Một số ý kiến góp phần hoàn thiện công tác đa dạng hoá sản phẩm tại Nhà máy Chỉ khâu Hà Nội

Lời mở đầu Ngành dệt-may Việt Nam một vài năm trở lại đây, đặc biệt là trong 3 năm cuối cùng của thiên niên kỉ, đã lên ngôi và tiếp tục khẳng định vị thế của mình trên thương trường. Có được thành công này là do ngành đã đoán trước được nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường. Bắt mạch thị trường, ngành đã tìm ra hướng đi, chọn giải pháp hợp lý, xây dựng cho ngành một chiến lược kinh doanh nói chung và chiến lược sản phẩm đem lại hiệu quả cao. Đa dạng hoá sản phẩm là một chiến lược được rất n

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1318 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số ý kiến góp phần hoàn thiện công tác đa dạng hoá sản phẩm tại Nhà máy Chỉ khâu Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiều nhà kinh tế biết đến và được phần lớn các doanh nghiệp trên thế giới nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng áp dụng. Nhưng không phải doanh nghiệp nào, nước nào cũng áp dụng thành công mô hình chiến lược này. Riêng ở Việt Nam, khi nói đến đa dạng hoá sản phẩm, người ta không thể không nói đến ngành dệt may. Bởi lẽ, nhờ thực hiện đa dạng hóa sản phẩm, ngành đã lên ngôi đầu bảng, đạt kim ngạch xuất nhập khẩu cao và tiếp tục khẳng định vị thế của mình trên thương trường trong nước, khu vực và quốc tế trong một vài năm trở lại đây. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, nhiều doanh nghiệp đã bộc lộ rõ nhiều vấn đề cần được xem xét và hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn. Đối với riêng bản thân em, đa dạng hoá sản phẩm là một mảng đề tài hết sức hấp dẫn và thú vị. Vì vậy, em xin phép được trình bày quá trình thực hiện đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy chỉ khâu Hà Nội và qua đó em xin đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy Chỉ khâu Hà Nội. Phải chăng nhà máy đã tạo dựng cho mình một hướng đi mang tính xác thực, khoa học và hiệu quả? Chuyên đề này sẽ làm sáng tỏ điều đó. Mục đích nghiên cứu của chuyên đề là làm rõ cơ sở khoa học của đa dạng hoá sản phẩm, luận giải những vấn đề cơ bản của đa dạng hoá sản phẩm trong nền kinh tế thị trường của các doanh nghiệp nói chung và của nhà máy Chỉ khâu nói riêng. Trên cơ sở đó, chuyên đề đưa ra một số ý kiến và một vài giải pháp cơ bản nhằm góp phần hoàn thiện công tác đa dạng hóa sản phẩm ở nhà máy Chỉ khâu Hà Nội. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, chuyên đề được trình bày thành ba phần: Phần I: Đa dạng hóa sảnphẩm - một khuynh hướng phổ biến giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trên thị trường. Phần II: Tình hình thực hiện đa dạng hóa sản phẩm tại nhà máy Chỉ khâu Hà Nội. Phần III: Một số ý kiến góp phần hoàn thiện công tác đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy Chỉ khâu Hà Nội. Nhờ sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Trần Thị Thạch Liên, cùng với sự giúp đỡ của các cô chú, các phòng ban nhà máy Chỉ khâu Hà Nội, đặc biệt là phòng kinh doanh, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập. Là một sinh viên, ước mơ hoài bão thì nhiều nhưng thực tế không cho phép, trong chuyên đề này, em muốn đề cập đến nhiều vấn đề nhưng vì điều kiện khuôn khổ chuyên đề có hạn cũng như kinh nghiệm còn hạn chế (chỉ là những kiến thức trên ghế nhà trường và thời gian ngắn thực tập tại nhà máy Chỉ khâu Hà Nội) nên bài viết không được như ý muốn, không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Rất mong các thầy cô giáo, các cô chú nhà máy và bạn đọc góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Phần thứ nhất: Đa dạng hóa sản phẩm - một khuynh hướng phổ biến giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trên thị trường. I.Đa dạng hoá sản phẩm và phân loại đa dạng hoá sản phẩm: 1.Sản phẩm: 1.1.Khái niệm sản phẩm: Sản phẩm là kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó được tạo ra nhờ hoạt động của con người lên đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động. Theo quan điểm Maketing, sản phẩm công nghiệp là một tập hợp các đặc trưng vật chất và phi vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường.Theo quan điểm này, sản phẩm là một thứ có thể bán được trên thị trường để chú ý, mua, sử dụng hoặc tiêu dùng, có thể thoả mãn được một mong muốn hay nhu cầu. Đặc trưng vật chất của sản phẩm công nghiệp bao gồm: kiểu dáng, chất lượng, màu sắc, khẩu vị, kết cấu, bao bì, nhãn mác... Đặc trưng tâm lý của sản phẩm công nghiệp bao gồm: tên gọi, biểu tượng, thẩm mỹ... Sản phẩm công nghiệp được sản xuất ra phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Đối với doanh nghiệp, một sản phẩm là lời giải đáp của doanh nghiệp đó cho một nhu cầu tìm thấy trên thị trường. Còn đối với người mua, một sản phẩm là lời hứa hẹn, là cái mà khách hàng mua để thoả mãn nhu cầu của mình. Do đó, doanh nghiệp chỉ bán cái mà khách hàng cần chứ không bán cái mà mình có. 1.2.Phân loại sản phẩm: 1.2.1.Phân loại theo tính chất sử dụng: Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: sản phẩm công cộng và sản phẩm tư nhân. -Sản phẩm công cộng là sản phẩm mà việc tiêu dùng của người này không làm ảnh hưởng đến việc tiêu dùng của người khác như đường xá, cầu cống, các công trình văn hoá, các di tích lịch sử... -Sản phẩm tư nhân là sản phẩm mà khi một người đã tiêu dùng thì người khác không thể tiêu dùng sản phẩm đó. Vì vậy, khi người này tiêu dùng thì người khác tiêu dùng ít đi như: quần áo, xe, giầy dép... Sản phẩm cá nhân có tính cạnh tranh mạnh mẽ, còn sản phẩm công cộng k hông có tính cạnh tranh. 1.2.2.Phân loại sảnphẩm theo mối quan hệ với thu nhập: Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng hoá thông thường và hàng xa xỉ. -Hàng thông thường là những sản phẩm mà mọi tầng lớp trong xã hội đều có thể tiêu dùng một cách bình thưòng. -Hàng xa xỉ là những sản phẩm dành cho các đối tượng có thu nhập cao trong xã hội như: ô tô, điều hoà... 1.2.3.Phân loại sản phẩm theo khả năng thay thế lẫn nhau: Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng hoá bổ sung và hàng hóa thay thế. -Hàng hoá bổ sung là hàng hoá khi tiêu dùng phải theo một cơ cấu và đồng bộ nhau, không thể tách rời nhau được như: ô tô và xăng, thuốc lá và bật lửa... -Hàng hoá thay thế là hàng hoá khi tiêu dùng độc lập với nhauvà khi cần có thể thay thế cho nhau như: bật lửa và diêm, bia và rượu, bếp dầu và bếp gas... 1.2.4.Phân loại sản phẩm theo tuổi thọ của sản phẩm: Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng hoá lâu bền và hàng hóa không lâu bền. -Hàng lâu bền là hàng có thể sử dụng được trong một thời gian dài như: ô tô, xe máy, nhà cửa... -Hàng không lâu bền là những vật rẻ tiền, mau hỏng như: bút chì, tẩy... 1.2.5.Phân loại sản phẩm theo tần số mua: Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng mua thường xuyên và hàng không mua thường xuyên. -Hàng mua thường xuyên là hàng hoá cần thiết cho cuộc sống hàng ngày và người tiêu dùng nó phải thường xuyên tiêu dùng nó như: quần áo, giày dép... -Hàng mua không thường xuyên là hàng hoá mà người tiêu dùng không tiêu dùng nó thường xuyên như: áo cưới, 1.2.6.Phân loại sản phẩm theo mức độ cấp thiết: Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng dùng ngay và hàng đắn đo. 1.2.7.Phân loại sản phẩm theo mức độ chế biến sản phẩm: Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: sản phẩm trung gian và sản phẩm cuối cùng. -Sản phẩm trung gian là những sản phẩm còn phải trải qua một hoặc một số bước chế biến nữa mới trở thành sản phẩm hoàn chỉnh phục vụ cho tiêu dùng như: xơ bông để kéo sợi, sợi để dệt vải, vải để may quần áo... -Sản phẩm