Lời nói đầu
Trong xu hướng phát triển toàn cầu hoá, đặc biệt trong cơ chế thị trường, lĩnh vực đầu tư xây lắp đã và đang được mọi cấp, mọi ngành, mọi người trong toàn xã hội quan tâm. Các công trình kiến trúc, công trình công nghiệp, công trình cơ sở hạ tầng...hàng ngày, hàng giờ liên tiếp mọc lên, có thể nói tốc độ phát triển của lĩnh vực này là nhanh chưa từng có ở nước ta. Tuy nhiên, các công trình mọc lên dù có bề thế đến đâu cũng không thể gọi là thành công nếu công tác hạch toán không đư
41 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1325 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số ý kiến nhằm hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất trong các Doanh nghiệp xây lắp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợc thực hiện một cách nghiêm túc và phù hợp.
Hạch toán là một trong những chức năng quan trọng của quản lý và mang tính lịch sử. Ngày nay, để sản xuất ra một sản phẩm cần có sự phối hợp, tham gia của nhiều người, nhiều tổ chức, nhiều ngành. Do đó, mỗi bộ phận, mỗi tổ chức phải hạch toán chính xác công việc của mỗi bộ phận, mỗi tổ chức mình thì hạch toán sản phẩm mới chính xác. Trong hạch toán , hạch toán giá thành sản phẩm luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp, đồng thời nó cũng là mối quan tâm của các cơ quan chức năng của nhà nước thực hiện công tác quản lý các doanh nghiệp. Giá thành sản phẩm là tấm gương phản chiếu toàn bộ các biện pháp kinh tế, tổ chức quản lý và kỹ thuật mà doanh nghiệp đã và đang thực hiện trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trong các doanh nghiệp xây lắp nói riêng và các doanh nghiệp sản xuất nói chung , hạch toán giá thành không phải là một công việc đơn giản mà phải dựa vào chi phí sản xuất, tổ chức quản lý tốt giá thành chỉ có thể thực hiện trên cơ sở tổ chức quản lý tốt chi phí sản xuất. Chi phí mà các doanh nghiệp phải chi trả đều nhằm mục đích là tạo ra giá trị sử dụng nhất định cho xã hội biểu hiện thành các loại sản phẩm khác nhau. Nguyên tắc hoạt động đầu tiên của các doanh nghiệp là phải đảm bảo trang trải được các phí tổn đã đầu tư sản xuất sản phẩm. Như vậy, khi sản xuất một sản phẩm nào đó thì chi phí dùng để sản xuất ra nó phải nằm trong giới hạn – giới hạn của sự bù đắp. Nếu vượt qua giới hạn này tất yếu doanh nghiệp sẽ bị phá sản. Qua những điều nêu trên, chúng ta thấy được tầm quan trọng của hạch toán chi phí sản xuất. Đặc biệt trong các doanh nghiệp xây lắp thì hạch toán chi phí sản xuất mang một số đặc điểm đặc thù so với các doanh nghiệp sản xuất khác. Nếu hoàn thành tốt công tác này sẽ tạo ra một lực thúc đẩy lớn trong việc quản lý xây dựng, quản lý chất lượng công trình tốt hơn.
Có bao nhiêu dự án, công trình đang được nhà nước xét duyệt, phê chuẩn?
Tuy nhiên hiệu quả các công trình mang lại là bao nhiêu? Doanh nghiệp sẽ phải tốn hết bao nhiêu chi phí, các loại chi phí và tỷ trọng của từng loại chi phí, khả năng để hạ thấp các loại chi phí này? Để trả lời câu hỏi đó, vấn đề hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp là rất cần thiết. Công tác hạch toán chi phí sản xuất xây lắp được thực hiện hợp lý thì không những giúp nhà nước quản lý tốt các doanh nghiệp xây lắp mà còn tránh được những thất thoát lớn có thể xảy ra. Hạch toán chi phí là cơ sở để hạch toán giá thành, xác định lợi nhuận từ đó xác định nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với nhà nước.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của nền kinh tế, đảm đương được nhiệm vụ được giao, yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp xây lắp nói riêng và doanh nghiệp sản xuất nói chung là phải hoàn thiện hạch toán kế toán. Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất gắn với việc xây dựng hệ thống thông tin cung cấp cho quản lý là một công việc quan trọng trong nội dung hoàn thiện hạch toán kế toán.
Phần nội dung
I.Lý luận chung về chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp
1.Đặc điểm của sản xuất xây lắp.
