Lời nói đầu
Sau Đại hội đại biểu toằn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách khuyến khích phát triển Kinh tế tư nhân đã được đời sống kinh tế khẳng định. Chính sách đó đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách đổi mới của đất nước. Nhờ đó, trong những năm vừa qua khu vực kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển rất nhanh chóng, trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, khu vực này còn đang đứng
51 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1323 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số ý kiến nhằm hoàn thiện chính sách thuế để hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trước nhiều khó khăn, thách thức và còn nhiều hạn chế.
Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong thời gian qua cũng như những khó khăn mà khu vực đang này gặp phải luôn gắn liền với cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước, trong đó có chính sách Thuế. Với mục đích khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển, chính sách Thuế trong thời gian qua đã có những chuyển biến rõ rệt theo hướng không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, tháo gỡ dần các khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, chính sách Thuế đối với khu vực kinh tế tư nhân còn bộc lộ không ít hạn chế. Vì vậy, cùng với sự phát triển khá mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân thì thực tiễn cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong đó hoàn thiện chính sách Thuế đang là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Đề tài: "Một số ý kiến nhằm hoàn thiện chính sách Thuế để hỗ trợ phát triển khu vực Kinh tế tư nhân ở Việt Nam" cũng hướng vào mục tiêu đó.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng của chính sách Thuế đang được sử dụng với sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các doanh nghiệp của tư nhân- bộ phận chủ yếu của kinh tế tư nhân.
Ngoài lời nói đầu và kết luận, đề tài gồm ba phần chính:
Chương I : Vai trò của chính sách Thuế đối với sự phát triển của khu vực KTTN trong nền kinh tế thị trường
Chương II : Thực trạng tác động của chính sách Thuế đối với sự phát triển của khu vực KTTN ở Việt Nam
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách Thuế để hỗ trợ phát triển khu vực KTTN
Chương I
vai trò của chính sách Thuế đối với sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế thị trường
I. Khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
1. Khái quát chung về khu vực KTTN
Theo thông lệ của thống kê quốc tế, người ta chia nền kinh tế của mỗi quốc gia thành hai khu vực: khu vực Kinh tế Nhà nước và khu vực Kinh tế tư nhân.
Khu vực kinh tế Nhà nước bao gồm toàn bộ các đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh, làm dịch vụ mà toàn bộ nguồn lực của các đơn vị thuộc sở hữu Nhà nước hoặc các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm cổ phần khống chế. Ngoài ra, kinh tế Nhà nước còn bao gồm các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước như đất đai, tài nguyên, ngân hàng, tài chính, dự trữ quốc gia,...
Khu vực Kinh tế tư nhân là khu vực còn lại, bao gồm toàn bộ các cá nhân và các đơn vị sản xuất kinh doanh hoặc hoạt động dịch vụ dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Như vậy, nội dung về KTTN rất rộng cả về hình thức sở hữu và ngành nghề mà các chủ thể đó tham gia vào sản xuất kinh doanh.
Xuất phát từ đặc thù của nền kinh tế nước ta, trong quản lý và trong thống kê khu vực KTTN lại được chia thành nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Hiện nay, tương ứng với hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), khu vực KTTN được chia ra các thành phần kinh tế sau:
1. Thành phần kinh tế tư nhân
2. Thành phần kinh tế cá thể
3. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân
4. Thành phần kinh tế hỗn hợp
Khu vực KTTN ở nước ta còn được gọi là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp trong khu vực KTTN gọi là các doanh nghiệp của tư nhân mà từ đây xin gọi là doanh nghiệp tư nhân.
2. Vai trò của khu vực KTTN trong nền kinh tế thị trường
2.1 Khu vực KTTN là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế
Nhà nước muốn điều tiết và quản lý nền kinh tế trên giác độ vĩ mô đòi hỏi Chính phủ phải nắm được những lĩnh vực chính của nền kinh tế như: Ngân hàng, truyền thông, công nghiệp quốc phòng,... Đối với những nước phát triển theo cơ chế kế hoạch hoá, khu vực kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Nó được hình thành trên cơ sở quốc hữu hoá, quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa và sự đầu tư của Nhà nước để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Đối với các nước XHCN nói chung, Việt Nam nói riêng, khu vực kinh tế nhà nước có vai trò cực kỳ quan trọng, nó được Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, do có tính năng động và hiệu quả, khu vực KTTN lại đóng vai trò rất quan trọng. Nó giống như cái "van điều chỉnh", làm giảm thiểu những rủi ro và tăng tính linh hoạt cho nền kinh tế. Nếu không có một khu vực KTTN đủ mạnh để làm tiền đề thì nền kinh tế thị trường không thể phát triển mạnh mẽ.