cuối cùng là những sản phẩm hoàn chỉnh có thể phục vụ cho tiêu dùng như: quần áo, giầy dép... 1.2.8.Phân loại sản phẩm theo công dụng kinh tế của sản phẩm: Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: sản phẩm là tư liệu sản xuất và sản phẩm là tư liệu tiêu dùng. Tuỳ thuộc vào đối tượng sử dụng mà hàng hoá đó là tư liệu sản xuất hay vật phẩm tiêu dùng như: chỉ nếu khách hàng là người tiêu dùng mua để khâu vá hay may thì đó là vật phẩm tiêu dùng, nếu đó là doanh nghiệp mua để may thành quần áo, giày dép hoàn chỉnh bán ra thị trường thì đó là tư liệu sản xuất. 2.Danh mục sản phẩm: Một danh mục sản phẩm là một tập hợp tất cả những loại sản phẩm một người bán cụ thể đưa ra để bán cho người mua. Danh mục sản phẩm của một công ty bao gồm chiêù rộng, chiều dài, chiều sâu và mật độ. -Chiều rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện doanh nghiệp có bao nhiêu loại sản phẩm khác nhau. -Chiều dài danh mục sản phẩm là tổng số mặt hàng trong danh mục sản phẩm. -Chiều sâu danh mục sản phẩm thể hiện doanh nghiệp có bao nhiêu phương án của mỗi sản phẩm trong loại. Ví dụ: 1 loại sản phẩm kem đánh răng Crest có 3 kích cỡ và 2 công thức nên chiều sâu của sản phẩm này là 6. -Mật độ của danh mục sản phẩm thể hiện mối quan hệ mật thiết đến mức độ nào giữa các loại sản phẩm khác nhau xét theo cách sử dụng cuối cùng, thiết bị sản xuất... Bốn chiều này của danh mục sản phẩm tạo nên những căn cứ để xác định chiến lược sản phẩm của công ty Việc lập kế hoạch danh mục sản phẩm chủ yếu tuỳ thuộc vào trách nhiệm của những người hoạch định chiến lược của công ty căn cứ vào những thông tin do những người làm công tác tiếp thị của công ty cung cấp. Họ phải đánh giá những loại sản phẩm nào cần phát triển, cần duy trì, cần thu hoạch, và cần loại bỏ. 3.Đa dạng hoá sản phẩm: 3.1.Khái niệm đa dạng hoá sản phẩm Để thực hiện hệ thống các mục tiêu kinh tế xã hội đã định, trong quá trình sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp phải xác định cho mình một cơ cấu sản phẩm hợp lý. Một cơ cấu sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường, phù hợp với khả năng, năng lực của doanh nghiệp và cho phép các doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận. Trong điều kiện nhu cầu thị trường rất đa dạng, thường xuyên biến động, tiến bộ khoa học kĩ thuật công nghệ phát triển mạnh mẽ, thì cơ cấu sản phẩm phải được coi là cơ cấu “động”, nghĩa là phải thường xuyên được thay đổi, hoàn thiện, cải tiến và đổi mới. Bởi đây là một trong những điều kiện tiên quyết nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường đầy khắc nghiệt. Quá trình hoàn thiện và đổi mới cơ cấu sản phẩm có thể được thực hiện theo nhiều chiều hướng khác nhau như: -Thu hẹp danh mục sản phẩm bằng cách loại bỏ những sản phẩm lỗi thời, kém cạnh tranh hay những sản phẩm không tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. hông có tính cạnh tranh. 1.2.2.Phân loại sản phẩm theo mối quan hệ với thu nhập: Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng hoá thông thường và hàng xa xỉ. -Hàng thông thường là những sản phẩm mà mọi tầng lớp trong xã hội đều có thể tiêu dùng một cách bình thưòng. -Hàng xa xỉ là những sản phẩm dành cho các đối tượng có thu nhập cao trong xã hội như: ô tô, điều hoà... 1.2.3.Phân loại sản phẩm theo khả năng thay thế lẫn nhau: Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng hoá bổ sung và hàng hóa thay thế. -Hàng hoá bổ sung là hàng hoá khi tiêu dùng phải theo một cơ cấu và đồng bộ nhau, không thể tách rời nhau được như: ô tô và xăng, thuốc lá và bật lửa... -Hàng hoá thay thế là hàng hoá khi tiêu dùng độc lập với nhauvà khi cần có thể thay thế cho nhau như: bật lửa và diêm, bia và rượu, bếp dầu và bếp gas... 1.2.4.Phân loại sản phẩm theo tuổi thọ của sản phẩm: Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng hoá lâu bền và hàng hóa không lâu bền. -Hàng lâu bền là hàng có thể sử dụng được trong một thời gian dài như: ô tô, xe máy, nhà cửa... -Hàng không lâu bền là những vật rẻ tiền, mau hỏng như: bút chì, tẩy... 1.2.5.Phân loại sản phẩm theo tần số mua: Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng mua thường xuyên và hàng không mua thường xuyên. -Hàng mua thường xuyên là hàng hoá cần thiết cho cuộc sống hàng ngày và người tiêu dùng nó phải thường xuyên tiêu dùng nó như: quần áo, giày dép... -Hàng mua không thường xuyên là hàng hoá mà người tiêu dùng không tiêu dùng nó thường xuyên như: áo cưới, 1.2.6.Phân loại sản phẩm theo mức độ cấp thiết: Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng dùng ngay và hàng đắn đo. 1.2.7.Phân loại sản phẩm theo mức độ chế biến sản phẩm: Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: sản phẩm trung gian và sản phẩm cuối cùng. -Sản phẩm trung gian là những sản phẩm còn phải trải qua một hoặc một số bước chế biến nữa mới trở thành sản phẩm hoàn chỉnh phục vụ cho tiêu dùng như: xơ bông để kéo sợi, sợi để dệt vải, vải để may quần áo... -Sản phẩm cuối cùng là những sản phẩm hoàn chỉnh có thể phục vụ cho tiêu dùng như: quần áo, giầy dép... 1.2.8.Phân loại sản phẩm theo công dụng kinh tế của sản phẩm: Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: sản phẩm là tư liệu sản xuất và sản phẩm là tư liệu tiêu dùng. Tuỳ thuộc vào đối tượng sử dụng mà hàng hoá đó là tư liệu sản xuất hay vật phẩm tiêu dùng như: chỉ nếu khách hàng là người tiêu dùng mua để khâu vá hay may thì đó là vật phẩm tiêu dùng, nếu đó là doanh nghiệp mua để may thành quần áo, giày dép hoàn chỉnh bán ra thị trường thì đó là tư liệu sản xuất. 2.Danh mục sản phẩm: Một danh mục sản phẩm là một tập hợp tất cả những loại sản phẩm một người bán cụ thể đưa ra để bán cho người mua. Danh mục sản phẩm của một công ty bao gồm chiêù rộng, chiều dài, chiều sâu và mật độ. -Chiều rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện doanh nghiệp có bao nhiêu loại sản phẩm khác nhau. -Chiều dài danh mục sản phẩm là tổng số mặt hàng trong danh mục sản phẩm. -Chiều sâu danh mục sản phẩm thể hiện doanh nghiệp có bao nhiêu phương án của mỗi sản phẩm trong loại. Ví dụ: 1 loại sản phẩm kem đánh răng Crest có 3 kích cỡ và 2 công thức nên chiều sâu của sản phẩm này là 6. -Mật độ của danh mục sản phẩm thể hiện mối quan hệ mật thiết đến mức độ nào giữa các loại sản phẩm khác nhau xét theo cách sử dụng cuối cùng, thiết bị sản xuất... Bốn chiều này của danh mục sản phẩm tạo nên những căn cứ để xác định chiến lược sản phẩm của công ty Việc lập kế hoạch danh mục sản phẩm chủ yếu tuỳ thuộc vào trách nhiệm của những người hoạch định chiến lược của công ty căn cứ vào những thông tin do những người làm công tác tiếp thị của công ty cung cấp. Họ phải đánh giá những loại sản phẩm nào cần phát triển, cần duy trì, cần thu hoạch, và cần loại bỏ. 3.