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất mang tính chất công nghiệp, có những điểm đặc thù về mặt kinh tế, tổ chức quản lý và kỹ thuật chi phối trực tiếp đến việc tổ chức công tác kế toán nói chung và tổ chức kế toán chi phí sản xuất nói riêng. Sự chi phối này được hiểu như sau:
- Sản phẩm xây lắp là những công trình, vật kiến trúc...có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, mang tính chất đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm xây lắp kéo dài, ảnh hưởng lớn đến môi trường sinh thái. Những đặc điểm này làm cho tổ chức và hạch toán khác biệt với các nghành sản xuất kinh doanh khác: sản phẩm xây lắp phải lập dự toán(dự toán thiết kế, dự toán thi công) đồng thời để giảm bớt rủi ro phải mua bảo hiểm cho công trình xây lắp.
-Sản phẩm xây lắp đựơc tiêu thụ (bán) theo giá dự toán- giá thanh toán với bên chủ đầu tư, giá thoả thuận với chủ đầu tư (gía thoả thuận này cũng phải xác định trên dự toán công trình) do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp không thể hiện rõ.
-Sản phẩm xây lắp phải cố định tại nơi sản xuất, còn các điều kiện sản xuất (máy thi công, thiết bị vật tư, người lao động...) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý tài sản, thiết bị , vật tư, lao động cũng như hạch toán chi phí sản xuất rất phức tạp vì chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường, dễ tổn thất, hư hỏng...
-Sản phẩm xây lắp được sử dụng lâu dài ảnh hưởng môi trường sinh thái,cảnh quan. Sau khi hoàn thành sản phẩm xây lắp rất khó thay đổi vì vậy việc tổ chức quản lý và hạch toán tiến hành chặt chẽ đảm bảo cho công trình phù hợp với dự toán thiết kế.
2.Đặc điểm của hạch toán chi phí sản xuất.
a.Khái niệm chi phí sản xuất.
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng là quá trình biến đổi một cách có ý thức, có mục đích các yếu tố đầu vào tạo thành các công trình, hạng mục công trình, sản phẩm, lao vụ, phục vụ...
Các yếu tố về tư liệu sản xuất, đối tượng lao động dưới sự tác động có mục đích của sức lao động qua quá trình biến đổi sẽ trở thành các sản phẩm, công trình...Mọi hao phí cuối cùng đều được thể hiện bằng thước đo tiền tệ gọi là chi phí sản xuất kinh doanh.
Chi phí sản xuất kinh doanh trong xây dựng biểu hiện bằng tiền, hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà mọi doanh nghiệp xây lắp đã bỏ ra trong quá trinh sản xuất thi công và bàn giao sản phẩm xây lắp trong một kỳ nhất định.
Tuy nhiên, trên các góc độ nghiên cứu và quản lý khác nhau có các cách thể hiện, cách hiểu khác nhau về chi phí sản xuất.
-Đối với nhà quản trị doanh nghiệp: Chi phí sản xuất kinh doanh là tổng số tiền phải bỏ ra để mua các yếu tố cần thiết tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ mang lại lơị ích kinh tế cho doanh nghiệp.
-Đối với kế toán: Chi phí sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với một kỳ sản xuất kinh doanh nhất định và phải là chi phí thực. Vì vậy cần có sự phân biệt giữa khái niệm chi tiêu và chi phí.
Chi tiêu là sự hao phí vật chất tại một thời điểm tiêu dùng. Về mặt kế toán, chi tiêu được ghi vào bên Có của tài khoản tài sản. Tổng số chi tiêu của doanh nghiệp trong kỳ gồm chi tiêu mua sắm nguyên vật liệu, hàng hoá, chi tiêu cho quá trình sản xuất sản phẩm và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ.
Còn chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính cho một kỳ kinh doanh. Chi phí về phương diện hạch toán được ghi vào bên Nợ của tài khoản chi phí. Tổng số chi phí của doanh nghiệp trong kỳ bao gồm toàn bộ giá trị vật tư, tài sản hao phí cho quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Chi tiêu và chi phí là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó chi tiêu là cơ sở của chi phí. Chi tiêu và chi phí khác nhau về lượng, về thời giá, chẳng hạn có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng được tính chi phí cho nhiều kỳ sau( xuất công cụ, dụng cụ nhưng phân bổ vào chi phí nhiều kỳ TK142 “Chi phí trả trước”) hoặc có những khoản được tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế lại chưa chi tiêu( TK335 “ Chi phí phải trả”).
