Lời mở đầu
Hoạt động cạnh tranh đang diễn ra một cách phổ biến trong cả lĩnh vực sản xuất và lưu thông. Môi trường cạnh tranh thật là sôi động phong phú nhưng không kém phần gay gắt và quyết liệt. Do vậy trong điều kiện này, bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải có hướng kinh doanh sao cho có hiệu quả. Tiến chậm từng bước chắc chắn nhưng không được bỏ qua cơ hội. Thành công trong kinh doanh phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng khi doanh nghiệp thực hiện tốt khâu tiêu thụ hàng hoá coi như doanh ngh
21 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1394 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một sô ý kiến nhằm hoàn thiện Kế toán tiêu thụ hàng hoá ở các doanh nghiệp thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp đã đạt được phần lớn sự thành công của mình. Bởi lẽ có tiêu thụ được sản phẩm, hàng hoá, có chiến lược kinh doanh thích hợp thì doanh nghiệp mới có thể tạo ra được nguồn doanh thu lớn, trên cơ sở đó tăng lợi nhuận. Có tiêu thụ được thì doanh nghiệp mới có khả năng thu hồi vốn, trang trải các khoản nợ, có khả năng thực hiện nghĩa vụ với nhà nước, ổn định tình hình tài chính, thực hiện tái sản xuất cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Tuy nhiên để duy trì được một quá trình kinh doanh và phát triển bền vững thì việc phân tích hoạt động kế toán và hạch toán kế toán nhằm đánh giá chính xác, kịp thời hiệu quả kinh doanh là một mắt xích quan trọng không thể thiếu trong quá trình quản lý đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Trên thực tế, công tác kế toán thực sự là một công cụ quản lý mang tính khoa học toàn diện, giúp cho các đơn vị luôn nắm chắc được những gì mà mình có, biết được những gì cần phải làm và những gì sẽ đạt được. Nhận thức được vai trò quan trọng của khâu tiêu thụ và sự cần thiết của kê toán tiêu thụ hàng hoá trong các doanh nghiệp thương mại, bằng phương pháp duy vật biện chứng, tôi đã chọn đề tài: “Một sô ý kiến nhằm hoàn thiện kế toán tiêu thụ hàng hoá ở các doanh nghiệp thương mại” làm chuyên đề cuối khoá học kế toán trưởng.
Nội dung chuyên đề gồm 3 phần:
Phần 1: Những lý luận cơ bản về kế toán tiêu thụ hàng hoá ở các doanh nghiệp thương mại.
Phần 2: Thực trạng kế toán tiêu thụ hàng hoá ở các doanh nghiệp thương mại
Phần 3: Hoàn thiện kế toán tiêu thụ hàng hoá ở các doanh nghiệp thương mại.
Phần 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán tiêu thụ hàng hoá tại các doanh nghiệp kinh doanh thương mại.
I. Các khái niệm cơ bản.
1. Khái niệm hàng hoá.
Hàng hoá là một vật phẩm có khả năng thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào quá trình tiêu dùng thông qua mua – bán. Tuy nhiên, không phải bất kỳ vật phẩm nào cũng là hàng hoá. Hàng hoá phải đảm bảo hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. Giá trị sử dụng của hàng hoá có đặc điểm là: Giá trị sử dụng không phải cho người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho xã hội. Giá trị sử dụng đến tay người khác – người tiêu dùng phải thông qua mua – bán. Giá trị trao đổi biểu hiện là quan hệ tỷ lệ về số lượng trao đổi lẫn nhau giữa các giá trị sử dụng khác nhau. Hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi được với nhau. Và giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
2. Tiêu thụ hàng hoá.
2.1. Khái niệm.
Tiêu thụ hàng hoá là khâu cuối cùng của quá trình kinh doanh, là mối giao dịch giữa người mua và người bán. Trong đó người bán mất quyền sở hữu về hàng hoá được quyền sở hữu về tiền tệ, còn người mua thì mất quyền sở hữu về tiền tệ nhưng lại được quyền sở hữu về hàng hoá. Đứng trên góc độ luân chuyển vốn thì tiêu thụ hàng hoá là quá trình các doanh nghiệp thực hiện việc chuyển hoá vốn sản xuất kinh doanh của mình từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ, đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh của đơn vị. Tiêu thụ là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hoá thông qua trao đổi sản phẩm. Như vậy có tiêu thụ mới giải quyết vấn đề tồn kho, ứ đọng vốn, tăng nhanh vòng quay của vốn làm cho hoạt động kinh doanh phong phú và đa dạng hơn. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp phải quyết định về sự sống còn của mình thì tiêu thụ càng đóng một vai trò quan trọng. Như C.Mác đã khẳng định: “Lưu thông vừa là tiền đề, vừa là điều kiện, vừa là kết quả của sản xuất”. Trong doanh nghiệp thương mại thì chu trình tái sản xuất bao gồm hai khâu: Mua và bán hàng hoá, tiền – hàng – tiền. Tiêu thụ hàng hoá là một khâu trong quá trình lưu thông hàng hoá và là yếu tố của quá trình tái sản xuất.