Đa dạng hoá sản phẩm: 3.1.Khái niệm đa dạng hoá sản phẩm Để thực hiện hệ thống các mục tiêu kinh tế xã hội đã định, trong quá trình sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp phải xác định cho mình một cơ cấu sản phẩm hợp lý. Một cơ cấu sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường, phù hợp với khả năng, năng lực của doanh nghiệp và cho phép các doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận. Trong điều kiện nhu cầu thị trường rất đa dạng, thường xuyên biến động, tiến bộ khoa học kĩ thuật công nghệ phát triển mạnh mẽ, thì cơ cấu sản phẩm phải được coi là cơ cấu “động”, nghĩa là phải thường xuyên được thay đổi, hoàn thiện, cải tiến và đổi mới. Bởi đây là một trong những điều kiện tiên quyết nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường đầy khắc nghiệt. Quá trình hoàn thiện và đổi mới cơ cấu sản phẩm có thể được thực hiện theo nhiều chiều hướng khác nhau như: -Thu hẹp danh mục sản phẩm bằng cách loại bỏ những sản phẩm lỗi thời, kém cạnh tranh hay những sản phẩm không tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. -Giữ nguyên chủng loại sản phẩm đang sản xuất, những sản phẩm cải tiến, hoàn thiện về mặt hình thức và nội dung, kiểu dáng, mẫu mã, thế hệ sản phẩm mới. -Bổ sung thêm vào danh mục những sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu và xu hướng phát triển của thị trường. -Chuyển hoá vị trí các sản phẩm trong cơ cấu sản phẩm, tức là: đưa những sản phẩm ở hàng thứ lên vị trí hàng đầu và ngược lại bằng cách thay đổi định lượng sản xuất mỗi loại. Những sản phẩm mới, bổ sung này có thể là mới tuyệt đối (mới đối với cả doanh nghiệp và thị trường), có thể là mới tương đối (mới với doanh nghiệp và không mới với thị trường). c.Hỗn hợp: Doanh nghiệp kết hợp xen kẽ giữa biến đổi chủng loại sản phẩm và đổi mới chủng loại sản phẩm, nghĩa là doanh nghiệp thực hiện đồng thời: -Hoàn thiện, cải tiến một số sản phẩm đang sản xuất -Loại bỏ sản phẩm (lỗi thời, kém cạnh tranh, khó tiêu thụ...) -Bổ sung những sản phẩm mới vào danh mục sản phẩm. Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm theo hướng biến đổi danh mục sản phẩm, doanh nghiệp phải theo sát sự biến động của nhu cầu sản phẩm trên thị trường, tận dụng quyền lực, giảm bớt rủi ro trong kinh doanh nhờ các tuyến sản phẩm bổ sung, hỗ trợ nhau từ tài chính, vận chuyển, cơ sở vật chất kỹ thuật và thị trường. 3.3.2.Xét theo tính chất của nhu cầu sản phẩm: Theo cách phân loại này có các hình thức đa dạng hoá sản phẩm sau: a.Đa dạng hoá theo chiều sâu nhu cầu mỗi loại sản phẩm: Doanh nghiệp lấy sản phẩm chuyên môn hoá ban đầu để mở rộng danh mục sản phẩm bằng cách tăng thêm nhiều mâũ mã, kiểu cách, chức năng, công dụng để đáp ứng toàn diện nhu cầu của các đối tượng/ khách hàng khác nhau về cùng một loại sản phẩm. Hình thức đa dạng hoá sản phẩm gắn liền với việc phân đoạn nhu cầu sản phẩm (hay phân đoạn thị trường sản phẩm ) b.Đa dạng hoá theo bề rộng nhu cầu các loại sản phẩm: Doanh nghiệp lấy sản phẩm chuyên môn hoá ban đầu để mở rộng danh mục sản phẩm bằng cách chế tạo một số loại sản phẩm có kết cấu, công nghệ sản xuất, giá trị sử dụng cụ thể khác nhau, hay nói cách khác, doanh nghiệp sản xuất một số loại sản phẩm bổ sung để thoả mãn đồng bộ một số nhu cầu có liên quan với nhau của đối tượng tiêu dùng. c.Đa dạng hoá theo hướng thoát ly sản phẩm gốc: Đa dạng hoá theo hướng thoát ly sản phẩm gốc là đưa danh mục sản phẩm mới không liên quan đến sản phẩm chuyên môn hoá ban đầu cả về giá trị sử dụng và công nghệ sản xuất vào danh mục sản phẩm của doanh nghiệp. 3.3.3.Xét theo mối quan hệ với sử dụng nguyên liệu chế tạo sản phẩm: Có các hình thức đa dạng hoá sản phẩm sau: -Sản xuất những sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau nhưng có chung chủngloại sản phẩm gốc. -Sử dụng các chất có ích chứa đựng trong một loại nguyên liệu để sản xuất một số loại sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau. 3.3.4.Xét theo phương thức thực hiện: Có các hình thức đa dạng hoá sản phẩm sau: a.Đa dạng hóa sản phẩm trên cơ sở các nguồn lực hiện có: Bằng việc áp dụng hình thức này, doanh nghiệp có thể tiết kiệm được đầu tư, giảm bớt thiệt hại do khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, tận dụng được khả năng sản xuất, năng lực hiện có của doanh nghiệp, tận dụng hết công suất thiết bị. Tuy nhiên, sự “tận dụng” này lại dẫn đến hạn chế khả năng mở rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp. b.Đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở hiện có kết hợp với đầu tư bổ sung: Mở rộng danh mục sản phẩm đòi hỏi phải có đầu tư, nhưng đầu tư ở đây chỉ dừng lại ở nghĩa bổ sung, nhằm khắc phục khâu yếu kém, khâu thiếu khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm. So với phương thức trên, phương thức này có khả năng mở rộng danh mục sản phẩm cao hơn. c.Đa dạng hoá sản phẩm bằng đầu tư mới: Hình thức này được áp dụng khi doanh nghiệp quyết định triển khai sản xuất các sản phẩm mới mà khả năng, năng lực sản xuất hiện tại chưa đáp ứng được. Hình thức này thường có nhu cầu đầu tư cao mà rủi ro cũng cao, nhưng khả năng sản xuất được mở rộng. Hình thức này đòi hỏi nhà quản lý phải có tính mạo hiểm, cương quyết. Nhận xét từ các hình thức đa dạng hoá sản phẩm: -Trong phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, có thể thấy nhiều hình thức đa dạng hoá sản phẩm khác nhau. Các cách phân loại chỉ là sự tiếp cận các hình thức đa dạng hoá sản phẩm theo những góc độ khác nhau. -Mỗi hình thức đa dạng hoá sản phẩm có những ưu việt riêng và chúng chỉ bộc lộ khi doanh nghiệp đảm bảo cho nó có những điều kiện thích hợp mà hình thức này đòi hỏi. -Dù áp dụng một hay nhiều hình thức đa dạng hoá sản phẩm thì cũng làm cho danh mục sản phẩm của mỗi doanh nghiệp được mở rộng, cơ cấu sản phẩm trở nên phức tạp hơn và mỗi doanh nghiệp có thêm nhiều thang, dòng và mặt hàng sản phẩm. 4.Tầm quan trọng của đa dạng hoá sản phẩm: 4.1.Sự cần thiết khách quan của đa dạng hoá sản phẩm: Trong những năm gần đây, lý luận và thực tiễn quản trị có những thay đổi to lớn và được sự chú ý của các nhà lý luận và các nhà quản trị thực tiễn. Để thấy được tầm quan trọng của đa dạng hoá sản phẩm, cần tìm hiểu những đặc điểm lớn của môi trường kinh doanh hiện đại. Những đặc điểm này chi phối và quyết định sự tồn tại và phát triển của tất cả các doanh nghiệp hiện nay. Nó vừa tạo ra những cơ hội, vừa tạo ra những thách thức cho sự phát triển. Thứ nhất, đa dạng hoá sản phẩm là điều kiện đảm bảo doanh nghiệp công nghiệp thích ứng với nhu cầu đa dạng của thị trường và sự vận động biến đôỉ của thị trường. Thị trường luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng làm nảy sinh những nhu cầu mới, những đòi hỏi mới cao hơn, khắt khe hơn những sản phẩm đã và đang tồn tại, đào thải những sản phẩm đã lỗi thời. Sự vận động biến đổi ấy mang tính chất tự nhiên, phổ biến, quy luật ở tất cả các nước trên thế giới. Đặt mình vào môi trường kinh doanh đa dạng và luôn vận động như vậy, doanh nghiệp phải có đối sách để đảm bảo sự thích ứng với thị trường, để tồn tại và phát triển. Để làm được điều đó, mỗi doanh nghiệp phải luôn bám sát những diễn biến của các quan hệ cung cầu trên thị trường, định hướng sản xuất, xác định cho mình một danh mục và cơ cấu sản phẩm hợp lý. Nghĩa là, doanh nghiệp phải luôn hoàn thiện sản phẩm đang sản xuất ngay cả khi chúng đang ở giai đoạn hưng thịnh nhất. Song song với công việc ấy, doanh nghiệp cũng cần mở rộng danh mục sản phẩm của mình để đạt tới cơ cấu sản phẩm có hiệu quả trong điều kiện mới của môi trường kinh doanh. Điều đó đòi hỏi người kinh doanh phải có tầm nhìn chiến lược xa, phải luôn biết hoàn thiện cái đang thực hiện và chuẩn bị đón lấy cái mới ngay trong hiện tại, không chờ đến khi thị trường từ chối sản phẩm của mình mới tự lo ứng phó. Chính nhờ sự chủ động này, doanh nghiệp có được tính tích cực trong “ hướng dẫn ” tiêu dùng, “ tác động tích cực ” đến thị trường, tạo nên lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Trong tình hình nhu cầu thị trường kinh doanh đa dạng mà “cơ hội không gõ cửa hai lần”, đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự lựa chọn cân nhắc kỹ lưỡng, phải nắm nhanh cơ hội kinh doanh, phát huy lợi thế tương đối so với các doanh nghiệp khác. Như vậy, sự đa dạng và vận động của thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp công nghiệp phải năng động cải biến, hoàn thiện cơ cấu sản phẩm của mình theo hướng đa dạng hoá nếu không muốn bị đào thải khỏi trường kinh doanh. Thứ hai, đa dạng hoá sản phẩm gắn liền với tiến bộ khoa