Một số ý kiến về cơ cấu tổ chức và hoạt động của kiểm toán nhà nước ở Việt Nam

Lời nói đầu Đất nước ta trong tiến trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta luôn hướng tới mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh . Do đó đòi hỏi phải có những cơ chế, chính sách cần thiết để công chúng được tiếp cận, tham gia giám sát hoạt động của Nhà nước, ngăn ngừa các hành vi tham nhũng, lãng phí của công, các hành vi cửa quyền hách dịch, xa rời quần chúng. Nhà nước phải thực hiệ

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1437 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số ý kiến về cơ cấu tổ chức và hoạt động của kiểm toán nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động tài chính của nền kinh tế thị trường, đảm bảo tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả trong quản lí và sử dụng công quỹ Quốc gia, góp phần làm trong sạch bộ máy Nhà nước, đấu tranh chống tệ lãng phí và nạn tham nhũng trong cơ quan công quyền. Để thực hiện được nhiệm vụ to lớn đó, vào ngày 11/7/94, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 70/1994/NĐ - CP về việc thành lập cơ quan Kiểm toán Nhà nước( KTNN )- cơ quan Kiểm toán tối cao trong việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động thu chi Ngân sách Nhà nước( NSNN ) và sử dụng tài sản công của QG. Như vậy sự ra đời của KTNN VN là một tất yếu khách quan trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, nó đánh dấu bước phát triển mới của hệ thống các công cụ kiểm tra, kiểm soát ở Việt nam trong điều kiện đổi mới và hội nhập kinh tế Quốc tế, khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong việc thiết lập trật tự, kỉ cương trong lĩnh vực quản lí nền tài chính QG, tăng cường tính minh bạch và công bằng xã hội. Từ ý nghĩa trên em đã quyết định lựa chọn đề tài: "Một số ý kiến về cơ cấu tổ chức và hoạt động của KTNN ở Việt Nam". Bằng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân tích những lí luận cơ bản của ngành KTNN, em đã đi vào tìm hiểu thực trạng ngành KTNN VN từ đó đưa ra những ý kiến kiến nghị của bản thân nhằm làm hoàn thiện hơn nữa chức năng nhiệm vụ và vai trò của KTNN trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nội dung đề tài gồm 2 nội dung chính như sau: Phần một: Khái quát cơ bản về cơ cấu tổ chức và hoạt động của KTNN Phần hai: Thực trạng ngành KTNN VN và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của KTNN- VN, đưa KTNN trở thành công cụ quản lí tích cực cho Nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam. PHần MộT KHáI QUáT CƠ BảN Về CƠ CấU Tổ CHứC Và HOạT ĐộNG CủA KTNN I. Khái quát cơ bản về cơ cấu tổ chức của KTNN VN 1. Cơ cấu tổ chức và hoạt động KTNN là cơ quan kiểm tra tài chính cao nhất của Nhà nước, thực hiện chức năng kiểm tra các hoạt động thu, chi NSNN và các công quỹ khác. Vì vậy KTNN là một cơ quan trong bộ máy quyền lực Nhà nước. Tùy thuộc vào thể chế chính trị và sự phân chia quyền lực của mỗi nước mà KTNN có thể trực thuộc cơ quan lập pháp ( Quốc hội ) hay cơ quan hành pháp ( Chính Phủ ) hoặc đứng độc lập với Quốc hội và Chính phủ, tính đa dạng đó được thể hiện qua địa vị pháp lí và mô hình tổ chức các cơ quan KTNN các nước trên thế giới. ở nước ta mô hình tổ chức cơ quan KTNN theo 2 quan điểm như sau: - Quan điểm thứ nhất cho rằng KTNN là cơ quan của Chính Phủ Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi, Chính phủ thấy cần có một cơ quan KTNN giúp Chính phủ quản lí, điều hành kịp thời, có hiệu quả hơn nền kinh tế qua kiểm toán việc quản lí và sử dụng ngân sách Nhà nước ( NSNN ) và kiểm toán các lĩnh vực khác của tài chính công và tài chính Nhà nước. KTNN là cơ quan của Chính phủ,do đó Tổng Kiểm toán Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; là người đứng đầu và lãnh đạo Kiểm toán Nhà nước, chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về toàn bộ hoạt động của Kiểm toán Nhà nước. Giúp việc cho Tổng Kiểm toán Nhà nước có các Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước. Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Tổng Kiểm toán Nhà nước. Số lượng Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước không quá ba người. Việc lập các chương trình, kế hoạch kiểm toán hằng năm, tổ chức thi và cấp chứng chỉ kiểm toán viên, ban hành chuẩn mực kiểm toán do Thủ tướng Chính phủ quy định. - Quan điểm thứ hai cho rằng KTNN do Quốc hội lập, Tổng Kiểm toán Nhà nước do Quốc hội bầu, các Phó Tổng KTNN do Tổng KTNN đề nghị, Quốc hội phê chuẩn hoặc ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ nhiệm. Tổng KTNN phải báo cáo kế hoạch kiểm toán hằng năm trước Quốc hội và báo cáo kết quả kiểm toán với Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ. Khi đó, tính độc lập trong hoạt động của cơ quan KTNN tương tự như Viện Kiểm Sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao ở nước ta, nhưng không thuộc hệ thống cơ quan tư pháp . Đối với nước ta trong công tác quản lý kinh tế - xã hội phải thực hiện nguyên tắc " Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ", vì vậy cần có tính thống nhất giữa Đảng và Nhà nước; giữa Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp nhằm thực hiện mục tiêu chung theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Khác hẳn với các nước có thể chế chính trị tam quyền phân lập, việc xác định cơ quan KTNN đặt ở đâu là một vấn đề hết sức quan trọng. ở nước ta, KTNN thuộc Quốc hội hoặc Chính phủ thì mục tiêu hoạt động của KTNN đều không thay đổi, đó là cung cấp thông tin tài chính được kiểm toán phục vụ công tác quản lý và điều hành có hiệu quả NSNN của các cơ quan Đảng và Nhà nước. Vấn đề quan trọng là đảm bảo được tính độc lập khách quan cho kiểm toán . ở Việt Nam, KTNN được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất bao gồm KTNN Trung ương và KTNN các khu vực, tạo điều kiện cho KTNN hoạt động độc lập, không chịu sự chi phối của chính quyền các cấp. Đây là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo kết quả kiểm toán trung thực, khách quan, nguyên tắc tổ chức này được áp dụng ở hầu hết các nước trên thế giới. Qua thời gian thực hiện mô hình tổ chức này thể hiện khá ưu việt, với hệ thống tổ chức theo phương pháp trực tuyến là KTNN trung ương và KTNN các khu vực thể hiện tính tập trung, thống nhất cao, tạo điều kiện để khai thác triệt để những ưu điểm của phương pháp quản lý trực tuyến, giảm bớt những ách tắc qua nhiều khâu trung gian, bảo đảm thu nhận thông tin được thực hiện nhanh chóng. Đồng thời mỗi KTNN khu vực được giao nhiệm vụ kiểm toán trên phạm vi sở tại, vừa giảm chi phí cho hoạt động kiểm toán lại vừa có điều kiện am hiểu điều kiện hoạt động của các đối tượng được kiểm toán, nhất là các đặc điểm ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế - tài chính và thu - chi ngân sách hàng năm . Các tổ chức kiểm toán chuyên ngành thuộc KTNN bao gồm: Kiểm toán Ngân sách Nhà nước, kiểm toán chương trình đặc biệt( an ninh quốc phòng, dự trữ Quốc gia...), kiểm toán đầu tư, kiểm toán doanh nghiệp Nhà nước ( DNNN ) và kiểm toán các tổ chức Ngân hàng - Tài chính . Các đơn vị kiểm toán chuyên ngành giúp Kiểm toán Nhà nước thực hiện chức năng kiểm toán các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các đối tượng thuộc chuyên ngành. Đứng đầu mỗi tổ chức kiểm toán chuyên ngành là Kiểm toán trưởng (cấp Vụ trưởng). Giúp việc cho Kiểm toán trưởng có các Phó kiểm toán trưởng ( cấp phó Vụ trưởng ). Kiểm toán trưởng và các Phó kiểm toán trưởng do Kiểm toán Nhà nước bổ nhiệm và miễn nhiệm . Ngoài các kiểm toán chuyên ngành tại trung ương còn có các kiểm toán Nhà nước các khu vực đóng trên các địa bàn trọng điểm, hiện tại KTNN có 5 KTNN các khu vực đóng tại Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Đà Nẵng, Thành phố Cần Thơ, Thành Phố Vinh. Trong quá trình hoạt động nếu xét thấy cần thiết, thì Tổng KTNN thống nhất với Bộ Trưởng Bộ Nội vụ trình Thủ tướng Chính Phủ quyết định thành lập KTNN khu vực trực thuộc KTNN. Các đơn vị của KTNN tham gia vào hoạt động kiểm toán ngân sách Nhà nước