Lời nói đầu
Nước ta trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế kế hoach hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với quá trình chuyển đổi này là sự thay đổi căn bản vai trò của nhà nước và thị trường trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và cạnh tranh trên thị trường.
Cạnh tranh là cơ chế vận hành chủ yếu của nền kinh tế thị trường, là động lực phát triển nền kinh tế. Đối với
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1446 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số ý kiến nhằm nâng cao sức cạnh tranh của Công ty Cơ khí Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mỗi chủ thể doanh nghiệp, cạnh tranh để tạo sức ép ứng dụng khoa học công nghệ, công nghệ tiên tiến trong sản xuất, cải tiến công nghệ thiết bị sản xuất và phương thức quản lí nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Trong quá trình cạnh tranh các doanh nghiệp yếu sẽ bị đào thải, doanh nghiệp mới xuất hiện. Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả tiếp tục tồn tại và phát triển, nhờ đó mà nguồn lực xã hội được sử dụng hợp lí. Cạnh tranh tạo ra sự đa dạng của sản phẩm và dịch vụ cũng chính là tạo ra nhiều sự lựa chọn cho khách hàng và người tiêu dùng.
Công ty Cơ Khí Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước chuyên chế tạo máy công cụ và gia công thiết bị phụ tùng thay thế cho các ngành công nghiệp, các loại sắt thép phục vụ cho ngành xây dựng. Công ty đã không ngừng vươn lên, tự khẳng định mình trong nền kinh tế mới. Với các sản phẩm của mình công ty đã từng bước tạo lập và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
Trong thời gian kiến tập tại Công ty Cơ Khí Hà Nội, em được giao đề tài: “Một số ý kiến nhằm nâng cao sức cạnh tranh của Công ty Cơ Khí Hà Nội” Với mong muốn góp phần giúp Công ty nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong thời gian tới. Bài viết gồm ba phần.
Phần I: Cơ sở lí luận chung về cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Phần II: Thực trạng và khả năng cạnh tranh của Công ty Cơ Khí Hà Nội.
Phần III: Một số ý kiến nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Cơ Khí Hà Nội.
Do khả năng và trình độ còn hạn chế cho nên bài viết này còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quí báu của thầy cô và các cô chú trong Công ty để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn.
Phần I:
Cơ sở lí luận về cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
I. Thị trường và các quy luật kinh tế:
1. Khái niệm và chức năng thị trường:
a) khái niệm:
Thị trường là nơi trao đổi hàng hoá được sản xuất ra và hình thành trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá cùng với mọi quan hệ kinh tế giữa người với người, liên kết với nhau thông qua trao đổi hàng hoá, thông qua đó để xác định giá cả và mức sản lượng hàng hoá cần tiêu thụ.
Thị trường đó là nơi địa điểm diễn ra sự trao đổi mua bán, thị trường có thể là chợ, của hàng, sở giao dịch mà ở đó có sự cạnh tranh của các chủ thể kinh tế. Đó là cạnh tranh giữa người mua, người bán sản xuất và tiêu dùng hàng hoá với nhau để xác định khối lượng hàng hoá tiêu thụ cơ chế thị trường là guồng máy hoạt động theo nên kinh tế thị trường thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo yêu cầu của cơ chế khách quan điều tiết quá trình lưu thông hàng hoá theo quy luật thị trường.
Do đó cơ chế thị trường điều tiết nền kinh tế để làm nền sản xuất cân đối giữa cung và cầu cân bằng giá cả, giá trị giữa sản xuất và lưu thông một cách tĩnh tại để giải quyết vấn đề cơ bản của nền sản xuất hàng hoá đó là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai.
b) Chức năng của thị trường:
Thị trường là nơi thừa nhận công dụng xã hội của các sản phẩm của hàng hoá chỉ có quan hệ thị trường mới biết và chấp nhận hàng hoá. Trên thị trường người sản xuất, người tiêu thụ hàng hoá, mua nguyên vật liệu để sản xuất và người lao động mua về sinh hoạt để tái sản xuất sức lao động.