Đối với doanh nghiệp thương mại việc đẩy mạnh quá trình tiêu thụ hàng hoá có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện các mục tiêu, chiến lược mà doanh nghiệp theo đuổi, thúc đẩy vòng quay vốn và tái sản xuất mở rộng. Hoạt động tiêu thụ là thước đo để đánh giá sự cố gắng, sức mạnh trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp áp dụng những biện pháp tiêu thụ đúng đắn thì doanh số bán sẽ tăng lên từ đó mở rộng được thị trường, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, chứng tỏ được vị thế của doanh nghiệp trên thương trường.
2.2. Sự cần thiết phải tiêu thụ hàng hoá.
Việc tổ chức kế toán tiêu thụ hàng hoá là rất cần thiết, vì việc tổ chức kế toán tiêu thụ một cách khoa học, hợp lý, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thu nhận, xử lý, cung cấp các thông tin cho chủ doanh nghiệp, giám đốc điều hành cho doanh nghiệp, cung cấp thông tin cho các phần hành kế toán khác... Từ đó có thể lựa chọn phương án kinh doanh, cách thức đẩy mạnh tiêu thụ sao cho có hiệu quả nhất. Đồng thời qua các số liệu do kế toán tiêu thụ trên các báo cáo tài chính nhà nước nắm được tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp. Từ đó thực hiện chức năng kiểm soát vĩ mô nền kinh tế. Chính vì vậy kế toán tiêu thụ có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp nói riêng và các đối tượng quan tâm khác nói chung.
II. Các phương pháp và đặc điểm của hạch toán tiêu thụ hàng hoá.
1. Phương thức bán buôn.
Bán buôn là quá trình bán hàng cho các đơn vị, doanh nghiệp thương mại, các doanh nghiệp sản xuất và tổ chức kinh tế khác mà kết thúc quá trình, sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp vẫn nằm trong lưu thông chưa đi vào tiêu dùng. Giá trị và giá trị sử dụng vẫn chưa được thực hiện hoàn toàn. Bán buôn có hai hình thức là bán buôn qua kho và bán buôn vận chuyển thẳng.
1.1. Bán buôn qua kho: Là hình thức bán buôn hàng hoá mà hàng bán được xuất ra từ kho bảo quản của doanh nghiệp. Trong phương thức này có hai hình thức:
Bán buôn qua kho theo hình thức giao hàng trực tiếp: Theo hình thức này bên mua cử đại diện đến kho của doanh nghiệp thương mại để nhận hàng. Doanh nghiệp thương mại xuất kho hàng hoá giao trực tiếp cho đại diện của bên mua. Sau khi bên mua nhận được hàng, đã thanh toán tiền hoặc chấp nhận nợ, hàng hoá được xác nhận tiêu thụ.
Bán buôn qua kho theo hình thức chuyển hàng: Theo hình thức này căn cứ vào hợp đồng đã ký kết, doanh nghiệp thương mại xuất kho hàng hoá chuyển đến giao cho bên mua, tại địa điểm đã thoả thuận trước trong hợp đồng bằng phương tiện vận tải của mình hoặc cho thuê ngoài. Chi phí vận chuyển do doanh nghiệp thương mại chịu hay bên mua chịu là do sự thoả thuận giữa hai bên.
1.2. Bán buôn vận chuyển thẳng: Là phương thức bán hàng mà hàng hoá được giao thẳng từ kho của bên cung cấp (đơn vị bán cho doanh nghiệp thương mại), được giao thẳng từ bến cảng, nhà ga cho bên mua, doanh nghiệp bỏ qua quá trình nhập kho hàng hoá. Khi áp dụng phương pháp này doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí lưu thông, đẩy nhanh sự vận động của hàng hoá. Bán buôn vận chuyển thẳng được thực hiện dưới hai hình thức:
Bán buôn vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán: Theo hình thức này doanh nghiệp bán buôn tiến hành với bên cung cấp việc mua hàng, đồng thời tiến hành thanh toán với bên mua hàng về bán hàng. Nghĩa là vừa phát sinh nghiệp vụ bán hàng và mua hàng ở doanh nghiệp bán buôn..
Bán buôn vận chuyển thẳng không tham gia thanh toán: Theo hình thức này đơn vị bán buôn là người trung gian giữa bên cung cấp với bên mua. Khi đó đơn vị bán buôn uỷ nhiệm cho bên mua trực tiếp nhận hàng và làm thủ tục thanh toán tiền mua hàng với bên cung cấp. Đơn vị bán buôn trong trường hợp này không phát sinh các nghiệp vụ về mua bán hàng mà chỉ được hưởng hoa hồng môi giới do bên cung cấp hoặc bên mua trả.