gồm có: Kiểm toán ngân sách Nhà nước I, kiểm toán ngân sách Nhà nước II, kiểm toán Chương trình đặc biệt, Kiểm toán Đầu tư - Dự án I, kiểm toán Đầu tư- Dự án II. Các đơn vị này chủ yếu thực hiện nhiệm vụ kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách của các đơn vị dự toán thuộc ngân sách trung ương ( các bộ, ngành trung ương ), trong đó kiểm toán ngân sách Nhà nước ngoài nhiệm vụ kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách của các bộ ngành trung ương còn tham gia kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách của một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có vị trí quan trọng đối với hoạt động thu, chí NSNN. KTNN các khu vực chịu trách nhiệm kiểm toán báo cáo quyết toán thu NSNN trên địa bàn, chi ngân sách địa phương của một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đóng trên địa bàn do Tổng Kiểm toán Nhà nước giao. Ngoài các đơn vị kiểm toán chuyên ngành và kiểm toán khu vực KTNN còn có các đơn vị tham mưu giúp việc Tổng KTNN, như : Vụ giám định và kiểm toán chất lượng kiểm toán, Vụ pháp chế, Vụ tổ chức cán bộ, Văn phòng Kiểm toán Nhà nước, Trung tâm Khoa học đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, Trung tâm Tin học và Tạp chí kiểm toán. 2. Quyền hạn và trách nhiệm của KTNN Căn cứ nghị định số 70/1994/NĐ- CP về việc thành lập KTNN và nghị định số 93/2003/ NĐ- CP của Thủ tướng Chính Phủ về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của KTNN thì KTNN có các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn như sau: KTNN là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng kiểm toán, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo quyết toán NSNN của các cấp và báo cáo tài chính của cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng NSNN . KTNN thực hiện kiểm toán các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán ngân sách của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trứơc khi trình ra Hội đồng nhân dân và tổng quyết toán ngân sách Nhà nước của Chính phủ trứơc khi trình Quốc hội; báo cáo quyết toán của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan thuộc Quốc hội, Viện kiểm sát nhân dân, các đơn vị sự nghiệp công, các đoàn thể quần chúng , các tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí ngân sách Nhà nước; báo cáo quyết toán của các chương trình dự án, các công trình đầu tư của Nhà nước và các doanh nghiệp Nhà nước theo kế hoạch kiểm toán hàng năm được Thủ tướng Chính Phủ hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. KTNN có trách nhiệm trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng được Thủ tướng Chính phủ phân công các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về KTNN; chiến lược, quy hoạch phát triển, kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm về KTNN và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch sau khi được phê duyệt; xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm toán hàng năm trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch đó. Định kỳ báo cáo thực hiện chương trình, kế hoạch và kết quả kiểm toán lên Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng quản lý ngành, lĩnh vực theo quy định của Chính phủ. Quản lý hồ sơ, tài liệu đã được kiểm toán theo quy định của Nhà nước; giữ gìn bí mật tài liệu, số liệu kế toán và thông tin về hoạt động của đơn vị được kiểm toán theo quy định của pháp luật; cung cấp kết quả kiểm toán cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quền và công khai báo cáo kết quả kiểm toán hàng năm theo quy định của pháp luật. Ban hành, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm và các phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán áp dụng trong các tổ chức, đơn vị trực thuộc KTNN theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán, cơ quan KTNN độc lập, chỉ tuân theo pháp luật; chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận kiểm toán của mình. KTNN có quyền yêu cầu các cơ quan đơn vị, tổ chức thuộc đối tượng