Thị trường còn là đòn bẩy kích thích sản xuất và tiêu dùng, đảm bảo sản xuất luôn luôn phù hợp với nhu cầu tiêu dùng vì khi sản xuất mang ra thị trường, người sản xuất bán được hàng rồi tiếp tục sản xuất dẫn đến sản xuất phát triển.
Thị trường kích thích làm giảm chi phí sản xuất.
Thị trường còn là nơi cung cấp thông tin cực kì quan trọng giúp cho người sản xuất để sản xuất phù hợp với nhu cầu của thị hiếu của sản xuất.
2. Các quy luật của thị trường:
a) Quy luật cạnh tranh:
Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh về mặt kinh tế giữa những người sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nhằm giành giật những điều thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được nhiều lợi ích cao nhất cho mình.
Cạnh tranh là quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá, nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Vai trò của quy luật cạnh tranh: Vì nó có chức năng tích cực, nó buộc người sản xuất thường xuyên cải tiến kỹ thuật sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, áp dụng phương pháp quản lí kinh tế có hiệu quả, phải thường xuyên thực hành tiết kiệm và nâng cao trình độ kỹ thuật cho người lao động để hao phí cá biệt luôn nhỏ hơn bằng hao phí xã hội. Cạnh tranh nó bình tuyển tiến bộ, đào thải lạc hậu để thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển. Tuy nhiên quy luật cạnh tranh còn gây ra sự phân hoá người sản xuất nhỏ làm cho người sản xuất hàng hoá không có điều kiện thuận thì bị phá sản.
b) Quy luật cung cầu:
Cung và cầu là những phạm trù kinh tế của sản xuất và lưu thông hàng hoá có quan hệ mật thiết với thị trường được gọi là quy luật cung cầu.
Cầu là nhu cầu của xã hội được biểu hiện trên thị trường được đảm bảo bằng một lượng tiền tương ứng thì người ta gọi là nhu cầu có khả năng.
Quy mô của cầu phụ thuộc vào tổng số tiền mà người dân dùng để mua tư liệu sinh hoạt, người sản xuất dùng để mua tư liệu sản xuất và dịch vụ trong từng thời kì nhất định.
Cung là tổng số những hàng hoá có ở trên thị trường hoặc có khả năng cung cấp cho thị trường. Cung là kết quả của sản xuất nhưng không đồng nhất với sản xuất vì người sản xuất ra để tự dùng mà không mang ra thị trường hoặc không có khả năng mang ra thị trường.
Cung cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại, cầu xác định cung, cung xác định cầu.
Cầu xác định cung để cơ cấu khối lượng chủng loại hàng hoá, còn cung xác định cầu chính là cung tạo ra cầu thông qua chủng loại giá cả của hàng hoá. Mặt hàng nào ưa chuộng tác động đến cầu làm cho cầu tăng lên.
c) Quy luật giá cả:
Giá cả thị trường là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường , do sự thoả thuận giữa người mua và người bán.
II. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
1. Khái niệm cạnh tranh:
Khái niệm về cạnh tranh được nhiều tác giả trình bày dưới nhiều góc độ khác nhau, trong các giai đoạn khác nhau của nền kinh tế xã hội. Dưới thời kì Chủ nghĩa Tư bản phát triển vượt bậc, Mác quan niệm rằng “Cạnh tranh TBCN là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà Tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Chủ nghĩa Tư bản phát triển đến đỉnh điểm chuyển sang Chủ nghĩa Đế quốc rồi suy vong và cho đến ngày nay kinh tế Thế giới đã dần đi vào quỹ đạo của sự ổn định với su hướng chủ đạo là hôi nhập, hoà đồng giữa các nền kinh tế, cơ chế hoạt động là cơ chế thị trường có sự quản lí điều tiết của nhà nước thì khái niệm cạnh tranh đã mất hẳn tính chính trị nhưng về bản chất thì nó vẫn không thay đổi: Cạnh tranh vẫn là sự đấu tranh gay gắt, sự ganh đua giữa các tổ chức, các doang nghiệp nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và kinh doanh để đạt được mục tiêu của tổ chức, của doanh nghiệp đó.