2. Phương thức bán lẻ
Là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng phục vụ cho các nhu cầu sinh hoạt không mang tính sản xuất kinh doanh. Trong phương thức này, khối lượng hàng hoá giao dịch thường nhỏ, hàng hoá tách khỏi lĩnh vực lưu thông đi vào lĩnh vực tiêu dùng, giá trị hàng hoá được thực hiện hoàn toàn. Thời điểm xác định là thời điểm hàng bán là thời điểm kế toán nhận được bảng kê bán lẻ hàng hoá. Phương thức này được thực hiện theo các hình thức sau:
+ Hình thức bán lẻ thu tiền tập trung: Là phương thức bán hàng mà nghĩa vụ thu tiền và nghiệp vụ giao hàng tách rời nhau nhằm mục đích chuyên môn hoá trong công tác bán hàng.
+ Hình thức bán lẻ thu tiền trực tiếp: Là hình thức bán hàng được thực hiện trên một quầy hàng do nhân viên bán hàng trực tiếp thu tiền và giao hàng cho khách. Cuối ca hoặc cuối ngày, nhân viên bán hàng nộp tiền bán hàng cho thủ quỹ đồng thời kiểm kê hàng hoá tồn quầy để xác định số lượng hàng hoá đã bán ra trong ca, trong ngày và lập báo cáo bán hàng. Ngày nay để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng của xã hội, trong bán lẻ các doanh nghiệp còn sử dụng một số hình thức bán hàng khác như bán hàng tự chọn, bán hàng theo hình thức đặt hàng.
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường ngoài phương thức bán buôn, bán lẻ các doanh nghiệp còn sử dụng một số phương thức tiêu thụ khác:
Phương thức tiêu thụ đại lý, ký gửi
Phương thức bán hàng trả góp
Phương thức đổi hàng
Nhìn chung mỗi phương thức tiêu thụ đều có ưu nhược điểm riêng. Thị trường càng phát triển thì càng có nhiều phương thức tiêu thụ khác nhau. Nhưng dù chọn phương thức nào thì cần phải đạt được mục đích cuối cùng là đem lại hiệu quả cao nhất trong việc tiêu thụ hàng hoá.
Phần 2: Thực trạng kế toán tiêu thụ hàng hoá ở các doanh nghiệp thương mại và một số ý kiến đề xuất.
I Tổng quan về kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá
1. Hạch toán ban đầu.
Hạch toán ban đầu là quá trình theo dõi, ghi chép hệ thống các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào chứng từ kế toán, để làm cơ sở cho việc hạch toán tổng hợp và hạch toán chi tiết.
Công tác hạch toán ban đầu gồm các nội dung sau:
Xác định các loại chứng từ sử dụng cho từng bộ phận trong doanh nghiệp, người lập chứng từ, số lượng chứng từ cần lập và trình tự luân chuyển các loại chứng từ đó. Các chứng từ sử dụng trong nghiệp vụ bán hàng là các báo cáo bán hàng, hóa đơn giá trị gia tăng (GTGT), hoá đơn bán hàng, giấy nộp tiền của nhân viên bán hàng, bảng kê nhận hàng và thanh toán tiền hàng, bảng thanh toán hàng đại lý, bảng kê bán lẻ hàng hoá và dịch vụ … Các mẫu chứng từ này do bộ tài chính quy định, phát hành và hướng dẫn sử dụng. Ngoài ra các doanh nghiệp có thể sử dụng các loại chứng từ, hoá đơn do doanh nghiệp phát hành nhưng phải được đăng ký với bộ tài chính và chỉ được sử dụng sau khi đã được chấp nhận bằng văn bản.
Chứng từ kế toán phải gồm đầy đủ các yếu tố như trong quy định. Phải được lập đầy đủ số liên, ghi chép chứng từ phải rõ ràng, trung thực, đầy đủ các yếu tố, gạch bỏ phần để trống, không tẩy xoá sửa chữa trên chứng từ.
2. Các phương pháp hạch toán chi tiết hàng tồn kho
2.1 Phương pháp thẻ song song
- ở kho: Thủ kho dùng thẻ kho để phản ánh tình hình nhập, xuất, tồn kho hàng hoá về mặt số lượng. Mỗi chứng từ ghi một dòng vào thẻ kho. Thẻ được mở cho từng danh điểm hàng hoá. Cuối tháng, thủ kho phải tiến hành tổng cộng số nhập, xuất, tính ra số tồn kho về mặt lượng theo từng danh điểm hàng hoá.
- ở phòng kế toán: Kế toán hàng hoá mở thẻ kế toán chi tiết hàng hoá cho từng danh điểm hàng hoá tương ứng với thẻ kho mở ở kho. Thẻ này có nội dung tương tự thẻ kho, chỉ khác là theo dõi về mặt giá trị. Hàng ngày, hoặc định kỳ, khi nhận được các chứng từ nhập, xuất kho do thủ kho chuyển tới, nhân viên kế toán hàng hoá phải kiểm tra, đối chiếu và ghi đơn giá hạch toán vào thẻ kế toán chi tiết hàng hoá và tính ra số tiền sau đó, lần lượt ghi các nghiệp vụ nhập, xuất vào các thẻ kế toán chi tiết hàng hoá có liên quan. Cuối tháng tiến hành cộng thẻ và đối chiếu với thẻ kho.
