Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác tổ chức lao động khoa học cho lao động quản lý tại Công ty cơ khí 79

LỜI MỞ ĐẦU Trong thời đại ngày nay với chính sách đổi mới và mở cửa nền kinh tế. Đối với bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào việc tổ chức hợp lý hoạt động của những người lao động làm trong lĩnh vực quản lý sản xuất có vai trò đặc biệt quan trọng. Vai trò quan trọng xuất phát từ chỗ, những người làm việc trong lĩnh vực quản lý sản xuất là những người làm công việc chuyển bị và lãnh đạo sản xuất về mọi mặt (về công nghệ, tổ chức, kỹ thuật, hành chính) cũng như những công việc để tiêu thụ sản phẩm

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác tổ chức lao động khoa học cho lao động quản lý tại Công ty cơ khí 79, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Hoạt động lao động của họ có tác dụng quyết định hiệu quả sản xuất chung của xí nghiệp. Do vậy mọi công ty dù lớn hay nhỏ muốn tồn tại, đứng vững, cạnh tranh có hiệu quả phải làm tốt công tác “Tổ chức lao động khoa học trong lĩnh vực quản lý”. Hiện nay, một vấn đề nan giải của các công ty quốc doanh đó là việc cán bộ quản lý thì nhiều nhưng năng lực quản lý và hiệu quả công việc của họ còn chưa cao. Điều này dẫn đến một thực trạng của các công ty quốc doanh đó là đa phần các công ty này làm ăn kém hiệu qủa hoặc hiệu quả thấp, và công ty cơ khí 79 cũng không phải là một ngoại lệ. Công ty cơ khí 79 là một công ty quốc doanh trực thuộc tổng cục công nghiệp quốc phòng đang trong thời kỳ khôi phục. Vẫn còn mang nặng mô hình của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trong phong cách lãnh đạo và quản lý. Hầu hết cán bộ quản lý trong công ty đều được chuyển nghành từ quân đội nên phong cách làm việc vẫn còn mang tính quan liêu bao cấp. Đa phần cán bộ quản lý trong công ty tuổi đã tương đối cao, làm việc vẫn chỉ dựa nhiều vào thói quen và kinh nghiệm. Nhiều người năng lực chưa đáp ứng được với yêu cầu của công việc hoặc được bố trí làm việc không theo đúng chuyên môn, ngành nghề đã được đào tạo. Vì vậy để công ty có thể đứng vững và phát triển được thì công việc cần làm đầu tiên đó là hoàn thiện lại công tác tổ chức lao động khoa học cho lao động quản lý của nhà máy một cách hợp lý và phù hợp với điều kiện hiện có của công ty. Qua thời gian thực tập tại công ty cơ khí 79, với những kiến thức đã được học tập tại trường đại học KINH TẾ QUỐC DÂN kết hợp với những kiến thức đã học hỏi được tại công ty cơ khí 79, em nhận thấy rằng trong công tác tổ chức lao động trong lĩnh vực quản lý sản xuất của công ty vẫn còn những công việc cần hoàn thiện hơn nữa. Cùng với sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy giáo NGUYỄN NGỌC QUÂN và ban lãnh đạo công ty, em đã chọn đề tài : ²Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác tổ chức lao động khoa học cho lao động quản lý tại Công ty cơ khí 79” để viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Kết cấu của đề tài gồm 3 phần : Phần I : Lý luận chung về tổ chức lao động khoa học trong lĩnh vực quản lý và vai trò của nó trong các đơn vị sản xuất kinh doanh. Phần II: Phân tích thực trạng công tác tổ chức lao động khoa học cho cán bộ quản lý ở công ty cơ khí 79 . Phần III : Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác tổ chức lao động khoa học cho cán bộ quản lý ở công ty cơ khí 79. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC LAO ĐỘNG KHOA HỌC TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG CÁC ĐƠN VỊ SẢN XUẤT KINH DOANH I-KHÁI NIỆM VỀ TỔ CHỨC LAO ĐỘNG KHOA HỌC 1-khái niệm về tổ chức lao động Tổ chức lao động là quá trình tổ chức quá trình hoạt động của con người, trong sự kết hợp giữa ba yếu tố cơ bản của quá trình lao động và các mối quan hệ qua lại giữa những người lao động với nhau. Như vậy, tổ chức lao động là một phạm trù gắn liền với lao động sống, với việc bảo đảm sự hoạt động của sức lao động. Thực chất, tổ chức lao động trong phạm vi một tập thể lao động nhất định là một hệ thống các biện pháp đảm bảo hoạt động lao động của con người nhằm mục đích nâng cao năng xuất lao động và sử dụng đầy đủ nhất các tư liệu sản xuất. Chúng ta có thể thấy rằng, tổ chức lao động là một bộ phận không thể tách rời của tổ chức sản xuất. Xét về phạm vi tổ chức lao động là một bộ phận của tổ chức sản xuất, tổ chức sản xuất diễn ra trong cả quá trình tự nhiên và quá trình lao động còn tổ chức lao động chỉ diễn ra trong quá trình lao động mà thôi. 2-khái niệm về tổ chức lao động khoa học Tổ chức lao động khoa học được hiểu là tổ chức lao động dựa trên cơ sở phân tích khoa hoc các quá trình lao động và điều kiện thực hiện chúng, thông qua việc áp dụng vào thực tiễn những biện pháp được thiết kế dựa trên những thành tựu của khoa học và kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. Tổ chức lao động khoa học cần phải được áp dụng ở mọi nơi có hoạt động lao động của con người. Tổ chức lao động khoa học phải phát huy được quyền làm chủ tập thể của người lao động. Nó cho phép kết hợp chặt chẽ giữa kỹ thuật và con người trong quá trính sản xuất nhắm sử dụng tôt nhất các nguồn vật chất và lao động để không ngừng tăng năng xuất lao động. Việc vận dụng và áp dụng các thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong quá trình lao động đòi hỏi phải thực hiện một cách đồng bộ và hệ thống các biện pháp về tổ chức kỹ thuật, tâm sinh lý và kinh tế xã hội. 3-Phân biệt tổ chức lao động và tổ chức lao động khoa học. Tổ chức lao động khoa học và Tổ chức lao động giống nhau ở chỗ nó đều là sự tổ chức quá trình hoạt động của con người tác động lên đối tượng lao động. Nó khác nhau ở phương pháp, cách giải quyết và mức độ phân tích khoa học các vấn đề, Tổ chức lao động khoa học chính là quá trình đưa vào Tổ chức lao động những thành tựu đạt được của khoa học và những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến để làm tăng hiệu suất chung của lao động. Tổ chức lao động khoa học chính là Tổ chức lao động ở trình độ cao hơn tổ chức lao động hiện hành. Tổ chức lao động khoa học cần phải được áp dụng ở mọi nơi có hoạt động lao động của con người. Trong các quá trình lao động sản xuất, trong lĩnh vực lãnh đạo và quản lý sản xuất, trong công tác thiết kế vận chuyển, sửa chữa vv... cũng như đối với cả những hoạt động ngoài lĩnh vực sản xuất vật chất (y tế, giáo dục, văn hoá, nghệ thuật...) 4-Mục đích, ý nghĩa và nhiệm vụ của tổ chức lao động khoa học. a-Mục đích Tổ chức lao động khoa học nhằm đạt được kết quả lao động cao đồng thời cải thiện được điều kiện làm việc cho người lao động nhằm bảo đảm sức khỏe, an toàn cho người lao động và phát triển toàn diện người lao động, góp phần củng cố các mối quan hệ xã hội giữa người lao động và phát triển các tập thể lao động. Mục đích này được xuất phát từ việc đánh giá cao vai trò của con người trong quá trình tái sản xuất xã hội. Với tư cách là lực lượng sản xuất chủ yếu, người lao động chính là sáng tạo nên những thành quả kinh tế- kỹ thuật của xã hội và cũng chính là người sử dụng những thành quả đó. Do đó, mọi biện pháp cải tiến Tổ chức lao động, cải tiến tổ chức sản xuất đều phải hướng vào việc tạo điều kiện cho người lao động có hiệu quả hơn, khuyến khích và thu hút con người tự giác tham gia vào qúa trình lao động ngày càng được hoàn thiện. b- Ý nghĩa của tổ chức lao động khoa học Việc áp dụng các biện pháp tổ chức lao động khoa học có ý nghĩa về mặt kinh tế và xã hội rất lớn . Về mặt kinh tế : Trước hết, TCLĐKH cho phép nâng cao năng xuất lao động và tăng cường hiệu quả của sản xuất nhờ tiết kiệm lao động sống và sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất hiện có, TCLĐKH là điều kiện không thể thiếu được để nâng cao năng xuất lao động