Trong kinh tế thị trường cạnh tranh là sự sống còn của mỗi doanh nghiệp, cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữ các doanh nghiệp trong việc giành một nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được mục tiêu kinh doanh cụ thể. Ví dụ như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần. Cạnh tranh trong một môi trường như vậy đồng nghĩa với ganh đua: Ganh đua về giá cả, số lượng, dịch vụ hoặc kết hợp giữa các yếu tố này với các nhân tố khác để tác động lên khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh các tín hiệu giá cả, lợi nhuận tạo lên sự kích thích giữa các doanh nghiệp từ nơi tạo ra giá trị thấp hơn sang nơi cao giá trị cao hơn, việc phân cấp quá trình ra quyết định cho doanh nghiệp sẽ thúc đẩy phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội, tăng phúc lợi cho người tiêu dùng và tăng hiệu quả hoạt động thông qua đổi mới thay đổi kỹ thuật và tiến bộ của toàn bộ nền kinh tế.
2. Vai trò cạnh tranh:
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, cạnh tranh diễn ra liên tục và được ví như một cuộc đua “maratông” về kinh tế không có đích cuối cùng. Ai cảm nhận được đích sẽ trở thành nhịp cầu cho các đối thủ cạnh tranh vươn lên phía trước. Trong cuộc đua này người chạy trước sẽ là đích để người sau vươn tới do đó khó có thể đoán trước được điều gì sẽ xảy ra ở những chặng đường khác nhau.
Mỗi doanh nghiệp không thể lẩn tránh được cạnh tranh vì làm như vậy là cầm chắc sự phá sản, phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh, săn sàng linh hoạt sử dụng các công cụ cạnh tranh hữu hiệu của mình. Điều này dễ nhận thấy nhất ở vai trò cạnh tranh:
Thứ nhất: Cạnh tranh buộc doanh nghiệp phải:
-Tối ưu hoá các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh
-Không ngừng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh.
-Nhanh chóng tiếp cận cơ hội kinh doanh mới.
-Không ngừng phục vụ tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng cuối cùng.
Thứ hai: Cạnh tranh làm cho giá cả hàng hoá dịch vụ giảm xuống nhưng chất lượng lại được nâng cao kích thích sức mua làm tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Thứ ba: Cạnh tranh là động lực thúc đẩy đổi mới.
Thứ tư: Cạnh tranh là cái nôi nuôi dưỡng đào tạo các nhà kinh doanh giỏi và chân chính.
Tóm lại: Cạnh tanh là sự vươn lên mạnh mẽ của các nhà sản xuất để sản xuất một cách dễ dàng các loại sản phẩm hàng hoá, chiếm lĩnh, mở rộng thị trường và thu được lợi nhuận cao. Cạnh tranh làm cho nền kinh tế xã hội phát triển là điều kiện quan trọng phát triển nền sản xuất, tiến bộ về kỹ thuật, tạo điều kiện giáo dục tính năng động tháo vát cho các nhà sản xuất kinh doanh. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn những vấn đề còn tồn tại cần phải giải quyết như cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến thiệt hại cho cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng những thủ đoạn lừa bịp, hàng giả, hàng lậu.
3. Các loại hình cạnh tranh:
Có nhiều cách phân loại cạnh tranh dựa trên các tiêu thức khác nhau.
3.1- Căn cứ vào các chủ thể tham gia thị trường:
*) Cạnh tranh giữa những người bán với người mua: là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật “Mua rẻ, bán đắt” những người bán muốn bán những sản phẩm của mình với giá cao nhất, ngược lại những người mua lại có tham vọng mua được hàng hoá với giá rẻ. Hai lực lượng này hình thành lên hai phía cung cầu trên thị trường. Giá cuối cùng (Giá cân bằng) là giá thống nhất giữa người mua và người bán sau một quá trình mặc cả với nhau mà theo đó hoạt động Bán - Mua được thực hiện.
*) Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Là cuộc cạnh tranh dựa trên cơ sở quy luật cung cầu. Khi lượng cung một loại hàng hoá dịch vụ nào đó mà thấp hơn so với nhu cầu tiêu dùng thì cuộc cạnh tranh giữa những người mua sẽ trở lên quyết liệt. Lúc đó giá cả hàng hoá dịch vụ sẽ tăng vọt nhưng do hàng hoá dịch vụ khan hiếm lên người mua vẫn chấp nhận gía cao để mua thứ mà mình cần. Kết quả là người bán thu được lợi nhuận cao, còn người mua thì mất thêm một số tiền. Đây là cuộc canh tranh mà theo đó những người mua sẽ bị thiệt còn người bán sẽ được lợi.
*) cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Đây là cuộc cạnh tranh chính trên thị trường tính gay go khốc liệt nhất mà có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau, thủ tiêu nhau để giành giật khách hàng và thị trường làm cho giá cả không ngừng giảm xuống và người mua sẽ được lợi kết quả đánh giá doanh nghiệp nào chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này là viẹec tăng doanh số tiêu thụ, tăng tỷ lệ thị phần cùng với nó là việc tăng lợi nhuận, tăng đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất.
Thực tế cho thấy khi sản xuất hàng hoá càng phát triển số người bán càng tăng lên thì cạnh tranh cũng càng quyết liệt. Trong quá trình ấy, một mặt nó sẽ gạt ra khỏi thị trường những doanh nghiệp không có chiến lược cạnh tranh thích hợp, mặt khác nó lại mở đường cho các doanh nghiệp khác lắm chắc được vũ khí cạnh tranh thị trường và giám chấp nhận “luật chơi” phát triển.
3.2- Căn cứ vào mức độ tính chất cạnh tranh trên thị trường:
*) Cạnh tranh hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất nhiều người bán và không có người nào có ưu thế để cung ứng một số lượng hàng hoá dịch vụ đủ quan trọng để ảnh hưởng tới giá cả trên thị trường. Điều đó có nghĩa là họ sản xuất và bán sản phẩm hàng hoá của mình tại một mức giá hiện hành trên thị trường. Vì vậy một hãng cạnh tranh trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo không có lí do gì để bán với mức giá rẻ hơn mức gía trên thị trường, hơn nữa nó cũng không thể tăng giá của mình lên cao hơn mức giá thị trường, vì nếu thế doanh nghiệp chẳng bán được gì và người tiêu dùng sẽ đi mua với múc giá rẻ hơn từ phía các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ còn cách thích ứng với giá trên thị trường và tìm mọi biện pháp giảm chi phí sản xuất ra một số lượng sản phẩm ở mức giá giới hạn mà tại đó chi phí bằng doanh thu cận biên để tối đa hoá lơị nhuận của mình.
Đối thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì không có những hiện tượng cung cầu giả tạo, không bị hạn chế bởi các biện pháp hành chính của nhà nước. Vì vậy trong thị trường này giá cả thị trường sẽ tiến tới mức chi phí sản xuất.
*) Cạnh tranh không hoàn hảo: Nếu cạnh tranh hoàn hảo là cạnh tranh trên thị trường mà các sản phẩm trên từng loại thị trường được xem là đồng nhất với nhau thì cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn cá sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi loại sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau, mặc dù sự khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể. Mỗi loại nhãn hiệu lại có uy tín, hình ảnh khác nhau. Các điều kiện mua bán rất khác nhau người bán có thể có uy tín, sự độc đáo khác đối với người mua do nhiều lí do khác, như khách hàng quen, gây được lòng tin từ trước, sản phẩm có tên tuổi lâu đời trên thị trường.
Trong thị trường này, người bán lôi kéo khách hàng về phía mình bằng nhiều cách như quảng cáo, khuyến mại, phương thức thanh toán, phương thức bán hàng. Loại hình cạnh tranh không hoàn hảo này rất phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
*) Cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh trên thị trường mà ở đó có một số người bán một số sản phẩm thuần nhất hoặc nhiều người bán một số sản phẩm không đồng nhất. Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng sản phẩm hay hàng hoá bán ra thị trường. Thị trường này có sự pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh giữa các nhà độc quyền. Điều kiện ra nhập hoặc rút lui ra khỏi thị trường này có nhiều trở ngại do vốn đầu tư lớn hoặc độc quyền về bí quyết công nghệ. Thị trường cạnh tranh độc quyền không có cạnh tranh về giá cả mà một số người bán toàn quyền quyết định giá cả. Họ có thể định giá cao hơn hoặc thấp hơn giá thị trường tuỳ thuộc vào đặc điểm tác dụng của từng loại sản phẩm, cốt sao cuối cùng họ thu được lợi nhuận tối đa. Những doanh nghiệp nhỏ tham gia thị trường này phải chấp nhận bán hàng theo giá cả của những nhà độc quyền.