Mối quan hệ giữa khu vực KTTN và KTNN trong nền kinh tế thị trường hiện đại là quan hệ cạnh tranh giữa các lực lượng tham gia thị trường và bình đẳng trước pháp luật nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản cho nền kinh tế: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Hai khu vực này còn có sự hợp tác hỗ trợ và thúc đẩy nhau cùng phát triển: Khu vực KTNN không thể hoạt động có hiệu quả nếu biệt lập và đối lập với khu vực KTTN. Và ngược lại, khu vực KTTN cũng không thể phát huy hiệu quả nếu không được khu vực KTNN giúp đỡ và tạo điều kiện để hoạt động.
Sự phát triển cân đối giữa hai khu vực này là nhân tố quan trọng để tăng trưởng kinh tế.
2.2 Khu vực KTTN đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra việc làm, góp phần ổn định xã hội
Sự tồn tại và phát triển của khu vực KTTN là một phương tiện hiệu quả để giải quyết vấn đề thất nghiệp. Đó là do các doanh nghiệp tư nhân thường được dễ dàng tạo lập với một lượng vốn không lớn, sử dụng lao động tại chỗ nên hầu như không phải giải quyết nơi ở cho người lao động, điều kiện đào tạo tay nghề của người lao động thuận lợi hơn so với các khu vực kinh tế khác, chi phí đào tạo không đáng kể.
2.3 Khu vực KTTN cung cấp một khối lượng lớn sản phẩm và dịch vụ, đa dạng và phong phú về chủng loại, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Các DNTN với một số lượng đông đảo trong nền kinh tế đã tạo ra một sản lượng, thu nhập đáng kể cho xã hội. Do đặc tính linh hoạt và mềm dẻo, doanh nghiệp trong khu vực KTTN có khả năng đáp ứng những nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú, độc đáo của người tiêu dùng. Sản phẩm của các doanh nghiệp nhà nước thường mang tính chất công ích hoặc làm theo kế hoạch, chỉ đạo từ trên xuống, những sản phẩm lớn, giá cao. Những sản phẩm nhỏ phục vụ tiêu dùng thường ít được sản xuất thường phù hợp hơn với các doanh nghiệp tư nhân.
2.4 Khu vực KTTN thu hút vốn đầu tư trong dân cư và sử dụng tối ưu các nguồn lực tại địa phương
Việc tạo lập DNTN không cần quá nhiều vốn, điều đó đã tạo cơ hội cho đông đảo dân cư có thể tham gia đầu tư. Chính vì vậy, DNTN được coi là phương tiện có hiệu quả trong việc huy động, sử dụng các khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư và biến nó thành các khoản vốn đầu tư.
Với quy mô nhỏ và vừa, lại được trải đều trên hầu hết các vùng lãnh thổ nên doanh nghiệp tư nhân có khả năng tận dụng được các tiềm năng về nguyên vật liệu có trữ lượng hạn chế, không đáp ứng được nhu cầu sản xuất quy mô lớn nhưng lại sẵn có ở địa phương, sử dụng các sản phẩm phụ hoặc phế liệu, phế phẩm của các doanh nghiệp lớn.
2.5 Khu vực KTTN góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự phát triển cân bằng và chuyển dịch cơ cấu theo vùng, lãnh thổ, đẩy mạnh CNH, HĐH
Thông thường các DNNN tập trung ở những khu trung tâm, vùng đô thị, nơi có cơ sở hạ tầng phát triển. Do đó mà có sự mất cân đối về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá xã hội giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng trong một quốc gia.
Chính sự phát triển của kinh tế tư nhân góp phần quan trọng tạo lập sự cân đối giữa các vùng. Nó giúp cho vùng kém phát triển hơn có thể khai thác được tiềm năng của vùng, của địa phương để phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu theo vùng, lãnh thổ.