và hiệu quả của sản xuất. Về mặt xã hội : Tổ chức lao động khoa học không chỉ nâng cao nẵng xuất lao động và hiệu quả của sản xuất, mà còn có tác dụng giảm nhẹ lao động và an toàn lao động, đảm bảo sức khoẻ cho người lao động làm cho ngườu lao động không ngừng hoàn thiện chính mình, thu hút con người tự tham gia vào lao động cũng như nâng cao trình độ và văn hoá của họ. c-nhiệm vụ của tổ chức lao động khoa học. Về mặt kinh tế : Tổ chức lao động khoa học có nhiệm vụ bảo đảm tăng hiệu quả sản xuất trên cơ sở tăng năng xuất lao động, tiết kiệm vật tư tiền vốn. Để giải quyết được nhiệm vụ này thì phải thực hiện các biện pháp nhằm hạn chế những lãng phí về mọi mặt của người lao động. Về xã hội : Tổ chức lao động khoa học có nhiệm đảm bảo thường xuyên nâng cao trình độ văn hoá, trình độ chuyên nghiệp vụ, tay nghề cho người lao động, tạo bầu không khí hoà hợp, những điều kiện thuận lợi để hạn chế ở mức thấp nhất những yếu tố gây trở ngại lao động, bằng mọi cách nâng cao mức độ hấp dẫn của lao động tiến tới hướng biến lao động thành nhu cầu thiết yếu của con người. Về mặt tâm lý : Tổ chức lao động khoa học có nhiệm vụ đảm bảo cố gắng tạo ra những điều kiện thuận lợi để hạn chế tới mức thấp nhất những bất lợi của môi trường và của tính chất công việc để bảo vệ sức khỏe, duy trì khả năng làm việc của người lao động. II-NGUYÊN TẮC CỦA TỔ CHỨC LAO ĐỘNG KHOA HỌC CHO CÁN BỘ QUẢN LÝ Cũng như tổ chức lao động khoa học cho lao động trực tiếp việc áp dụng tổ chức lao động khoa học cho cán bộ quản lý cũng tuân thủ các nguyên tắc sau. 1-Nguyên tắc về tính khoa học của các biện pháp. Đòi hỏi các biện pháp tổ chức klao động khoa học trước hết phải được thiết kế và áp dụng trên cơ sở vận dụng các kiến thức khoa học (thể hiện ở sự sử dụng các nguyên tắc khoa học, các tiêu chuẩn, các quy định, các phương pháp và công cụ đo hiện đại...). Đồng thời, các biện pháp tổ chức lao động khoa học phải đáp ứng được yêu cầu của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội, phải có tác dụng phát hiện và khai thác các khả năng dự trữ để nâng cao năng xuất lao động, phải là cơ sở quyết định để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người thông qua việc làm cho người lao động thích ứng với con người và tạo nên những điều kiện thuận lợi cho con người. 2-Nguyên tắc về tính tổng hợp của việc áp dụng các biện pháp Đòi hỏi các sự việc và vấn đề phải được nghiên cứu, xem xét trong mối quan hệ qua lại hữu cơ với nhau, trong quan hệ giữa bộ phận với toàn bộ và xem xét trên nhiều mặt, chứ không tách rời nhau, không kết luận phiến diện. Mặt khác, khi phân tích và thiết kế các biện pháp phải chú ý đầy đủ những điều kiện cụ thể của phân xưởng, xí nghiệp (điều kiện và tiến độ kỹ thuật, cơ sở vật chất, trình độ tổ chức sản xuất va trình độ tổ chức lao động..). 3-Nguyên tắc về tính đồng bộ của biện pháp. Đòi hỏi khi thực hịên biện pháp, phải triển khai giải quyết đồng bộ các vấn đề có liên quan. Nguyên tắc này đòi hỏi sự tham gia, phối hợp đồng bộ của các ngành, các bộ phận có liên quan trong xí nghiệp và sự tổ chức thống nhất các hoạt động phối hợp đó của cán bộ lãnh đạo các cấp. 4- Nguyên tắc về tính kế hoạch của công tác TCLĐKH Đòi hỏi tất cả các biện pháp tổ chức lao động khoa học phải được kế hoạch hoá trên cơ sở những nguyên tắc và phương pháp khoa học. Mặt khác, các biện pháp TCLĐKH phải có tác dụng trực tiếp nâng cao chất lượng các chỉ tiêu trong kế hoạch xí nghiệp. 5- Nguyên tắc về tính quần chúng của việc xây dựng và áp dụng biện pháp. Nguyên tắc này đòi hỏi khi xây dựng và áp dụng các biện pháp đó tổ chức lao động khoa học phải thu hút được sự tham gia của quần chúng, phát triển và tận dụng được các sáng kiến, sáng tạo của quần chúng. Nguyên tắc này xuất phát từ quan điểm, ngươi lao động là trung tâm của quá trình sản xuất tổ chức lao đọng khoa học. Do đó, người lao động phải được tham gia vào quá trình tạo nên những điều kiện lao động tốt cho chinh mình. Trên cơ sở những nguyên tắc đó, việc áp dụng tổ chức lao động khoa học trong thực tiễn phải hết sức linh hoạt và mền dẻo, thể hiện ở sự lựa chọn những hình thức phương án và phương pháp tiến hanh phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Bất cứ một sự sao chép, vận dụng cứng nhắc nào đều có thể dẫn đến những sai lầm hoặc làm giảm hiệu quả của những biện pháp. III-LAO ĐỘNG QUẢN LÝ, NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG LAO ĐỘNG QUẢN LÝ VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC TỔ CHỨC LAO ĐỘNG. 1-Lao động quản lý, sự phân loại lao động quản lý. Nếu xét theo quan điểm của lý thuyết hệ thống và lý thuyết quản lý thì bất cứ xí nghiệp công nghiệp nào cũng là một hệ thống được tạo thành từ hai hệ thống bộ phận là hệ thống bộ phận quản lý và hệ thống bộ phận bị quản lý. Hệ thống quản lý bao gồm : Hệ thống các chức năng quản lý, hệ thống các bộ phận quản lý (các phòng, ban) và những cán bộ, nhân viên làm việc trong đó ; Hệ thống các mối quan hệ quản lý và hệ thống các phương tiện vật chất - kỹ thuật, các phương pháp quản lý cần thiết để giải quyết các công việc quản lý. Hệ thống bị quản lý là hệ thống sản xuất bao gồm các phân xưởng, bộ phận sản xuất và toàn bộ lực lượng lao động, vật tư máy móc, phương tiện kỹ thuật và phương pháp công nghệ được bố trí và sử dụng trong đó. Nhờ có hoạt động lao động của lao động quản lý mà các chức năng quản lý được thực hiện, làm cho quản lý trở thành quá trình. Trong xí nghiệp, lao động quản lý được phân loại theo 2 tiêu thức sau : + Theo chức năng : Vai trò của họ đối với việc quản lý toàn bộ quá trình sản xuất (tức là theo tính chất của các chức năng mà họ phải thực hiện) + Theo vai trò của họ đối với việc thực hiện chức năng quản lý. a-Theo chức năng, vai trò đối với việc quản lý quá trình sản xuất thì toàn bộ lao động quản lý được phân chia thành : - Nhân viên quản lý kỹ thuật. - Nhân viên quản lý kinh tế. - Nhân viên quản lý hành chính. *Nhân viên quản lý kỹ thuật : Là những người được đào tạo ở trường kỹ thuật hoặc đã được rèn luyện trong thực tế sản xuất có trình độ kỹ thuật tương đương, được cấp trên có thẩm quyền thừa nhận bằng văn bản đồng thời phải là người trực tiếp làm công tác kỹ thuật hoặc tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn công tác kỹ thuật trong xí nghiệp gồm : - Giám đốc hoặc phó giám đốc phụ trách kỹ thuật, quản đốc hoặc phó quản đốc phụ trách kỹ thuật, trưởng phó phòng ban kỹ thuật. - Các kỹ sư, kỹ thuật viên, nhân viên làm ở các phòng ban kỹ thuật *Nhân viên quản lý kinh tế : Là những người làm công tác lãnh đạo, tổ chức, quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp như : Giám đốc hay phó giám đốc phụ trách kinh doanh, kế toán trưởng, các cán bộ, nhân viên công tác ở các phòng, ban, bộ phận như : Kế hoạch thống kê -kế toán tài vụ lao động - tiền lương, cung tiêu, điều độ vv... của xí nghiệp. * Nhân viên quản lý hành chính : Là những người làm công tác tổ chức, nhân sự, thi đua, khen thưởng, quản trị hành chính, văn thư đánh máy, tổng đài điện thoại, phiên dịch phát thanh, lái xe con liên lạc, bảo vệ thường trực, phòng chữa cháy, tạp vụ, vệ sinh, lái xe đưa đón công nhân đi làm vv... b-Theo vai trò đối với việc thực hiện chức năng quản lý, lao động quản lý được phân loại thành : Cán bộ lãnh đạo. Các chuyên gia. Nhân viên thực hành kỹ thuật. Sự phân loại này xuất phát từ cơ sở thực tế là : Bất kỳ một chức năng quản lý nào cũng được tạo thành từ những công việc lãnh đạo (tức là những công việc tổ chức - hành chính) và những công việc chuyển bị thông tin cần thiết cho việc thực hiện các công việc lãnh đạo đó (tức các công việc kỹ thuật). *Cán bộ lãnh đạo : Là những người lao động quản lý trực tiếp thực hiện chức năng lãnh đạo, bao gồm : Giám đốc, phó giám đốc, quản đốc và phó quản đốc, các trưởng nghành, đốc công, trưởng phó các phòng ban trong bộ máy quản lý xí nghiệp. * Các chuyên gia : Là những lao động quản lý không thực hiện chức năng lãnh đạo trực tiếp mà thực hiện các công việc chuyên môn . Bao gồm : Các cán bộ kinh tế, kỹ thuật viên, cán bộ thiết kế và công nghệ và những người cộng tác khoa học ( nếu có ) như : Nhà toán học, tâm lý học, xã hội hoc. *Nhân viên thực hành kỹ thuật : Là những người lao động quản lý thực hiện các công việc đơn giản, thường xuyên lập đi lập lại, mang tính chất thông tin -kỹ thuật và phục vụ bao gồm : Các nhân viên hoạch toán và kiểm tra, các nhân viên làm công tác hành chính, các nhân viên làm công tác phục vụ. Sự phân loại lao động quản lý (theo cả hai tiêu thức) có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu và đánh giá cơ cấu tỷ lệ về số lượng và chất lượng của đội ngũ lao động quản lý, phù hợp với những đặc điểm, quy mô loại hình sản xuất của xí nghiệp. Đồng thời sự phân loại đó còn cho thấy, các loại lao động quản lý khác nhau sẽ có nội dung lao động khác nhau và do đó mà đòi hỏi phải có những yêu cầu về tổ chức lao động cho phù hợp. 2- Nội dung của hoạt động lao động quản lý và những đặc điểm của nó ảnh hưởng đến công tác tổ chức lao động. Các loại lao động quản lý khác nhau có những nhiệm vụ lao động khác nhau và do đó có những nội dung lao động khác nhau. Sự khác nhau đó là do sự khác nhau về chất của các chức năng quản lý quy định. Tuy nhiên, nội dung lao động của tất cả các lao động quản lý các loại đều được tạo thành từ những yếu tố thành phần sau đây. Yếu tố kỹ thuật : Thể hiện ở sự thực hiện các công việc mang tính chất thiết kế và phân tich chuyên môn như : Thiết kế, ứng dụng sản xuất mới, phân tích, thiết kế các phương án cải tiến công nghệ sản xuất, cải tiến tổ chức lao động vv... Yếu tố tổ chức hành chính : Thể hiện sự thực hiện các công việc nhằm tổ chức thực hiện các phương án thiết kế, các quyết định như : Lập kế hoạch, hướng dẫn công việc, điều chỉnh, kiểm tra và đánh giá công việc. Yếu tố sáng tạo thể hiện ở sự thực hiện các công việc như : suy nghĩ tìm tòi, phát minh ra các kiến thức mới, các quyết định, các phương pháp để hoàn thành công việc. Yếu tố thực hành giản đơn thể hiện ở sự thực hiện các công việc đơn giản, được thực hiện theo các quy định, hướng dẫn có sẵn như các công việc có liên quan đến thu nhập và sử lý thông tin, truyến tin và các công việc phục vụ. Yếu tố hội họp và sự vụ thể hiện ở việc tham gia các cuộc hội họp về chuyên môn hoặc giải quyết các các công việc có tính chất thủ tục (ví dụ : ký duyệt giấy tờ). Nôi dung lao động của cán bộ, nhân viên quản lý đều chứa đựng 5 thành phần này sự khác nhau chỉ là ở tỷ trọng thành phần các yêu tố đó. Tuy nhiên, hoạt động lao động của tất cả các cán bộ, nhân viên quản lý đều mang tính chất giống nhau. Những tính chất đó hợp thành những đặc điểm chung của hoạt động lao động quản lý, quy định tính chất đặc thù của các biện pháp TCLĐKH được áp dụng. Những đặc điểm đó bao gồm như sau: 1.Hoạt động lao động quản lý là hoạt động lao động trí óc và mang nhiều tính sáng tạo Đặc trưng chung của hoạt đông lao động quản lý là lao động trí óc. Đặc trưng chung đó chính là đặc điểm cơ bản mà từ đó dẫn đến những đặc điểm khác của hoạt động lao động quản lý và những yêu cấu cần được lưu ý trong quá trình tổ chức lao động cho lao động quản lý các loại. Lao động trí óc được định nghĩa là : Sự tiêu hao sức lao động dưới tác động chủ yếu về các khả năng chí tuệ và thần kinh tâm lý đối với con người trong quá trình lao động. Do đó, khi nói ‘hoạt động lao động quản lý là hoạt động trí óc” có nghĩa là : Đó là hoạt động lao động chủ yếu bẵng trí óc. Vì là hoạt động lao động chủ yếu vì trí óc nên hoạt động lao động quản lý mang đặc tính sáng tạo nhiều hơn so với lao động chân tay. Tính sáng tạo của lao đông quản lý được thể hiện hai mức độ Sáng tạo độc lập : Tạo ra các kiến thức, tri thức mới. Sáng tạo trong phạm vi nhiệm vụ đã được quy định trước sáng tạo về cách thực hiện công việc. 2.Hoạt động lao động quản lý là hoạt động mang tính tâm lý-xã hội cao. Xuất phát từ đặc điểm lao động trí óc nên hoạt động lao động quản lý đặt ra yêu cầu cao về yếu tố thần kinh - tâm lý đối với người lao động, tức là đặt ra yêu cầu cao đối với khả năng nhận biết, khả năng thu nhận thông tin và các phẩm chất tâm lý cần thiết khác (như có tưởng tượng, trí nhớ, khả năng khái quát về tổng hợp vv...). Đồng thời trong quá trình giải quyết nhiệm vụ lao động, tức các công việc quản lý, các cán bộ nhân viên quản lý phải thực hiện nhiều mối quan hệ giao tiếp qua lại với nhau. Do đó, yếu tố tâm lý - xã hội đóng vai trò qua n trọng trong hoạt động lao động, ảnh hưởng tới nhiệt tình làm việc, chất lượng làm việc và tiến độ thực hiện công việc của họ. Mặt khác, đối tượng quản lý ở đây là những người lao động và các tập thể lao động nên đòi hỏi hoạt động lao động quản lý phải mang tính tâm lý - xã hội giữa những người lao động với nhau. 3- Thông tin kinh tế vừa là đối tượng lao động ,kết quả lao động, vừa là phương tiện lao động của cán bộ quản lý. Trong quá trình lao động quản lý, đối tượng lao động không phải là các yếu tố vật chất thông thường mà là các thông tin kinh tế. Bằng hoạt động lao động của mình, lao động quản lý thu nhận và biến đổi các thông tin để phục vụ mục đích quản lý ở các cấp quản lý trong xí nghiệp. Những thông tin kinh tế chưa được xử lý là đối tượng lao động của lao động quản lý còn những thông tin đã được xử lý chính là kết quả của hoạt động lao động quản lý của họ. Mặt khác, thông tin kinh tế là phương tiện để hoàn thành nhiệm vụ của tất cả lao động quản lý các loại. 4. Nhìn chung hoạt động lao động quản lý có nội dung đa dạng, khó xác định và kết quả lao động không biểu hiện dưới dạng vật chất trực tiếp. Đây là một đặc điểm nổi bật của hoạt động lao động quản lý và là một khó khăn cho công tác tỏ chức lao động. Do nội dung công việc đa dạng, khó xác định và kết quả lao động không biểu hiện dưới dạng vật chất trực tiếp (không tính được bằng các số đo tự nhiên như chiếc, cái...) Nên hoạt động lao động quản lý khó theo dõi, khó đánh giá và khó định mức. 5. Hoạt động lao động quản lý là các thông tin các tư liệu thực hiện cho việc hình thành và thực hiện các quyết định quản lý : Một sai sót nhỏ trong hoạt động quản lý có thể dẫn tới ảnh hưởng lớn trong sản xuất, nên đòi hỏi các cán bộ, nhân viên quản lý phải có tinh thần trách nhiệm cao. 3- Phân loại thời gian làm việc của lao động quản lý. Để nghiên cứu và phân tích tinh hình tổ chức lao động trong lĩnh vực quản lý sản xuất, việc phân loại thời gian làm việc của lao động quản lý có ý nghĩa quan trọng. Cơ sở của sự phân loại thời gian làm việc của lao động quản lý có ý nghĩ quan trọng.Cơ sở của sự phân loại thời gian làm việc của lao động quản lý cũng là cấu trúc thời gian làm việc của một người làm việc trong một ngày làm việc như đối với công nhân sản xuất trực tiếp. Tuy nhiên, do những đặc điểm của hoạt động quản lý đã nêu ở trên, đi vào chi tiết việc phân loại thời gian làm việc của lao động quản lý có những điểm khác biệt cần lưu ý. Tương tự như với công nhân sản xuất, thời gian làm việc tổng cộng (danh nghĩa ) của lao động quản lý cũng được chia thành : Thời gian làm việc và thời gian ngưng việc ( bảng 1). Thời gian làm việc được hiểu là thời gian trong đó lao động quản lý thực hiện một công việc thuộc một chức năng quản lý đó. Thời gian ngưng việc là thời gian trong đó lao động quản lý không làm việc. Bảng 1: phân loại thời gian làm việc của lao động quản lý Thời gian làm việc (danh nghĩa) của lao động quản lý Thời gian làm việc Thời gian ngưng việc Thời gian dành cho