Trong thực tế có tình trạng độc quyền xảy ra nếu không có sản phẩm nào thay thế sản phẩm độc quyền hoặc các nhà độc quyền liên kết với nhau. Độc quyền gây trở ngại cho việc phát triển sản xuất làm phương hại cho người tiêu dùng. Vì vậy mà ở một số nước có luật chống độc quyền nhằm chống lại sự liên minh giữa các nhà kinh doanh.
3.3- Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế:
*) Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp trong cùng một ngành sản xuất và tiêu thụ một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh này, các chủ doanh nghiệp tìm mọi cách thôn tính lẫn nhau, giành khách hàng về mình. Biện pháp của cạnh tranh chủ yếu là cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nhằm làm giảm giá trị cá biệt của hàng hoá do doanh nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu được nhiều lợi nhuận siêu nghạch. Kết quả của cạnh tranh là kỹ thuật sản xuất phát triển, điều kiện sản xuất trung bình trong một ngành sản xuất thay đổi. Giá trị xã hội của hàng hoá được xác định lại, tỷ suất lợi nhuận giảm xuống đồng thời các doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên thị trường, những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp kinh doanh thậm chí bị phá sản.
*) Cạnh tranh giữa các ngành: là cuộc cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp hay đồng minh giữa các nhà doanh nghiệp trong ngành kinh tế với nhau, nhằm giành lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình cạnh tranh các doanh nghiệp luôn bị hấp dẫn bởi các ngành có lợi nhuận cao hơn. Sự di chuyển này sau một thời gian nhất định vô hình dung đã hình thành lên một sự phân phối vốn hợp lí giữa các ngành sản xuất để rồi kết quả cuối cùng là các chủ doanh nghiệp đầu tư với các ngành khác với cùng một số vốn chỉ thu được một lợi nhuận như nhau tức là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân cho tất cả các ngành.
III. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp:
1. Khái niệm về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp:
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà doanh nghiệp có thể tự duy trì vị trí của nó một cách lâu dài và có ý trí trên thị trường cạnh tranh bảo đảm thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận thấp nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc tài trợ cho những mục tiêu của doanh nghiệp, đồng thời thực hiện những mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra.
2. Tính tất yếu khách quan của việc tăng khả năng cạnh tranh:
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu bắt buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận và tuân thủ, thực chất của việc tăng khả năng cạnh tranh là tạo ra ngày một nhiều hơn các ưu thế về tất cả các mặt: Giá cả, giá trị sử dụng của sản phẩm, uy tín, tiêu thụ. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh là một tất yếu khách quan, các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường thì phải chấp nhận cạnh tranh, tuân theo các quy luật cạnh tranh. Các điều kiện cạnh tranh ngày càng khó khăn hơn buộc các doanh nghiệp không ngừng phấn đấu giảm chi phí để giảm giá thành, giá bán sản phẩm, thực hiện giá trị sử dụng sản phẩm, tổ chức tốt hệ thống tiêu thụ để tồn tại và phát triển trong cạnh tranh thị trường.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, do tác động của tiến bộ khoa học công nghệ nên nhu cầu của người tiêu dùng nâng lên ở mức cao hơn rất nhiều. Để đáp ứng kịp thời các nhu cầu, các doanh nghiệp phải không ngừng điều tra nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu khách hàng. Doanh nghiệp nào nhanh chân hơn, doanh nghiệp đó sẽ chiến thắng và điều này làm cho cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn.
ở nước ta, trong điều kiện nền kinh tế bao cấp trước đây cạnh tranh không xảy ra, các doanh nghiệp không phải lo lắng cả đầu vào lẫn đầu ra, không phải lo cạnh tranh, và do đó rất thụ động, chỉ biết sản xuất theo lệnh của cấp trên chứ không biết đến nhu cầu của xã hội. Vì vậy khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhiều doanh nghiệp nhà nước rất khó khăn vất vả để thích nghi với cơ chế mới. Để cạnh tranh và đứng vững trước các đối thủ mới là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đặc biệt là các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài có vốn nhiều và kỹ thuật cao lại dầy dạn kinh nghiệm trong cạnh tranh. Vì vậy nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng vừa là sự cần thiết cho sự tồn tại của doanh nghiệp vừa là để tăng tính cạnh tranh thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển.