học công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đang diễn ra như vũ bão. Với tốc độ này, một khối lượng khổng lồ các kiến thức và công nghệ được tạo ra. Những lợi ích to lớn của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật-công nghệ đã được biết đến nhiều song cũng tạo ra những thách thức lớn cho sự phát triển của các doanh nghiệp. Tiến bộ khoa học công nghệ được áp dụng vào sản xuất và đời sống làm tăng thêm tính đa dạng của nhu cầu, làm nảy sinh những nhu cầu mới, rút ngắn chu kì sống của sản phẩm và tạo ra những khả năng sản xuất mới, làm xuất hiện những cơ hội kinh doanh mới. Không những sản phẩm bị lỗi thời mà công nghệ cũng trong tình trạng tương tự. Sự lạc hậu của công nghệ và sản phẩm đòi hỏi các doanh nghiệp phải tranh thủ nắm bắt nhanh những thành tựu cải tiến của khoa học kỹ thuật và thể hiện nó trong cơ cấu sản phẩm, phải khuyến khích mọi người sáng tạo. Hiện nay, nhân loại đang chứng kiến những thành tựu to lớn về khoa học-kỹ thuật-công nghệ. Doanh nghiệp nào không chú ý đến, không nắm bắt nhanh những thành tựu ấy, tự hài lòng với những gì hiện có, doanh nghiệp sẽ bị đào thải khỏi thương trường. Thứ ba, cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp công nghiệp và giữa sản phẩm công nghiệp đang diễn ra khốc liệt. Hoạt động trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp bị chi phối bởi quy luật cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải có những đối sách, chiến lược thị trường với những vũ khí cạnh tranh có hiệu quả. Hàng hoá và dịch vụ trước khi đưa ra thị trường phải được nghiên cứu tỉ mỉ, doanh nghiệp cần phải biết mình xâm nhập bằng vũ khí gì. Và có thể nói rằng việc xác định cho mình một cơ cấu sản phẩm hợp lý là một trong những vũ khí cạnh tranh lợi hại của doanh nghiệp. Tóm lại, để có thể tồn tại và phát triển, được những thành công trong sản xuất kinh doanh thích ứng với cơ chế thị trường, tránh được rủi ro, lợi nhuận cao, thì đa dạng hoá sản phẩm là một tất yếu khách quan đối với mỗi doanh nghiệp công nghiệp. 4.2.Vai trò của đa dạng hoá sản phẩm: Trước những đặc điểm lớn vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các doanh nghiệp được trình bày ở phần trên, đa dạng hoá sản phẩm có vai trò đặc biệt quan trọng. Trước hết, đa dạng hoá sản phẩm nhằm đạt tới các mục tiêu của doanh nghiệp đã đề ra trong quá trình sản xuất kinh doanh như mục tiêu về lợi nhuận, mục tiêu về thế lực, mục tiêu về an toàn... 1.Khả năng sinh lời: Mục đích của kinh doanh là tối đa hoá lơị nhuận trong điều kiện cho phép, kinh doanh phải có lợi nhuận, không có lợi nhuận thì sẽ tiêu tan mọi mục đích khác cũng như toàn bộ sự nghiệp của một doanh nghiệp. Đứng trên góc độ kinh tế mà xét, lợi nhuận là sự chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra. Ngoài ra, lợi nhuận còn được xét bằng nhiều chỉ tiêu khác như: tỷ suất lợi nhuận, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận...và cuối cùng cần phải xác định được tổng mức lợi nhuận trong một thời gian nhất định. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp luôn phải gắn liền với sự tăng lợi nhuận. Đa dạng hoá sản phẩm được tạo dựng trước hết vì điều này chứ không phải vì bất kì một mục tiêu nào khác. 2.Thế lực của doanh nghiệp: Thế lực là tài sản vô hình của doanh nghiệp. Trong cuộc cạnh tranh gay gắt với các đối thủ khác, doanh nghiệp phải tìm mọi cách để giành được lợi, xác định vị trí của mình trên thương trường và tăng thế lực của mình lên cao hơn. Thế lực của doanh nghiệp thường được đo bằng thị phần mà doanh nghiệp kiểm soát được, bằng tỷ trọng hàng hóa hay dịch vụ của doanh nghiệp so với tổng lượng cung về hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường, bằng mức độ tích tụ và tập trung của doanh nghiệp, khả năng liên doanh, liên kết và mức độ phụ thuộc của các doanh nghiệp khác vào doanh nghiệp mình và ngược lại... Có thể nói, thế lực là một vũ khí tối ưu và có hiệu quả trong cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Vì vậy, nó là mục tiêu chủ yếu cần được thực hiện trong hoạch định chiến lược của doanh nghiệp. 3.An toàn trong kinh doanh: Kinh doanh không phải lúc nào cũng thành công và suôn sẻ, mà nó cũng gắn liền với những thất bại, rủi ro không lường hết được. Một phương án táo bạo, cạnh tranh càng gay gắt thì khả năng thu lợi càng lớn và mức độ rủi ro, nguy hiểm đối với doanh nghiệp càng cao. Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro trong kinh doanh tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro có thể là những yếu tố trong nội bộ doanh nghiệp như: công nghệ sản xuất, trình độ tay nghề, chất lượng sản phẩm, giá cả, vốn... hoặc các yếu tố ngoại cảnh như: thị hiếu tiêu dùng, các chính sách, luật pháp của nhà nước, tai họa do thiên tai... Rủi ro trong kinh doanh là điều mà các nhà doanh nghiệp không mong đợi, vì thế, khi xây dựng một phương án, chiến lược kinh doanh, các nhà quản trị đều phải lựa chọn phương pháp phòng ngừa rủi ro để đảm bảo an toàn trong kinh doanh cho doanh nghiệp mình. Khi gặp rủi ro, doanh nghiệp có thể hạn chế, ngăn ngừa nó ở mức thấp nhất, ít tổn hại đến thực lực của mình nhất. Trên đây là ba mục tiêu chủ yếu, luôn ở vị trí hàng đầu trong các mục tiêu mà chiến lược vạch ra nhưng vấn đề là phải chọn ra được những mục tiêu then chốt. Xác định đúng và rõ ràng những mục tiêu then chốt sẽ là cơ sở và kim chỉ nam cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ hai, đa dạng hoá sản phẩm có vai trò tích cực trong việc đáp ứng những nhu cầu muôn hình muôn vẻ của thị trường. Nhờ đa dạng hoá sản phẩm, danh mục sản phẩm của doanh nghiệp nói riêng và danh mục sản phẩm của toàn nền kinh tế nói chung trở nên phong phú, đa dạng, tăng sức cạnh tranh với các sản phẩm nhập ngoại, tăng sức tìm tòi sáng tạo chạy đua của các doanh nghiệp. Và từ đó các doanh nghiệp trong nước sẽ có chỗ đứng trên thị trường khu vực và quốc tế. Đa dạng hoá sản phẩm giúp cho đất nước thoát khỏi sự lạc hậu, tụt hậu để hoà nhập mạnh mẽ với nền kinh tế thế giới. Thứ ba, đa dạng hoá sản phẩm là điều kiện cần thiết để phát huy vai trò chủ thể sản xuất hàng hoá của doanh nghiệp, phát huy quyền chủ động, tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Trong cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp công nghiệp là một chủ thể sản xuất hàng hoá, vì vậy doanh nghiệp công nghiệp phải có những quyền hạn tương ứng, trong đó, chủ yếu và trước hết là có quyền thực sự trong việc xác định nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình qua việc xây dựng danh mục và cơ cấu sản phẩm có hiệu quả. Trong quá trình thực hiện vai trò chủ thể sản xuất hàng hoá của mình, mục tiêu của doanh nghiệp và mục tiêu của xã hội có thể mâu thuẫn với nhau. Trong trường hợp này, việc doanh nghiệp cưỡng lại yêu cầu, mục tiêu, ý chí của xã hội là không thể chấp nhận được. Ngược lại, việc nhà nước áp đặt tư tưởng chủ quan của mình, can thiệp thô bạo vào hoạt động của doanh nghiệp dưới bất kỳ hình thức nào cũng đồng nghĩa với vi phạm chủ thể sản xuất hàng hoá của doanh nghiệp. Bởi vậy, cần có những biện pháp kết hợp hài hoà các lợi ích và mục tiêu khác nhau. Trong xác định cơ cấu sản phẩm của mình, trừ những sản phẩm trọng yếu thuộc cân đối chung của nhà nước, doanh nghiệp nhà nước có quyền lựa chọn mặt hàng kinh doanh phù hợp với năng lực sản xuất của mình, nhà nước chỉ định hướng phát triển chung và sử dụng những công cụ thích ứng, góp phần thực hiện những mục tiêu chung của xã hội. Thứ tư, đa dạng hoá sản phẩm là giải pháp tích cực nâng cao hiệu quả kinh tế, đảm bảo việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động. Nâng cao hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh là nhiệm vụ trung tâm của công tác quản lý doanh nghiệp. Trong từng doanh nghiệp, hiệu quả kinh tế đạt được là tất cả tiềm lực được huy động và sử dụng cho việc thực hiện cơ cấu sản phẩm đã xác định. Trong thực tế, hiện tượng có tính phổ biến là các nguồn lực của các doanh nghiệp công nghiệp không tận dụng hết mức sản xuất thực tế, mà thường nằm dưới đường giới hạn khả năng sản xuất. Việc đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở các nguồn lực sẵn có là cần thiết, cho phép tận dụng triệt để hơn hàm lượng các chất có ích trong nguyên liệu, mở rộng chủng loại sản phẩm từ một loại nguyên liệu, tận dụng các nguồn lực dư thừa, phế liệu, phế phẩm... nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tăng năng lực sản xuất, ổn định và nâng cao đời sống cho người lao động và góp phần thoả mãn những nhu cầu đa dạng hoá của xã hội. Thứ năm, việc mở rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp còn cho phép doanh nghiệp phân tán rủi ro trong kinh doanh nhờ các tuyến sản phẩm có sự bổ sung hỗ trợ nhau. Đa dạng hoá sản phẩm là một khuynh hướng ._.phát triển ngày càng phổ biến của các doanh nghiệp công nghiệp, các tổ chức kinh tế lớn, các tập đoàn kinh doanh...Với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sự tiến bộ của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật công nghệ và quy luật cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp ngày càng sử dụng rộng rãi các hình thức đa dạng hoá sản phẩm. Quá trình này đem lại những giá trị bổ sung khiến các doanh nghiệp phát triển khá linh hoạt, nhạy cảm và có sức đề kháng cao trong cạnh tranh. Chính vì vậy, đa dạng hoá sản phẩm được coi là một trong những giá trị kinh doanh phổ biến giúp các doanh nghiệp chẳng những trụ vững mà ngày càng phát triển trên con đường sản xuất kinh doanh. II. Các nhân tố ảnh hưởng tới đa dạng hoá sản phẩm: 1.Những nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp: 1.1.Đặc điểm sản phẩm - chu kì sống của sản phẩm: Đặc điểm sản phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với đa dạng hoá sản phẩm, ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường tiêu thụ sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận, vòng quay vốn... Nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng, vật liệu, nhất là sản phẩm công nghiệp nhẹ như: chỉ thêu, chỉ ren, chỉ may... sẽ có vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh. Vì vậy, đối với những sản phẩm này đòi hỏi phải luôn có sự sáng tạo, tìm tòi cái mới, chất liệu mới phù hợp với nhu cầu thị trường... 1.2.Đặc điểm kỹ thuật sản xuất: Máy móc thiết bị có vai trò rất quan trọng trong các doanh nghiệp công nghiệp. Nó không chỉ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn doanh nghiệp mà còn quyết định điều kiện và khả năng sản xuất kinh doanh. Máy móc thiết bị cũng là một bộ phận quan trọng trong tổng nguồn lực của doanh nghiệp. Việc phát huy tới mức tối đa hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị là nhân tố quan trọng giúp doanh nghiệp có chỗ đứng vững chắc trong cơ chế thị trường và có sức mạnh trong cạnh tranh. Đặc điểm kỹ thuật sản xuất tác động tới một số chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng công tác xây dựng kế hoạch, chiến lược như: hệ số sử dụng thời gian, công suất, định mức nguyên vật liệu, lao động, điều độ sản xuất, sự nhịp nhàng cân đối dây chuyền. Nếu kỹ thuật công nghệ kém, xuống cấp sẽ rất khó khăn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, độ bền, độ bóng, độ dai, dẻo, đàn hồi, đến màu sắc (độ tán sắc) của sản phẩm. Kỹ thuật, công nghệ kém sẽ khó nâng cao năng lực sản xuất, khó sản xuất những mặt hàng có cùng công nghệ sản xuất với sản phẩm đang sản xuất, kết quả là đa dạng hoá sản phẩm sẽ không được thực hiện. Mặt khác nó cũng ảnh hưởng đến công tác định mức, tiết kiệm nguyên vật liệu, hạ giá thành, đẩy mạnh tiêu thụ, mở rộng thị trường, khó cạnh tranh với các đối thủ của mình. Kỹ thuật công nghệ kém phát triển làm tăng hao phí sửa chữa, tu sửa, tăng hao phí nguyên vật liệu, lao động, giảm năng suất lao động... 1.3.Nguyên vật liệu: Nguyên vật liệu là một trong 3 yếu tố của quá trình sản xuất, tạo nên thực thể sản phẩm. Thiếu nguyên vật liệu thì quá trình sản xuất bị gián đoạn hoặc không thể thực hiện được. Chất lượng của nguyên vật liệu trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, đến việc sử dụng vốn. Vấn đề đặt ra đối với yếu tố này trong công tác quản lý là phải cung ứng đúng tiến độ, số lượng, chủng loại và quy cách. Chỉ trên cơ sở đó mới đảm bảo nâng cao chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, sản xuất kinh doanh có lãi, chu kỳ sống sản phẩm được kéo dài. 1.4.Nguồn nhân lực: Nhân lực là yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất kinh doanh. Nhân lực được chia làm 3 cấp: Ban giám đốc, cán bộ quản lý cấp doanh nghiệp, cán bộ quản lý trung gian và công nhân. Trình độ, năng lực của mỗi cấp, mức độ liên kết, gắn bó giữa các cấp sẽ gây ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sức sáng tạo, tinh thần giám nghĩ giám làm của các cấp. Một chiến lược đa dạng hoá sản phẩm có được thiết lập và khả thi hay không là phụ thuộc nhiều vào yếu tố này. 1.5.Vốn: Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm liệu doanh nghiệp có phải đầu tư thêm không hay đầu tư mới? đầu tư vốn cố định hay vốn lưu động? Tỉ lệ giữa vốn cố định và vốn lưu động là bao nhiêu? Liệu sau khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, máy móc thiết bị có hoạt động hết công suất không? lãng phí hay quá tải?... Kết quả liệu có bù đắp được chi phí bỏ ra hay không? Khả năng thanh toán của doanh nghiệp sẽ ra sao? Vòng quay vốn cố định, vốn lưu động như thế nào?... 1.6.Chu kì sản xuất kinh doanh: Chu kì sản xuất kinh doanh được chia làm hai giai đoạn: -Giai đoạn thứ nhất là khoảng thời gian từ khi doanh nghiệp nhập kho nguyên vật liệu cho đến khi giao hàng cho người mua. -Giai đoạn thứ hai là kể từ khi giao hàng cho người mua cho đến khi nhận tiền về. Chu kì sản xuất kinh doanh ảnh hưởng gián tiếp đến đa dạng hoá sản phẩm. Chu kì sản xuất kinh doanh ngắn, doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh, tích luỹ nhiều vốn, có điều kiện mở rộng kinh doanh, có điều kiện đầu tư chất xám, phát minh, sáng kiến tạo sản phẩm mới ưu việt, có điều kiện nghiên cứu, tìm tòi nhằm đa dạng hoá sản phẩm cả về nội dung và hình thức. Chu kì sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến tài chính mà tiềm lực tài chính là nhân tố quan trọng không thể thiếu được đối với đa dạng hoá sản phẩm. Vì vậy, chu kì sản xuất kinh doanh là vấn đề cần được quan tâm một cách đúng mức. 1.7.Tổ chức và quản lý quá trình sản xuất kinh doanh: Trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Tổ chức và quản lý tốt đảm bảo cho quá trình sản xuất tiến hành thông suốt, đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu, các bộ phận, các đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp. Từ đó, hạn chế tình trạng ngừng việc của máy móc thiết bị, tiết kiệm các yếu tố sản xuất, tăng tốc độ luân chuyển vốn. 2.Các nhân tố bên ngoài: 2.1.Thị trường đầu vào: Những người cung ứng là những công ty kinh doanh và những người cá thể cung gấp cho công ty và các đối thủ cạnh tranh những nguồn cung ứng cần thiết để sản xuất ra những mặt hàng cụ thể hay dịch vụ nhất định. Những sự kiện xảy ra trong môi trường người cung ứng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của công ty. Nhà quản trị phải theo dõi giá cả các mặt hàng cung ứng, bởi việc tăng giá vật tư và những sự kiện khác có thể làm rối loạn về cung ứng nguyên vật liệu. Trong ngắn hạn có thể làm bỏ lỡ khả năng tiêu thụ và trong dài hạn có thể làm mất đi thiện cảm của khách hàng đối với công ty. 2.2.Thị trường đầu ra (khách hàng) Công ty cần phải nghiên cứu kỹ những khách hàng của mình. Nhìn chung có năm dạng thị trường khách hàng và dưới đây là những định nghĩa ngắn gọn về chúng: 1.Thị trường người tiêu dùng: những người mua hàng hoá để sử dụng cho cá nhân. 2. Thị trường các nhà sản xuất: các tổ chức mua hàng và sử dụng chúng trong quá trình sản xuất. 3.Thị trường nhà buôn bán trung gian: Tổ chức mua hàng và dịch vụ sau đó bán lại để kiếm lời. 4.Thị trường các cơ quan nhà nước: Tổ chức mua hàng và dịch vụ sau đó sử dụng trong lĩnh vực dịch vụ công cộng hoặc chuyển giao cho những người cần đến nó. 5.Thị trường quốc tế: Những người mua hàng ở ngoài nước bao gồm: những người tiêu dùng, sản xuất, bán trung gian và các cơ quan Nhà nước ở ngoài nước. Mỗi kiểu thị trường đều có những nét đặc thù riêng của nó mà người bán cần phải nghiên cứu kỹ. 2.3.