Để thực hiện đối chiếu giữa kế toán tổng hợp và chi tiết, kế toán phải căn cứ vào các thẻ kế toán chi tiết để lập bảng tổng hợp nhập, xuất, tồn kho về mặt giá trị của từng loại hàng hoá số liệu của bảng này được đối chiếu với số liệu của kế toán tổng hợp.
2.2. Phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển
Tại kho: Giống như phương pháp thẻ song song ở trên
Tại phòng kế toán: Không mở thẻ kế toán chi tiết hàng hoá mà mở sổ đối chiếu luân chuyển để hạch toán sô lượng và số tiền của từng thứ hàng hoá theo từng kho. Sổ này ghi mỗi tháng một lần vào cuối tháng trên cơ sở tổng hợp các chứng từ nhập, xuất phát sinh trong tháng của từng thứ hàng hoá, mỗi thứ chỉ ghi 1 dòng trong sổ. Cuối tháng đối chiếu số lượng hàng hoá trên sổ đối chiếu luân chuyển với thẻ kho, đối chiếu số tiền với kế toán tổng hợp.
2.3. Phương pháp số dư.
Tại kho: Giống các phương pháp trên. Định kỳ sau khi ghi thẻ kho, thủ kho phải tập hợp toàn bộ chứng từ nhập kho, xuất kho phát sinh theo từng hàng hoá quy định. Sau đó lập phiếu giao nhận chứng từ và nộp cho kế toán kèm theo các chứng từ nhập xuất hàng hoá.
Ngoài ra thủ kho còn phải ghi số lượng hàng hoá tồn kho cuối tháng theo từng hàng hoá vào sổ số dư. Sổ số dư được kế toán mở cho từng kho và dùng cho cả năm, trước ngày cuối tháng, kế toán giao cho thủ kho để ghi vào sổ. Ghi xong thủ kho phải gửi về phòng kế toán để kiểm tra và tính thành tiền.
Tại phòng kế toán: Định kỳ nhân viên kế toán phải xuống kho để hướng dẫn và kiểm tra việc ghi chép thẻ kho của thủ kho và thu nhận chứng từ. Khi nhận được chứng từ, kế toán kiểm tra và tính giá theo từng chứng từ. Đồng thời, ghi số tiền vừa tính được của từng nhóm hàng hoá (nhập riêng, xuất riêng) vào bảng luỹ kế nhập, xuất, tồn kho hàng hoá - Bảng này được mở cho từng kho, mỗi kho một tờ, được ghi trên cơ sở các phiếu giao nhận chứng từ nhập, xuất hàng hoá.
Tiếp đó, cộng số tiền nhập, xuất trong tháng và dựa vào số dư đầu tháng để tính dư cuối tháng của từng nhóm hàng hoá. Số dư này được dùng để đối chiếu với cột số tiền trên sổ số dư (số liệu trên sổ số dư do kế toán hàng hoá tính bằng cách lấy số lượng tồn kho nhân giá hạch toán).
3. Hạch toán theo phương pháp kê khai thường xuyên.
Phương pháp kê khai thường xuyên (KKTX) là phương pháp theo dõi và phản ánh tình hình hiện có, biến động tăng, giảm hàng hoá tồn kho một cách thường xuyên liên tục. Phương pháp này được sử dụng phổ biến hiện nay ở nước ta vì những thuận lợi của nó. Tuy nhiên đối với những doanh nghiệp có nhiều chủng loại hàng hoá có giá trị thấp thường xuyên xuất bán mà áp dụng phương pháp này sẽ tốn nhiều công sức. Mặc dù vậy phương pháp này có độ chính xác cao và cung cấp thông tin về hàng tồn kho một cách kịp thời cập nhật. Theo phương pháp này, tại bất kỳ thời điểm nào, kế toán cũng có thể xác định được lượng nhập, xuất kho từng loại hàng hoá.
3.1. Tài khoản sử dụng
+) TK 156 - Hàng hoá.
Dùng để phản ánh giá trị thực tế hàng hoá tại kho, tại quầy chi tiết theo từng kho quầy, từng loại, nhóm… hàng hoá.
Bên Nợ: Phản ánh giá trị thực tế của hàng hoá nhập kho (giá mua và chi phí mua)
Bên Có: - Trị giá mua của hàng hoá
- Chi phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ
Số dư Nợ: Trị giá thực tế hàng hoá tồn kho, tồn quầy.
+) TK 157 - Hàng gửi bán.
Dùng để phản ánh giá trị mua của hàng hoá gửi bán, ký gửi đại lý chưa được chấp nhận. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng loại hàng, từng lần gửi hàng và khi gửi đi đến khi được chấp nhận thanh toán.
Bên Nợ: Giá trị sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ gửi bán, gửi đại lý hoặc đã thực hiện với khách hàng nhưng chưa được chấp nhận.
Bên Có: - Giá trị hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã được khách hàng chấp nhận thanh toán hoặc thanh toán.
