Mục lục
Trang
Lời nói đầu.
1
Phần thứ nhất: Một số vấn đề lý luận về lợi nhuận và quản lý lợi nhuận trong các doanh nghiệp công nghiệp sản xuất kinh doanh.
2
I. Khái niệm và ý nghĩa của lợi nhuận.
2
1. Khái niệm.
2
2. ý nghĩa.
2
II. Phương pháp xác định lợi nhuận.
3
1. Đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh.
3
2. Đối với các hoạt động tài chính.
4
3. Đối với các hoạt động bất thường.
4
III. Phân phối lợi nhuận.
5
IV. Các chỉ tiêu đánh giá và phân tích tình hình thực hiện
49 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác quản lý lợi nhuận ở Công ty Dệt Minh Khai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kế hoạch lợi nhuận.
6
1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh.
6
3. Tỷ lệ lãi thuần từ hoạt động kinh doanh trước thuế.
6
2. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch lợi nhuận.
7
2.1. Phân tích chung tình hình lợi nhuận.
7
2.2. Phân tích lợi nhuận hoạt động khác.
7
2.3. Phân tích tỷ suất lợi nhuận.
8
IV. Biện pháp tăng lợi nhuận trong doanh nghiệp công nghiệp.
10
1. Tăng sản lượng hàng hóa tiêu thụ.
10
2. Nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ.
10
3. Hạ giá thành sản phẩm.
11
4. Tổ chức tốt các hoạt động về quản lý sản xuất kinh doanh
11
5. Khai thác tối đa khả năng người lao động.
11
6. Tính đúng giá thành, nắm chắc quan hệ cung cầu.
11
Phần thứ hai: Thực trạng công tác tổ chức quản lý lợi nhuận ở Công ty dệt Minh Khai.
12
I. Đặc điểm tình hình chung của công ty dệt Minh Khai.
12
1. Quá trình hình thành và phát triển công ty.
12
2. Nhiệm vụ hiện nay của công ty.
15
3. Bộ máy quản lý của công ty.
16
4. Cơ cấu sản xuất của công ty.
22
4.1 Kiểu cơ cấu sản xuất của công ty
22
4.2. Sơ đồ về cơ cấu tổ chức sản xuất của công ty.
23
4.3. Qui trình sản xuất của công ty.
23
II. Thực trạng công tác tổ chức quản lý lợi nhuận ở công ty dệt Minh Khai.
27
1. Đánh giá tình hình lợi nhuận của công ty.
31
1.1. Đánh giá chung.
31
1.2. Đánh giá xu hướng và triển vọng của công ty.
32
2. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch về lợi nhuận.
35
2.1. Phân tích chung tình hình lợi nhuận SXKD.
35
2.2. Phân tích lợi nhuân hoạt động khác.
36
2.3. Phân tích tỷ suất lợi nhuận.
39
Phần thứ ba: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác quản lý lợi nhuận ở Công ty dệt Minh Khai.
43
I. Nhận xét về công tác quản lý lợi nhuận ở công ty dệt Minh Khai.
43
1. Nhận xét chung.
43
2. Ưu điểm.
44
3. Nhược điểm.
44
II. Chiến lược phát triển lợi nhuận của công ty trong một vào năm tới.
45
1. Về quy mô sản xuất kinh doanh.
45
2. Về doanh thu, chi phí, lợi nhuận, được thể hiện qua bảng sau.
46
III. Một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện công tác tổ chức quản lý thực hiện lợi nhuận ở công ty dệt Minh Khai.
47
Kết luận.
48
Lời nói đầu
Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Để phù hợp với yêu cầu đổi mới kinh tế và cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, phù hợp với Nghị quyết của Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII: Sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Làm cho công tác quản lý doanh nghiệp trở lên vô cùng quan trọng và đòi hỏi ngày càng được hoàn thiện hơn. Nhất là, đối với công tác quản lý lợi nhuận, bởi vì lợi nhuận là cái đích cuối cùng của một đơn vị khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi nhuận còn luôn luôn là một nhân tố lớn ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của một đơn vị.
Để minh họa cho sự quan trọng của lợi nhuận, em đi xem xét về công tác quản lý kinh doanh và đánh giá, phân tích tình hình thực hiện lợi nhuận của Công ty dệt Minh Khai quí III năm 1999 so với qui trước, từ đó viết bài báo về công tác quản lý lợi nhuận của công ty và củng cố thêm kiến thức thực tế về công tác này cho bản thân.
Với kiến thức và sự hiểu biết hạn chế của mình, trong quá trình viết bài chắc chắn có nhiều ý sai và thiếu sót, nhiều lời văn không đúng với bản chất kinh tế, rất mong được thầy (cô) giáo hướng dẫn góp ý và sửa chữa để bài báo cáo của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy (cô) giáo.