3. Các tiêu thức đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp:
3.1- Thị phần của doanh nghiệp trên toàn bộ thị phần: Đây là một chỉ tiêu thường được sử dụng đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi xem xét chỉ tiêu này người ta thường xem xét các loại thị phần sau:
-Thị phần của công ty so với toàn bộ thị trường: Đây là tỷ lệ phần trăm giữa doanh số của công ty so với toàn thị trường.
-Thị phần của công ty so với phân phúc mà nó phục vụ là tỷ lệ phần trăm giữa doanh số của công ty so với doanh số của toàn phân khúc.
-Thị phần tương đối là tỷ lệ so sánh về doanh số của công ty với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất nó cho biết vị thế của công ty trong thị trường như thế nào.
Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này mà doanh nghiệp biết mình đang ở vị trí nào và cần đặt ra những chiến lược hành động như thế nào.
Ưu điểm: Chỉ tiêu này đơn giản, dễ tính.
Nhược điểm: Khó đảm bảo chính xác do khó thu thập được doanh số chính xác của doanh nghiệp.
3.2- Tỷ suất lợi nhuận:
Đây là một chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phản ánh tiềm năng của doanh nghiệp mà còn thể hiện tính hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Nếu chỉ tiêu này thấp chứng tỏ cạnh tranh rất gay gắt và doanh nghiệp cũng phải chịu sự cạnh tranh gay gắt đó, và do vậy một phần nào đó chứng tỏ nó cũng cạnh tranh không kém gì các đối thủ của mình, ngược lại nếu chỉ tiêu này cao thì điều đó doanh nghiệp đang kinh doanh rất thuận lợi.
3.3- Tỷ lệ chi phí marketing trên tổng doanh thu: Thông qua chỉ tiêu này doanh nghiệp thấy được hiệu quả hoạt động của mình, nếu cao có nghĩa là doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vào công tác marketing mà hiệu quả không cao.
Xem xét tỷ lệ chi phí marketing trên tổng doanh thu ta thấy nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ việc đầu tư cho khâu marketing là tương đối lớn đòi hỏi doanh nghiệp phải xem xét lại cơ cấu chi tiêu của mình có thể thay vì quảng cáo tiếp thị rầm rộ công ty sẽ tăng cường đầu tư chiều sâu để tăng lợi ích lâu dài.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
a) nhân tố bên trong:
*) khả năng huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn:
Vốn (năng lực tài chính của doanh nghiệp) điều này quyết định rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Có vốn mới có điều kiện đầu tư phát triển, vốn là một yếu tố cơ bản chủ yếu tạo lên tài sản hữu hình của doanh nghiệp, nó quyết định đến khả năng sản xuất cũng như nâng cao trình độ kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Như vậy vốn là yếu tố quyết định đến số lượng và chất lượng của sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra là yếu tố tiền đề tạo ra năng lực cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. Khả năng về vốn dồi dào, kết hợp với việc sử dụng hiệu quả là yếu tố nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hiệu quả của việc sử dụng vốn có thể được đánh giá bằng tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư. Tỷ suất lợi nhuận càng cao càng kích thích doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản xuất. Cùng với quá trình đầu tư mở rộng sản xuất là quá trình đầu tư chiều sâu. Bên cạnh đó, tỷ suất lợi nhuận càng cao cũng là yếu tố đại biểu cho một lượng địa biểu lớn, đây là tiền đề tích luỹ cao cho đầu tư phát triển doanh nghiệp.