Đối thủ canh tranh: Mỗi công ty đều có nhiều đối thủ cạnh tranh khác nhau. Họ là mối nguy cơ đe doạ sự sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phát hiện ra tất cả các đối thủ và lưu ý đặc biệt đến các nhãn hiệu cạnh tranh, bởi chính các nhãn hiệu làm giảm sức tiêu thụ của công ty. III.Hệ thống các chỉ tiêu đo lường mức độ đa dạng hoá sản phẩm và đánh giá hiệu quả của đa dạng hoá sản phẩm: 1.Các chỉ tiêu đo lường mức độ đa dạng hoá sản phẩm: 1.1.Hệ số đa dạng hoá sản phẩm: (HD) Trong đó: DO: Doanh thu trước khi đa dạng hoá. DS: Doanh thu khi đa dạng hoá sản phẩm HD = 0 thì không đa dạng hoá sản phẩm 0 < HD< 1: H càng lớn thì mức độ đa dạng hoá sản phẩm càng cao. 1.2.Hệ số đổi mới chủng loại sản phẩm: Hm Trong đó: SO: chủng loại sản phẩm gốc cải tiến Sm: chủng loại sản phẩm mới S: Số chủng loại sản phẩm chế tạo trong kỳ Hm = 0: không đa dạng hoá sản phẩm 0 Ê HmÊ 1: Hm càng lớn thì mức độ đa dạng hoá sản phẩm càng cao 1.3.Hệ số kiểu sản phẩm: (Hk) Trong đó: Sd:Số kiểu sản phẩm doanh nghiệp sản xuất St: Số kiểu sản phẩm trên thị trường 0 < Hk Ê1: Hk càng cao chủng loại sản phẩm doanh nghiệp sản xuất càng lớn 1.4.Hệ số đảm bảo đồng bộ nhu cầu sản phẩm có quan hệ trong tiêu dùng: HB Trong đó: SC: Số loại sản phẩm cần có để thoả mãn đồng bộ nhu cầu mà doanh nghiệp sản xuất SQ: Số loại sản phẩm có quan hệ trong tiêu dùng 0 < HB < 1: HB càng lớn thì mức độ đa dạng hoá sản phẩm càng cao HB = 1: mức độ đa dạng hoá sản phẩm rất cao 1.5.Hệ số mở rộng loại sản phẩm:HL HL ³ 1: HL càng lớn thì mức dộ đa dạng hoá sản phẩm càng cao Như vậy, mức độ đa dạng hoá sản phẩm chưa hoàn toàn thể hiện sự năng động của doanh nghiệp trong kinh doanh. Mức độ hợp lý của đa dạng hoá sản phẩm còn phụ thuộc vào quy mô, khả năng quản lý, quan hệ liên kết của doanh nghiệp và đặc biệt là hiệu quả kinh tế mà đa dạng hoá mang lại. 2.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của đa dạng hoá sản phẩm: 2.1.Sự biến đổi mức đảm nhận lao động sống: Trong đó: Dj: Doanh thu sản phẩm j sau khi đa dạng hoá sản phẩm Di: Doanh thu sản phẩm i trước khi đa dạng hoá sản phẩm tj: Lao động hao phí sau khi đa dạng hoá sản phẩm ti: Lao động hao phí trước khi đa dạng hoá sản phẩm Kw > 0: Đa dạng hoá sản phẩm có hiệu quả Kw Ê 0: Đa dạng hoá sản phẩm có hiệu quả Như vậy, muốn đa dạng hoá sản phẩm có hiệu quả cao thì phải tìm biện pháp để giảm hao phí lao động sản xuất ra sản phẩm j hoặc tăng doanh thu sản phẩm j. 2.2.Sự biến đổi lượng lao động hao phí: Trong đó: K’w<0: đa dạng hoá sản phẩm có hiệu quả. K’w³0: đa dạng hoá sản phẩm không có hiệu quả. 2.3.Mức tăng doanh lợi: Trong đó: POvà PD: Lợi nhuận trước và sau khi đa dạng hoá sản phẩm ZO và ZD: Giá thành sản phẩm trước và sau khi đa dạng hoá sản phẩm Trong đó: VO và VD: Vốn sản xuất trước và sau khi đa dạng hóa. Trong đó: IO và ID: Vốn đầu tư trước và sau khi đa dạng hoá. Eđm: Hệ số hiệu quả định mức của vốn đầu tư (cho biết một đơn vị chi phí đầu tư bỏ thêm thì thu được bao nhiêu đơn vị lợi nhuận). Kp, Kp’, Kp’’>0: Đa dạng hoá có hiệu quả. Kp, Kp’, Kp’’Ê0: Đa dạng hoá không có hiệu quả. Phần thứ hai: Tình hình thực hiện đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy Chỉ Khâu Hà Nội: I.Quá trình hình thành và phát triển: 1.Thời kỳ trước sát nhập: Ngày 1/7/1985, theo quyết định của Bộ Công nghiệp nhẹ, nhà máy Chỉ Khâu Hà Nội chính thức được thành lập, trực thuộc liên hiệp các xí nghiệp dệt, do Bộ Công nghiệp nhẹ quản lý và trở thành nhà máy sản xuất chỉ may duy nhất tại Hà Nội. Tiền thân của nhà máy là phân xưởng chuyên sản xuất chỉ may của nhà máy dệt 8/3 với năng suất thiết kế đạt 700-800 tấn/ năm. Ra đời đúng vào lúc nền kinh tế nước ta có sự chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên cũng như nhiều doanh nghiệp khác, nhà máy Chỉ Khâu hết sức ngỡ ngàng, lúng túng, gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý sản xuất cũng như trong lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm: thị trường bị thu hẹp, sản xuất đình đốn, đời sống công nhân gặp nhiều khó khăn, năng suất chỉ còn 100 tấn/ năm (đạt 12,5-14% năng suất thiết kế ban đầu). Mặt khác, do chưa thích ứng với cơ chế mới nên việc hạch toán kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đối với nhà máy còn nhiều mới mẻ. Tuy nhiên, với sự năng động sáng tạo của ban lãnh đạo nhà máy, sự nhiệt tình, lòng hăng say yêu nghề, tinh thần đoàn kết của đội ngũ cán bộ công nhân viên, nhà máy đã nhanh chóng thích nghi với nền kinh tế thị trường và từng bước ổn định sản xuất. Chính nhờ sự nỗ lực của bản thân doanh nghiệp, với tinh thần và ý thức trách nhiệm cao của mỗi thành viên, nhà máy đã từng bước tháo gỡ những khó khăn, bế tắc. Cụ thể là hai năm 1986-1987, ngay sau khi mới thành lập, nhà máy đã luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch. Ngoài mặt hàng chính, nhà máy còn sản xuất thêm nhiều mặt hàng phụ để nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên nhà máy và làm cho sản phẩm của nhà máy ngày càng đa dạng, phong phú hơn. Năm 1987, nhà máy đạt 106,2%, nộp ngân sách 102,9% kế hoạch đề ra. Bước sang năm 1988, do sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế, nhiều sản phẩm giả nhãn hiệu của nhà máy hoặc sản phẩm cùng loại với sản phẩm của nhà máy được tung ra thị trường với giá rẻ hơn rất nhiều đã làm cho sản phẩm của nhà máy sản xuất ra bị ứ đọng, không thể tiêu thụ được. Trước tình hình đó, nhà máy quyết tâm tìm biện pháp khắc phục để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình. Để làm được việc này, nhà máy tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới tổ chức sản xuất nhằm phát huy vai trò chủ động của các phân xưởng. Bước sang những năm tiếp theo, việc tổ chức hạch toán kinh doanh của nhà máy đã thích ứng được với cơ chế thị trường, đã tự tạo lập được kế hoạch sản xuất kinh doanh cho mình, đã quen với việc hạch toán kinh doanh trên cơ sở lấy thu bù chi và có doanh lợi. Nhờ thực hiện đúng quan điểm đổi mới của Đảng và vận dụng phù hợp vào thực tế sản xuất kinh doanh, nhà máy đã đứng vững và phát triển. 