kiểm toán của KTNN cung cấp các báo cáo quyết toán, báo cáo tài chính, dự toán ngân sách và báo cáo quyết toán ngân sách, các chứng từ, sổ kế toán, các tài liệu khác có liên quan; yêu cầu các đơn vị có liên quan cung cấp các tài liệu cần thiết khi thực hiện công tác kiểm toán theo quy định của pháp luật. Thông qua hoạt động kiểm toán, kiến nghị với đơn vị được kiểm toán sửa chữa những sai phạm, chấn chỉnh và hoàn thiện công tác quản lí kinh tế, tài chính và chế độ kế toán; kiến nghị với Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan quản lí Nhà nước sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách và pháp luật cho phù hợp. Kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc chuyển hồ sơ sang cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý những vi phạm pháp luật của cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân đã được làm rõ thông qua kiểm toán. Quyết định các dự ản đầu tư về Kiểm toán Nhà nước thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật; tham gia thẩm định các đề án, dự án quan trọng thuộc chuyên môn, nghiệp vụ theo yêu cầu của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ. Trình Chính phủ dự toán ngân sách hàng năm của Kiểm toán Nhà nước; quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân sách được phân bổ theo quy định của pháp luật. Ngoài những chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn nêu trên KTNN còn có các chức năng nhiệm vụ khác được Chính phủ quy định tại Nghị định số 93/ 2003/ NĐ - CP. 3. Quy chế tổ chức và hoạt động của đoàn Kiểm toán Nhà nước Khi cần thiết Kiểm toán Nhà nước được thành lập Hội đồng Kiểm toán để tư vấn cho Tổng Kiểm toán Nhà nước thẩm định các báo cáo kiểm toán quan trọng, phức tạp hoặc tái thẩm định các báo cáo kiểm toán bị kiếu nại. Hội đồng Kiểm toán Nhà nước do Tổng Kiếm toán Nhà nước ra quyết định thành thành lập. Hội đồng Kiểm toán hoạt động theo nguyên tắc thảo luận tập thể, biểu quyết theo ý kiến đa số. Khi kết thúc công việc Tổng Kiểm toán Nhà nước giải thể Hội đồng Kiểm toán. Kiểm toán Nhà nước xây dựng kế hoạch kiểm toán hàng năm trình Thủ tướng Chính phủ và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm toán đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Các cuộc kiểm toán đều được thực hiện theo trình tự bốn bước: chuẩn bị kiểm toán, thực hiện kiểm toán, lập báo cáo kiểm toán, kiểm tra thực hiện kiến nghị kiểm toán. Đoàn Kiểm toán Nhà nước được thành lập để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán hàng năm của Kiểm toán Nhà nước. Tổng Kiểm toán Nhà nước quyết định thành lập đoàn Kiểm toán Nhà nước theo đề nghị của Kiểm toán trưởng Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành hoặc Kiểm toán trưởng Kiểm toán Nhà nước khu vực và Chánh văn phòng Kiểm toán Nhà nước. II. Trình tự kiểm toán: Gồm 3 bước chính như sau: 1. Xây dựng kế hoạch kiểm toán hằng năm Theo quy dịnh của chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế thì mỗi nhiệm vụ kiểm toán đều phải lập kế hoạch kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán là việc thiết lập các phương pháp, cách thức và thủ tục kiểm toán phù hợp với đối tượng được kiểm toán. Đồng thời xác định mục tiêu, nội dung kiểm toán; nhân sự, thời gian và các phương tiện cũng như kinh phí ngân sách phục vụ cho cuộc kiểm toán nhằm hạn chế rủi ro kiểm toán đến mức thấp nhất. Hoạt động của Kiểm toán Nhà nước phải tuân thủ pháp luật. ở hầu hết các nước trên thế giới, KTNN hoàn toàn độc lập trong quá trình xây dựng kế hoạch kiểm toán, không chịu bất kì một áp lực nào, đây là điều kiện quan trọng bảo đảm tính độc lập cho hoạt động kiểm toán. Đối với KTNN VN, theo quy định của pháp luật thì KTNN có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch kiểm toán hằng năm trình Thủ tướng Chính phủ và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm toán đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Để tiến hành kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách, KTNN phải tiến