2.6 Khu vực KTTN góp phần tăng nguồn hàng xuất khẩu và tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước
Ngày nay mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia phát triển rộng rãi đã làm cho các sản phẩm truyền thống trở thành một nguồn xuất khẩu quan trọng. Việc phát triển KTTN đã tạo ra khả năng thúc đẩy khai thác tiềm năng của ngành nghề truyền thống ở các địa phương mỗi nước như các ngành nghề thủ công mỹ nghệ, du lịch, lễ hội,...
Bên cạnh đó, sự tạo lập, phát triển các DNTN một cách dễ dàng sẽ làm gia tăng số lượng doanh nghiệp và gia tăng khả năng cung ứng sản phẩm. Cùng với điều đó sẽ làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Mặc dù số đóng góp của một doanh nghiệp không lớn nhưng với lực lượng đông đảo, DNTN cũng đóng góp một phần đáng kể cho ngân sách nhà nước.
Tóm lại, tuy KTTN ở mỗi nước có đặc điểm và mức độ phát triển khác nhau nhưng đều là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, duy trì các ngành nghề truyền thống, tăng kim ngạch xuất khẩu,... cho đất nước. Chính vì vậy sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân là một tất yếu khách quan và cần thiết trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia.
II- Vai trò của chính sách thuế trong việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân
Để phát triển kinh tế đòi hỏi chúng ta phải khai thác và sử dụng mọi tiềm năng của đất nước. Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là một trong những nội dung quan trọng của sự nghiệp đổi mới nhằm giải phóng sức sản xuất, khai thác mọi nguồn lực rộng rãi trong toàn xã hội bao gồm các nguồn lực lao động, vốn, tài nguyên và đặc biệt là trí tuệ, kỹ năng kinh nghiệm của mọi người dân cho việc phát triển kinh tế. Mặt khác, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần làm cho đại đa số dân chúng tham gia vào hoạt động kinh tế, tham gia đầu tư. Một trong những vấn đề quan trọng của việc phát triển kinh tế nhiều thành phần là phải đa dạng hoá các hình thức đầu tư, các loại hình doanh nghiệp để mọi người có thể tham gia đầu tư. Trong đó phát triển kinh tế tư nhân là hình thức thích hợp kích thích đầu tư trực tiếp có hiệu quả để phát triển kinh tế.
Để phát triển khu vực KTTN Nhà nước phải sử dụng hệ thống công cụ bao gồm hệ thống công cụ hành chính, pháp luật, công cụ kinh tế, công cụ tài chính trong đó chính sách Thuế là công cụ rất quan trọng và có hiệu lực của Nhà nước.
1- Nội dung của chính sách Thuế:
Thuế được coi là một trong những công cụ sắc bén nhất của Nhà nước do có tính cưỡng chế và pháp lý cao.
Chính sách thuế bao gồm các sắc thuế như thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp(TNDN), thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), thuế môn bài, thuế tài nguyên.... Trong mỗi sắc thuế quy định cụ thể về: đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế, thuế suất, các trường hợp miễn giảm...
Bằng việc ban hành hệ thống luật thuế, Nhà nước sẽ quy định đánh thuế hoặc không đánh thuế, thuế suất cao hay thấp vào các mặt hàng, các ngành nghề, đối với từng vùng, từng loại hình doanh nghiệp. Qua đó mà tác động khuyến khích hoặc kìm hãm sự phát triển của một ngành nghề, một vùng hoặc một khu vực kinh tế.
Các sắc thuế tác động trực tiếp lên các yếu tố đầu vào: lao động, vật tư, tiền vốn, hoạt động xuất nhập khẩu, tác động trực tiếp lên lợi nhuận và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2- Vai trò của chính sách thuế trong việc phát triển khu vực KTTN
2.1 Thúc đẩy các tầng lớp dân cư bỏ vốn đầu tư trực tiếp tạo lập doanh nghiệp mới
Bằng chính sách ưu đãi thuế, miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp mới thành lập, Nhà nước đã kích thích các tầng lớp dân cư bỏ vốn ra thành lập các doanh nghiệp mới. Nhà nước có thể đánh thuế cao vào thu nhập từ hoạt động buôn bán bất động sản để doanh nghiệp chuyển từ đầu tư vào bất động sản, dự trữ ngoại tệ, vàng sang đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
2.2 Góp phần thúc đẩy khả năng tự tích luỹ và mở rộng khả năng huy động vốn từ bên ngoài, giúp DNTN tăng cường năng lực tài chính để sản xuất kinh doanh
Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động, Nhà nước cũng có các biện pháp khuyến khích doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thông qua chính sách miễn giảm thuế, hoàn thuế thu nhập nếu doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư. Chẳng hạn, khi mức đánh thuế của Chính phủ tăng lên, phần thu nhập còn lại của nhà đầu tư sẽ giảm xuống, vì vậy các nhà đầu tư sẽ bị giảm bớt động lực kinh doanh. Ngược lại, khi mức đánh thuế của Nhà nước giảm xuống sẽ có tác dụng khuyến khích tăng trưởng đầu tư và tái đầu tư.