Phần thứ nhất
Một số vấn đề lý luận về lợi nhuận
và quản lý lợi nhuận trong các doanh nghiệp
công nghiệp sản xuất kinh doanh
I. Khái niệm và ý nghĩa của lợi nhuận.
1. Khái niệm:
Trong nền kinh tế thị trường việc quan trọng hàng đầu của các doanh nghiệp là làm thế nào để sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ của mình tiêu thụ được trên thị trường. Trong quá trình tiêu thụ đó các doanh nghiệp chuyển giao hàng hóa, dịch vụ của mình cho khách hàng và nhận lại một khoản tiền tương ứng với giá bán sản phẩm, dịch vụ theo qui định hoặc thỏa thuận từ khách hàng. Thời điểm xác định doanh thu bán hàng sẽ tùy thuộc phương thức bán hàng và phương thức thanh toán tiền hàng.
Mục đích kinh doanh cuối cùng của các doanh nghiệp là làm thế nào để có lợi nhuận cao nhất, lợi nhuận trong doanh nghiệp được tạo bởi từ kết quả của nhiều hoạt động tạo thành. Hoạt động bán hàng, hoạt động tài chính, đầu tư vào các hoạt động khác.
Vậy, lợi nhuận là phần chênh lệch giữa doanh thu thuần (doanh thu thuần = tổng doanh thu - các khoản giảm trừ: GG, CK, GT HBBTL, thuế GTGT của hàng xuất khẩu) và trị giá vốn của sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ bán ra, chi phí hàng ngày, chi phí quản lý hoặc nó là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí của các hoạt động tài chính, đầu tư hoạt động khác trong một thời kỳ.
2. ý nghĩa:
Lợi nhuận là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh toàn bộ kết quả kinh doanh và hiệu quả của cả quá trình kinh doanh, nó phản ánh cả về lượng và chất của các hoạt động trong quá trình kinh doanh. Lợi nhuận cao làm cho doanh nghiệp có nhiều khả năng phát triển kinh tế. Bởi vì, khi đó doanh nghiệp có tích luỹ lớn để phát triển nguồn vốn kinh doanh, đổi mới kỹ thuật. Do vậy, nâng cao lợi nhuận là đòi hỏi tất yếu của quá trình tái sản xuất mở rộng và của việc phát triển kinh tế hàng hóa.
Lợi nhuận quan hệ chặt chẽ với các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật khác trong doanh nghiệp như: chỉ tiêu về sử dụng các yếu tố của quá trình sản xuất, chỉ tiêu giá thành... Các chỉ tiêu này là điều kiện nhằm đảm bảo thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận và do đó nó có tác dụng điều chỉnh (tăng hoặc giảm) lợi nhuận.
II. Phương pháp xác định lợi nhuận.
1. Đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận thu được do tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, lao vụ, dịch vụ của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là bộ phận lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ lợi nhuận. Nó được xác định bằng số chênh lệch giữa doanh thu thuần với trị giá vốn hàng bán của sản phẩm, hàng hóa, lao vụ, dịch vụ, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Công thức tính:
LN = [ Qi Gi (QiZi + Qi Gi ti) - CPBH - CPQLDN ]
Trong đó: + LN: lợi nhuận của hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Qi: khối lượng sản phẩm tiêu thụ thứ i.
+ Gi: giá bán đơn vị sản phẩm tiêu thụ thứ i.
+ Zi: giá vốn hàng bán của sản phẩm thứ i.
+ ti: thuế suất doanh thu tiêu thụ của sản phẩm xuất khẩu.
+ CPBH: tổng chi phí bán hàng trong kỳ.
+ CPQLDN: tổng chi phí quản lý doanh nghiệp.
Nhìn vào công thức trên ta thấy lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng của các nhân tố:
- Khối lượng sản phẩm tiêu thụ.
- Giá bán của sản phẩm.
- Giá vốn hàng bán.
- Thuế suất.
- Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Ngoài ra, lợi nhuận còn chịu ảnh hưởng bởi kết cấu mặt hàng, mức ảnh hưởng này thông qua tỷ suất lợi nhuận của sản phẩm khác nhau, nếu trong quá trình tiêu thụ, khối lượng sản phẩm có tỷ suất lợi nhuận cao tiêu thụ nhiều hơn và khối lượng sản phẩm có tỷ suất lợi nhuận thấp tiêu thụ ít hơn thì lợi nhuận chung sẽ tăng lên và ngược lại.
2. Đối với các hoạt động tài chính.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính là số chênh lệch giữa thu nhập hoạt động tài chính với chi phí hoạt động tài chính. Các khoản này bao gồm:
- Lợi nhuận về hoạt động góp vốn tham gia liên doanh.
- Lợi nhuận về hoạt động đầu tư, mua bán chứng khoán ngắn hạn, dài hạn.
- Lợi nhuận về cho thuê tài sản.
- Lợi nhuận về các hoạt động đầu tư khác.