Từ đó rút ra kết luận chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây lắp là biểu hiện bằng tiền hao phí về lao động sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh trong một kỳ nhất định của doanh nghiệp xây lắp bao gồm chi phí sản xuất xây lắp và chi phí ngoài xây lắp.
b. Phân loại chi phí sản xuất.
Phân loại chi phí sản xuất một cách khoa học, hợp lý có ý nghĩa rất quan trọng và là tiền đề của việc kiểm tra, phân tích chi phí, thúc đẩy việc quản lý chặt chẽ chi phí hướng tới tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Trong kế toán có các cách phân loại sau:
*Phân loại chi phí theo yếu tố chi phí:
Thực chất chỉ có ba yếu tố chi phí: chi phí về sức lao động, chi phí về đối tượng lao động và chi phí về tư liệu lao động. Tuy nhiên, để phân tích thông tin về chi phí cụ thể phục vụ cho việc xây dựng định mức vốn lưu động và phân tích các dự toán chi phí thì các yếu tố trên được chi tiết hoá thành các yếu tố sau:
-Yếu tố nguyên vật liệu: gồm toàn bộ giá trị vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ sử dụng vào sản xuất thi công xây lắp( loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
-Yếu tố nhiên liệu, động lực: sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ( trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
-Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương: gồm tổng số tiền lương và phụ cấp phải trả cho công nhân xây lắp.
-Yếu tố khấu hao tài sản cố định: gồm tổng số khấu hao tài sản cố định trong kỳ của tất cả tài sản cố định sử dụng trong kỳ.
-Yếu tố bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn: tính theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp theo lương.
-Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: gồm toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào việc sản xuất kinh doanh.
-Yếu tố chi phí khác bằng tiền: là những chi phí khác bằng tiền chưa được phản ánh ở các yếu tố trên.
*Phân loại chi phí theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh.
-Chi phí sản xuất kinh doanh: gồm các chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất, tiêu thụ và quản lý.
-Chi phí hoạt động tài chính: là những chi phí liên quan đến hoạt động về vốn và đầu tư tài chính.
-Chi phí bất thường: gồm những chi phí ngoài dự kiến do chủ quan hay khách quan đưa tới.
*Phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm(theo công dụng kinh tế).
Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng, bao gồm:
-Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: phản ánh toàn bộ chi phí nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu...tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất thi công xây lắp, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
-Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương, phụ cấp theo lương và các khoản trích theo lương(bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn ).
-Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất(không kể chi phí vật liệu và nhân công trực tiếp). Ngoài ra, khi tính chỉ tiêu giá thành toàn bộ sẽ bao gồm chỉ tiêu giá thành sản xuất với khoản mục chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
*Phân loại chi phí theo chức năng trong sản xuất kinh doanh.
Dựa vào chức năng của các hoạt động trong quá trình sản xuất kinh doanh và chi phí liên quan đến việc thực hiện các chức năng mà chi phí sản xuất kinh doanh được chia làm ba loại:
-Chi phí sản xuất: Là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng liên quan đến việc chế tạo sản phẩm.
-Chi phí tiêu thụ: Gồm tất cả các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm.
-Chi phí quản lý doanh nghiệp: Gồm những chi phí quản lý kinh doanh, hành chính, những chi phí chung phát sinh liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp.
*Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí:
Cách ứng xử của chi phí có nghĩa là những chi phí này sẽ thay đổi như thế nào khi mức độ hoạt động kinh doanh thay đổi. Cách phân loại này đáp ứng nhu cầu lập kế hoạch, kiểm soát chi phí và chủ động điều tiết chi phí của nhà quản lý. Theo cách phân loại này, toàn bộ chi phí của doanh nghiệp được phân thành:
-Biến phí: Là những khoản mục chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với mức độ hoạt động. Biến phí khi tính cho một đơn vị sản phẩm thì ổn định không thay đổi, tổng biến phí thay đổi khi sản lượng thay đổi và biến phí bằng không khi không có hoạt động.
-Định phí: Là những chi phí không thay đôỉ khi mức độ hoạt động thay đổi. Định phí chỉ giữ nguyên trong phạm vi phù hợp với mức độ hoạt động. Định phí một đơn vị sản phẩm thay đổi khi sản lượng thay đổi.
-Chi phí hỗn hợp: Là những chi phí bao gồm cả yếu tố biến phí lẫn định phí như chi phí về điện, nước, điện thoại…ở mức độ hoạt động căn bản. Chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của định phí, quá mức độ đó nó thể hiện đặc điểm của biến phí. Để phân tích người ta dùng phương pháp cực đại, cực tiểu, bình phương nhỏ nhất.