2.3 Hướng dẫn và điều tiết hoạt động của các DNTN ngành nghề và các khu vực theo định hướng của Nhà nước
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu của mỗi nước. Nhà nước là người hoạch định chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và trên cơ sở đó sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô để điều hành nền kinh tế vận động theo định hướng đã đề ra.
Nhà nước có thể sử dụng chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế, chính sách tín dụng ưu đãi để hướng các DNTN phát triển ở những ngành nghề cần ưu tiên phát triển, những vùng hải đảo, miền núi xa xôi hẻo lánh để khai thác tiềm năng tại địa phương, từng bước xoá bỏ sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, giữa đồng bằng và miền núi.
2.4 Tăng khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các DNTN trên thị trường trong nước và quốc tế
Nhà nước thực hiện hoàn thuế đầu vào cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu như một hình thức tài trợ gián tiếp của Nhà nước để hỗ trợ cho cho hoạt động kinh doanh của các DNTN bên cạnh các hình thức như trợ giá xuất khẩu, hỗ trợ đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật, hỗ trợ về công nghệ, xúc tiến thương mại nhằm giúp các DNTN nâng cao khả năng hoạt động kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường.
3. Các chỉ tiêu phản ánh sự tác động của chính sách Thuế đến sự phát triển của khu vực KTTN
Để cụ thể hoá sự tác động của các chính sách Thuế lên sự phát triển của khu vực KTTN, ta có thể dựa vào các chỉ tiêu như sau:
3.1 Nhóm chỉ tiêu định lượng:
(1) Nhóm chỉ tiêu nguồn lực:
+ Tổng số doanh nghiệp tăng lên
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách so sánh số lượng doanh nghiệp qua các năm tính bằng số tuyệt đối. Nó chính là số chênh lệch giữa số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động do nhiều lý do khác nhau như phá sản, giải thể và số lượng doanh nghiệp mới được thành lập do sự tác động của nhiều yếu tố trong đó có sự tác động tích cực của các chính sách Thuế
+ Tổng vốn đầu tư của khu vực KTTN tăng lên:
Nhờ chính sách Thuế khuyến khích đầu tư mà tổng vốn đầu tư vào khu vực KTTN ngày càng tăng. Chỉ tiêu này được xác định bằng cách tính tổng lượng vốn đầu tư của xã hội vào khu vực KTTN qua các năm. Vốn đầu tư có thể tính bằng đồng Việt Nam hoặc bằng USD. Ngoài ra người ta còn có thể so sánh tỷ trọng vốn đầu tư trong khu vực tư nhân với tổng vốn đầu tư của toàn xã hội qua các năm.
(2) Nhóm chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh:
+ Tổng giá trị sản xuất:
Chỉ tiêu này được tính bằng tổng giá trị quy ra tiền của khối lượng hàng hoá dịch vụ mà khu vực KTTN cung cấp cho xã hội. Do chính sách Thuế tích cực sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNTN, nhờ đó mà tổng giá trị sản xuất của tăng lên qua các năm, ngược lại, nếu các chính sách Thuế tồn tại những bất cập sẽ kìm hãm khu vực KTTN phát huy hết khả năng của mình.
+ Tổng giá trị xuất khẩu:
Chỉ tiêu này được tính bằng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của khu vực KTTN, quy ra đồng Việt Nam hoặc USD.
+ Tổng giá trị đóng góp vào GDP:
Chỉ tiêu này phản ánh mức đóng góp của khu vực KTTN cho nền kinh tế quốc dân hàng năm.
(3) Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh:
Chỉ tiêu này dựa trên kết quả tổng kết hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong năm. Nó đo bằng tỷ lệ doanh nghiệp làm ăn có lãi trong khu vực KTTN, trên cơ sở so sánh với tỷ lệ doanh nghiệp làm ăn có lãi trong khu vực KTNN.