- Lợi nhuận về chênh lệch lãi tiền gửi ngân hàng, và lãi tiền vay ngân hàng.
- Lợi nhuận cho vay vốn.
- Lợi nhuận do bán ngoại tệ...
Công thức: TNTC - CPTC.
Trong đó: + LNTC: lợi nhuận từ hoạt động tài chính.
+ TNTC: tổng thu nhập hoạt động tài chính.
+ CPTC: tổng chi phí hoạt động tài chính.
3. Đối với các hoạt động bất thường:
Lợi nhuận bất thường (thu nhập đặc biệt) là những khoản lợi nhuận mà doanh nghiệp không dự tính trước hoặc có dự tính đến nhưng ít có khả năng thực hiện, hoặc những khoản thu không mang tính chất thường xuyên. Những khoản lợi nhuận bất thường có thể do chủ quan đơn vị hay khách quan đưa tới.
Thu nhập bất thường của doanh nghiệp bao gồm:
- Thu về nhượng bán, thanh lý tài sản cố định.
- Thu tiền được phạt vi phạm hợp đồng.
- Thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý, xóa sổ.
- Thu các khoản nợ không xác định được chủ.
- Các khoản thu nhập kinh doanh của những năm trước bị bỏ sót hay lãng quên ghi sổ kế toán năm nay mới phát hiện ra...
Các khoản thu nhập trên sau khi trừ các khoản tổn thất có liên quan sẽ là lợi nhuận bất thường. Công thức:
LNBT = TNBT - CPBT
Trong đó: + LNBT: lợi nhuận từ hoạt động bất thường
+ TNBT: tổng thu nhập
+ CPBT: tổng chi phí.
III. Phân phối lợi nhuận.
Việc phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp phải hợp lý và đúng chế độ tài chính qui định.
Tùy từng loại hình doanh nghiệp, từng hình thức sở hữu vốn của doanh nghiệp để phân phối lợi nhuận thành các bộ phận với các tỷ lệ có khác nhau. Song về cơ bản theo nguyên tắc sau:
- Làm nghĩa vụ với Nhà nước (thuế lợi tức).
- Phân chia cho các bên tham gia liên doanh (nếu có).
- Phân chia cho các chủ sở hữu vốn (nếu là công ty cổ phần).
- Bổ sung vốn kinh doanh.
- Trích lập các quĩ của doanh nghiệp.
Các quĩ của doanh nghiệp bao gồm: quĩ phát triển kinh doanh, quĩ dự trữ tài chính, quĩ khen thưởng, phúc lợi, quĩ trợ cấp mất việc làm, quĩ quản lý của cấp trên.
+ Quĩ phát triển kinh doanh: được chi dùng vào việc mở rộng, phát triển sản xuất kinh doanh hoặc đầu tư chiều sâu.
+ Quĩ dự phòng tài chính: nhằm bù đắp những thiệt hại rủi ro, thua lỗ hoặc đề phòng những tổn thất bất ngờ do những nguyên nhân khách quan bất khả kháng để đảm bảo cho doanh nghiệp có thể hoạt động bình thường.
+ Quĩ khen thưởng và phúc lợi: để dùng khen thưởng, khuyến khích vật chất và phục vụ nhu cầu phúc lợi công cộng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cua công nhân viên trong doanh nghiệp.
+ Quĩ dự phòng về trợ cấp mất việc làm: dùng để chi cho việc đào tạo công nhân viên do thay đổi cơ cấu hoặc đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ và bồi thường tay nghề cho người lao động có thời gian làm việc tại doanh nghiệp từ 1 năm trở lên.
IV. Các chỉ tiêu đánh giá và phân tích tình hình thực hiện kế hoạch lợi nhuận.
1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Mục tiêu của doanh nghiệp là lợi nhuận. Nhữn số liệu cần thiết cho việc đánh giá chức năng tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp được tìm thấy trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Các tỷ số như tỷ lệ lãi gộp, tỷ lệ lãi thuần từ hoạt động kinh doanh trước thuế, tỷ lệ số dư đảm phí và hệ số đòn bẩy kinh doanh là những tỷ số đánh giá quá trình sinh lợi của doanh nghiệp.
a/ Tỷ lệ lãi gộp:
Tỷ lệ lãi gộp = x 100%.
Tỷ lệ lãi gộp cho phép nợ kiểu biến động của giá bán với biến động của chi phí, là khía cạnh quan trọng giúp doanh nghiệp nghiên cứu quá trình hoạt động với chiến lược kinh doanh.
Tỷ lệ lãi gộp càng cao chứng tỏ phần giá trị mới sáng tạo của hoạt động sản xuất để bù đắp phí tổn ngoài sản xuất càng lớn và doanh nghiệp càng được đánh giá cao. Tỷ lệ lãi gộp càng thấp giá trị mới sáng tạo của hoạt động sản xuất càng nhỏ và nguy cơ bị lỗ càng cao.