hành lập kế hoạch kiểm toán theo trình tự: kế hoạch kiểm toán ngân sách năm, kế hoạch kiểm toán một cấp ngân sách và xây dựng đề cương kiểm toán chi tiết. Do xuất phát từ đặc điểm tổ chức NSNN của nước ta theo nguyên tắc tập trung, thống nhất. Mỗi đơn vị dự toán là một bộ phận cấu thành của một cấp ngân sách, ngân sách câp dưới là bộ phận của ngân sách cấp trên. NSNN là số liệu tổng hợp toàn bộ số thu- chi của ngân sách Trung ương và ngân sách của các cấp chính quyền địa phương. Do đó phạm vi của kiểm toán NSNN rất rộng, nó đòi hỏi phải sử dụng các biện pháp ( hoặc các tổ ) kiểm toán viên khác nhau, có những chuyên môn khác nhau, cũng chính vì vậy việc xác định mục tiêu chung của kiểm toán NSNN là rất phức tạp. Hàng năm trên cơ sở nhiệm vụ kế hoạch kiểm toán được Chính phủ giao, KTNN đã tiến hành gửi các đơn vị trực thuộc công văn hướng dẫn các mục tiêu kiểm toán với 2 nội dung cơ bản, đó là về tiến độ thời gian và về các mục tiêu kiểm toán trọng điểm. * Đối với mục tiêu tiến độ thời gian thường quy định các báo cáo kiểm toán ngân sách phải hoàn thành và phát hành trước khi Hội đồng nhân dân phê chuẩn quyết toán NSNN: Kiểm toán ngân sách Nhà nước thực hiện theo phương thức kiểm toán sau, như vậy muốn thực hiện một cuộc kiểm toán ngân sách Nhà nước phải có các quyết toán ngân sách các cấp và quyết toán của các đơn vị dự toán làm đối tượng kiểm toán. * Đối với mục tiêu kiểm toán trọng điểm: Công văn của KTNN ngoài việc đưa ra các yêu cầu, mục tiêu chung đối với kiểm toán ngân sách như việc đánh giá toàn diện các khâu của chu trình ngân sách, các cấp ngân sách cũng như việc mở rộng phạm vi với một số lĩnh vực mà Nhà nước đang quan tâm triển khai...còn nhấn mạnh đặc biệt chú trọng đến một vài vấn đề về thu chi, quyết toán ngân sách. Đối với vấn đề này các đoàn kiểm toán ngân sách cần phải quán triệt đầy đủ và phải cụ thể với từng địa phương được kiểm toán. Bởi lẽ chủ trương chính sách phát triển kinh tế là của Nhà nước, song ngân sách ở mỗi địa phương có nhiều đặc điểm khác nhau: thu ngân sách quy mô khác nhau; cơ cấu chi khác nhau...Vì vậy, để đáp ứng được các mục tiêu kiểm toán thì mỗi đoàn kiểm toán ở từng địa phương phải căn cứ vào mục tiêu kiểm toán để đề ra các câu hỏi phù hợp, xác định các trọng yếu chính xác và từ đó tổ chức đoàn công tác phù hợp, với thời gian phù hợp...mới có thể mang lại chất lượng kiểm toán cao nhất. 2. Thực hành kiểm toán: Sau khi xây dựng kế hoạch kiểm toán hằng năm, kiểm toán viên phải tiến hành triển khai thực hiện những nội dung, công việc đã ghi trong kế hoạch kiểm toán. Cụ thể gồm 2 nội dung chính như sau: - Nghiên cứu kiểm tra đánh giá hệ thống kiểm toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán. Đây là nội dung rất quan trọng giúp kiểm toán viên đánh giá về rủi ro kiểm toán đề ra phương pháp kiểm toán phù hợp áp dụng cho công cuộc kiểm toán. Vì vậy kiểm toán viên phải có sự hiểu biết đầy đủ về cơ cấu kiểm soát nội bộ để lập kế hoạch kiểm toán. - Thu thập các bằng chứng, phân tích, đánh giá là cơ sở để đưa ra kết luận về báo cáo tài chính đang kiểm toán. 3. Kết thúc kiểm toán Trong bước này kiểm toán viên phải thực hiện các công việc sau: - Lập báo cáo kiểm toán - Hoàn chỉnh hồ sơ kiểm toán - Giải quyết những sự việc phát sinh sau kiểm toán ( nếu có ) Báo cáo kiểm toán là việc đưa ra ý kiến nhận xét đánh giá và kết luận của kiểm toán viên dựa trên các bằng chứng đã thu thập được làm căn cứ cho việc diễn đạt nhận xét của mình về các thông tin tài chính báo cáo quyết toán và nêu lên những kiến nghị mà đơn vị cần sửa chữa khắc phục. Đối với KTNN, sau khi tiến hành kiểm toán, KTNN có trách nhiệm báo cáo với Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, trong đó nhiệm vụ báo cáo kết quả kiểm toán NSNN có vai trò hết sức quan trọng, giúp Quốc hội phê duyệt quyết toán NSNN hằng năm. Thực hiện nhiệm vụ này KTNN có trách nhiệm trình bày quan điểm và báo cáo những vấn đề thuộc về nghĩa vụ của mình, với chức năng là công cụ kiểm tra, kiểm soát tài chính góp