- Giá trị hàng gửi đi bán bị từ chối, trả lại.
Số dư Nợ: Giá trị hàng gửi bán chưa được chấp nhận
+) TK 511 - Doanh thu bán hàng
Tài khoản 511 được dùng để phản ánh tổng doanh thu bán hàng thực tế của doanh nghiệp và các khoản giảm doanh thu. Từ đó tính ra doanh thu thuần về tiêu thụ trong kỳ. Tổng số doanh thu bán hàng ghi nhận ở đây có thể là tổng giá thanh toán (với các doanh nghiệp chịu thuế VAT theo phương pháp trực tiếp cũng như các đối tượng không chịu thuế VAT) hoặc giá không có thuế (Với các doanh nghiệp tính thuế VAT theo phương pháp khấu trừ)
Bên Nợ: - Số thuế phải nộp ( Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu) tính trên doanh số bán hàng trong kỳ.
- Số giảm giá hàng hoá và doanh thu của hàng bán bị trả lại kết chuyển trừ vào doanh thu.
- Kết chuyển doanh thu thuần về tiêu thụ.
Bên Có: Tổng doanh thu bán hàng thực tế phát sinh trong kỳ.
TK 511 không có số dư cuối kỳ.
+) TK 512: Doanh thu bán hàng nội bộ.
Tài khoản này dùng để phản ánh doanh thu của số hàng hoá, lao vụ, sản phẩm tiêu thụ nội bộ, giữa các đơn vị trực thuộc trong cùng một công ty, tổng công ty, tập đoàn… hạch toán toàn ngành. Ngoài ra tài khoản này còn sử dụng để theo dõi các khoản được coi là tiêu thụ nội bộ khác như sử dụng sản phẩm, hàng hoá dịch vụ vào hoạt động sản xuất kinh doanh hay trả lương trả thưởng cho công nhân viên chức.
+) TK 531 – Hàng bán bị trả lại.
Dùng để theo dõi doanh thu của hàng hoá, thành phẩm, lao vụ, dịch vụ đã tiêu thụ nhưng bị trả lại. Đây là khoản điều chỉnh của TK511 để tính toán doanh thu thuần
Bên Nợ: Doanh thu của số hàng đã tiêu thụ bị trả lại
Bên Có: Kết chuyển doanh thu của số hàng bị trả lại.
TK 531 không có số dư cuối kỳ.
+) TK 532 - Giảm giá hàng bán.
Được sử dụng để theo dõi toàn bộ các khoản giảm giá hàng bán cho khách hàng trên giá bán đã thoả thuận. Được hạch toán vào tài khoản này bao gồm các khoản giảm giá do những nguyên nhân thuộc về người bán.
Bên Nợ: Tập hợp các khoản giảm giá hàng bán chấp thuận cho người mua trong kỳ.
Bên Có: Kết chuyển toàn bộ số giảm giá hàng bán.
TK 532 không có số dư cuối kỳ.
+) TK 632: Giá vốn hàng bán.
Dùng để theo dõi trị giá vốn của hàng hoá, sản phẩm, lao vụ, dịch vụ xuất bán trong kỳ.
Bên Nợ: Trị giá vốn của hàng hoá, thành phẩm, lao vụ, dịch vụ đã cung cấp (được coi là tiêu thụ trong kỳ)
Bên Có: Kết chuyển giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ và giá vốn của hàng bị trả lại.
TK 632 không có số dư cuối kỳ.
Ngoài các tài khoản trên, kế toán bán hàng còn sử dụng một số tài khoản khác có liên quan như: TK 111, TK 112, TK 131, TK 138, TK 3331…
3.2. Phương pháp hạch toán.
Phương pháp kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá đối với doanh nghiệp tính thuế VAT theo phương pháp khấu trừ.
Bán buôn theo phương thức trực tiếp:
Khi chuyển hàng hoá cho người bán, kế toán phản ánh các bút toán sau:
BT1: Trị giá mua thực tế của hàng hoá tiêu thụ
Nợ TK 632: Trị giá mua của hàng hoá tiêu thụ
Có TK 156(1561): Bán buôn qua kho
Có TK 151, 331, 111, 112: Bán buôn vận chuyển thẳng (không qua kho) có tham gia thanh toán.
Phản ánh thuế VAT được khấu trừ:
Nợ TK 1331: Thuế VAT được khấu trừ
Có TK 331, 112, 111…
BT2: Doanh thu của hàng tiêu thụ
Nợ TK 111, 112, 131, 1368…:Tổng giá trị thanh toán
Có TK 511, 512: Doanh thu bán hàng (không có VAT)
Có TK 3331: Thuế VAT đầu ra phải nộp
BT3: Các khoản chi hộ cho bên mua (nếu có)
Nợ TK 138(1388):
Có TK 111, 112, 331…
Khoản giảm giá hàng bán phát sinh:
Nợ TK 532: Số giảm giá hàng bán (không có VAT)
Nợ TK 3331: Thuế VAT tương ứng với số giảm giá.