3. Tỷ lệ lãi thuần từ hoạt động kinh doanh trước thuế.
= x 100
Tỷ lệ này càng có giá trị cao phản ánh lợi nhuận sinh ra từ HĐKD càng lớn, phần lãi trong doanh thu có tỷ trọng lớn và doanh nghiệp được đánh giá là hoạt động có hiệu quả.
c/ Chỉ tiêu ROA:
ROA = = x
Chỉ tiêu ROA là chỉ tiêu tổng hợp, nó cho biết tỷ lệ lãi trên tài sản đạt bao nhiêu, hệ số quay vòng vốn đạt bao nhiêu lần và tỷ lệ lãi trên doanh thu đạt bao nhiêu (%). Qua chỉ tiêu này có thể đánh giá khái quát về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như:
- Quá trình sinh lợi của doanh nghiệp cao hay thấp.
- Qui mô hoạt động của công ty là nhỏ hay lớn.
2. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch lợi nhuận.
2.1. Phân tích chung tình hình lợi nhuận:
Phân tích chung tình hình lợi nhuận là đánh giá sự biến động lợi nhuận của toàn doanh nghiệp, của từng bộ phận lợi nhuận giữa thực tế với kế hoạch, giữa kỳ này với kỳ trước nhằm thấy khái quát tình hình lợi nhuận và những nguyên nhân ban đầu ảnh hưởng tới tình hình trên..
Khi phân tích, cần tính ra và so sánh mức và tỷ lệ biến động của kỳ phân tích so với kỳ gốc trên từng chỉ tiêu. Đồng thời so sánh tình hình biến động của từng chỉ tiêu với tổng doanh thu thuần (lấy doanh thu thuần làm gốc).
2.2. Phân tích lợi nhuận hoạt động khác:
Lợi nhuận hoạt động khác của doanh nghiệp là các loại lợi nhuận ngoài tiêu thụ sản phẩm.
Để phân tích lợi nhuận hoạt động khác thường không thể so sánh số thực tế và kế hoạch, bởi nó thường không có số liệu kỳ kế hoạch mà phải căn cứ vào nội dung của từng khoản thu nhập, chi phí và tình hình cụ thể của từng trường hợp để phân tích.
Nói chung, những khoản tổn thất phát sinh là không tốt, nhưng những khoản thu nhập phát sinh chưa hẳn là đã tốt. Chẳng hạn: thu nhập về lợi tức tiền gửi ngân hàng nhiều, điều này đánh giá doanh nghiệp chấp hành tốt nguyên tắc quản lý tiền mặt, nhưng mặt khác phải xem xét doanh nghiệp có tình hình thừa vốn lưu động không ? Vì doanh nghiệp chỉ được đánh giá là kinh doanh tốt khi vòng quay vốn nhanh và mở rộng qui mô sản xuất.
Khi phân tích lợi nhuận hoạt động khác, có thể căn cứ vào báo cáo kết quả kinh doanh để đánh giá tổng quát hoặc có thể lập bảng phân tích chi tiết theo nội dung của từng khoản theo bảng sau:
Thu nhập
Kỳ này
Cộng từ đầu năm
Chi phí
Kỳ này
Cộng từ đầu năm
1
2
3
4
5
6
I. Thu nhập HĐTC
I. Chi phí HĐTC
1. Thu nhập về HĐ góp vốn liên doanh
1. Chi phí liên doanh
2. Thu nhập về HĐ đầu tư mua bán chứng khoán ngắn hạn
2. Chi phí cho đầu tư tài chính
3. Thu về cho thuê TSCĐ
3. Chi phí liên quan đến cho thuê TSCĐ
4. Thu về lãi tiền gửi ngân hàng
4. Chi phí liên quan đến mua bán ngoại tệ
5. Thu lãi cho vay vốn
6. Thu bán ngoại tệ
II. THu nhập BT
II. Chi phí bất thường
1. Thu về nhượng bán, thanh lý TSCĐ
1. Chi phí thanh lý, nhượng bán TSCĐ
2. Thu tiền phạt vi phạm hợp đồng
2. Giá trị còn lại của TSCĐ sau khi thanh lý, nhượng bán.
3. Thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý
3. Tiền phạt do vi phạm hợp đồng.
4. Thu các khoản nợ không xác định được chủ
4. Bị phạt thuế, tuy nộp thuế.
2.3. Phân tích tỷ suất lợi nhuận:
Lợi nhuận thực hiện được sau một quá trình sản xuất kinh doanh là một trong những hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Lợi nhuận tuyệt đối có thể không phản ánh đúng mức độ hiệu quả sản xuất kinh doanh, bởi vì chỉ tiêu này không chịu sức tác động của bản thân chất lượng công tác của doanh nghiệp mà còn chịu ảnh hưởng của qui mô sản xuất của doanh nghiệp. Chính vì thế, để đánh giá đúng đắn kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cần phải sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận.