3.2. Nhóm các chỉ tiêu định tính:
(1) Nhóm chỉ tiêu hoạt động thị trường:
+ Khả năng cung cấp hàng hoá cho thị trường
+ Khả năng cạnh tranh
+ Khả năng liên doanh liên kết theo lĩnh vực hoạt động.
(2) Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ đa dạng về ngành nghề và địa điểm phân bổ:
+ Mức độ đa dạng về ngành nghề
+ Mức độ đa dạng về địa điểm phân bổ
Chương II
Thực trạng tác động của chính sách thuế đối với sự phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
I. Tình hình phát triển của khu vực KTTN ở Việt Nam
1. Tình hình phát triển của khu vực KTTN
Trước năm 1986, theo mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa truyền thống, cơ cấu các thành phần kinh tế nước ta trong thời kỳ này chuyển dịch theo hướng thiên vị cho khu vực KTNN. Điều đó chẳng những hạn chế sự đóng góp của khu vực KTTN mà còn làm tăng thêm tình trạng đối nghịch với hoạt động quản lý của Nhà nước-phát triển kinh tế ngầm nằm ngoài sự kiểm kê kiểm soát của chính quyền.
Từ năm 1986 đến nay, Đại hội VI của Đảng (1986) đã chỉ ra những sai lầm về kinh tế trong đó có vấn đề về cơ cấu các thành phần kinh tế. Để khắc phục những sai lầm đó, Đại hội đã xác định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần. Từ đó khu vực KTTN được bước sang thời kỳ mới- được khôi phục và khuyến khích phát triển. Thực trạng KTTN ở nước ta có thể được khái quát qua một số khía cạnh sau:
Số lượng doanh nghiệp
Nếu như vào năm 1991, cả nước mới có 414 doanh nghiệp của tư nhân thì đến hết năm 1995 đã có 15.276 doanh nghiệp, năm 1999 có 30.500 doanh nghiệp, tăng gấp 74 lần so với năm 1991. Tính bình quân giai đoạn 1991-1999, mỗi năm tăng 3.388 doanh nghiệp. Tính đến cuối năm 2002, tổng cộng có khoảng 86.207 doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh doanh.
Tuy nhiên, tỷ lệ số doanh nghiệp bình quân trên dân số mới có 1/1000 người, còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chẳng hạn vào năm 1999 tỷ lệ của Mỹ là 1/20, của Nhật và Hàn Quốc là 1/40, của Đài Loan là 49/1000 và tỷ lệ hiện nay ở nước ta chỉ tương đương với tỷ lệ này ở Thái Lan vào năm 1991.
Biểu1: Số lượng DNTN trong nền kinh tế
Nguồn: VietnamNet 17/5/2003
Quy mô doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân hầu hết có quy mô nhỏ, một số có quy mô vừa, số có quy mô lớn rất ít (Theo Nghị định số 90/2001NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ thì định nghĩa doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người). Trong các doanh nghiệp phi nông nghiệp số doanh nghiệp có dưới 300 lao động chiếm 97,71%, số doanh nghiệp có vốn thực tế sử dụng nhỏ hơn 10 tỷ đồng chiếm 94,93% bình quân vốn thực tế sử dụng của doanh nghiệp là 3,7 tỷ đồng. Trong các doanh nghiệp thuộc ngành nông nghiệp, các con số thống kê hiện có cũng cho thấy quy mô còn nhỏ hơn: số lao động trung bình là 12,7 người, số vốn đăng ký là 248 triệu đồng.
Cơ cấu của các DNTN
Cơ cấu các loại hình doanh nghiệp
Trong tổng số doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN, doanh nghiệp tư nhân chiếm 58,76%, công ty TNHH chiếm 36,68% và công ty cổ phần chỉ chiếm hơn 2% chứng tỏ mô hình công ty cổ phần chưa thích hợp với thói quen và tâm lý của người Việt Nam, đồng thời môi trường pháp lý không thuận lợi để phát triển công ty cổ phần. Đây cũng là một nguyên nhân hạn chế quy mô và khả năng tăng vốn của doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN. Hơn nữa tiến trình cổ phần hoá DNNN diễn ra chậm chạp, tính đến tháng 10/2002 mới có 997 doanh nghiệp chuyển đổi sở hữu càng làm cho cơ cấu loại hình trong kinh tế tư nhân khó thay đổi.