*Một số cách phân loại chi phí khác.
-Phân loại theo khả năng kiểm soát được chi phí hay không của các cấp quản lý.
-Phân loại theo cách thức kết chuyển chi phí : gồm chi phí sản phẩm, chi phí thời kỳ.
Do đặc điểm sản phẩm của nghành xây dựng là những công trình, hạng mục công trình, vật kiến trúc…mang tính đơn chiếc. Mỗi sản phẩm có dự toán thiết kế, dự toán thi công riêng nên mức hao phí về vật liệu, nhân công, máy thi công cũng không giống nhau(về mức chi phí và kết cấu chi phí …). Các công trình có dự toán thiết kế, dự toán thi công giống nhau nhưng khác địa điểm thi công(có thể cùng khu vực) thì chi phí cũng không giống nhau. Các yếu tố lao động, thiết bị, máy móc thi công không có tính chất cố định như đối với sản phẩm công nghiệp. Do đó ngoài các khoản mục chi phí vật liệu, nhân công, chi phí sản xuất chung trong giá thành ,sản phẩm xây lắp còn có khoản mục chi phí sử dụng máy thi công là khoản mục chi phí trực tiếp.
Ngoài ra các nhà quản lý kinh tế còn sử dụng một số thuật ngữ như: chi phí cơ hội, chi phí tới hạn, chi phí chìm, chi phí chênh lệch…Việc sử dụng cách phân loại này tuỳ thuộc vào từng góc độ nghiên cứu và yêu cầu quản lý đối với chi phí sản xuất kinh doanh ở từng doanh nghiệp.
3. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất .
a.Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất .
Việc xác định đúng đắn đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có ý nghĩa quan trọng trong việc tổ chức tập hơp chi phí . Xuất phát từ đặc điểm sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp, có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp, sản phẩm được sản xuất đơn chiếc, riêng lẻ, theo đơn đặt hàng và việc tổ chức sản xuất được phân chia thành nhiều công trường, nhiều khu vực thi công nên đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là: đơn đặt hàng, sản phẩm hay nhóm sản phẩm, giai đoạn công việc, khu vực thi công.
*Theo sản phẩm hay đơn đặt hàng:
Sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp là công trình, hạng mục công trình hoàn thành. Hàng tháng, chi phí sản xuất phát sinh có liên quan đến công trình, hạng mục công trình nào thì được tập hợp vào đối tượng đó một cách thích hợp. Khi hoàn thành, tổng chi phí theo đối tượng hạch toán cũng chính là giá thành sản phẩm xây lắp .
*Theo bộ phận sản phẩm :
Bộ phận sản phẩm xây dựng cơ bản là các giai đoạn xây lắp của các công trình, hạng mục công trình có dự toán riêng. Hàng tháng, chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp cho từng giai đoạn xây lắp có liên quan. Khi hoàn thành, tổng công chi phí theo các giai đoạn chính là giá thành sản phẩm xây lắp .
*Theo nhóm sản phẩm :
Được áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp xây lắp cùng lúc thi công một số công trình, hạng mục công trình theo cùng một thiết kế(hoặc thiết kế gần giống nhau) theo một phương thức thi công nhất định và trên cùng một địa điểm. Hàng tháng, chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp theo nhóm sản phẩm . Khi hoàn thành toàn bộ, kế toán phải xác định giá thành đơn vị sản phẩm hoàn thành.
*Theo giai đoạn công nghệ:
áp dụng đối với các xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất cấu kiện lắp sẵn. Trong các xí nghiệp đó, toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm được chia ra thành nhiều giai đoạn công nghệ, vật liệu được chế biến liên tục từ khâu đầu cho đến khâu cuối theo một trình tự nhất định.
b.Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất .
*Trong doanh nghiệp xây lắp chỉ áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên để hạch toán hàng tồn kho.