Điều quan trọng ở đây không phải là tổng lợi nhuận bằng số tuyệt đối mà tỷ suất lợi nhuận tính bằng đơn vị %. Tỷ suất lợi nhuận được tính bằng nhiều cách tùy theo mối quan hệ của lợi nhuận với các chỉ tiêu có liên quan.
a/ Phân tích tình hình lãi suất chung:
Lãi suất chung của doanh nghiệp có thể tính bằng 2 cách:
- Tỷ suất lợi nhuận trên doanh số bán ra, được xác định:
Tỷ suất lợi nhuận = x 100.
Chỉ tiêu này cho thấy cứ 1 (đồng) doanh thu thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận.
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn = x 100
= x 100
Chỉ tiêu này cho thấy cứ 1 (đồng) vốn bỏ vào đầu tư sau 1 năm thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu lợi nhuận trên vốn sản xuất cho phép đánh giá hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau về qui mô sản xuất.
b/ Phân tích tình hình lãi suất sản xuất: được xác định như sau:
= x 100
Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành phản ánh hiệu quả kinh tế tính theo lợi nhuận và chi phí sản xuất.
Trong trường hợp không có sự biến động về giá cả và cơ cấu mặt hàng sản phẩm tiêu thụ, thì chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận giá thành hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào giá thành sản phẩm hàng hóa.
Mặc dù chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận giá thành phản ánh hiệu quả tổng hợp của hoạt động sản xuất, nhưng trong chừng mực nhất định chỉ tiêu này chưa phản ánh được đầy đủ kết quả của hoạt động trong các đơn vị hạch toán kinh tế.
Bởi vì, trong giá thành mới chỉ tính chi phí nguyên vật liệu sử dụng cho sản phẩm hoàn thành chứ chưa bao gồm chi phí nguyên vật liệu dự trữ, chi phí về sản xuất dở dang và bán thành phẩm. do đó có thể phân tích lãi suất sản xuất bằng cách so sánh tổng lợi nhuận với chỉ tiêu giá thành sản lượng công nghiệp tính theo giá so sánh được để so sánh được giữa các kỳ khác nhau.
c/ Phân tích lãi suất sản xuất của sản phẩm sản xuất:
Lãi suất sản xuất của sản phẩm sản xuất là so sánh hiệu số giữa giá bán với giá thành của sản phẩm, hàng hóa so với giá thành của sản phẩm hàng hóa. Công thức tính:
PSP = x 100 Trong đó: PSP: Tỷ suất lợi nhuận của sản phẩm sản xuất.
G: Giá bán của sản phẩm.
Z: Giá thành sản phẩm hoặc giá thành
toàn bộ sản phẩm.
Chỉ tiêu này có thể nghiên cứu cho toàn bộ sản lượng hàng hóa trong kỳ, cũng có thể tính riêng cho từng loại sản phẩm cụ thể. Khi phân tích có thể so sánh sự chênh lệch giữa giá thực tế và giá kế hoạch, nếu giá thực tế cao hơn kế hoạch (không phải do điều chỉnh) thì đó có thể do doanh nghiệp đã cố gắng cải tiến chất lượng sản phẩm do đó có thể thu được lợi nhuận tăng thêm và ngược lại.
IV. Biện pháp tăng lợi nhuận trong doanh nghiệp công nghiệp.
Lợi nhuận chịu sự tác động của nhiều nhân tố, do đó để tăng lợi nhuận phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp và phù hợp với đặc điểm kinh tế kỹ thuật của từng doanh nghiệp. Sau đây là một vài biện pháp chính.
1. Tăng sản lượng hàng hóa tiêu thụ:
Khi các nhân tố khác ổn định thì việc tăng sản lượng hàng hóa tiêu thụ sẽ làm tăng lợi nhuận. Muốn vậy cần phải chuẩn bị tốt các yếu tố và điều kiện càn thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh, nâng cao năng suất lao động, làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm.
2. Nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ:
Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ tạo khả năng nâng giá bán sản phẩm để tăng lợi nhuận, cần chú ý nâng cao hàm lượng chất xám trong sản phẩm, việc làm này vừa nâng cao được giá trị, vừa nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước.
3. Hạ giá thành sản phẩm:
Hạ giá thành sản phẩm là nhân tố quan trọng để tăng lợi nhuận trong đó, biện pháp chính là giảm chi phí nguyên vật liệu.
4. Tổ chức tốt các hoạt động về quản lý sản xuất kinh doanh như xây dựng chiến lược sản xuất, sản phẩm và phương án kinh doanh. Thường xuyên rút kinh nghiệm và không ngừng nâng cao trình độ cán bộ quản lý kinh doanh.
5. Khai thác tối đa khả năng người lao động:
Thực hiện các biện pháp khuyến khích, chăm lo tới người lao động để họ cống hiến tài năng và sức lực cho kinh doanh, vì con người bao giờ cũng là yếu tố quyết định nhất, nhất là những người lao động giỏi.