2.Thời kỳ sau sát nhập: Ngày 1/7/1992, sau 7 năm hoạt động độc lập, Bộ Công nghiệp nhẹ đã ký quyết định sát nhập nhà máy Chỉ Khâu Hà Nội và nhà máy dệt Phong Phú- thành phố Hồ Chí Minh- mà sau này là công ty dệt Phong Phú. Tên nhà máy: nhà máy Chỉ Khâu Hà Nội. Địa chỉ: 378 Minh Khai. Mục tiêu sản xuất kinh doanh của nhà máy là các mặt hàng chỉ may công nghiệp, chỉ thêu, chỉ ren và một số chỉ đặc chủng giành cho y tế, các xí nghiệp sản xuất xi măng, liên hiệp giày da... Ngoài ra nhà máy còn tận dụng năng lực thiết kế để gia công xe sợi và tẩy nhuộm sợi. Năm 1992, sau khi sát nhập vào công ty dệt Phong Phú, nhà máy đầu tư theo phương thức đa dạng hoá sản phẩm, phân xưởng kéo sợi và phân xưởng may ra đời (1993). Sản phẩm của nhà máy đã đạt hai huy chương vàng tại hội chợ triển lãm công nghiệp hàng tiêu dùng toàn quốc năm 1992. Năm 1993-1994, nhà máy lắp đặt hệ thống máy con của Đức. Ngày 15/3/1994, giám đốc quyết định khoán lương theo sản phẩm. Đây là một biện pháp hữu hiệu, có tác dụng nâng cao trách nhiệm người lao động và làm tăng sản lượng sản phẩm sản xuất ra. Năm 1994, doanh thu của nhà máy đạt 17.069.887.554 đồng, tăng 171% so với năm 1993 và đạt 194% so với năm 1992, nộp ngân sách Nhà nước đạt 1.834.396.000 đồng. Năm 1996, nhà máy bỏ phân xưởng may. Sau hơn 20 năm xây dựng và trưởng thành, nhà máy đã trải qua bao khó khăn thăng trầm và trong những năm trở lại đây, nhà máy đã phát triển nhanh chóng về cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ quản lý, kinh doanh năm sau luôn đạt hiệu quả cao hơn so với năm trước, sản phẩm ngày càng được đa dạng hoá, nâng cao về chất lượng, mẫu mã, luôn được khách hàng ưa chuộng và ngày càng chiếm được uy tín trên thị trường. Hiện nay, nhà máy đã đứng vững trên thị trường và là một đơn vị làm ăn có lãi, nộp đủ các khoản thu ngân sách trên địa bàn thành phố Hà nội. Sau đây là một số chỉ tiêu nhà máy thực hiện qua các năm: biểu số 1: Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Tổng vốn 12.396.260.434 14.530.242.541 Doanh thu 33.139.470.549 38.485.777.534 Lợi nhuận 632.052.000 943.926.000 Lợi nhuận/vốn 0,051 0,065 Lợi nhuận/doanh thu 0,019 0,0245 Doanh thu/vốn 0,0267 0,0265 2.Một số đặc điểm kinh tế- kỹ thuật chủ yếu: 2.1.Đặc điểm tổ chức quản lý: Nhà máy Chỉ khâu Hà Nội, liên doanh Coast Tootal Phong Phú, nhà máy Hải Vân, nhà máy may Monilet là bốn thành viên của công ty dệt Phong Phú, chịu sự quản lý và điều hành trực tiếp của tổng giám đốc và các phòng ban của công ty dệt Phong Phú. SƠ Đồ 1: Cơ cấu tổ chức Tổng giám đốc Các phòng ban Các đơn vị thành viên: Nhà máy may Monilet Nhà máy may Hải Vân Liên doanh Coast Tootal Phong Phú Nhà máy Chỉ khâu Hà Nội Tuy nhà máy Chỉ khâu Hà Nội là một đơn vị trực thuộc của công ty dệt Phong Phú nhưng việc tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy có tính chất độc lập tương đối, việc tổ chức quản lý và điều hành được thực hiện theo chế độ một thủ trưởng (nghĩa là, giám đốc có quyền quyết định và điều hành mọi hoạt động của nhà máy theo đúng kế hoạch, chính sách, pháp lệnh của Nhà nước và nghị quyết của Đại hội công nhân viên chức), có tư cách pháp nhân, có con dấu riêngvà hạch toán độc lập, được giao dịch trực tiếp với các tổ chức tài chính- ngân hàng và trực tiếp làm nghĩa vụ với Nhà nước. Vì vậy, cũng như các xí nghiệp thành viên khác, để quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, nhà máy phải tổ chức được một bộ máy quản lý phù hợp với đặc điểm sản xuất của mình. Do đó, nhà máy đã tổ chức một bộ máy quản lý theo mô hình trực tuyến- tham mưu (trực tuyến-chức năng), nghĩa là giám đốc là người quyết định cao nhất, mọi quyết định quản lý của giám đốc đi theo tuyến thẳng. Giúp giám đốc điều hành có một phó giám đốc, một kế toán trưởng và các phòng ban chức năng. Các phòng ban nghiên cứu, bàn bạc tìm ra các giải pháp tối ưu cho những vấn đề phức tạp giúp giám đốc, làm việc như các chuyên gia hay hội đồng tư vấn. Sơ đồ 2: Bộ máy tổ chức quản lý ở nhà máy Chỉ khâu Hà Nội: Giám đốc Phó giám đốc Phòng bảo vệ Phòng tổ chức hành chính Phòng kỹ thuật Phòng kinh doanh Phòng tài chính kế toán PX II PX I Chú thích: có quyền ra quyết định trực tiếp có quyền ra quyết định khi được ban lãnh đạo uỷ quyền Các bộ phận chức năng (phòng ban) không có quyền quyết định hành chính trực tiếp với các bộ phận cấp dưới (phân xưởng, bộ phận sản xuất), mà chúng chỉ tồn tại như những bộ phận giúp việc cho người lãnh đạo trong phạm vi của mình. Các quyết định hành chính của các bộ phận chức năng chỉ có ý nghĩa đối với các bộ phận trực tuyến khi đã được người lãnh đạo (ban giám đốc thông qua hoặc uỷ quyền). Toàn nhà máy gồm: ban giám đốc, 5 phòng ban, 2 phân xưởng. Chức năng, nhiệm vụ của ban giám đốc và các phòng ban như sau: Ban giám đốc gồm: 1 giám đốc và 1 phó giám đốc. Giám đốc là người có quyền cao nhất, chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy. Phó giám đốc có nhiệm vụ tổ chức quản lý và chỉ đạo công tác kinh doanh của nhà máy, Đồng thời, phó giám đốc kinh doanh là người kiểm tra việc thực hiện sản phẩm kinh doanh của công ty. Phòng bảo vệ: -Có nhiệm vụ bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa -Bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự an toàn. Phòng tổ chức hành chính: -Tham mưu giúp giám đốc về tổ chức, quản lý lao động-tiền lương của nhà máy, đào tạo và tuyển dụng lao động một cách hợp lý và khoa học, đáp ứng yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường, trên cơ sở gắn thu nhập của người lao động với hiệu quả công tác và năng suất lao động. -Làm tốt công tác tổng hợp hành chính, pháp chế, công tác đối nội, đối ngoại. -Chăm lo đời sống, sức khoẻ cho các cán bộ công nhân viên. Phòng kinh doanh: -Tham mưu giúp giám đốc trong các lĩnh vực quản lý kế hoạch sản xuất, quản lý khoa học kỹ thuật, quản lý tiêu thụ. -Nghiên cứu sản phẩm mới. -Tìm khách hàng và mở rộng thị trường. -Điều hành, chắp nối các kế hoạch sản xuất kinh doanh giữa các phòng ban, phân xưởng trong nhà máy để hợp thành một kế hoạch kinh doanh tổng thể phù hợp, giúp nhà máy thực hiện mục tiêu, kế hoạch đề ra một cách đồng bộ. -Xác định giá bán, chính sách bán, các kế hoạch phân phối... -Cung ứng, bảo quản vật tư, đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu... Phòng kỹ thuật: -Tìm cách giảm tiêu hao vật tư, máy móc thiết bị, phân tích các chỉ tiêu lý hoá. -Nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm. -Chuyên trách kiểm tra, giám định chất lượng sản phẩm, bán thành phẩm trên dây chuyền công nghệ sản xuất và sản phẩm nhập kho. -Ngoài ra, tìm biện pháp khắc phục sản phẩm hỏng, sự cố bất ngờ -Quản lý toàn bộ máy móc thiết bị, lập kế hoạch sửa chữa -Tập hợp những nghiên cứu, sáng kiến, chế thử sản phẩm mới. Phòng tài chính kế toán: -Theo dõi tình hình tài chính của nhà máy. -Phân phối và sử dụng hiệu quả đồng vốn và nguồn vốn. -Làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước, chính quyền địa phương. -Tìm cách hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí sản xuất kinh doanh. -Xác định giá bán hợp lý. Cơ cấu tổ chức: nhà máy- phòng ban- phân xưởng- tổ sản xuất- nơi làm việc. Nhờ cách thức tổ chức quản lý này, nhà máy vừa phát huy được năng lực chuyên môn của các phòng ban (có điều kiện đi sâu vào từng chức năng của mình, giảm bớt việc cho lãnh đạo) vừa đảm bảo chế độ một thủ trưởng (đảm bảo tính thống nhất trong quản lý). Tuy nhiên, cơ chế này còn kém linh hoạt, bộc lộ nhiều hạn chế gây khó khăn trở ngại cho công tác quản lý và tình hình sản xuất kinh doanh, đặc biệt là công tác tiêu thụ sản phẩm. Năm 1999, nhà máy tiếp tục củng cố bộ máy quản lý, xây dựng nề nếp làm việc trong điều kiện tổ chức mới. Mặc dù số người làm công tác quản lý nghiệp vụ giảm đi so với năm 1998, nhưng do có sự đổi mới trong tư duy, trong cách làm, nhận thức rõ hơn về quyền hạn, trách nhiệm của mỗi thành viên, bộ phận nên có sự chủ động phối hợp giữa các bộ phận trong nhà máy. Bộ máy tổ chức quản lý ở phân xưởng i bao gồm: 1 quản đốc, 1 cán bộ kỹ thuật, một cán bộ sản xuất, một cán bộ công nghệ thiết bị, 6 tổ sản xuất (trong đó có 3 tổ đậu xe, 3 tổ sợi làm việc theo chế độ 3 ca, mỗi ca gồm 1 tổ đậu xe và 1 tổ sợi), 3 tổ phục vụ (1 tổ cơ khí bảo toàn, 1 tổ KCS, 1 tổ kho). Bộ máy tổ chức quản lý ở phân xưởng II bao gồm: 1 quản đốc, 1 cán vộ thiết bị, 1 cán bộ sản xuất, 2 cán bộ kỹ thuật, 7 tổ sản xuất (trong đó:2 tổ nhuộm, 1 tổ bảo toàn, 1 tổ chỉ, 3 tổ guồng đảo). Phương pháp tổ chức sản xuất: nhà máy tổ chức sản xuất theo phương pháp dây chuyền bán tự động từ khâu cung bông đến khi thu được chỉ, sợi thành phẩm. Nhìn chung, cơ cấu tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất ở nhà máy gọn nhẹ, phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường. Cơ cấu tổ chức gồm nhiều phòng ban, thực hiện tương đối đầy đủ các chức năng nhiệm vụ của một doanh nghiệp nhưng vẫn còn thiếu các bộ phận chuyên môn cần thiết như Marketing. Nhiệm vụ Marketing do phòng kinh doanh đảm nhiệm nhưng chưa được quan tâm đúng mức nên công tác nghiên cứu thị trường còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. 