*) Đổi mới công nghệ:
Công nghệ và máy móc thiết bị: Đó là bộ phận cơ bản tạo ra sản phẩm, tăng năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, xuất phát từ nhu cầu thị trường về số lượng, chủng loại, chất lượng, giá cả sản phẩm, khả năng điều kiện của doanh nghiệp mà lựa chọn mục tiêu phương hướng trình độ đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường muốn tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, cần cải tiến nâng cao chất lượng của sản phẩm. Xuất phát từ nhu cầu thị trường số lượng, chủng loại, chất lượng, giá cả sản phẩm... tạo sản phẩm mới đổi mới công nghệ là việc làm của doanh nghiệp do doanh nghiệp quyết định, doanh nghiệp được hưởng kết quả do đổi mới công nghệ đem lại và chịu trách nhiệm nếu không thành công. Phải có sự gắn bó giữa chiến lược sản phẩm với chiến lược công nghệ.
*) Đổi mới đội ngũ nhân lực:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm cho xã hội người lao động không những là yếu tố của quá trình sản xuất mà còn là một yếu tố quan trọng tác động có tính quyết định vào việc phát huy đồng bộ có hiệu quả các yếu tố khác. Qua nghiên cứu thực tế ở một số doanh nghiệp nước ta và một số nước khác trên thế giới, chúng ta có thể nói rằng dù khả năng về vốn, tổ chức quản lý và công nghệ có dồi dào hiện đại bao nhiêu, cũng sẽ trở thành vô ích nếu doanh nghiệp đó sở hữu một đội ngũ cán bộ và công nhân kỹ thuật yếu kém về năng lực và tay nghề, hiệu quả sử dụng đồng vốn không cao thậm chí còn có kết quả ngược lại với mục tiêu của doanh nghiệp. Điều này đồng nghĩa với không nâng cao được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do đó trong quá trình phát triển mỗi doanh nghiệp phải phát huy được hiệu quả nguồn nhân lực của mình đồng thời ngày càng nâng cao số lượng cũng như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
b. Nhân tố bên ngoài:
Bao gồm các yếu tố: Các giai đoạn trong chu kỳ kinh tế,nguồn cung cấp tín dụng, tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát,tỷ lệ lãi suất, tỷ lệ thất nghiệp.
-Tốc độ tăng trưởng caolàm cho thu nhập dân cư tăng,khả năng thanh toán của họ tăng dẫn đến sức mua tăng. Đây là cơ hội tốt cho các nhà doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp nào nắm được điều này và có đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu khách hàng (số lượng, giá bán, chát lượng,mẫu mã)thì chắc chắn doanh nghiệp đó thành côngvà có khả năng cạnh tranh cao.
-Khi nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao thì hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp là cao, khả năng tích tụ và tập chung tư bản lớn. Họ sẽ đầu tư và phát triển sản xuất với tốc độ cao và như vậy các nhu cầu các tư liệu sản xuất lại tăng, các doanh nghiệp lại có cơ hội kinh doanh và có khả năng cạnh tranh cao.
-Lãi xuất cho vay của các ngân hàng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp thiếu vốn phải đi vay ngân hàng. Khi lãi suất cho vay của ngân hàng cao dẫn đến chi phí của doanh nghiệp tăng lên do phải trả tiền lãi vay lớn hơn, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp kém đi nhất là khi các đối thủ cạnh tranh có tiềm lực mạnh về vốn.
-Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước có tác động nhanh chóng và sâu sắc đối với từng quốc gia nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng nhất là trong điều kiện trong nền kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ lên giá các doanh nghiệp trong nước sẽ giảm khả năng cạnh tranh ở nước ngoàivì khi đó giá bán cúa hàng hoá tính bằng đồng nội tệ sẽ cao hơn của các đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyến khích nhập khẩu và giá hàng nhập khẩu giảm và như vậy khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước sẽ bị giảm ngay trong thị trươngf trong nước.
Ngược lại khi đồng nội tệ giảm giá, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tăng lên trên thị trường trong nước và thị trường nước ngoài, vì khi đó gía bán hàng hoá sẽ giảm so với của các đối thủ cạnh tranh kinh doanh hàng hoá do nước khác sản xuất.
*)Các yếu tố về chính trị, luật pháp
Bao gồm: Các qui định về chống đọc quyền, bảo vệ luật môi trường, các luật thuế, các chế độ dãi ngộ đặc biệt , các qui định trong lĩnh vực ngoại thương, sự ổn định của chính phủ.