6. Tính đúng giá thành, nắm chắc quan hệ cung cầu để quyết định giá bán hợp lý ở từng thời điểm với từng đối tượng khách hàng cụ thể để thu được lợi nhuận cao nhất.
Phần thứ hai
Thực trạng công tác tổ chức quản lý
lợi nhuận ở công ty dệt Minh Khai
I. Đặc điểm tình hình chung của công ty dệt Minh Khai.
1. Quá trình hình thành và phát triển công ty.
Nhà máy dệt khăn mặt, khăn tay nay là công ty dệt Minh Khai Hà Nội là một đơn vị lớn của ngành công nghiệp Hà Nội. Công ty được khởi công xây dựng từ cuối những năm 60, đầu những năm 70. Đây là thời kỳ cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc đang ở giai đoạn ác liệt nhất. Vì vậy, việc xây dựng công ty có những thời gian gián đoạn và phải sơ tán trên nhiều địa điểm khác nhau.
Năm 1974 công ty cơ bản được xây dựng xong và được chính thức thành lập theo quyết định của ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Cũng năm đó công ty đi vào sản xuất thử và từ năm 1975 chính thức nhận kế hoạch của Nhà nước giao.
Nhiệm vụ sản xuất chủ yếu của công ty ban đầu là sản xuất các loại khăn mặt bông, khăn tắm, khăn ăn... phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa.
Trong thời gian đầu mới thành lập và đi vào sản xuất công ty gặp rất nhiều khó khăn do nhà xưởng xây dựng chưa hoàn chỉnh, thiết bị do Trung Quốc viện trợ về lắp đặt không đồng bộ, khâu dầu dây chuyền sản xuất không hoạt động được phải chuyển làm theo phương pháp thủ công.
Là đơn vị doanh nghiệp đầu tiên ở miền Bắc sản xuất mặt hàng khăn mặt bông nên nhiều thông số kỹ thuật không có sẵn mà phải vừa làm vừa nghiên cứu, tìm tòi. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật công nhân lành nghề thiếu thốn nhiều... Do đó, những năm đầu sản xuất công ty mới đưa vào hoạt động được hơn 100 máy dệt, số cán bộ công nhân viên chức có 415 người.
Từ năm 1981 - 1989 là thời kỳ phát triển ổn định và với tốc độ cao của công ty. Những năm này công ty được thành phố đầu tư thêm cho một dây chuyền dệt kim đan dọc để dệt các loại vải tuyn, rèm, valide... Như vậy, về sản xuất công ty đã được giao cùng một lúc quản lý và triển khai thực hiện hai qui trình công nghệ dệt khác nhau là dệt kim và dệt thoi. Công ty cũng tập trung đầu tư chiều sâu, đồng bộ hóa dây chuyền sản xuất, chấm dứt tình trạng khâu đầu sản xuất phải đi gia công, phụ thuộc bên ngoài và sản xuất thủ công ở công ty.
Về sản xuất kinh doanh trong thời kỳ này, công ty đã chủ động chuyển hướng sản xuất kinh doanh từ chủ yếu sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa, sang chủ yếu sản xuất phục vụ nhu cầu xuất khẩu. Xuất khẩu sang cả 2 thị trường khu vực I và II. Từ năm 1988 đến nay công ty đã được Nhà nước cho phép thực hiện xuất khẩu trực tiếp.
Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong 9 năm từ 1981 - 1989 luôn luôn tăng trưởng ở mức độ cao, đặc biệt là chỉ tiêu xuất khẩu. Nhưng bước vào thời kỳ những năm 90 nền kinh tế nước ta chuyển mạnh sang cơ chế quản lý mới, theo tinh thần Nghị quyết đại hội VI, đại hội VII của Đảng. Trong khi đó, tình hình chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa cũng biến động nhiều. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các quan hệ bạn hàng của công ty với nước này không còn nữa. Và như vậy, công ty đã mất đi một thị trường truyền thống rất quan trọng.
Về máy móc, thiết bị hầu hết được đầu tư ở giai đoạn trước đã cũ và lạc hậu nhiều không đáp ứng được cho yêu cầu sản xuất mới. Đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty thì quá đông (gần 2400 người) lại quen với cơ chế bao cấp, nay chuyển sang cơ chế mới không dễ dàng thích nghi được.
Trước tình hình thị trường bị thu hẹp đột ngột, cạnh tranh gay gắt và có nhiều khó khăn nan giải như vậy, nhưng với ý thức tự lực, tự cường phát huy tinh thần năng động, sáng tạo và với sự cố gắng nỗ lực cao, công ty đã tập trung sức tháo gỡ những khó khăn, giải quyết từ những vẫn đề quan trọng nhất về thị trường, về tiền vốn, về tổ chức sản xuất, về lựa chọn bố trí lại đội ngũ lao động... nhằm thoát dần ra khỏi khó khăn, từng bước thích nghi với cơ chế quản lý mới để đứng vững trên thị trường, ổn định và phát triển sản xuất theo hướng xuất khẩu là chính.