nghỉ ngơi và nhu cầu cần thiết Thời gian ngưng việc do vi phạm kỷ luật lao động Thời gian ngưng việc do nguyên nhân tổ chức kỹ kỹ thuật Thời gian làm việc thuộc nhiệm vụ lao động Thời gian làm việc không thuộc nhiệm vụ lao động Thời gian phục vụ nơi làm việc Thời gian công tác chính Thời gian chuyển bị kết thúc công việc Hao phí thời gian không được đinh mức Thời gian tổ chức hành chính Thời gian kỹ thuật Thời gian sáng tạo Hao phí thời gian được định mức Bản thân thời gian làm việc được chia ra thành : Thời gian làm công việc thuộc nhiệm vụ lao động và thời gian làm công việc không thuộc nhiệm vụ lao động. Thời gian làm công việc thuộc nhiệm vụ lao động là thời gian để thực hiện những công việc phù hợp với nhiệm vụ lao động đã được nghi trong văn bản. Thời gian làn việc không thuộc nhiệm vụ lao động là thời gian để thực hiện những công việc có liên quan đến nhiệm vụ lao động của người khác. Nếu xét trên giác độ của nội dung lao động thì thời gian làm việc của lao động quản lý được chia ra thành : Thời gian chuyển bị và kết thúc công việc, thời gian công tác chính (hay thời gian tác nghiệp) và thời gian phục vụ nơi làm việc. Thời gian chuyển bị và kết thúc công việc là thời gian giành cho việc chuyển bị và kết thúc một nhiệm vụ lao động. Loại thời gian này xảy ra trước khi bắt đầu và sau khi kết thúc việc thực hiện nhiệm vụ lao động, ví dụ như : Nhận nhiệm vụ, báo cáo công việc đã hoàn thành, chuyển bị các tài liệu, phương tiện kỹ thuật cần thiết trước khi làm việc và thu dọn chúng sau khi hoàn thành công việc... Thời gian phục vụ nơi làm việc là thời gian giành cho việc chyển bị và chăm sóc thường xuyên nơi làm việc, đảm bảo các điêu kiện tổ chức, vật chất- kỹ thuật cần thiết để công việc có thể tiến hành bình thường. Ví dụ : Nhận và bàn giao ca, chuẩn bị các tài liệu, phương tiện cần thiết vào đầu ca và thu dọn chúng vào cuối ca. Thời gian làm công tác chính (thời gian tác nghiệp) là thời gian cần thiết trực tiếp để giải quyết nhiệm vụ lao động. Do đặc điểm của hoạt động quản lý là hoạt động trí óc có nội dung rất phong phú và đa dạng, đồng thời để giải quyết nhiệm vụ lao động, người lao động phải thực hiện nhiều loại công việc khác nhau nên thời gian tác nghiệp của lao động quản lý không được phân chia ra thời gian tác nghiệp chính và thời gian tác nghiệp phụ, như đối với công nhân sản xuất mà được phân chia ra thành các loại thời gian thực hiện các tác nghiệp lao động cần thiết để giải quyết nhiệm vụ lao động. Tùy thuộc vào nội dung của chức năng quản lý được đảm nhận mà thời gian công tác chính của lao động quản lý bao gồm một cơ cấu nhất định 3 loại thời gian sau : Thời gian tổ chức hành chính : Là hao phí thời gian cần thiết để tổ chức quá trình lao động và hướng dẫn kiểm tra công việc cũng như thời gian để giải quyết các công việc thủ tục - hành chính. Thời gian sáng tạo : Là việc dành cho công việc phân tích tình hình kinh tế, tìm tòi và đề xuất các giải pháp quản lý tối ưu, thời gian chuyển bị cho các chương trình, dự án thiết kế mới hoặc thời gian để hình thành kiến thức mới, các phát minh. Thời gian làm công việc kỹ thuật : Là thời gian để thực hiện các công việc đơn giản, thường xuyên lặp đi lặp lại, có liên quan đến việc phục vụ thông tin cho các nơi làm việc và các bộ phận quản lý. Ngoài ra, thời gian công tác chính còn có thể được phân chia thành : Thời gian hoàn thành công việc đã được cơ khí hoá và thời gian thực hiện công việc chưa được cơ khí hoá. Thời gian ngưng việc gồm có 3 loại Thời gian dành cho nghỉ ngơi và nhu cầu cần thiết : Là thời gian nghỉ nhằm tránh mệt mỏi, đảm bảo khả năng làm việc bình thường, thời gian vệ sinh cơ thể và giải quyết các nhu cầu tự nhiên. Thời gian ngưng việc do nguyên nhân tổ chức kỹ thuật : Là thời gian ngưng việc do những rối loạn trong tiến trình lao động do lý do tổ chức kỹ thuật, ví vụ như : Chuẩn bị công việc không đúng thời hạn, chuẩn bị nơi làm việc không tốt, các phương tiện kỹ thuật không hoạt động bình thường vv... Thời gian ngưng việc do vi phạm kỷ luật lao động : Bao gồm đến muộn, nghỉ sớm trước giờ quy định, tự ý bỏ khỏi nơi làm việc vì lý do cá nhân... IV-NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TỔ CHỨC LAO ĐỘNG KHOA HỌC TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ SẢN XUẤT 1-Phân công và hiệp tác lao động. Một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của TCLĐKH trong lĩnh vực quản lý sản xuất là thực hiện phân công lao động hợp lý. Phân công lao động trong lĩnh vực quản lý sản xuất cho thấy sự phân chia toàn bộ công việc quản lý thành nhưng phần việc nhỏ và trao cho các lao động quản lý có nghề nghiệp và trình độ phù hợp đảm nhận. Phân công lao động quản lý được thực hiện trên 3 mặt : + Theo vai trò, ý nghĩa của công việc đối với quá trình quản lý sản xuất. + Theo đặc trưng của công việc và nội dung của quá trình lao động -tức là theo ”công nghệ quản lý”. + Theo phức độ phức tạp và tính cách trách nhiệm của công việc. a-Theo vai trò,ý nghĩa của công việc đối với quá trình quản lý sản xuất : Thì toàn bộ các công việc quản lý được phân chia thành các chức năng quản lý (ví dụ : Các chức năng quản lý trực tuyến, chức năng chuẩn bị sản xuất về công nghệ, chức năng kế hoạch hoá kinh tế kỹ thuật, chức năng hoạch toán...) hình thức phân công này biểu hiện dạng tổng quát nhất về sự phân chia các công việc quản lý trong xí nghiệp, quyết định đặc thù cấu trúc tổ chức của xí nghiệp cũng như cơ cấu lao động quản lý về nghề nghiệp và trình độ chuyên môn. b. Phân công lao động theo công nghệ quản lý : Thực chất là phân chia toàn bộ công việc quản lý theo quá trình thông tin, trên cơ sở đó mà bố trí lao động phù hợp vào các khâu của quá trình thông tin để đảm bảo xử lý thông tin chính xác, nhanh chóng, đảm bảo chất lượng của các quyết định quản lý. Kết quả của hình thức phân công này là làm hình thành cơ cấu chuyên môn, nghề nghiệp, trình độ theo từng chức năng. c. Theo mức độ phức tạp : Toàn bộ công việc quản lý được phân chia ra thành những phần việc nhỏ và giao cho từng người thực hiện. Mức độ phức tạp của công việc được thể hiện ở các mức độ yêu cầu khác nhau về các điều kiện “chức trách”, phải biết yêu cầu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ được quy định trong bản tiêu chuẩn nghiệp vụ viên chức nhà nước. Phân công lao động trong lĩnh vực quản lý sản xuất đặt ra yêu cầu trong hiệp tác lao động. Đó là sự phối hợp hoạt động giữa các cá nhân trong nội bộ nhóm tổ, giữa các nhóm tổ trong nội bộ bộ phận và giữa các bộ phận quản lý với nhau nhằm thực hiện tốt chức năng quản lý. Hiệp tác lao động hợp lý biểu hiện ở sự thực hiện tốt các quan hệ phối hợp công tác khi thực hiện các công việc quản lý, các dự án, biện pháp tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý và tổ chức lao động, ở sự chấp hành các quan hệ báo cáo, cung cấp thông tin giữa các cá nhân và các bộ phận quản lý. ở việc tổ chức hợp lý các dòng thông tin trong bộ máy quản lý. Điều kiện để đảm bảo hiệp tác lao động tốt là phải có sự phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm giữa các cá nhân và các bộ phận quản lý cũng như quy định rõ ràng các mối quan hệ phối hợp công tác, báo cáo, cung cấp thông tin giữa họ với nhau. 2- Tổ chức nơi làm việc. Cũng như nơi làm việc của công nhân sản xuất, nơi làm việc của lao động quản lý là đơn vị thấp nhất về tổ chức trong xí nghiệp mà ở đó xảy ra hoạt động lao độngcủa họ để thực hiện các chức năng quản lý. Tổ chức nơi làm việc cho lao động quản lý được phân loại thành : a. Theo tư thế lao động nơi làm việc của lao động quản lý gồm 2 loại : + Nơi làm việc ngồi : Phổ biến ở hầu hết các lao động quản lý. + Nơi làm việc đứng - ngồi : Xuất hiện ở một số lao động quản lý thực