-Một thể chế chính trị ổn định ,luật pháp rõ ràng mở rộng sẽ là cơ sở cho việc bảo đảm sự thuận lợi ,bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và có hiệu quả. Ví dụ: các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến cạnh tranh, bảo đảm sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau và trên mọi lĩnh vực, thếu xuất nhập khẩu cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất trong nước.
*)Các yếu tố về văn hoá xã hội
Gồm các quan điểm sống, phong cách sống, tính tích cực tiêu dùng, tỷ lệ tăng dân số, tỷ lệ sinh đẻ. Tất cả các nhu cầu đó ảnh hưởng đến nhu cầu thị trường và do đó đến điều kiện kinh doanh của các doanh nghiệp. Những khu vực khác nhau mà ở đó thị hiếu tiêu dùng, nhu cầu khác nhau đòi hỏi các doanh nghiệp phải có chính sách sản phẩm và tiêu thụ khác nhau.
*) Các nhân tố tự nhiên:
Các nhân tố tự nhiên bao gồm tài nguyên thiên nhiên đất nước, vị trí địa lí, phân bố địa lí của các tổ chức kinh doanh. Các nhân tố này tạo những điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn ban đầu cho quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp. Nếu tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lí thuận lợi sẽ giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí (nguyên vật liệu, chi phí vận chuyển) và do đó tăng khả năng cạnh tranh. Hơn nữa vị trí địa lí thuận lợi tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khuyếch trương sản phẩm, mở rộng thị trường. Ngược lại nhân tố tự nhiên không thuận lợi sẽ tạo ra khó khăn ban đầu cho doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của nó sẽ bị thuyên giảm.
*) Các nhân tố thuộc môi trường ngành:
Các đối thủ tiềm năng: Việc gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới trực tiếp làm giảm tính chất quy mô cạnh tranh do tăng năng lực sản xuất và khối lượng sản xuất trong ngành. Sự xuất hiện của các đối thủ mới có khả năng gây ra những cú sốc mạnh cho các doanh nghiệp hiện tại vì thông thường những người đi sau thường có nhiều căn cứ cho việc gia quyết định hơn và những chiêu bài của họ thường bất ngờ. Đối thủ tiềm năng là những người mà ý tưởng “nhảy vào cuộc” của họ được hình thành trong quá trình theo dõi, chứng kiến, phân tích và đi đến những nhận định của cuộc cạnh tranh hiện đại. Tính không hiện diện là một bức bình phong che chắn cho hướng suy tính và hành động của đối thủ tiềm năng.
Sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp mới ra nhập thị trường ngành phụ thuộc chặt chẽ vào các đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành và độ hấp dẫn của thị trường.
Để chống các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, các doanh nghiệp thường xuất hiện các chiến lược như phân biệt sản phẩm nâng cao chất lượng, bổ sung thêm những đặc điểm mới của sản phẩm, không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm nhằm làm cho sản phẩm của mình có những đa cực điểm khác biệt hoặc nổi trội trên thị trường, hoặc phấn đấu giảm chi phí sản xuất, tiêu thụ.
*) Sức ép của người cung ứng:
Với vai trò là người cung cấp các yếu tố đầu vào quá trình sản xuất, quyền lực các nhà cung ứng được khẳng định thông qua sức ép về giá nguyên liệu. Một số những đặc điểm sau của người cung ứng ảnh hưởng đến cuộc cạnh tranh trong ngành.
-Số lượng người cung ứng: Thể hiện mức cung của nguyên vật liệu và mức độ lựa chọn nhà cung ứng của cá doanh nghiệp cao hay thấp. Nhiều nhà cung ứng tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường nguyên vật liệu, nó có tác dụng làm giảm chi phí đầu vào cho các nhà sản xuất.
-Tính độc quyền của nhà cung ứng tạo ra cho họ những điều kiện để ép giá những nhà sản xuất, gây ra những khó khăn cho việc thực hiện cạnh tranh bằng giá cả.
-Mối liên hệ giữa các nhà cung ứng và nhà sản xuất. Khi nhà cung ứng đồng thời là một đơn vị sản xuất kinh doanh cùng một tổ chức với nhà sản xuất thì tính nội bộ được p._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0124.doc