Trong 5 năm gần đây công ty đã đầu tư trên 14,5 tỷ đồng bằng các nguồn vốn vay, vốn đầu tư của thành phố và vốn tự có cho các công trình sản phẩm mới. Những tiến bộ kỹ thuật, những thiết bị mới được lắp đặt và được đưa vào sản xuất đã nâng cao đáng kể năng lực sản xuất của công ty, giúp công ty hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao, đồng thời tạo những tiền đề vật chất kỹ thuật cần thiết để công ty đưa sản xuất tiến lên một bước phát triển vững chắc.
Từ sự đầu tư vốn cải tiến dây chuyền công nghệ trên, kết quả đạt được là:
Năm 1975, năm đầu đi vào sản xuất theo kế hoạch công ty mới đạt được giá trị tổng sản lượng gần 2,5 triệu đồng, đến năm 1990 đạt 9,1 tỷ đồng, năm 1999 đạt 55 tỷ đồng.
Về sản phẩm chủ yếu: năm đầu đạt gần 2 triệu khăn các loại và chưa có sản phẩm tuyn, chưa có sản phẩm xuất khẩu. Đến năm 1999 đã đạt 28,5 triệu khăn QC và gần 85% sản phẩm khăn sản xuất ra đã được xuất khẩu, sản phẩm gần 800.000m2 vải tuyn.
Về doanh thu: năm 1975 mới đạt 3,5 triệu đồng, năm 1990 đạt gần 13,5 tỷ đồng, năm 1999 đạt 64 tỷ.
Tổng số nộp ngân sách năm đầu nộp 68.000đ, năm 1990 nộp trên 500 triệu đòng và năm 1999 nộp 1235 triệu đồng.
Kim ngạch xuất khẩu năm 1990 đạt 1.635.666USD, năm 1994 đạt 2.437.000USD và năm 1999 đạt 4.050.000USD.
Trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ từ năm đầu cho đến nay các mặt của công tác tổ chức và quản lý sản xuất được xây dựng, củng cố và không ngừng hoàn thiện, nâng cao công tác khoa học kỹ thuật đặc biệt chú ý và luôn được coi là biện pháp then chốt hàng đầu để thúc đẩy sản xuất phát triển, không ngừng tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động.
Năm mươi năm qua công ty đã chế thử 1278 mẫu sản phẩm và đưa vào sản xuất 712 mẫu. Trong đó, sản phẩm mới 24 mẫu, sản phẩm cải tiến 694 mẫu. Những sản phẩm đó từ những loại khăn đơn giản, yêu cầu chất lượng không cao dùng trong nội địa hoặc xuất sang các nước Đông Âu, đã tiến tới sản xuất khăn ăn xuất khẩu cho thị trường tư bản và hiện nay đã sản xuất được các loại khăn in hoa nhuộm màu, các loại khăn zắcka nhiều màu, áo choàng cao cấp... bán tại các siêu thị Nhật Bản.
Cùng với sự lớn mạnh và trưởng thành về mặt kỹ thuật và phát triển sản xuất. 25 năm qua phong trào các hoạt động của công ty cũng không ngừng tiến bộ, phong trào thi đua lao động sản xuất, thi đua tập thể phát triển, hàng trăm đồng chí cán bộ công nhân viên chức đạt danh hiệu "lao động giỏi", các tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng không ngừng lớn mạnh.
Bộ máy quản lý của công ty ngày càng được củng cố và hoàn thiện, đội ngũ cán bộ công nhân viên chức được đào tạo bổ sung, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. Hiện nay trên tổng số hơn 1200 công nhân, cán bộ của công ty thì có gần 1000 đồng chí là công nhân kỹ thuật, 50 đồng chí là cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý.
Tổ chức Đảng của công ty năm đầu mới có một chi bộ Đảng với 30 đồng chí đảng viên, đến nay đã trở thành một Đảng bộ với 7 chi bộ và 250 đồng chí đảng viên.
Trong 25 năm xây dựng và phát triển công ty đã nhiều năm tiên tục hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất, với bề dày thành tích công ty đã được tặng các bằng khen của ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, bằng khen của Bộ Công nghiệp và Thủ tướng Chính phủ, được Nhà nước thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
2. Nhiệm vụ hiện nay của công ty.
Qua quá trình hình thành và phát triển của công ty cho thấy rằng công ty đã đạt được những thành tích đáng kể, đã biết tập trung, nỗ lực để vượt qua những thời điểm khó khăn nhất. Tuy nhiên ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên chức của công ty vẫn hiểu rằng còn rất nhiều hạn khó khăn và những mặt yếu kém cần khắc phục. Vì vậy, ban lãnh đạo công ty vừa nhận nhiệm vụ của Nhà nước giao, đồng thời đề ra nhiệm vụ cho chính mình trong những năm tới.