phần giữ nghiêm nguyên tắc thu chi NSNN và giải tỏa trách nhiệm cho Chính phủ và các cơ quan chức năng có liên quan. Báo cáo kiểm tra gồm các nội dung sau: - Tiêu đề - Địa chỉ của đơn vị được kiểm toán - Xác nhận các báo cáo tài chính đã kiểm toán: cần ghi rõ tên báo cáo, kì lập báo cáo, ngày lập báo cáo và người lập báo cáo. - Các thông lệ chuẩn mực kiểm toán - ý kiến nhận xét, kiến nghị của kiểm toán viên: Kiểm toán viên có trách nhiệm đưa ra các ý kiến kết luận, xác định mức độ tin cậy về tính trung thực, hợp pháp của thông tin tài chính đã được kiểm toán dựa trên cơ sở phán xét nghề nghiệp, không nêu những vấn đề nhận xét chung chung - Chữ ký, họ tên kiểm toán viên và dấu xác nhận của cơ quan KTNN - Địa chỉ của cơ quan KTNN - Ngày lập báo cáo kiểm toán Sau khi báo cáo kiểm toán hoàn thành, trưởng đoàn ký tên vào báo cáo kiểm toán trước khi phát hành theo quy định của luật NSNN, báo cáo kiểm toán, quyết toán NSNN được gửi: Quốc hội, UB Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan khác theo quy định của pháp luật, báo cáo kiểm toán quyết toán ngân sách địa phương được gửi cho HĐND, UBNN và các cơ quan khác theo quy định của pháp luật. PHầN hai Thực trạng ngành KTNN và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của ktnn - vn I. thực tiễn hoạt động và những thành tựu đạt được của cơ quan KTNN Việt nam * Khái quát những thành tựu chung: Với chức năng là cơ quan Kiểm toán Tài chính công của Quốc gia, KTNN thực hiện việc kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của số liệu quyết toán NSNN, kiểm tra tính tuân thủ pháp luật kinh tế, tài chính của các cấp, báo cáo tài chính của các cơ quan hành chính Nhà nước, các doanh nghiệp Nhà nước và các tổ chức đơn vị quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính Nhà nước. Thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN báo cáo kết quả kiểm toán cho Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan Nhà nước nhằm chấn chỉnh, hoàn thiện công tác quản lý tài chính. KTNN cũng thực hiện chức năng tư vấn, góp ý kiến cho các đơn vị được kiểm toán để công tác tài chính và kế toán dần đi vào nề nếp. Thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN kiến nghị với các cơ quan quản lý Nhà nước hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý tài chính ngân sách Quốc gia, kiến nghị các cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính. Trong qúa trình hoạt động của mình, KTNN còn thực hiện kiểm toán nhằm đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả, hiệu lực của việc sử dụng nguồn lực tài chính công, đánh giá hiệu của các cơ quan, tổ chức khi thực thi quyền và trách nhiệm của mình do Nhà nước giao. Thông qua đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính công, làm lành mạnh hóa các quan hệ tài chính Quốc gia. Trong qúa trình mười năm hoạt động, KTNN đã tiến hành kiểm toán được hàng nghìn cuộc kiểm toán với quy mô khác nhau tại các cơ quan, đơn vị sử dụng NSNN trên các lĩnh vực: dự trữ Quốc gia, an ninh Quốc phòng và kinh tế Đảng.v.v... mà trọng tâm là kiểm toán báo cáo quyết toán NSNN của các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, kiểm toán Ngân hàng Nhà nước và các quỹ tài chính tập trung khác của Nhà nước, các Tổng công ty Nhà nước, các dự án đầu tư XDCB trọng điểm của Nhà nước Bên cạnh đó KTNN còn triển khai đồng bộ các kế hoạch: tổ chức bộ máy tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đồng thời KTNN cũng đã triển khai công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cho hoạt động KTNN trên cả hai phương diện: nghiên cứu khoa học và triển khai xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về KTNN và các quy chế quản lý, tổ chức các hoạt động của ngành, ban hành hệ thống chuẩn mực; quy trình kiểm toán. Ngoài ra KTNN cũng đã triển khai công tác thông tin tuyên truyền và xúc tiến hoạt động quan hệ hợp tác quốc tế, chăm lo công tác hậu cần và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành. 1. Thành tựu đạt được trong lĩnh vực