hiện những công việc đặc biệt(vẽ kỹ thuật, thiết kế). b. Theo mức độ chuyên môn hoá: Là nơi làm việc của lao động quản lý được chia thành : + Nơi làm việc chuyên môn hoá : Là nơi làm việc được thiết kế cho những loại công việc đặc biệt như nơi làm việc của giám đốc, giám đốc, nơi làm việc của kỹ sư thiết kế, của nhân viên đánh máy, thư ký vv.. + Nơi làm việc vạn năng là những nơi làm việc không có yêu cầu đặc biệt về trang bị, bố trí và điều kiện lao động như nơi làm việc của hầu hết các chuyên gia, nhân viên thực hành về kinh._. tế hành chính. c. Theo tính chất ổn định về địa điểm : Nơi làm việc của lao động quản lý được chia thành : + Nơi làm việc cố định : Bao gồm hầu hết các nơi làm việc của lao động quản lý + Nơi làm việc di động chỉ có một số nhân viên phục vụ như nhân viên tạp vụ vệ sinh, nhân viên chuyển tài liệu thư từ. d. Theo sự ổn định về thời gian : Nơi làm việc của lao động quản lý được chia thành : + Nơi làm việc liên tục : Là nơi làm việc luôn gắn liền với người lao động cụ thể bao gồm hầu hết các nơi làm việc của lao đọng quản lý. + Nơi làm việc tạm thời là nơi làm việc không gắn liền với những lao động cụ thể mà được thiết kế dành cho những nhu cầu tạm thời trong một thời gian. e. Theo số lượng người làm việc : Nơi làm việc của lao động quản lý được phân loại thành + Nơi làm việc cá nhân : Tại đó có một người làm việc, bao gồm hầu hết các nơi làm việc trong lĩnh vực quản lý. + Nơi làm việc tập thể, tại đó có nhiều người cùng làm việc. 3- Điều kiện làm việc của lao động quản lý Hoạt động của lao động quản lý là hoạt động lao động trí óc mang nhiều đặc tính sáng tạo. Đối với lao động quản lý, mặc dù những đòi hỏi về thể lực không phải là nhỏ nhưng yếu tố đòi hỏi về thần kinh - tâm lý vẫn trội hơn.Từ đặc điểm chung đó của hoạt động lao động, lao động quản lý có những yêu cầu riêng về điều kiện lao động, điều kiện của lao động trí óc. a. Chiếu sáng và màu sắc : Hoạt động lao động quản lý là hoạt động lao động chủ yếu có liên quan đến việc thu nhận và sử lý ,chuẩn bị thông tin.Các công việc thường được thực hiện dưới dạng, đọc, viết, vẽ, đánh máy, phân loại... Do đó cần phải tổ chức chiếu sáng tốt cho cán bộ quản lý. b. Tiếng ồn : Đối với lao động quản lý vấn đề chống tiếng ồn đặc biệt quan trọng, vì hoạt đông trí óc đòi hỏi phải được yên tĩnh và tập trung tư tưởng. c. Bầu không khí tập thể là yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới khả năng lao đông trí óc và do đó tới hiệu quả lao động quản lý. Những tập thể đoàn kết, thân ái thương yêu nhau, tin tưởng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ thường là những tập thể có hiệu quả công tác cao ; Trái lại, những mâu thuẫn trong tập thể, những va vấp trong mối quan hệ bạn bè, gia đình đều có tác dụng làm giảm sút một cách rõ rệt hiệu xuất của lao động quản lý. Tạo ra một bầu không khí tốt đẹp trong tập thể là kết qủa của việc thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp về tổ chức, giáo dục và cưỡng bức những biện pháp đó. 4- Định mức các công việc quản lý. Do những đặc điểm của hoạt động lao đông quản lý nên định mức các công việc phức tạp hơn định mức các công việc sản xuất. Nhiệm vụ của định mức lao động quản lý là + Xác định số lượng lao động của từng dạng công việc. + Xác định số lượng người cần thiết. Việc xác định lương lao động của từng dạng công việc nhằm thực hiện phân công lao động hợp lý, trả lương theo số lượng và chất lượng lao động, phân tích sự hợp lý của quá trình lao động ,phân tích mức năng xuất lao động. Xác định nhu cầu về các phương tiện kỹ thuật và để tính giá thành công việc thực hiện còn việc xác định số lượng người cần thiết là để định ra những cân đối hợp lý giữa các loại cán bộ, xây dựng bộ máy quản lý hợp lý, hoạch hoá biên chế và quỹ lương cần thiết bảo đảm tổ chức lao động quản lý có hiệu quả cao. Các loại mức lao động quản lý - để định mức lao động người ta chia lao động quản lý thành 3 nhóm. a. Những cán bộ mà khố công việc có thể tiêu chuẩn hoá được. Ví dụ nhân viên đánh máy, in bản vẽ. b.Nhóm cán bộ mà số lượng cần thiết được tính bằng mức quản lý. c.Nhóm cán bộ mà số lượng xác định bởi nhân tố khác, xuất phát từ đặc điểm chức năng và nhiệm vụ họ phải thực hiện. Để định mức cho nhóm thứ nhất thường sử dung các loại mức thời gian, mức sản lượng, mức phục vụ. Số lượng nhóm thứ hai được xác định dựa trên mức quan lý. Mức quản lý là số người hay số bộ phận do một người hoặc một nhóm người lãnh đạo phụ trách với trình độ lành nghề phù hợp trong điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định. V-Ý NGHĨA CỦA VIỆC HOÀN THIỆN TCLĐKH CHO CÁN BỘ QUẢN LÝ Ở CÔNG TY CƠ KHÍ 79 Việc hoàn thiện công tác tổ chức lao động khoa học ở công ty cơ khí 79 có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc phát triển và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Hoàn thiện công tác tổ chức lao động khoa học góp phần làm tăng hiệu quả kinh tế, trong sản xuất và kinh doanh sản phẩm, đảm bảo các sản phẩm có chất lượng cao phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng làm tăng khả năng canh tranh của các sản phẩm nhà máy sản xuất ra. Việc hoàn thiện công tác tổ chức lao động khoa học cho phép nhà máy sử dụng được hợp lý lực lượng cán bộ quản lý của công ty một cách có hiệu quả nhất trong điều kiện hiện có của công ty tránh những lãng phí không cần thiết. Hoàn thiện công tác tổ chức lao đông khoa học tạo ra sự phân công và hiệp tác lao động tốt hơn. Làm cho việc phối hợp giữa các phòng ban nhịp nhàng và linh hoạt hơn tạo điều kiện cho việc ra quyết định được thực hiện một cách nhanh chóng. Hoàn thiện công tác tổ chức lao động khoa học còn tạo ra bầu không khí tâm lý tốt trong nhà máy. Các cán bộ quản lý làm việc trong bầu không khí tâm lý thoải mái sẽ làm tăng tính sáng tạo của họ và như vậy hiệu xuất làm việc của họ sẽ được nâng cao. CHƯƠNGII PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC LAO ĐỘNG KHOA HỌC CHO CÁN BỘ QUẢN LÝ Ở CÔNG TY CƠ KHÍ 79 I-KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CƠ KHÍ 79 1-Quá trình hình thành và phát triển, nhiệm vụ qua các giai đoan của công ty cơ khí 79. 1.1-Thời kỳ trước đổi mới(1971-1989). a. Tiền thân của công ty cơ khí 79. Z179 là một nhà máy sản xuất công nghiệp quốc phòng để góp phần xây dựng lực lượng vũ trang ngày một phát triển vững mạnh. 30 năm qua, nhà máy đã vinh dự nhiều sự kiện lịch sử trọng đại, chứng kiến những bước trưởng thành vượt bậc của đất nước trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ những yêu cầu và nhiệm vụ cần phải xây dựng nghành vận tải quân sự có một đội ngũ cán bộ, công nhân giỏi, có một nền sản xuất với công nhân kỹ thuật tiên tiến. Trước tình hình đó ngày 15/3/1971 cục quản lý xe ra quyết định tách xưởng mẫu khỏi phòng công nghệ và chính thức thàng lập nhà máy A179. Trong nghị quyết đảng bộ lần thứ nhất ngày 11/3/1972 có ghi “Đến tháng 3 /1971 nhà máy được chính thức thành lập” Từ đó đến nay nhà máy mang tính độc lập về hành chính nhiệm vụ. b. Thời kỳ kiện toàn tổ chức và thành tích đạt được trong những ngày đầu xây dựng nhà máy (3/1971-12/1973). Để đáp ứng dược yêu cầu và nhiệm vụ được giao nên sau khi thành lập A179 nhanh chóng phát triẻn về mọi mặt. Cơ cấu tổ chức ngày một hoàn thiện. Cục chỉ định ban giám đốc, ban cán bộ chủ chốt. Nhiệm vụ của nhà máy trong giai đoạn này là nghiên cứu chế thử và đi vào sản xuất hàng loạt động cơ xe trường sơn, chế tạo trục khuỷu, máy nén khí, bơm trợ lực tay lái, bầu giảm sóc ngang, cần gạt mưa và nhiều bộ ghá lớn nhỏ cho các nhà máy bạn trong cục. Cuối tháng 6/1972 cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc mỹ ngày càng quy mô và ác liệt. Cục qủan lý xe chỉ thị cho A179 khẩn trương đưa nhà máy