Có TK 131, 111, 112, 3388…Tổng số giảm giá (cả VAT) trả cho khách hàng.
Doanh thu bán hàng bị trả lại:
Nợ TK 531: Số doanh thu bán hàng bị trả lại (không có VAT)
Nợ TK 3331: Thuế VAT tương ứng với số DT hàng trả lại
Có TK 131, 111, 112, 3388… Tổng số DT bán bị trả lại (cả thuế VAT) trả cho khách hàng.
Giá vốn hàng bị trả lại:
Nợ TK 1561, 154…
Có TK 632
Số chiết khấu thanh toán phát sinh trong kỳ
Nợ TK 811: Số chiết khấu thanh toán phát sinh
Có TK 131, 111, 112, 3388… Tổng số chiết khấu thanh toán chấp nhận trả cho khách hàng.
Bán buôn theo phương thức chuyển hàng chờ chấp nhận
Khi chuyển hàng đến cho người mua, ghi:
Nợ TK 157: Trị giá mua của hàng xuất kho chuyển đi
Có TK 156(1561): Trị giá mua của hàng xuất kho gửi đi.
Khi hàng hoá được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán:
BT1: Phản ánh doanh thu bán hàng:
Nợ TK 131, 136, 111, 112…Tổng giá thanh toán.
Có TK 511, 512: Doanh thu bán hàng.
Có TK 3331: Thuế VAT đầu ra phải nộp.
BT2: Phản ánh trị giá mua của số hàng được chấp nhận
Nợ TK 632
Có TK 157
Các bút toán về chiết khấu, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại phản ánh tương tự như trường hợp bán buôn trực tiếp.
Bán buôn vận chuyển thẳng, không tham gia thanh toán.
Về thực chất ở đây doanh nghiệp thương mại chỉ đứng ra làm trung gian môi giới giữa bên bán và bên mua để được hưởng hoa hồng.
Số hoa hồng môi giới được hưởng ghi:
Nợ TK 111, 112, 131…Tổng số hoa hồng (cả thuế VAT)
Có TK 511, 512: Hoa hông môi giới được hưởng
Có TK 3331: Thuế VAT phải nộp
Các chi phí liên quan đến bán hàng:
Nợ TK 641: Chi phí bán hàng
Nợ TK 133(1331): Thuế VAT đầu vào (nếu có)
Có TK 111, 112, 338…
Bán lẻ thu tiền tập trung, thu tiền trực tiếp, tự chọn.
Căn cứ vào báo cáo bán hàng, giấy nộp tiền và bảng kê bán lẻ hàng hoá, dịch vụ để phản ánh doanh thu bán hàng.
Nợ TK 111, 112…Tổng giá bán cả thuế
Có TK 3331: Thuế VAT đầu ra
Có TK 511: Doanh thu bán hàng.
Trường hợp nộp thừa tiền bán hàng (hoặc thiếu tiền): Số tiền thừa hoặc thiếu) chưa rõ nguyên nhân phải chờ xử lý được chuyển vào bên Nợ TK 1381 (nếu thiếu) hoặc bên Có TK 3381 (nếu thừa).
Phản ánh trị giá mua của hàng hoá xuất:
Nợ TK 632
Có TK 156(1561)
Trường hợp bán hàng trả góp
BT1: Nợ TK131: Tổng số tiền phải thanh toán
Có TK511: Giá bán theo phương thức thông thường
Có TK711: Tổng số lợi tức trả chậm
Có TK3331: Thuế VAT đầu ra tính trên giá bán trả 1 lần
BT2: Nợ TK 111, 112 Phần thanh toán ngay
Có TK131
Phản ánh trị giá mua của hàng hoá xuất
Nợ TK632
Có TK156(1561)
Trường hợp hàng đổi hàng
BT1: Phản ánh trị giá vốn đem đi trao đổi
Nợ TK632 Giá vốn hàng bán
Có TK156
BT2: Phản ánh giá trị trao đổi
Nợ TK131: Tổng giá thanh toán của hàng đem trao đổi
Có TK511: Doanh thu tiêu thụ của hàng đem trao đổi
Có TK3331: Thuế VAT đầu ra phải nộp của hàng đem trao đổi
BT3: Phản ánh trị giá hàng hoá nhận về
Nợ TK152, 153, 156: Trị giá nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá nhập kho theo giá không thuế
Nợ TK1331: Thuế VAT đầu vào được khấu trừ
Có TK131: Tổng giá thanh toán của hàng hoá nhận về.
Trường hợp doanh nghiệp bán hàng ký gửi, đại lý.
Khi nhận hàng, căn cứ vào giá trị trong hợp đồng ghi: Nợ TK003
Khi xuất hàng đại lý, ký gửi đem bán, phải lập hoá đơn VAT giao cho người mua. Căn cứ vào hoá đơn VAT và các chứng từ liên quan khác, kế toán phản ánh tổng giá thanh toán của số hàng đại lý, ký gửi bán được.