chuyên môn Với hoàn cảnh ra đời không có tổ chức tiền thân, kể từ khi được thành lập, KTNN vừa xây dựng tổ chức, vừa triển khai hoạt động kiểm toán. Mặc dù đứng trước nhiều khó khăn thách thức, nhưng mọi hoạt động đều đã giành được những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Kết quả đạt được là: KTNN đã giúp Chính phủ, các bộ, ngành và các địa phương điều chỉnh số liệu kế toán, báo cáo quyết toán, chỉ ra những sai phạm về chính sách, chế độ quản lý kinh tế - tài chính. Đặc biệt là giúp các đơn vị được kiểm toán nhìn nhận và đánh giá đúng đắn tình hình tài chính, khắc phục được những yếu kém trong quản lý kinh tế và hoạt động kinh doanh của đơn vị mình, chỉ ra được những kẽ hở và sự chồng chéo của các loại văn bản quy phạm pháp luật; cung cấp những thông tin, dữ liệu tin cậy cho Chính phủ, Quốc hội trong quản lý điều hành và kiểm tra giám sát tình hình sử dụng tài chính nhà nước và tài sản công. Trong mười năm qua, KTNN đã kiến nghị tăng thu, tiết kiệm chi và đưa vào quản lý qua NSNN gần 10.000 tỷ đồng, trong đó tăng thu thuế và các khoản thu khác trên 4.800 tỷ đồng, giảm chi cho Ngân sách Nhà nước1.300 tỷ đồng, kiến nghị ghi thu, ghi chi quản lý qua NSNN trên 3.700 tỷ đồng. Trong lĩnh vực kiểm toán NSNN- lĩnh vực bao quát nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động của KTNN, với nhiệm vụ kiểm tra việc quản lý và sử dụng các nguồn lực NSNN của các cấp ngân sách và các cơ quan đơn vị, các tổ chức kinh tế Nhà nước, trên cơ sở đó KTNN đã cung cấp thông tin cho HĐND các cấp trong việc phê chuẩn quyết toán ngân sách, đồng thời cung cấp những thông tin sát thực, tin cậy cho Chính phủ, Quốc hội trong việc xem xét quyết toán NSNN. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện công tác quản lý và điều hành NSNN, trợ giúp Quốc hội, HĐND trong việc giám sát NSNN. Thông qua hoạt động kiểm toán trong lĩnh vực quản lý NSNN, KTNN đã phát hiện những yếu kém, bất cập, sơ hở trong cơ chế quản lý về kinh tế, tài chính, kế toán ở tất cả các giai đoạn của một chu trình NSNN. KTNN cũng đã phát hiện những sai phạm trong quản lý chi tiêu của các đơn vị sử dụng NSNN. Các đơn vị có nhiệm vụ thu, chi ngân sách, thông qua đó KTNN kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính, ngân sách tại các đơn vị được kiểm toán cũng như cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước. Trong lĩnh vực Doanh nghiệp Nhà nước ( DNNN ): Từ khi thành lập đến nay, KTNN đã tiến hành kiểm toán hầu hết các DN lớn giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân, hoạt động kiểm toán tiến hành theo chuẩn mực, quy trình chặt chẽ, chất lượng kiểm toán ngày càng được nâng cao. KTNN đã góp phần ngăn chặn tình trạng "lãi giả, lỗ thật" hoặc" lỗ giả, lãi thật"; tồn đọng nợ xấu, nợ khó đòi, liên doanh liên kết kém hiệu quả; vi phạm quy chế, quy định về tài chính trong cổ phần hóa DNNN.v.v... Trong lĩnh vực đầu tư XDCB, dự án và các chương trình mục tiêu Quốc gia trong 10 năm qua cũng đạt được những kết quả nhất định, góp phần tích cực chống lãng phí tiêu cực trong lĩnh vực đầu tư XDCB từ nguồn vốn NSNN. 2. Xây dựng tổ chức bộ máy quản lý và đội ngũ cán bộ công chức KTNN đã xây dựng được hệ thống tổ chức bộ máy tương đối hoàn chỉnh từ Trung ương đến các KTNN khu vực và hiện đang từng bước củng cố hoàn thiện để đáp ứng chức năng, nhiệm vụ được giao. Từ chỗ ban đầu chỉ có 4 kiểm toán chuyên ngành và văn phòng KTNN, đến nay đã có 19 đơn vị thuộc và trực thuộc KTNN bao gồm 7 KTNN chuyên ngành, 5 KTNN khu vực, 3 đơn vị sự nghiệp và 4 cơ quan chức năng giúp việc. Về việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đến nay KTNN đã tuyển dụng được trên 600 cán bộ công chức, trong đó kiểm toán viên chiếm 70%, 100% kiểm toán viên có trình độ đại học trở lên. Hầu hết đội ngũ cán bộ được tuyển dụng đều đảm bảo về chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức, tâm huyết với nghề, có tinh thần trách nhiệm trước những nhiệm vụ được giao. Song song với quá trình tuyển dụng đội ngũ cán bộ, KTNN cũng đã chú trọng đào tạo, bỗi dưỡng kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, quản lí hành chính Nhà nước và thường xuyên cập nhật các chế độ chính sách mới cho cán bộ, kiểm toán viên...Với sự trợ giúp của một số cơ quan, tổ chức quốc tế, nhiều cán bộ, kiểm toán viên của KTNN được cử đi học ở nước ngoài để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. 