đi sơ tán thành 3 khu + Khu A : Để lại miêu nha toàn bộ phân xưởng đúc tiếp tục sản xuất và bảo vệ nhà máy. + Khu B : Gồm toàn bộ học sinh học nghề và cán bộ phụ trách lên xuân mai -hoà bình. + Khu C : Lực lượng chủ yếu của nhà máy sơ tán tại xã đại ơn - trúc sơn -hà tây. Cuối năm 1972 nhà máy hoàn thành nhiệm vụ và có nhiều thành tích được hội đồng chính phủ tặng huân chương chiến công hạng 3. Trong năm 1973 nhiêm vụ chính của nhà máy là tiếp tục sản xuất động cơ xe trường sơn và tiếp tục nghiên cứu chế thử các mặt hàng còn tồn đọng lại của năm 1972 đó là bơm trợ lực tay lái và máy nén khí. c.Nhà máy trong những năm tháng xây dựng sau chiến tranh bắn phá lần 2(cuối1973 -cuối1974). Đầu quý IV-1973 thủ trưởng VŨ VĂN ĐÔN chỉ định cho A179 về việc chuyển bị di chuyển toàn bộ đơn vị về địa điểm cũ của A175 tại xã tứ hiệp Thanh Trì -Hà Nội. Nhiệm vụ trước mắt của nhà máy lúc này là sản xuất để đảm bảo kế hoạch năm. Một mặt tổ chức các đội xung kích về tứ hiệp để xây dựng mặt bằng với diện tích là 87 nghìn m2 với 38 nghìn m 2 là nhà xưởng và nơi làm việc cùng với 1 nhà ăn với hơn 500 chỗ ngồi. Cuối tháng 12-1973 đã bắt đầu di chuyển các trang thiết bị máy móc và nhân lực về địa điểm mới ở xã tứ hiệp. Đến đầu quý III năm 1974 việc di chuyển cơ bản đã hoàn thành. Nhiệm vụ của nhà máy trong giai đoạn này là tiếp tục sản xuất các mặt hàng đã chế thử thàmh công. Ngoài sản phẩm làm theo ké hoạch nhà máy còn sản xuất theo đơn đặt hàng của các cơ sở bên ngoài và trong quân đội. Ngày 10-9-1974 để đáp ứng với yêu cầu và nhiệm vụ mới tổng cục kỹ thuật được thành lập và A179 được đổi thành Z179 thuộc tổng cục kỹ thuật. Quân số của nhà máy lúc này lên tới 1134 người biên chế trong 12 bộ phận của các phòng ban phân xưởng. d.Thời kỳ phát triển sau khi sát nhập. Đầu năm 1975 ba cơ sở được sát nhập vào Z179. Cơ sở I : Nhà máy bánh răng gồm 440 người và các thiết bị sản xuất bánh răng. Cơ sở II : Nhà máy rèn dập gồm 408 người và một số thiết bị như :máy ép 250 tấn, một số máy búa, máy dập. Cơ sở III : Nhà máy rèn mạ gồm hơm 300 người . Kể từ tháng 3 -1975 đến tháng 10-1976 ba bộ phận trên lần lượt được sát nhập vào Z179. Tổng cục chỉ thị đồng chí NGUYỄN CHÍNH làm quyền giám đốc. Năm 75-76 nhà máy đổi sang sản xuất bánh răng côn xoắn các loại, trục then hoa, máy nén khí. Từ những bộ phận phân tán nhỏ bé ban đầu nhà máy đã tổ chức thành công một cơ sở sản xuất lớn ngày một phát triển về mọi mặt . Tổ chức nhà máy lúc này gồm 1100 người, 16 phòng ban, 6 phân xưởng, 42 kỹ sư, 6 đại học nghiệp vụ, 677 công nhân kỹ thuật, bậc thợ bình quân là 3.3 và 262 nhân viên khác. Năm 1975 cùng với việc di chuyển hàng ngàn tấn trang thiết bị máy móc nhà xưởng đã hoàn thành 100,01% sản lượng hàng hoá đạt 3486900 đồng. Năm 1976 đạt 101,1 % sản lượng hàng hoá đạt 5486900 đồng. Và cả 2 năm nhà máy đều được tổng cục tặng bằng khen. Trung tuần tháng 6-1977 tổng cục kỹ thuật điều đồng chí HOÀNG KIM KHẢI về làm giám đốc nhà máy. Năm 1978- 1980, để đối phó với tình hình thực tê giữa tháng 7/1978 nhà máy chuyển sang chế độ làm việc và sinh hoạt theo thời chiến. Từ năm 1978 -1980 nhà máy đã sản xuất nhiều mặt hàng đột xuất để phục vụ kịp thời cho chiến đấu : Như sản xuất kích xe tăng, sản xuất các công trình xa để phục vụ sửa chữa lưu động. sản xuất 2000 gạt mưa,10000 kẹp cáp, 10 triệu đạn bi, 1 triêu con dao tông, số ô tô. Đến năm 1982 sau khi về làm giám đốc nhà máy đồng chí NGUYỄN MÃO đã có một số thay đổi khá sâu sắc. Chỉ trong một thời gian ngắn nhà máy đã đưa toàn bộ các phân xưởng vào hoạch toán kinh tế và áp dụng nhiều biên pháp trả lương hết sức mới (như : Khoán thưởng, trả lương theo sản phẩm không hạn chế, trả lương theo sản phẩm nhập kho, trả lương theo khoán từng việc, giao quỹ lương cho các xưởng). Hàng phục vụ kinh tế phát triển như : Líp xe đạp, máy tuốt lúa. Vì có sự thay đổi tích cực trong sản xuất nên giá trị sản lượng có năm 1982 bằng cả 2 năm 1980, 1981 cộng lại. Đến năm 1987 nhiều mặt hàng phục vụ kinh tế phát triển như: Líp xe đạp, máy tuốt lúa. 1.2- thời kỳ sau đổi mới(1990 - nay). Sau khi đồng chí NGUYỄN VĂN NINH lên làm tổng bí thư nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa VIỆT NAM đã mở ra chođất nước một con đường mới. Dần dần xoá bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, công nhận các thành phần kinh tế và chỉ đạo cho đất nước phát triển kinh tế theo hướng “Nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước” Đứng trước cơ hội mới của đất nước nhà máy Z179 cũng đã vào cuộc cùng đất nước xây dựng nền kinh tế mớivới rất nhiều cơ hội mới cũng như những thách thức đang chờ đón nhà máy. Được sự đồng ý của cấp chủ quản và tập đoàn DAEWOO thành lập liên doanh VIDAMCO. Phần lớn đất của công ty được dành cho liên doanh nên mặt bằng sản xuất bị thu hẹp đi rất nhiều. Trước khi liên doanh nhà máy Z179 có diện tích là gần50 nghìn m2. Sau khi liên doanh nhà máy đã cắt đi 38 nghìn m2 đất cho liên doanh nên hiện nay diện tích của nhà máy chỉ còn 11nghìnm2. Cùng với sự thu hẹp của mặt bằng thì một phần lớn cán bộ công nhân của nhà máycũng chuyển sang làm việc tại liên doanh này. Trong khi đó công ty lại không có các mặt hàng quốc phòng ,cùng với sự bất ổn nội bộ, sự vướng măc trong sản xuất kinh doanh đã làm cho công ty không những không phát triển lên được mà còn ngày càng trở nên tụt hậu so với nhiều doanh nghiệp khác trong quân đội. Cố gắng tìm lối thoát và bươn trải để giữ vững sản xuất đảm bảo việc làm cho cán bộ công nhân viên của công ty. Công ty cơ khí 79 luôn phải đứng trước nhiều thách thức và sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường nhất là về giá thành sản phẩm. Bất lợi của công ty là nguồn vốn quá ít, máy móc thiết bị đã cũ, thiếu đồng bộ và xuống cấp. Việc sản xuất đa phần là ở mức nhỏ lẻ, đơn chiếc, ít có loại lớn nên hiệu quả thấp. Đời sống và việc làm của hàng trăm cán bộ công nhân thường xuyên bị ảnh hưởng. Tình hình đó cứ kéo dài và làm cho nhiều người bi quan lo lắng, thiếu yên tâm và không gắn bó với công ty. Năm qua cùng với sự hỗ trợ nhiều mặt của cơ quan chủ quản nhất là về nguồn vốn đã tạo thêm điều kiện cho công ty vững bước phát huy khả năng nghành nghề của mình. Công ty đã được đầu tư mua sắm máy móc và sửa chữa thiết bị sản xuất bánh răng. Việc tinh giảm biên chế và từng bước ổn định tổ chức cũng được tiến hànhlàm cho bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. Cùng với việc sản xuất đáp ứng cho nhu cầu khách hàng như các loại phụ tùng cho đường dây tải điện, phụ tùng cho nghành sản xuất xi măng, nghành đường sắt, nghành dầu khí. Công ty đẩy mạnh nghiên cứu, thiết kế chế tạo thành công nhiều mặt hàng mới như : Bánh răng hộp số máy nông nghiệp, hộp số hành tinh vi sai cho nhà máy cơ khí quang trung. 2- Những đặc điểm của nhà máy ảnh hưởng tới công tác tổ chức lao động khoa học. 2.1- Đặc điểm về lao động- tiền lương. 