Cơ cấu ngành nghề
Theo số liệu điều tra thì có tới 51,9% DNTN tập trung trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ sửa chữa và nhà hàng, khách sạn, du lịch; 20,8% DNTN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp; số lượng DNTN hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nhỏ lẻ, không đáng kể, chỉ khoảng 12%.
Nguyên nhân các DNTN tập trung nhiều trong lĩnh vực thương mại là do lĩnh vực này thích hợp với quy mô nhỏ, không hoặc ít có nhu cầu tăng vốn; không cần đầu tư vào công nghệ vừa đòi hỏi vốn lớn, vừa gặp phải rủi ro cao; nhanh chóng thu hồi vốn; năng động, dễ rút khỏi thị trường; hứa hẹn khả năng sinh lợi cao và phù hợp với tâm lý kinh doanh của người Việt Nam.
Trong lĩnh vực sản xuất, các DNTN còn chiếm tỷ trọng thấp. Đây là lĩnh vực cần nhiều vốn, công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến. Tuy nhiên, các DNTN cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Hàng năm, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất của khu vực KTTN vào khoảng 10-14%.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, chỉ có một số lượng không lớn các DNTN hoạt động vì không có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, địa lý, giao dịch, trao đổi. Mặt khác hoạt động của các doanh nghiệp lại phụ thuộc quá nhiều vào thời vụ. Các lĩnh vực khác như xây dựng, ngân hàng đòi hỏi vốn khá lớn và mức độ rủi ro cao...
Như vậy, xét về cơ cấu ngành nghề của khu vực KTTN là có sự mất cân đối.
Cơ cấu theo lãnh thổ
- Theo vùng:
Các DNTN ở nước ta phân bố không đều, đa số tập trung ở đồng bằng và đô thị, nơi có cơ sở hạ tầng phát triển và thị trường tiêu thụ rộng lớn, hội tụ đầy đủ những yếu tố thuận lợi cho quá trình hoạt động sản xuất và giao dịch kinh doanh. Do đó số lượng doanh nghiệp ở miền núi chỉ chiếm 4,8% tổng số DNTN. Điều này gây mất cân đối trong phát triển cơ cấu kinh tế vùng, tạo khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, giữa miền ngược và miền xuôi về trình độ văn hoá và đời sống nhân dân.
- Theo miền:
Biểu 2: Tỷ lệ phân bổ các doanh nghiệp theo miền
Nguồn: Tài liệu hội thảo " Khung pháp lý cho việc phát triển
khu vực KTTN"
Biểu đồ cũng cho thấy sự mất cân đối trong phân bố của các DNTN theo miền, các DNTN chủ yếu tập trung vào vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Điều đó có ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển chung của cả nước. Vấn đề này không chỉ thể hiện nguồn lực của đất nước phân bổ không đều mà còn do tập tính và nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của người dân ở địa phương đó. Tại các vùng tập trung nhiều doanh nghiệp sẽ có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đương nhiên đời sống văn hoá, tinh thần, vật chất của người dân sẽ nâng cao.
Qua việc khái quát tình hình chung, có thể thấy khu vực kinh tế tư nhân ở nước tìm được vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân như chúng ta mong muốn. Nguyên nhân căn bản là các DNTN ở nước ta đang còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc thành lập và triển khai hoạt động. Trong một nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, ngoài những khó khăn chung như của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước, khu vực KTTN còn có những khó khăn riêng khi hoạt động trong cơ chế thị trường.
2- Những khó khăn chủ yếu của khu vực KTTN ở nước ta:
2.1 Thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh
Mặc dù số lượng DNTN rất lớn nhưng tổng số vốn cho sản xuất kinh doanh trong tổng vốn đầu tư của toàn xã hội không tương xứng với số lượng doanh nghiệp. Bình quân số vốn của một doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2000 chỉ có 900 triệu đồng, năm 2001 khả quan hơn cũng chỉ đạt 1,2 tỷ đồng, tính bình quân chung là khoảng 250 triệu đồng/doanh nghiệp. So với các nước trong khu vực thì con số này là tương đối thấp.
Các chủ DNTN thường bắt đầu công việc kinh doanh và mở rộng quy mô hoạt động bằng nguồn vốn tự có và các nguồn tín dụng phi chính thức. Nguồn vốn này thường đòi hỏi người đi vay phải trả chi phí cao quá mức, thường thì lãi suất cao gấp 3-6 lần lãi suất ngân hàng.