*Do những đặc điểm đặc thù của sản xuất xây dựng cơ bản như:sản xuất xây dựng thường diễn ra ngoài trời chịu tác động trực tiếp của các yếu tố thuộc điều kiện tự nhiên, đối tượng sản xuất thường có khối lượng lớn, giá trị lớn, thời gian thi công tương đối dài…nên phương pháp kê khai thường xuyên đáp ứng được yêu cầu theo dõi và phản ánh thường xuyên, liên tục tình hình nhập, xuất, tồn kho vật tư, hàng hoá trên sổ kế toán. Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp căn cứ vào kết quả kiểm kê thực tế để phản ánh giá trị tồn kho cuôí kỳ của vật tư, hàng hoá trên sổ kế toán tổng hợp từ đó tính ra giá trị của hàng hoá, vật tư đã xuất dùng trong kỳ. Vậy theo phương pháp kiểm kê định kỳ, mọi biến động của vật tư, hàng hoá( nhập kho, xuất kho) không được theo dõi, phản ánh trên các tài khoản kế toán hàng tồn kho. Chính đặc điểm này làm cho phương pháp kiểm kê định kỳ không phù hợp với công tác quản lý thường xuyên một khối lượng vật liệu lớn đòi hỏi phải chặt chẽ, chính xác.
*Để hạch toán chi phí sản xuất, kế toán sử dụng các tài khoản
TK621 “Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp”
TK622 “Chi phí nhân công trực tiếp”
TK623 “Chi phí sử dụng máy thi công”
TK627 “Chi phí sản xuất chung”
TK154 “Chi phí sản xuất ,kinh doanh dở dang”
II.Hạch toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp .
1.Nội dung và phương pháp hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp .
a.Nội dung và kết cấu của tài khoản 621: “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”
-Tài khoản 621 “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”: Tài khoản này để tập hợp toàn bộ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp dùng cho sản xuất, thi công xây lắp, chế tạo sản phẩm phát sinh trong kỳ.
Cụ thể:
+Vật liệu xây dựng(vật liệu chính): gạch, gỗ, cát, đá, ciment…
+Vật liệu phụ và vật liệu khác:
Vật liệu phụ: đinh, kẽm, dây buộc…
Nhiên liệu: củi nấu nhựa đường…
Vật kết cấu:beton đúc sẵn…
Giá trị thiết bị đi kèm với vật kiến trúc như thiết bị vệ sinh, thiết bị thông hơi, thông gió, chiếu sáng,truyền dẫn hơi nóng, hơi lạnh( kể cả chi phí sơn mạ, bảo quản các thiết bị này)
Tài khoản 621 cuối kỳ kết chuyển sang tài khoản 154
Kết cấu TK 621:
+Bên Nợ:
Giá thực tế nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp cho sản xuất thi công, xây lắp, chế tạo sản phẩm hoặc thực hiện lao vụ, dịch vụ.
+Bên Có:
Kết chuyển vào TK 154 “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”
Giá thực tế nguyên vật liệu sử dụng không hết nhập lại kho.
Tài khoản 621 cuối kỳ không có số dư, tài khoản này có thể mở chi tiết cho từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất để phục vụ cho việc tính giá thành cho từng đối tượng tính giá thành.
b.Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp .
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm chi phí về các loại nguyên vật lỉệu chính( gạch, đá, vôi, cát, sỏi, ciment, sắt, thép), nửa thành phẩm(vật kết cấu, thiết bị gắn liền với vật kiến trúc), vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ lao động thuộc tài sản lưu động.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp được căn cứ vào các chứng từ xuất kho để tính giá trị thực tế vật liệu trực tiếp xuất dùng.
Ngoài ra cũng có một số nguyên vật liệu xuất kho theo giá hạch toán như sắt, thép:
Giá thực tế vật liệu xuất kho trong kỳ
=
Giá hạch toán của vật liệu xuất dùng
x
Hệ số chênh lệch giữa giá thực tế và giá hạch toán của vật liệu
Giá thành thực tế của vật liệu xuất kho trong kỳ được xác định bằng công thức:
Hệ số chênh lệch
giữa giá thực tế =
với giá hạch toán
vật liệu
Gía thực tế vật liệu + Giá thực tế vật
tồn đầu kỳ liệu nhập trong kỳ
Giá hạch toán + Giá thực tế vật
vật liệu tồn đầu kỳ liệu nhập trong kỳ
Do đặc điểm của sản phẩm xây dựng nên việc tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp , tức là nguyên vật liệu chỉ liên quan đến một công trình, một hạng mục công trình, từng hợp đồng hoặc từng đơn đặt hàng. Trong quá trình thi công xây lắp, một số nguyên vật liệu luân chuyển như đà giáo, ván khuôn…giá trị của nguyên vật liệu sử dụng được phân bổ dần theo số lần luân chuyển hoặc theo khối lượng đã hoàn thành.