2.1.1- Đặc điểm về lao động. 2.1.1.1- theo giới tính. Bảng2 : phân loại lao động theo giới tính. STT Chỉ tiêu 1999 2000 2001 6-2002 Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % 1. Tổng 236 100 268 100 264 100 276 100 2. Nữ 88 37 90 33.6 98 37.1 102 37 3. Nam 148 63 178 66.4 166 62.9 174 63 (Nguôn số liệu : phòng tổ chức lao động - công ty cơ khí 79) Theo các số liệu của bảng trên ta thấy rằng từ năm 1999 đến những tháng đầu năm 2002 tỷ lệ lao động nữ của nhà máy luôn ổn định ở mức xấp xỉ 37% và tỷ lệ lao động nữ trong tổng số lao động trực tiếp sản xuất cung ổn định ở mức 32%. Là một nhà máy cơ khí với tỷ lệ nữ như vậy có thể nói là tương đối cao. Điều này đặt ra cho các nhà tổ chức lao động của nhà máy (cụ thể là phòng tổ chức lao động) phải bố trí xắp xếp công việc của nhà máy một cách hợp lý sao cho vừa đảm bảo ổn định sản xuất hoàn thành kế hoạch sản xuất đặt ra vừa đảm bảo các quyền lợi của người lao động (đặc biệt là đối với lao động nữ ) do nhà nước quy định. Hiện nay, nhà máy vẫn duy trì quỹ của hội phụ nữ và quỹ này được hình thành từ một phần trích từ nhà máy và từ sự đóng góp của người lao động nữ trong nhà máy. Quỹ này dùng để giúp đỡ những người lao động nữ khi họ gặp rủi ro, khó khăn trong cuộc sống. Điều này thể hiện sự quan tâm của nhà máy đến những lao động nữ và đó chính là những động lực để những người lao động luôn trung thành và làm việc hết mình vì công ty. 2.1.1.2- Theo trình độ chuyên môn. Bảng3 : phân loại lao động theo trình độ chuyên môn STT Chỉ tiêu Năm1999 Năm2000 Năm2001 6-2002 Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % 1. Tổng số 236 100 268 100 264 100 276 100 2. Đại hoc + cao đẳng 25 10.6 33 12.3 35 13.3 42 15.2 3. Trung cấp 42 17.8 49 18.3 53 20 79 28.6 4. Sơ cấp 169 71.6 186 69.4 176 66.7 155 56.2 (Nguồn số liệu : phòng tổ chức lao động - công ty cơ khí 79) bảng4 : trình độ lành nghề của công nhân trong nhà máy Z179 STT Bậc thợ Năm1999 Năm2000 Năm2001 Năm2002 Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % 1. 2/7 4 2.3 2 1 2 1 1 0.6 2. 3/7 30 17.3 31 15.2 28 14.5 27 12.9 3. 4/7 28 16.2 36 17.6 33 17.1 37 17.9 4. 5/7 34 19.7 43 21.1 39 20.2 42 20.6 5. 6/7 52 30 62 30.4 60 31.1 67 32.1 6. 7/7 25 14.5 30 14.7 31 16.1 35 16.7 7. Tổng 173 100 204 100 193 100 209 100 (Nguồn số liệu : phòng tổ chức lao động - công ty cơ khí 79) Hiện nay toàn nhà máy có đội ngũ cán bộ công nhân viên giàu kinh nghiệm đã làm việc với nhau trong một thời gian dài, gồm có : 42 người có trình độ đại học (chiếm 15.2), 79 người có trình độ trung cấp (chiếm 28.6%),155 người có trình độ sơ cấp (chiếm 56,2%). So với các năm trước trình độ của cán bộ công nhân viên đã tăng nên một cách rõ rệt nhờ nhà máy đã chú trọng đến công tác đào tạo và huấn luyện cùng với việc tuyển mộ, tuyển chọn những người có năng lực về nhà máy để phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới : Cụ thể đến tháng 6-2002, số người có trình độ đại học tăng 4.6% so với năm 1999, 2.9% so với năm 2000 và 1.9% so với năm 2001 ; Số người có trình độ trung cấp tăng 10.6% so với năm 1999, 15.9% so với năm 2000, 8.6% so với năm 2001 ; Số người có trình độ sơ cấp đã giảm đi. Đối với công nhân lành nghề trực tiếp sản xuất thì trình độ của công nhân cũng được nâng cao hơn. Bảng5 : cấp bậc bình quân của công nhân Cấp bậc công nhân bình quân 1999 2000 2001 6-2002 5.01 5.09 5.14 5.21 (Nguồn số liệu : phòng tổ chức lao động – công ty cơ khí 79) Như vậy, với những chính sách đổi mới đúng đắn nhà máy đã có đội ngũ cán bộ công nhân viên ngày một tăng về quy mô lẫn trình độ. Tuy nhiên, hiện nay với 15.6% cán bộ công nhân viên có trình độ đại học, còn lại là có trình độ trung cấp và sơ cấp thì đây là một con số còn khiêm tốn đối với một công ty như công ty cơ khí 79. 2.1.2-Về tiền lương: Công ty cơ khí 79 là công ty sản xuất theo dây truyền bán tự động, vì vậy, mọi công việc bắt buộc phải hoạt động liên tục. Hiện nay nhà máy đang áp dụng đồng thời hai hình thức trả lương cho cán bộ công nhân viên của nhà máy : Đối với công nhân sản xuất : Nhà máy áp dung hình thức lương khoán theo sản phẩm cho từng xưởng. Sau đó các xưởng phải thanh toán lương cho từng công nhân theo đúng chất lượng công việc và cấp bậc công viêc của họ. Đối với cán bộ quản lý nhà máy áp dụng hình thức trả lương thời gian. 2.3-Đặc điểm máy móc thiết bị : Qua bảng tình hình máy móc thiết bị của nhà máy chúng ta có thể khái quát nhận thấy rằng hiện nay nhà máy có hệ thống máy móc đã cũ kỹ và lạc hâụ. Cụ thể là phần lớn máy móc ở cấp độ 4 (78,74%), cấp độ 5 là 18,96%, còn một phần rất ít ở cấp độ 3 là (2.3%). Bảng 6 : tình hình trang thiết bị máy móc của nhà máy S TT Tên loại thiết bị Số lượng Tìnhtrạng sử dụng Cấp chính xác đang sử dụng Không sử dụng 1 2 3 4 5 1. Máy tiện 31 31 0 31 2. Máy phay. Phay vạn năng 13 13 0 13 Phay côn xoắn 3 3 1 2 Phay lăn 9 6 3 9 3. Máy mài Mài phẳng 5 3 2 3 2 Mài moài 4 4 4 Mái lỗ 3 3 3 Các loại khác 10 2 8 5 5 4. Máy khoan 16 11 5 12 4 5. Máy doa 3 1 2 3 6. Máy bào 3 2 1 2 1 7. Xọc răng 2 2 2 Xọc đơn 4 3 1 3 1 8. Máy hàn 9 5 4 5 4 9 Máy búa 5 5 5 10. Dập+ép ma sát 4 3 1 1 2 1 11. Lò nhiệt luyện Tôi h45 2 2 2 Lò tần số 1 1 1 Lò thấm than Các lò # 4 2 2 4 12. Lò đúc thép 1 1 1 13 Hệ mạ. 1 1 1 14 Các thiết bị # 42 24 15 24 15 Tổng số 174 130 44 0 0 4 137 33 (Nguồn số liệu : phòng cơ điện - công ty cơ khí 79) Giải thích:Cấp 1:máy nhập mới chưa sử dụng Cấp 2:máy mới sử dụng còn 80% Cấp3:máy còn 60% Cấp4:máy còn 40 % Cấp5:máy chuyển đại tu ,thanh lý. Máy móc của nhà máy hiện nay có nhiều đã hư hỏng và xuống cấp, công suất máy hiện nay chỉ đạt đựoc khoảng 60% công suất thiết kế. Đa phần là các máy ở trong tình trạng phải sửa chữa hoặc nâng cấp cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Điều này dẫn đến việc làm của người lao động không ổn định. Từ đó dẫn đến việc quản lý người lao động gặp không ít khó khăn.do máy móc trục trặc, công việc không ổn định vì phải phụ thuộc vào máy móc dẫn đến người lao động không yên tâm công tác làm cho năng xuất lao động và hiệu quả đạt được không cao. Từ đó đòi hỏi người quản lý đặc biệt là cán bộ ở phòng quản trị nhân lực cần phải thường xuyên giám sát và đôn đốc người lao động để họ yên tâm công tác đảm bảo kế hoạch sản cho nhà máy đã đề ra. 2.4- Kết quả sản xuất kinh doanh của nhà máy trong những năm qua. Bảng7 : kết quả sản xuất kinh doanh của công ty cơ khí 79 Đơn vị: triệu đồng STT Chỉ tiêu Năm1999 Năm2000 Năm2001 Năm2002 1. Giá trị sản xuất 5454 6750 8142 10400 2. Doanh thu 6454 6605 8337 10400 3. Nộp ngân sách 658 432.9 369 4. Giá trị tăng thêm 1065 1783 1392 2063 5. Thu nhập bình quân 0.55 0.56 0.739 0.8 6. Năng xuất bình quân 23.02 25.57 30.38 37.68 (Nguồn số liệu : phòng tài vụ - công ty cơ khí 79) + Về giá trị tổng sản xuất. Giá trị tổng sản xuất qua các năm tăng lên một cách rõ rệt. Năm 2000 và năm 2001 giá trị tổng sản lượng đều tăng hơn 10% về số tuyệt đối và tăng xấp xỉ 1300 triệu đồng. Riêng năm 2002 công ty dự kiến giá trị tổng sản lượng sẽ tăng 22.58% về số tương đối và tăng 2238 triệu đồng về số tuyệt đối so với năm 2001. Có được kết quả như vậy là do sự phấn đấu nỗ lực của toàn nhà máy, cùng với sự quan tâm của cấp chủ quản. Năm 2001 công ty đã được cấp chủ quản đầu tư cho dây truyền sản xuất bánh răng côn xoắn - sản phẩm mà không phải nhà máy cơ khí nào cũng làm đựơc - chính điều đo đã góp phần không nhỏ vào việc tăng giá trị tổng sản lượng của nhà máy. + Về tổng doanh thu Qua các năm từ 1999 đến 2001 tổng doanh thu của nhà máy liên tục tăng. Duy có năm 2000 là mức tăng tương đối thấp chỉ tăng 1.51% về số tương đối và 151 triệu đồng về số tuyệt đối. Nguyên nhân ở đây là do ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng tiền tệ tại Châu Á năm cuối 1999. Bước vào năm 2001 do có dây truyền sản xuất bánh răng côn xoắn và ký được nhiều hợp đồng như : hợp đồng sản xuất ty sứ cho ngành điện lực hay làm cầu xe ben la cho tổng cục... Vì vậy đến năm 2001 tổng doanh thu đã tăng 17.32% về số tương đối và 1732 triệu đồng về số tuyệt đối so với năm 2000. + Về giá trị tăng thêm. Mặc dù tổng doanh thu và giá trị tổng sản lượng đều tăng qua các năm nhưng do sự biến động về giá cả nguyên vật liệu và giá dầu mỏ tăng vcùng với một số sản phẩm sản xuất ra không đạt chất lượng nên năm 2001 giá trị tăng thêm đã giảm 3.91% về số tương đối tương ứng với 391 triệu đồng về số tuyệt đối so với năm 2000. + Về thu nhập bình quân. Từ năm 1999 cho đến nay toàn bộ cán bộ công nhân viên của nhà máy đã và đang nỗ lực để đưa nhà máy thoát khỏi sự trì trệ của thời kỳ bao cấp để lại. Mặc dù trong những năm qua nhà máy gặp rất nhiều khó khăn nhưng với sự hỗ trợ của cấp chủ quản và với sự nỗ lực của toàn bộ công nhân viên nhà máy đã giúp cho nhà máy đứng vững và đảm bảo thu nhập của người lao động qua các năm đều tăng cho dù mức độ tăng chưa đưọc như mong muốn. Qua các số liệu trên ta thấy nhìn chung trong tình hình khó khăn của nhà máy, tình hình thực hiện kế hoạch của công ty qua các năm là khá cao. Tỷ lệ % so với năm trước đều tăng. Tuy nhiên trong sản xuất và kinh doanh nhất là tạo việc làm cho người lao động còn gặp không ít khó khăn. Có được thành quả như vậy là do sự nỗ lực rất lớn của toàn thể cán bộ công nhân viên nhà máy nói riêng và có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ quản lý của công ty . 