Nợ TK 111, 112, 131…
Có TK331… Số tiền phải thanh toán cho chủ hàng
Đồng thời xoá sổ số hàng đã bán (hoặc trả lại): Có TK003
Xác định hoa hồng được hưởng và lập hoá đơn VAT về hoa hồng được hưởng ghi tăng doanh thu:
Nợ TK331 Hoa hồng được hưởng
Có TK511
Khi thanh toán tiền cho chủ hàng
Nợ TK331: Số tiền hàng đã thanh toán
Có TK111, 112…Số đã thanh toán
Phương pháp nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá với doanh nghiệp tính thuế VAT theo phương pháp trực tiếp hoặc các đối tượng không chịu thuế VAT.
Đối với các doanh nghiệp này, quy trình và cách thức hạch toán cũng tương tự như các doanh nghiệp tính thuế VAT theo phương pháp khấu trừ, chỉ khác trong chỉ tiêu doanh thu (ghi nhận ở TK 511, 512 bao gồm cả thuế VAT). Thuế VAT cuối kỳ được ghi nhận vào chi phí quản lý doanh nghiệp.
Doanh thu của hàng tiêu thụ được phản ánh như sau:
Nợ TK 111, 112, 131, 1368…Tổng giá thanh toán
Có TK 511, 512: Doanh thu bán hàng.
Thuế VAT phải nộp trong kỳ:
Nợ TK 642(6425)
Có TK 3331
4. Hạch toán theo phương pháp kiểm kê định kỳ.
Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp không theo dõi một cách thường xuyên, liên tục về tình hình biến động của các loại hàng hoá, sản phẩm trên các tài khoản phản ánh hàng tồn kho mà chỉ phản ánh giá trị tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ của chúng trên cơ sở kiểm kê cuối kỳ, xác định lượng hàng tồn kho thực tế. Từ đó, xác định lượng hàng hoá xuất kho cho bán hàng theo công thức:
Giá trị hàng hoá xuất bán
=
Giá trị hàng hoá tồn đầu kỳ
+
Giá trị hàng hoá tăng thêm trong kỳ
-
Giá trị hàng hoá tồn kho cuối kỳ
Độ chính xác của phương pháp này không cao, mặc dù tiết kiệm được công sức ghi chép và nó chỉ thích hợp với đơn vị kinh doanh nhiều chủng loại hàng hoá khác nhau, có giá trị thấp thường, xuyên xuất bán.
4.1. Tài khoản sử dụng
+) TK 156 – Hàng hoá: Tài khoản này được sử dụng đê theo dõi trị giá vốn của hàng hoá.
Bên Nợ: Phản ánh giá hàng hoá tồn kho đầu kỳ
Bên Có: Kết chuyển trị giá hàng hoá tồn kho đầu kỳ
Số dư Nợ: Phản ánh trị giá hàng hoá tồn kho tại thời điểm kiểm kê.
TK 156 được chia thành 2 tài khoản cấp 2
+ TK 1561: Giá mua hàng hoá
+ TK 1562: Chi phí thu mua hàng hoá
+) TK 157 – Hàng gửi bán: Dùng để theo dõi trị giá vốn của hàng gửi bán, ký gửi, đại lý chưa bán được tại thời điểm kiểm kê.
Bên Nợ: Trị giá vốn của hàng gửi bán cuối kỳ
Bên Có: Kết chuyển trị giá vốn hàng gửi bán đầu kỳ
Số dư Nợ: Trị giá vốn hàng gửi bán chưa bán được tại thời điểm kiểm kê.
+) TK 611 – Mua hàng hoá: Tài khoản này phản ánh trị giá hàng hoá mua vào theo giá thực tế và được mở chi tiết theo từng thứ, từng kho quầy hàng hoá.
Bên Nợ: Trị giá thực tế hàng hoá chưa tiêu thụ đầu kỳ và tăng thêm trong kỳ
Bên Có: + Trị giá hàng mua và hàng mua trả lại
+ Trị giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ
+ Trị giá thực tế của hàng hoá còn lại chưa tiêu thụ cuối kỳ.
TK 611 không có số dư cuối kỳ.
+) TK 632 – Giá vốn hàng bán: Dùng để xác định giá vốn hàng tiêu thụ
Bên Nợ: Trị giá vốn hàng đã tiêu thụ trong kỳ
Bên Có: Kết chuyển trị giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ.
TK 632 không có số dư cuối kỳ.
Ngoài các tài khoản trên, kế toán tiêu thụ theo phương pháp kiểm kê định kỳ còn sử dụng các tài khoản khác tương tự như phương pháp kê khai thường xuyên.
4.2Phương pháp hạch toán.
Đầu kỳ kết chuyển trị giá hàng chưa tiêu thụ:
Nợ TK 611:
Có TK 156: Hàng tồn kho, tồn quầy đầu kỳ.
Có TK 157: Hàng gửi bán, ký gửi đầu kỳ.
Có TK 151: Hàng mua đang đi đường đầu kỳ.
