cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế.
Công nghệ cần được lựa chọn để nhập là hướng vào công nghệ của các nước có công nghệ nguồn, cố giảm đến mức tối đa việc nhập công nghệ trung gian và nhập thiết bị công nghệ đã qua sử dụng.
b. Có những chính sách hết sức khuyến khích tạo ra nhiều sản phẩm là nguyên liệu làm từ các nguồn tài nguyên tại chỗ trong nước để đảm bảo vật tư hàng hoá thiết yếu cho xây dựng sản xuất và đời sống mà hiện nay nền kinh tế quốc dân chưa có điều kiện đáp ứng và đang còn phải nhập.
c.Như đã nói ở phần II, ta cần định rõ chính sách bảo hộ một cách hợp lý nền sản xuất trong nước nhằm vừa thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển vừa tránh được tình trạng ỷ lại không cố gắng vươn lên của các doanh nghiệp trong nước, cụ thể chỉ nên bảo hộ các nghành còn non trẻ ( nhất là các ngành về công nghiệp), tạo điều kiện phát triển cho các ngành đó để từ đó xây dựng được nền tảng vững chắc về sau cho nền kinh tế.
d. Trong nhập khẩu phải hết sức tính toán việc nhập trả chậm hoặc vay tín dụng thương mại. Cần nắm chắc nguyên tắc vay thì phải trả nhất thiết phải làm ra lời đủ trang trải cho mọi cho phí, đủ khả năng sinh lợi để trả được lãi vay (cả vốn gốc và lãi phát sinh) không để nợ phát sinh lãi ra chồng chất mất khả năng thanh toán, vừa gây đình trệ bế tắc cho bản thân vừa tăng thêm gánh nặng nợ nần cho đất nước.
e. Vẫn cần hạn chế nhập hàng tiêu dùng nhất là hàng xa xỉ.
Kết luận
Hiện nay, ở Việt Nam hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá ngày càng được mở rộng và đang từng bước khẳng định hiệu quả của nó trong cơ chế kinh doanh mới ở từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế tạo ra nguồn thu ngoại tệ và nguồn vật tư hàng hoá ổn định phục vụ cho sự phát triển của đất nước.
Kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá hiện nay là lĩnh vực kinh doanh của nhiều tổ chức kinh tế, nó không còn là hoạt động độc quyền của nhà nước nữa, do đó cạnh tranh diễn ra giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và đi kèm với nó là một số tiêu cực nảy sinh gây bất lợi cho các doanh nghiệp thực hiện đúng theo chính sách của nhà nước từ đó làm cho hoạt động xuất nhập khẩu kém hiệu quả - đó chỉ là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu kém hiệu quả, những nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng kinh doanh xuất nhập khẩu kém hiệu quả đó là công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu còn chưa được thực hiện tốt; chính sách về xuất nhập khẩu còn có nhiều chỗ chưa hợp lý. Để góp phần làm cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đạt hiệu quả cao hơn, qua quá trình thực tập ở Trung tâm thông tin - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Hà Nội với sự giúp đỡ nhiệt tình của Trung tâm Thông tin và sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo hướng dẫn - Thầy Trần Chu Toàn - em đã thu thập tài liệu và tìm tòi nghiên cứu, từ đó thực hiện chuyên đề thực tập tốt nghiệp này với mong muốn có thể đóng góp một vài ý kiến nhỏ bé để góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nước ta nói riêng và hoạt động của nền kinh tế Việt Nam nói chung ngày càng có hiệu quả hơn. Bài viết này vì kiến thức và thời gian còn hạn chế nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi nhiều thiếu sót, vậy em kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến nhiệt tình của các thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 17 tháng 5 năm 1998
Sinh viên thực hiện
Trần Thanh Tùng
Lớp QLKT 36
Đại học Kinh tế quốc dân
Danh sách tài liệu tham khảo
1. Tạp chí kinh tế và phát triển. Số 21 năm 1997, số 18 năm 1997
2. Tạp chí Thông tin kinh tế kế hoạch, số 11 năm 1997
3. Tạp chí con số và sự kiện số 12 năm 1997
4. Tạp chí nghiên cứu Đông nam á số 3 năm 1997
5. Tin kinh tế xã hội số 37 năm 1997
6. Tạp chí thương mại số 9,16,18 năm 1997
7 Tạp chí kinh tế và dự báo số 8 năm 1997
8. Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 3 năm 1997
9. Tạp chí Việt Nam và Đông Nam á ngày nay số 9 năm 1997
10. Tạp chí Ngoại thương số 17 năm 1997
11. Thương mại quốc tế (NXB Thống kê - PTS Nguyễn Duy Bột
PGS Đinh Xuân Trình
12. Tổ chức và nghiệp vụ kinh doanh thương mại quốc tế
(NXB Thống kê - PTS Trần Chí Thành)
13. Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch thương mại năm 1997 và dự kiến năm 1998 (TL 353 - Bộ Thương mại)
14. Kế hoạch phát triển thương mại 5 năm 1996 - 2000
( TL 248 - Bộ Thương mại )
15.Tạp chí NCLL - 1/1996
16.Tạp chí KTTG - 3/1993
17.Tạp chí PTKT - 68/1996
18.Tạp chí NCĐNA -4/1997
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33556.doc