3. Về công tác nghiên cứu khoa học Được sự giúp đỡ của Bộ Khoa học- Công nghệ, trong 10 năm qua KTNN đã và đang triển khai nghiên cứu hơn 104 đề tài khoa học với 1 đề tài cấp Nhà nước, 54 đề tài cấp bộ và 49 đề tài cơ sở. Kết quả đạt được của công tác nghiên cứu khoa học đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng chiến lược phát triển ngành, hoàn thiện các chuẩn mực, quy trình phương pháp nghiệp vụ của KTNN, góp phần đưa KTNN từng bước ổn định, phát triển và hoàn thành cơ bản những nhiệm vụ được giao. 4. Về việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật Nền tảng cho hoạt động của KTNN lúc ban đầu là Nghị định số 70/CP ban hành ngày 11/7/1994 của Chính phủ về việc thành lập cơ quan KTNN và quyết định số 61/TTg ngày 24/1/95 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN. Hiện nay KTNN đang tiến hành xây dựng Dự án Luật KTNN báo cáo thẩm tra về Dự án luật của UB kinh tế và Ngân sách để trình QH xem xét. Nội dung cơ bản của Dự án luật KTNN gồm 6 chương với 40 điều. Phạm vi điều chỉnh của dự án luật gồm toàn bộ các vấn đề về tổ chức họat động của KTNN. Các nguyên tắc nền tảng cho hoạt động của KTNN bao gồm: độc lập, chỉ tuân thủ pháp luật và chuẩn mực KTNN; trung thực, khách quan, không làm cản trở hoạt động bình thường và không can thiệp trái pháp luật vào công việc điều hành của đơn vị được kiểm toán. Dự án luật cũng quy định: Báo cáo kiểm toán của KTNN là căn cứ pháp lý xác nhận đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách, đánh giá tính tuân thủ pháp luật, tính kế toán, tính hiện thực và tính khách quan trong quản lý sử dụng ngân sách, vốn và tài sản Nhà nước, là căn cứ để các cơ quan quản lý Nhà nước sử dụng trong công tác quản lý, điều hành, các đơn vị được kiểm toán thực hiện các kiến nghị kiểm toán. Đối tượng kiểm toán của KTNN là những thông tin trên báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán và việc tuân thủ pháp luật về quản lý kinh tế, việc quản lý và sử dụng NSNN, đơn vị nhận trợgiá, trợ cấp của Nhà nước... Về địa vị pháp lý của cơ quan KTNN, dự án luật KTNN quy định KTNN là cơ quan Chính phủ, thực hiện chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động đối với đơn vị được kiểm toán theo quy định của pháp luật; Tổng KTNN do Thủ tướng Chính phủ đề nghị , Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Về vấn đề này, hiện nay đang có hai loại ý kiến được nêu ra, đó là: KTNN là cơ quan của Chính phủ; KTNN là cơ quan chuyên môn làm nhiệm vụ kiểm toán do Quốc hội lập, hoạt động theo quy định của pháp luật. 5. Trong xu thế hội nhập và phát triển chung KTNN đã không ngừng mở rộng và thiết lập quan hệ hữu nghị hợp tác với các tổ chức quốc tế và các cơ quan kiểm toán tối cao của các nước . Năm 1996 KTNN VN đã gia nhập tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao INTOSAI và năm 1997 trở thành thành viên chính thức của tổ chức các cơ quan kiểm toán tối cao Châu á ( ASOSAI). Bên cạnh đó KTNN còn mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều cơ quan KTNN các nước trong khu vực và trên thế giới như cơ quan KTNN Cộng hòa LB Đức, KTNN Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, KTNN Lào, KTNN Thái Lan ... Ngoài ra KTNN VN cũng thiết lập quan hệ với các tổ chức quốc tế như Ngân hàng phát triển Châu á( ADB), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc ( UNDP), Liên minh Châu Âu (EC), Liên đoàn kế toán Quốc tế( IFAC) ... Các tổ chức Quốc tế, các quốc gia đã trợ giúp KTNN VN thông qua một số dự án như dự án ADB và GTZ " Hỗ trợ xây dựng KTNN ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29388.doc
Tài liệu liên quan