Nếu có thể tiếp cận với nguồn vốn tín dụng thì đa số chỉ là tín dụng ngắn hạn trong khi nhu cầu vốn trung và dài hạn là rất lớn. Các doanh nghiệp cần vốn trung và dài hạn để mua sắm máy móc, thiết bị mới và nâng cấp nhà xưởng nhưng điều này rất khó và gần như không thể thực hiện được khi mà vốn ngắn hạn chiếm tới 80% tổng số vốn vay được các ngân hàng thương mại duyệt. Chỉ có 18% các DNTN quy mô lớn được vay vốn trung và dài hạn, còn doanh nghiệp quy mô nhỏ thì không đáng kể.
Thêm vào đó, thị trường tài chính phi ngân hàng nước ta chưa phát triển đồng bộ, đầy đủ đã hạn chế các doanh nghiệp nói chung và các DNTN nói riêng. Việc thiếu một thị trường chứng khoán theo đúng nghĩa của nó cũng là một nguyên nhân giải thích cho việc thiếu vốn của các doanh nghiệp.
Đồng thời cũng phải thừa nhận một thực tế là các DNTN mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển nên năng lực tài chính, thấp khả năng tích luỹ vốn còn hạn chế, đây là nguyên nhân nội tại của chính các doanh nghiệp.
Tóm lại, điều kiện về vốn của khu vực KTTN Việt Nam hiện nay đang rất hạn hẹp và việc huy động vốn gặp nhiều khó khăn. Quy mô vốn tự có rất nhỏ, không đủ sức tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh có chất lượng và hiệu quả cao, đặc biệt đối với những doanh nghiệp muốn mở rộng và phát triển quy mô hoạt động và đổi mới nâng cao chất lượng thiết bị công nghệ. Hạn chế này dẫn đến hàng loạt các khó khăn khác cho khu vực KTTN.
2.2 Trình độ công nghệ, kỹ thuật
Các DNTN có quy mô vừa và nhỏ hạn chế trong trang bị kỹ thuật. Công nghệ sản xuất của loại doanh nghiệp này hầu hết ở trình độ thấp và trung bình. Nhiều doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể sử dụng kỹ thuật lạc hậu, chắp vá, lao động thủ công là chủ yếu. Nhiều cơ sở mua lại máy móc thiết bị cũ do các DNNN thải ra. Điều kiện vốn và trình độ không cho phép các DNTN tự tài trợ để đổi mới mạnh mẽ và áp dụng những trang thiết bị hiện đại, tiên tiến trong khi các DNNN lại nhận được những khoản đầu tư lớn từ Ngân sách Nhà nước.
2.3 Trình độ quản lý doanh nghiệp và tay nghề người lao động
Hiện nay các DNTN thiếu vắng những nhà quản lý có trình độ cao, chưa hội đủ năng lực để chỉ đạo sản xuất kinh doanh theo chiến lược mong muốn, không đủ sức "chèo lái" để doanh nghiệp hoạt động và phát triển khi gặp khó khăn lớn trong sản xuất kinh doanh như: biến động thị trường, giá cả, tỷ giá, lãi suất, xuất nhập khẩu và các mối quan hệ khác. Tỷ lệ các nhà quản lý được qua các lớp đào tạo và bồi dưỡng về quản lý kinh doanh và quản trị doanh nghiệp rất thấp. Thêm vào đó, lực lượng công nhân kỹ thuật và lao động lành nghề được đào tạo còn quá ít, hạn chế về trình độ, lại luôn biến động. Số lao động giản đơn, chưa qua đào tạo chiếm từ 60-70% (điều tra của Bộ Lao động- thương binh- xã hội). Vì thế nên việc quản lý và sử dụng lao động ở các DNTN gặp nhiều khó khăn, cộng với đội ngũ quản lý thiếu những kỹ năng cần thiết dẫn đến hiệu quả hoạt động của các DNTN không cao, năng suất lao động thấp, thu nhập không ổn định.
2.4 Thiếu mặt bằng sản xuất, kinh doanh ổn định, lâu dài
So với các nước trong khu vực thì DNTN nước ta bị hạn chế hơn về vấn đề quyền sử dụng đất. Mặt bằng sản xuất kinh doanh của khu vực KTTN rất hạn hẹp, chủ yếu là đất của gia đình hay thuê lại của DNNN. Mãi đến gần đây mới có một số doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN được trực tiếp thuê đất từ cơ quan chính quyền địa phương. Khoảng gần 40% cơ sở kinh doanh có diện tích mặt bằng dưới 100 m2 , gần 53% có diện tích mặt bằng dưới 200 m2.