a/ Nhiệm vụ của Nhà nước giao:
Căn cứ vào quyết định số 496QĐ/UB ngày 26/01/1993 của UBND thành phố Hà Nội về việc thành lập Nhà máy dệt Minh Khai. Công ty dệt Minh Khai được Nhà nước giao thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Sản xuất các sản phẩm dệt thoi, dệt kim, sản phẩm may mặc phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, được nhập khẩu nguyên liệu máy móc, thiết bị, phụ tùng ngành dệt và may mặc phục vụ cho nhu cầu sản xuất của công ty và thị trường. Được làm ủy thác xuất nhập khẩu cho các đơn vị có nhu cầu.
- Được hợp tác liên doanh làm đại lý, đại diện, mở cửa hàng giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm của công ty và sản phẩm liên doanh với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.
3. Bộ máy quản lý của công ty.
Sơ đồ 1: Bộ máy tổ chức quản lý của Công ty dệt Minh Khai
Phòng
KH - TT
Phòng
Tài vụ
Phòng
TC - Bảo vệ
Phòng
HC - y tế
Phòng
Kỹ thuật
PX tẩy nhuộm
PX tẩy nhuộm
PX dệt kim
PX hoàn thành
Phó GĐ sản xuất
Phó GĐ kỹ thuật
Giám đốc
a/ Ban giám đốc: gồm 1 giám đốc và 2 phó giám đốc.
- Giám đốc: là người đứng đầu công ty, bảo vệ quyền lợi cho công nhân viên, phụ trách chung những vấn đề đối nội, đối ngoại. Thực hiện các chức năng:
+ Tổ chức bộ máy, tổ chức cán bộ.
+ Lập các kế hoạch tổng thể ngắn và dài hạn.
+ Đầu tư xây dựng cơ bản.
- Phó giám đốc: là người giúp đỡ giám đốc theo các trách nhiệm được giao.
+ Phó giám đốc kỹ thuật: có nhiệm vụ
Quản lý kỹ thuật, chất lượng sản phẩm.
Quản lý nguồn cung cấp: điện, than, nước.
Xây dựng các định mức vật tư.
Quản lý việc thực hiện an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp.
+ Phó giám đốc sản xuất có nhiệm vụ:
Quản lý điều hành sản xuất.
Chỉ đạo sản xuất theo kế hoạch.
Chỉ đạo tác nghiệp ở phân xưởng.
b/ Các phòng ban chức năng:
* Phòng tài vụ:
- Chức năng: phòng kế toán có chức năng giúp giám đốc và khu vực thống kê kế toán tài chính, đồng thời có trách nhiệm trước Nhà nước theo dõi kiểm tra giám sát tình hình thực hiện kế hoạch thu chi tài chính và hướng dẫn chế độ chi tiền và hạch toán kinh tế nhằm giảm chi phí, nâng cao việc sử dụng tốt tài sản, vật tư, tiền vốn, phát hiện những lãng phí trong sản xuất, đê xuất với giám đốc các biện pháp về tài chính đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Nhiệm vụ:
+ Xây dựng kế hoạch tài chính của công ty năm, quí, tháng.
+ Xây dựng bảo vệ định mức vốn lưu động, tiến hành thủ tục vay vốn...
+ Theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và phân tích thực hiện.
+ Nghiên cứu các biện pháp sử dụng hợp lý vốn, đem lại hiệu quả cao nhất.
+ Giám sát việc sử dụng lợi nhuận và các loại quĩ xí nghiệp.
+ Quản lý qũy tiền mặt, thu, chi, phát lương.
+ Kế toán vật liệu.
+ Kế toán tài sản cố định.
+ Kế toán lao động tiền lương.
+ Kế toán chi phí sản xuất và giá thành.
+ Kế toán tiêu thụ.
+ Kế toán gia công.
+ Kế toán xây dựng cơ bản.
+ Kế toán tổng hợp.
+ Kế toán xuất, nhập khẩu, thanh toán và công nợ.
+ Tổ chức công tác phân tích hoạt động kinh tế, đề xuất các phương án, biện pháp nhằm hạ giá thành sản phẩm...
+ Tổ chức hướng dẫn nghiệp vụ kế toán thống nhất trong toàn công ty.
+ Giám sát toàn bộ các hoạt động tài chính kết toán kế hoạch.
+ Xét duyệt các dự trù chi tiêu tạm ứng.
+ Làm báo cáo định kỳ, chấp hành các thủ tục của ngân hàng, giao dịch với ngân hàng.
+ Bảo quản hồ sơ tài liệu kế toán.
* Phòng hành chính - y tế:
- Chức năng:
+ Phòng hành chính - y tế có chức năng giúp giám đốc trong công việc hàng ngày, quản lý điều chỉnh mọi công việc thuộc p._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0103.doc