Trong kỳ phản ánh trị giá hàng tăng thêm (kể cả chi phí thu mua):
Nợ TK 611:
Nợ TK 133(1331): VAT đầu vào được khấu trừ (Doanh nghiệp áp dụng VAT tính theo phương pháp khấu trừ)
Có TK 331: Giá mua và chi phí mua.
Nếu doanh nghiệp áp dụng VAT theo phương pháp trực tiếp thì giá trị thực tế mua cộng với chi phí mua bao gồm cả VAT. Các bút toán phản ánh doanh thu tiêu thụ, chiết khấu thanh toán khi bán hàng, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại trong kỳ ghi giống các doanh nghiệp áp dụng theo phương pháp kê khai thường xuyên.
Cuối kỳ, căn cứ vào kết quả kiểm kê, xác định hàng đã tiêu thụ và chưa tiêu thụ:
Kết chuyển trị giá hàng còn lại chưa tiêu thụ:
Nợ TK 156, 157, 151: Trị giá thực tế hàng chưa tiêu thụ.
Có TK 611: Trị giá thực tế hàng chưa tiêu thụ.
Xác định giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ:
Nợ TK 632 Trị giá vôn hàng tiêu thụ
Có TK 611
Như vậy, khác với doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê thường xuyên, trong các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ, các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến hàng hoá tồn kho không được ghi liên tục. Muốn xác định trị giá hàng hoá xuất bán thì phải dựa vào kết quả kiểm kê thực tế của hàng tồn kho. Đối với doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ hạch toán tiêu thụ khác với doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê thường xuyên trong việc tính giá vốn hàng xuất kho và tiêu thụ, còn việc tính doanh thu và các khoản liên quan đến doanh thu hoàn toàn giống nhau.
II. Thực trạng kế toán tiêu thụ hàng hoá ở các doanh nghiệp thương mại hiện nay.
1. Những mặt đạt được.
Trong hạch toán nghiệp vụ bán hàng tại các quầy, nhân viên bán hàng viết hoá đơn giá trị gia tăng. Căn cứ vào hoá đơn giá trị gia tăng kế toán viết phiếu xuất kho. Căn cứ vào số lượng hàng hoá thực tế xuất, thủ kho ghi vào thẻ kho. Định kỳ, các chứng từ được chuyển lên phòng kế toán doanh nghiệp để kiểm tra và tổng hợp. Sau đó, kế toán vào các sổ có liên quan. Sau cùng các chứng từ này được lưu vào lưu trữ theo đúng quy định của nhà nước.
Trong các doanh nghiệp thương mại lớn hiện nay, hầu hết nhân viên trong phòng kế toán đều đã tốt nghiệp đại học, số ít còn lại được đào tạo tại các trường trung học chuyên nghiệp. Họ là những người hiểu biết sâu sắc, nắm bắt vận dụng kịp thời chế độ kế toán tài chính hiện hành để có thể đảm đương tốt nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, hầu hết các công ty đều tổ chức cho nhân viên của mình đi học các lớp đào tạo nghiệp vụ ngắn hạn để nâng cao trình độ chuyên môn. Chính vì vậy mà công tác hạch toán kế toán nói chung và hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá nói riêng luôn cung cấp kịp thời, chính xác, đầy đủ thông tin số liệu cho các cấp lãnh đạo và các đối tác kinh doanh.
2. Những tồn tại cần khắc phục
Bên cạnh những ưu điểm, công tác hạch toán kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá còn tồn tại một số vấn đề hạn chế đòi hỏi phải đưa ra giải pháp cụ thể, có tính thực thi cao nhằm khắc phục và hoàn thiện hơn để kế toán ngày càng thực hiện tốt hơn nữa chức năng nhiệm vụ vốn có của mình nhằm phục vụ cho yêu cầu quản lý trong điều kiện hiện nay. Cụ thể những hạn chế đó là:
Vấn đề chiết khấu.
Trong điều kiện hiện nay, việc thu hút khách hàng là rất cấn thiết và vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp thương mại, khách hàng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Chính vì vậy phải có những chính sách chiết khấu hợp lý để khuyến khích khách hàng và đồng thời phải hạch toán đúng khoản này.
Chưa áp dụng máy vi tính vào công tác kế toán.
Sự ra đời của máy vi tính là một bước đột phá lớn trong xã hội loài người. Hiện nay máy vi tính đã thay thế con người giải quyết nhiều công việc khó khăn và phức tạp, chíh vì vậy đã giải phóng phần lớn sức lao động của con người. Lĩnh vực kế toán cũng không phải là ngoại lệ.
Trong các doanh nghiệp thương mại hiện nay chỉ có một số ít các doanh nghiệp áp dụng hệ thống kế toán máy. Chính vì vậy mà vẫn chưa tận dụng được những chức năng, những tác dụng vô cùng to lớn của máy. Kế toán vẫn phần lớn là làm thủ công, do đó tốn nhiều thời gian và công sức.
Hạch toán chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp:
Hiện nay nhiều doanh nghiệp thương mại hạch toán chi phí của công ty vào tài khoản 641 ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KT1307.doc