Các DNTN khó có được giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất dài hạn, đặc biệt là ở thành thị- nơi mà đất cho sản xuất kinh doanh chủ yếu được cấp cho các DNNN. Chính điều này gây cản trở không nhỏ cho các DNTN thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng và khả năng liên kết, liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài. Việc thiếu tính đảm bảo về quyền sử dụng đất lâu dài cũng tạo tâm lý không ổn định cho doanh nghiệp để mở rộng sản xuất kinh doanh về lâu dài.
Mặt khác, các điều kiện về cơ sở hạ tầng tối thiểu cung không đầy đủ, nhất là điện nước, hệ thống giao thông... Do đó các doanh nghiệp tập trung chủ yếu ở các khu đô thị, đồng bằng- nơi có điều kiện thuận lợi hơn cho sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra các DNTN còn gặp nhiều khó khăn khác như công tác thanh tra kiểm tra phức tạp, quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp dễ bị hình sự hoá, hạn chế trong việc tiếp cận với hạn ngạch xuất nhập khẩu,...Như vậy, sự tồn tại và phát triển của khu vực KTTN là xu thế tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường. Sau những nỗ lực không ngừng của Đảng và Nhà nước, các DNTN đã được quan tâm hơn và đã đạt được những thành tựu nhất định góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Mặt khác trong quá trình phát triển, các DNTN vẫn gặp nhiều khó khăn vướng mắc cần sớm được giải quyết. Khó khăn của các DNTN do nhiều yếu tố cả khách quan và chủ quan gây ra. Trong nền kinh tế thị trường có sự định hướng của Nhà nước, chính sách của Nhà nước có vai trò cực kỳ quan trọng, có thể tạo điều kiện thuận lợi nhưng cũng có thể tạo thêm khó khăn cho các DNTN, đặc biệt là các chính sách tài chính, trong đó có chính sách Thuế. Sau đây chúng ta sẽ xem xét tác động của chính sách Thuế hiện hành ở nước ta đến sự phát triển của khu vực kinh tế này.
II. Thực trạng tác động của chính sách thuế đến sự phát triển của khu vực KTTN:
1- Vài nét về chính sách Thuế chủ yếu được sử dụng trong thời gian qua
Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc (1954) và giải phóng miền Nam thống nhất đất nước(1975), Nhà nước ta thực hiện công cuộc cải tạo XHCN, xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân (kinh tế quốc doanh) và sở hữu tập thể (kinh tế hợp tác). Trong bối cảnh đó thuế được sử dụng như một công cụ quản lý vừa nhằm mục tiêu tập trung nguồn thu cho ngân sách, vừa góp phần thực hiện công cuộc cải tạo XHCN. Hệ thống thuế mang nặng tính bao cấp đối với thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể, cải tạo đi đến xoá bỏ các thành phần kinh tế khác.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được áp dụng các loại thuế sau:
- Thuế môn bài
- Thuế doanh thu
- Thuế hàng hoá
- Thuế lợi tức doanh nghiệp
- Thuế buôn chuyến
- Thuế sát sinh
Ngoài ra còn phải nộp lệ phí trước bạ, lệ phí chứng thư.
* Cải cách thuế bước 1:
Từ đại hội Đảng Cộng sản toàn quốc lần thứ VI, khi đường lối xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần được khẳng định thì quy luật khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi phải có những đổi mới toàn diện trong hệ thống chính sách và bộ máy quản lý thu thuế.
Cùng với việc đổi mới các chính sách tài chính, nước ta đã thực hiện cải cách thuế lần thứ nhất (cải cách thuế bước 1) trong 5 năm 1991-1995
Trong cải cách thuế lần thứ nhất, hệ thống thuế Việt Nam lần đầu tiên được áp dụng thống nhất cho mọi loại hình doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế, bao gồm các Luật, Pháp lệnh thuế sau:
- Luật thuế doanh thu
- Luật thuế tiêu thụ đặc biệt
- Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu
- Luật thuế lợi tức
- Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp
- Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất
- Pháp lệnh thuế tài nguyên
- Pháp lệnh thuế nhà đất
- Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
Ngoài ra còn một số loại thuế mang tính chất lệ phí như: thuế môn bài, thuế sát sinh trước ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37110.doc