Sơ đồ hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
TK152
TK621
TK152
TK331,111,112
(4)
(2)
(1a)
TK1331
TK154
(5)
(1b)
TK411,154
(3)
+
Chú giải:
(1a) Mua vật liệu
(1b) Mua vật liệu chuyển tới chân công trình, không qua kho, sử dụng trực tiếp cho hoạt động xây lắp
Xuất kho vật liệu sử dụng trực tiếp cho hoạt động xây lắp
Xuất vật liệu để chế biến
Vật liệu dùng không hết nhập lại kho
Cuối kỳ kết chuyển hoặc phân bổ giá trị nguyên vật liệu trực tiếp theo từng công trình, hạng mục công trình.
2.Nội dung và phương pháp hạch toán chi phí nhân công trực tiếp.
a.Nội dung và kết cấu của tài khoản 622 “Chi phí nhân công trực tiếp”.
-Tài khoản 622: “Chi phí nhân công trực tiếp”: Tài khoản này dùng để tập hợp và kết chuyển số chi phí tiền công của công nhân sản xuất xây lắp trực tiếp( bao gồm tiền công, tiền thưởng, tiền lương và các khoản phải trả khác có tính chất tiền lương của công nhân sản xuất xây lắp . Cuối kỳ kết chuyển sang TK 154, tài khoản 622 “Chi phí nhân công trực tiếp” không phản ánh chi phí trích 19%(Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn ).
-Kết cấu TK622:
+Bên Nợ:Chi phí nhân công trực tiếp trong kỳ.
+Bên Có: Kết chuyển, phân bổ vào TK154.
Tài khoản 622 không có số dư.
b.Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp:
Chi phí nhân công được tính trong giá thành công tác xây lắp bao gồm:
*Tiền lương.
-Tiền lương chính của công nhân trực tiếp tham gia xây dựng công trình và lắp đặt máy móc, thiết bị.
-Tiền lương chính của công nhân vận chuyển vật liệu trong thi công, của công nhân làm nhiệm vụ bảo dưỡng bê tông, công nhân dọn dẹp vật liệu trên công trường, công nhân ghép cốp pha, lau máy trước khi lắp.
-Tiền lương chính của công nhân khuân vác từ kho đến chỗ lắp, tiền lương phụ của công nhân sản xuất, tiền thưởng của công nhân xây lắp trực tiếp.
Toàn bộ chi phí trên được hạch toán vào tài khoản 622.Chứng từ ban đầu để hạch toán khoản mục nhân công là các bảng chấm công được lập hàng tháng cho từng đội sản xuất, từng bộ phận sản xuất công tác. Nó cho ta biết rõ lao động nào làm việc ngày nào hưởng lương ngày đó theo mức quy định đối với từng loại công việc.
Hàng tháng căn cứ vào bảng chấm công, các chứng từ có liên quan, kế toán làm bảng thanh toán lương theo từng tổ, đội sản xuất , các phòng ban và kiểm tra việc trả lương cho cán bộ công nhân viên. Sau đó kế toán lập bảng thanh toán tiền lương cho toàn xí nghiệp và làm thủ tục rút tiền gửi về quỹ tiền mặt để trả lương. Việc thanh toán được thực hiện mỗi tháng hai kỳ: kỳ 1 tạm ứng, kỳ 2 nhận phần còn lại sau khi đã trừ đi các khoản nợ phải khấu trừ như tiền điện nước, tiền nhà, tạm ứng…Tiền lương phải phát tận tay người lao động hoặc đại diện tập thể lĩnh lương. Đối với tiền lương trả cho cán bộ công nhân viên nghỉ phép năm theo chế độ, nếu việc nghỉ phép không đều đặn giữa các tháng trong năm thì phải trích trước lương nghỉ phép cho cán bộ công nhân viên tính vào giá thành sản phẩm , như vậy sẽ làm cho giá thành sản phẩm không vì những chi phí này mà biến đổi đột ngột.
Mức trích trước tiền lương nghỉ phép kế hoạch
=
Lương thực tế phải trả cho cán bộ công nhân viên trong tháng
x
Tỷ lệ trích trước
Tỷlệ trích trước
=
Tổng số tiền lương phép kế hoạch của công nhân viên
Tổng số tiền lương chính kế hoạch của cán bộ công nhân viên
x100%
Trường hợp doanh nghiệp bố trí được việc nghỉ phép cho cán bộ công nhân viên một cách đều đặn thì không cần trích trước lương nghỉ phép.
*Trong chi phí trực tiếp của công nhân xây lắp không bao gồm các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn .
Sơ đồ hạch toán chi phí nhân công xây lắp
TK154
TK622
TK334,335,338
(2)
(1)
Chú giải:
Tiền lương phải trả công nhân xây lắp
Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp
3.Nội dung và phương pháp hạch toán chi phí sử dụng máy thi công
a.Nội dung và kết cấu của tài khoản 623: “Chi phí sử dụng máy thi công”
-Tài khoản 623: “Chi phí sử dụng máy thi công”: Tài khoản này để tập hợp và phân bổ chi phí sử dụng máy phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây lắp công trình. Tài khoản này chỉ sử dụng trong những doanh nghiệp xây lắp tổ chức thi công xây lắp hỗn hợp vừa thủ công vừa kết hợp bằng máy.Nếu doanh nghiệp thực hiện thi công hoàn toàn bằng máy(sản xuất chính bằng máy thi công) thì mọi chi phí sản xuất cho máy tập hợp vào TK621,622,627 cuối kỳ kết chuyển vào TK154.
Không hạch toán vào TK623 chi phí về trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn tính theo lương của công nhân điều khiển máy(hạch toán vào TK627).
-Kết cấu TK623:
+Bên Nợ:
Chi phí sử dụng máy thi công phát sinh trong kỳ(nhiên liệu, tiền lương,khấu hao, chi phí bảo dưỡng, sửa chữa máy thi công…).
+Bên Có:
Kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công vào TK154.
TK 623 không có số dư
TK 623 có các TK cấp hai:
TK6321:Chi phí nhân công-phản ánh tiền lương chính và phụ của công nhân điều khiển máy(Tài khoản này không phản ánh 19% trích theo lương).
TK6322:Chi phí vật liệu- phản ánh chi phí nhiên liệu dầu,vật liệu khác
TK 6233:Chi phí dụng cụ sản xuất –phản ánh chi phí dụng cụ phục vụ máy thi công.
TK6234:Chi phí khấu hao máy thi công.
TK6327:Chi phí dịch vụ mua ngoài-thuê sửa chữa, bảo hiểm máy, chi phí điện, nước, chi phí trả cho nhà thầu phụ.
TK6328:Chi phí bằng tiền khác.
b.Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công.
Chi phí sử dụng máy thi công chiếm một tỷ trọng khá lớn trong giá thành sản phẩm xây lắp và là một khoản mục chi phí có công dụng riêng biệt do vậy phải xuất phát từ đặc điểm tình hình sử dụng máy trong thi công, về nội dung chi phí và hình thức sử dụng máy để hạch toán cho phù hợp.
*Các hình thức sử dụng máy thi công:
-Doanh nghiệp xây lắp có máy và tự tổ chức sử dụng :
Máy thi công thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp xây lắp, doanh nghiệp có trách nhiệm sử dụng, bảo quản và thực hiện mọi chi phí trong quá trình sử dụng. Hạch toán phải phản ánh toàn bộ chi phí trực tiếp trong quá trình sử dụng máy thi công. Hoạt động của tổ, đội máy thi công chuyên trách có thể là đơn vị hạch toán nội bộ, nếu đơn vị này có tính lãi, lỗ riêng thì có thể tiến hành theo phương thức bán lao vụ cho các bộ phận thi công khác của doanh nghiệp .
-Doanh nghiệp xây lắp thuê một số ca máy hoạt động nhất định
Hai bên đi thuê và cho thuê sẽ tiến hành thanh toán trên cơ sở ca máy hoạt động thực tế và theo đơn giá đã thoả thuận. Bên cho thuê sẽ chịu mọi chi phí trong quá trình máy thi công hoạt động. Doanh nghiệp xây lắp chỉ chịu số tiền thuê số ca máy hoạt động thực tế mà thôi.
*Phân loại chi phí sử dụng máy thi công:
Chi phí sử dụng máy thi công bao gồm chi phí vật liệu, chi phí nhân công và các chi phí khác trực tiếp dùng cho quá trình sử dụng máy phục vụ cho các công trình xây lắp.
Đặc điểm của xây dựng cơ bản là máy thi công phải gắn liền với địa điểm xây dựng mà địa điểm xây dựng lại không cố định. Do vậy, máy thi công phải di chuyển theo các địa điểm thi công theo từng thời kỳ.
Chi phí sử dụng máy thi công được chia làm hai loại:
-Chi phí thường xuyên:Chi phí hàng ngày cần thiết cho việc sử dụng máy thi công. Các chi phí này khi phát sinh được tính hết một lần vào chi phí sử dụng máy, bao gồm:
+Chi phí nhiên liệu, động lực dùng cho máy thi công.
+Tiền lương chính của công nhân điều khiển máy và phục vụ máy.