2.5 -Những thuận lợi và khó khăn. Trong những năm qua nhà máy đã từng bước phát triển rõ rệt. a.Thuận lợi. Năm 2001 nhà máy có những mặt thuận lợi sau : Được sự quan tâm của đảng ủy, thủ trưởng tổng cục và các cơ quan chức năng của tổng cục. Tổng cục đã tạo điều kiện giúp đỡ nhà máy trên các mặt : Về xây dựng tổ chức lực lượng, về đầu tư chiều sâu và các hỗ trợ khác. Có sự đoàn kết thống nhất trong lãnh đạo chỉ huy và trong toàn đảng bộ. Sau đại hội đảng bộ lần thứ 8 cán bộ và công nhân viên đoàn kết tin tưởng, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Thị trường năm 2001 có chuyển biến hơn các năm trứơc. b-Những khó khăn nhà máy gặp phải. Khả năng công nghệ, thiết bị và lao động của nhà máy còn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Công tác quản lý của nhà máy còn nhiều vấn đề bất cập . Nhà máy vẫn ở trong tình trạng thiếu vốn sản xuất và kinh doanh. Hàng quốc phòng chiếm tỷ trọng thấp trong giá trị sản xuất. II-THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC LAO ĐỘNG KHOA HỌC CHO CÁN BỘ QUẢN LÝ Ở CÔNG TY CƠ KHÍ 79 1-tổ chức bộ máy sản xuất 1.1-cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty cơ khí 79 Giám đốc Phó giám đốc hành chính kiêm bí thư đảng Phó giám đốc Sản xuất –kinh doanh Phòng tổ chức lao động Phòng tài vụ Phòng kế hoặch Phòng chính trị Phòng hành chính Phòng Kỹ thuật Phòng cơ điện Phân xưởng gia công nóng Phân xưởng cơ khí I Phân xưởng cơ khí III Bộ phận kho Ghi chú: *( ) : Quan hệ trực tuyến *( ) : Quan hệ chức năng Trên đây là loại cơ cấu tổ chức kiểu : “ Cơ cấu trực tuyến chức năng”. Cơ cấu này có ưu điểm : Giữ được chỉ huy theo tuyến, thực hiện được chế độ một thủ trưởng, sử dụng được kiến thức của đội ngũ tham mưu, là cơ cấu gọn nhẹ, hợp lý, có hiệu quả. 1.2- Cơ cấu chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận, từng chức danh a-Chức năng nhiệm vụ của ban giám đốc. Chức năng nhiệm vụ của giám đốc nhà máy : Chịu trách nhiệm chung, toàn diện các mặt của nhà máy. Trực tiếp chỉ đạo các lĩnh vực công tác (công tác kế hoạch, công tác tài chính, công tác tổ chức lao động- tiền lương, công tác đầu tư phát triển : Tùy theo các lĩnh vực đầu tư giám đốc sẽ giao cho các phó giám đốc thực hiện cụ thể công tác này. Chức năng nhiệm vụ của phó giám đốc Thực hiện chức năng nhiệm vụ phó giám đốc về chính trị do Đảng uỷ tổng cục công nghiệp quốc phòng quy định. Giúp giám đốc nhà máy chỉ đạo, triển khai thực hiện lĩnh vực công tác, công tác chính trị, công tác hành chính hậu cần, công tác thanh tra, pháp chế, một số nội dung của công tác đầu tư phát triển, công tác kinh doanh. Các phó giám đốc của nhà máy phải chịu trách nhịêm trước giám đốc nhà máy trong việc chỉ đạo các lĩnh vực công tác được phân công và phải chủ động phối hợp với nhau để thực hiện các công việc không được phân công. b -Chức năng nhiệm vụ của phòng tổ chức lao động. Vị trí, chức năng : Phòng tổ chức lao động là cơ quan trực thuộc giám đốc, chuyên nghiên cứu, vận dụng và hoàn thiện công tác tổ chức, quản lý xí nghiệp, nghiên cứu vận dụng và tổ chức thực hiện các chế độ chính sách đã ban hành với cán bộ, công nhân viên trong công ty. Đảm bảo thực hiện quản lý lao động, quản lý tổ chức biên chế theo yêu cấu nhiệm vụ sản xuất từng thời kỳ một cách hợp lý nhất, tiết kiệm nhất, tăng năng xuất lao động. Là cơ quan nghiên cứu, xây dựng phương thức trả lương hợp lý, bồi dưỡng đào tạo dạy nghề cho công nhân và thực hiện chế độ bảo hộ lao động trong toàn nhà máy. Nhiệm vụ chung của phòng tổ chức lao động. Căn cứ vào nhiệm vụ, đặc điểm tình hình của nhà máy, nghiên cứu đề nghị giám đốc quyết định cơ cấu, xắp xếp biên chế các phòng, ban, phân xưởng. Xây dựng hoàn thiện các chế độ nội quy của nhà máy. Hướng dẫn việc xây dựng các nhiệm vụ chức trách cho đến từng chức danh công tác trong nhà máy, tổ chức ban hành và theo dõi thực hiện, từng thời kỳ tổ chức chỉnh lý bổ xung. Căn cứ nhiệm vụ kế hoạch và yêu cầu sản xuất trong năm lập kế hoạch đáp ứng lao động đảm bảo yêu cầu cho sản xuất. Tổ chức thực hịên đúng và đầy đủ các chính sách, chế độ có liên quan đến việc tăng giảm nhân sự và quản lý sử dụng lao động. Cùng công đoàn thực hiện các chính sách, chế độ về bảo hiểm xã hội và phúc lợi tập thể. Tổ chức quản lý chặt chẽ lực lượng lao động về mọi mặt (trong đó việc quản lý hồ sơ, lý lịch) có sự phối hợp với văn phòng đảng uỷ. Tổ chức phổ biến quán triệt các chế độ chính sách một cách kịp thời và thường xuyên đến các đối tượng thực hịên và hướng dẫn việc thi hành. Thực hiện đầu đủ các chế độ báo cáo với cấp trên theo quy định. Xây dựng các chế độ, nội quy thuộc phạm vi công tác tổ chức nhân sự, các nhiệm vụ chức trách, chế độ công tác, lề lối làm việc của từng chức danh công tác trong phòng, tổ chức thực hiện và định kỳ tổng kết bổ xung. Tính toán lập kế hoạch quỹ lươngvà quản lý quỹ lương của nhà máy. Căn cứ các định mức ban đầu (Do phòng kỹ thuật xây dựng) tổ chức theo dõi việc thực hiện xây dựng hoàn thiện bổ xung các định mức lao động từng thời kỳ tổng kết và tổ chức xét duyệt, hiệu chỉnh. Trực tiếp chỉ đạo, tổ chức việc trả lương theo sản phẩm, xác minh các chứng từ, thanh toán tiền lương, tiền thưởng và những khoản tiền lương khác của các bộ phận và cá nhân trong xí nghiệp. Lập kế hoạch an toàn lao động quý,năm, kiểm tra thường xuyên và phát hiện kịp thời những thiếu xót về bảo hộ lao động. Xác minh nguyên nhân các vụ tai nạn lao động, đề xuất biện pháp xử lý, phòng ngừa. Kiểm tra việc cấp phát và sử dụng trang bị bảo hộ lao động. Việc bồi dưỡng hiện vật, thời gian làm việc của công nhân làm ở nơi nặng nhọc, độc hại. Tổ chức quản lý các kỳ thi nâng bậc, kiểm tra tay nghề, thi thợ giỏi, làm thư ký cho các hội đồng thi này. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến khoa học kỹ thuật trong nhà máy. chỉ đạo công tác tổng kết xây dựng các báo cáo chuyên đề về kỹ thuật, nghiệp vụ. Xây dựng phòng thành một tập thể vững mạnh về tư tưởng, đạo đức tác phong, giỏi về nghịêp vụ, mọi người thông thạo chức trách và hoàn thành sáng tạo mọi nhiệm vụ. Nhiệm vụ cụ thể của phòng tổ chức lao động. Trưởng phòng : Phụ trách chung, ký duyệt, họp. Phó phòng : Phụ trách về mảng tiền lương, định mức lao động, và phụ trách về mảng đào tạo. Nhân viên: + Phụ trách về mảng chấm công quản lý lao động. Quản lý nghỉ phép của công nhân trực tiếp sản xuất. + Phụ trách về bảo đảm các chế độ, chính sách cho người lao động, và công đoàn nhà máy. Quyền hạn của phòng tổ chức lao động : Hướng dẫn chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các phân xưởng, phòng ban về mặt nghiệp vụ tổ chức, nhân sự, huấn luyện, đào tạo, an toàn bảo hộ lao động. Phổ biến quán triệt và hướng dẫn thi hành các chế độ, chính sách của đảng và nhà nước về mặt lao động tiền lương. Tham gia các hội đồng lương, các hội đồng kỷ luật, hội đồng sáng kiến, hội đồng nâng bậc của nhà máy. Đình chỉ tạm thời các cuộc thi cử không đún._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4359.doc