+Khấu hao máy thi công(tính khấu hao theo số ca máy định mức, hay theo số ca máy thực tế nếu số ca máy thực tế > số ca máy định mức).
+Chi phí thuê máy thi công( nếu có ).
+Chi phí sửa chữa thường xuyên máy thi công.
+Các chi phí khác.
-Chi phí tạm thời:
Chi phí phát sinh một lần tương đối lớn, không định mức hay tính trước được. Các chi phí này khi phát sinh không tính hết một lần vào chi phí sử dụng máy mà được phân bổ theo thời gian sử dụng ở công trường.
+ Chi phí tháo lắp, chạy thử sau khi lắp để sử dụng, kể cả lần lắp sau khi giao trả đặt để máy.
+Chi phí vận chuyển máy thi công đến địa điểm xây dựng, chi phí trả máy về nơi đặt để máy, chi phí di chuyển máy trong phạm vi công trường.
+Chi phí xây dựng, tháo dỡ các công trình tạm phục vụ máy thi công:lều lán che máy, bệ để máy…
Trong chi phí sử dụng máy thi công không bao gồm các khoản mục sau: lương công nhân vận chuyển, phân phối vật liệu cho máy, chi phí trong thời gian máy ngừng hoạt động, chi phí lắp đặt lần đầu cho máy, chi phí sử dụng cho sản xuất phụ…
*Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công:
Chi phí sử dụng máy được coi là một khoản mục trong chi phí sản xuất chung với chi phí tạm thời về sử dụng máy thi công có thể tập hợp vào bên Nợ TK142 để phân bổ dần vào chi phí sử dụng máy thi công.
Sơ đồ hạch toán chi phí sử dụng máy thi công.
(Trường hợp không tổ chức kế toán riêng cho đội máy thi công)
TK154
TK632
TK334
(6)
(1)
TK152
(2)
TK153,142
(3)
TK331,241
(4)
TK214
(5)
Chú giải:
Tiền lương, tiền công phải trả cho công nhân sử dụng máy.
Xuất kho nhiên liệu, vật liệu phục vụ máy thi công.
Chi phí công cụ, dụng cụ phục vụ máy thi công.
Chi phí dịch vụ mua ngoài.
Chi phí khấu hao thiết bị máy.
Kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công.
-Hạch toán chi phí sửa chữa máy móc thiết bị:
Máy móc thiết bị được sử dụng lâu dài vì vậy để duy trì được thời hạn sử dụng của máy cần phải thường xuyên sửa chữa và bảo dưỡng máy móc, thay thế các bộ phận, chi tiết bị hao mòn, hư hỏng trong quá trình sử dụng. Dựa vào hiệu quả kinh tế, doanh nghiệp có thể tự sửa chữa hoặc thuê ngoài sửa chữa. Trường hợp tự sửa chữa, nếu chi phí sửa chữa nhỏ có thể tính hết vào chi phí sửa chữa trong kỳ, nếu chi phí sửa chữa lớn các chi phí được tập hợp vào bên Nợ TK241 rồi kết chuyển vào tài khoản có liên quan.Nếu doanh nghiệp không áp dụng trích trước chi phí sửa chữa thì ghi Nợ TK335,Có TK241.
Trường hợp thuê ngoài sửa chữa phải phản ánh tổng số tiền phải trả cho người nhận thầu: Nợ TK241, Nợ TK133 (nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu trừ thuế), Có TK331. Tuỳ thuộc vào việc doanh nghiệp có tiến hành trích trước hay không để kết chuyển chi phí thực tế về sửa chữa lớn vào TK142 hoặc TK335, Có TK241.
Đối với chi phí sử dụng máy có liên quan tới nhiều công trình, trước hết cũng được tập hợp vào bên Nợ TK 623 sau đó mới phân bổ cho từng công trình căn cứ vào tổng số ca máy làm việc hoặc khối lượng công việc hoàn thành của máy cho từng công trình.
Nợ TK154
Có TK623
4.Nội dung và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất chung.
a.Nội dung và kết cấu của tài khoản 627: “Chi phí sản xuất chung”.
-Tài khoản 627: “Chi phí sản xuất chung”: Tài khoản này để tập hợp tất cả các chi phí có liên quan trực tiếp đến việc phục vụ sản xuất thi công, quản lý sản xuất, chế tạo sản phẩm phát sinh trong kỳ trong các phân xưởng, các bộ phận, đội sản xuất thi công xây lắp (đây là khoản chi phí chung cho cấp công trường).Tài khoản._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29634.doc