2.2.Đặc diểm tổ chức sản xuất: Để sản xuất ra thành phẩm cuối cùng, việc tổ chức sản xuất ở nhà máy được chia làm 3 phân xưởng: phân xưởng sợi (PXI), phân xưởng chỉ (PXII), phân xưởng may. -Phân xưởng sợi là phân xưởng bắt đầu sử dụng công nghệ của nhà máy, toàn bộ nguyên vật liệu (chủ yếu là bông) được đưa vào phân xưởng này với nhiệm vụ chủ yếu là xe sợi. Kết thúc quy trình công nghệ sẽ thu được thành phẩm là chỉ mộc có thể bán ngay theo yêu cầu của khách hàng hoặc chuyển sang phân xưởng chỉ để tiếp tục chế biến (hay còn gọi là bán thành phẩm phục vụ phân xưởng chỉ). Từ cuối năm 1993, phân xưởng này dược lắp đặt thêm dây chuyền công nghệ của Đức để kéo sợi PE 100%. -Phân xưởng chỉ: là phân xưởng tiến hành các công đoạn tiếp theo như: tẩy trắng sợi mộc, nhuộm màu chỉ theo đơn đặt hàng, sấy guồng, đóng cuộn chỉ và bao gói, sản phẩm của nhà máy bán trên thị trường: chỉ thêu, chỉ ren, chỉ cuộn, chỉ màu... -Phân xưởng may: chủ yếu may hàng gia công bảo hộ cho khối EC. phân xưởng chính thức được thành lập vào năm 1993 và cuối năm 1996 phân xưởng này bị bỏ. 2.2.1.Đặc điểm sản phẩm: Nhà máy Chỉ khâu Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước chuyên sản xuất, chế biến các loại chỉ, sợi nhiều chủng loại, quy cách có khối lượng tương đối lớn. Là một xí nghiệp sản xuất, gia công chế biến sợi, chỉ với tính năng chủ yếu là phục vụ tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Trong đó, phục vụ cho tư liệu sản xuất là các mặt hàng như: chỉ PE, chỉ may công nghiệp, chỉ thêu, ren, sợi PE... tư liệu tiêu dùng là: chỉ may, chỉ thêu (lượng này ít). Sản phẩm của nhà máy mang tính đặc thù, sản xuất theo đơn đặt hàng của khách hàng. Trước khi liên doanh với liên doanh Coast Tootal Phong Phú, nhà máy chỉ sản xuất: -Chỉ cotton. -Chỉ pha polyeste. Sau liên doanh nhà máy sản xuất: -Chỉ cotton. -Sợi PE 100% -May gia công xuất khẩu. Đến năm 1996, nhà máy chỉ sản xuất: -Chỉ cotton. -Sợi PE 100% *Mặt hàng chỉ: Đối với chỉ màu, chỉ chuyên dụng, đặc chủng, nhà máy sản xuất căn cứ vào nhu cầu thị trường thông qua các đơn đặt hàng, các hợp đồng ký kết. Đối với các mặt hàng chỉ thông dụng như: chỉ trắng, ren kem, nhà máy luôn sản xuất một lượng dự trữ nhất định để đón trước nhu cầu thị trường. -Mặt hàng cotton 100% với các chi số Anh như: Ne 30/2, 40/2, 20/3, 50/3, 60/3, 40/6, 60/6, 60/9...trắng hoặc nhuộm màu đánh cuộn 5000m, 2500m, 1000m... để phục vụmay công nghiệp và các loại 400m,200m phục vụ may nội địa. Chỉ thành phẩm được đóng trong các hộp cactông, mỗi cuộn được bao một túi nilon, ngoài kiện có ghi rõ màu sắc chi số, tên nhà máy... -Chỉ thêu, ren cũng được sản xuất từ sợi cotton 100%, chải kỹ với chi số Ne 30/2, 20/3, 30/3...Trước đây, màu sắc của mặt hàng này tương đối ổn định nhưng một vài năm trở lại đây, nhu cầu về màu sắc ngày càng đa dạng, phong phú, nhiều màu sắc mới lạ xuất hiện. *Mặt hàng sợi PE 100%: Mặt hàng này cũng phong phú đa dạng, gồm nhiều chi số từ Ne 40/1 dùng để dệt kim đến sợi Ne20/2, 40/2, 20/3, 40/3, 50/3, 60/3, 20/9... dùng làm chỉ may và dệt vải. Mặt hàng này chủ yếu sản xuất cho liên doanh Coast Tootal Phong Phú và công ty dệt Phong Phú bao thầu. *Mặt hàng sợi gia công: Chủ yếu làm gia công may truyền thống cho khối EC về mặt hàng bảo hộ lao động thông qua công ty dệt Phong Phú. Ngoài ra, nhà máy còn may gia công cho công ty Textaco...Đến năm 1996, nhà máy máy ngừng gia công mặt hàng này. Biểu số 2: Cơ cấu mặt hàng qua các năm: Mặt hàng 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 1.Chỉ may -Cotton -Pêcô -May Cn 20/3 50/3 60/3 76/3 102/3 40/2 20/3 60/3 102/3 40/2 40/2 60/3 40/2 60/3 40/2 60/3 40/2 60/3 40/2 20/3 19/2 30/2 40/2 60/3 40/2 2.Chỉ thêu, ren -Chỉ thêu -Chỉ ren 30/2 20/3 30/2 20/3 30/2 20/3 30/2 20/3 30/2 20/3 30/2 20/3 30/2 20/3 30/2 20/3 3.SợiPE 20/3 20/2 42/2 42/3 42/1 42/2 50/3 60/3 20/2 20/3 42/2 42/3 50/2 60/3 20/2 20/3 42/2 42/3 50/2 60/3 20/2 20/3 42/2 42/3 50/2 60/3 20/2 20/3 42/2 42/3 50/2 60/3 20/2 20/3 20/4 42/2 42/3 50/2 60/3 4. Sợiđơn (cotton) Sợi Visco Kachiboshi Nội địa Polynozic 30/2 30/2 + 20/2 + + 30/2 + 20/2 + + 30/2 + 20/2 + + Qua bảng trên ta thấy cơ cấu mặt hàng thay đổi đa dạng phong phú qua các năm đồng thời nhà máy cũng chuyên tâm vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, màu sắc theo nhu cầu thị trường, khách hàng. 2.2.2.Đặc điểm nguên vật liệu làm nên sản phẩm: Một điểm cần chú ý là nhà máy chỉ khâu Hà Nội không tự sản xuất được nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm. Vì vậy, nhà máy phải nhập nguyên vật liệu từ nước ngoài, hoặc từ các bạn hàng trong nước. Cụ thể là: -Chỉ thêu, chỉ ren được chế biến từ sợi cotton mua của các công ty trong nước như: nhà máy sợi Hà Nội, công ty Vĩnh Phú... Sợi PE được sản xuất từ xơ PE nhập từ nước ngoài mà chủ yếu la của Malaisia, Đài Loan, Thái Lan... theo phương thức CIF. Xơ PE này do công ty dệt Phong Phú nhập về và cung cấp cho nhà máy, nhà máy không được giao dịch trực tiếp với các bạn hàng này. Nghĩa là về mặt đầu vào, nhà máy không phải lo, tất cả do công ty mẹ bao thầu giống như trong cơ chế bao cấp. Biểu số 3:Một số nghuyên vật liệu chủ yếu nhà máy sử dụng để cấu thành nên sản phẩm (Năm 1999) Loại Tên NVL Nhu cầu tấn/năm Giá đ/cân Giá trị triệu đ % giá trị % A Xơ bông PE Sợi cotton 19/2 1000 360 14000 32000 14000 11520 44.22 36.39 80.61 B Sợi cotton 40/2 Sợi cotton 30/2 Sợi cotton 20/2 48 36 35 50000 43000 42000 2400 1548 1470 7.58 4.89 4.64 17.11 C Hoá chất SiO2 NaOH Na2SO4 Na2CO3 H2O2 Lơ (tẩy trắng) Sapamin Thuốc nhuộm đen Thuốc nhuộm xanh Thuốc nhuộm đỏ Thuốc nhuộm cam Xăng công nghệ Loại khác 24 60 70 7.2 18 0.48 2.4 0.06 0.03 0.03 0.03 12000lít 1000 3600 1300 2000 6000 200000 14000 180000 480000 950000 450000 5500 24 216 91 14.4 108 96 33.6 10.8 14.4 28.5 13.5 66 5.8 0.08 0.68 0.29 0.045 0.34 0.303 0.11 0.034 0.045 0.1 0.042 0.21 0.001 2.28 Từ bảng trên có thể thấy, nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất được chia làm hai loại: NVLC: là các loại NVL trực tiếp tạo nên thực thể sản phẩm như xơ bông PE (chiếm 44,22%), sợi cotton 19/2, 40/2, 30/2, 20/2 (chiếm 17,11%). Xơ bông chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguyên vật liệu làm nên thành phẩm. Nước ta trồng được ít, chất lượng xơ bông không cao, không đáp ứng được nhu cầu trong nước. Vì vậy, chủ yếu phải nhập ngoại với giá cao. NVL phụ:là các loại nguyên vật liệu cũng tham gia vào quá trình sản xuất nhưng nó gián tiếp tạo nên sản phẩm như các loại hoá chất, thuốc nhuộm, xăng công nghệ... NVL đáp ứng kịp thời, đúng tiến độ, đồng bộ, chính xác, đảm bảo về số lượng, chất lượng, chủng loại, phù hợp với yêu cầu kỹ thuật... đảm bảo tính liên tục trong quá trình sản xuất, đạt hiệu quả kinh tế cao, vòng quay vốn nhanh. Đối với các nguyên vật liệu không có sẵn trên thị trường, công ty tổ chức thu mua, dự trữ để khi cần là có nguyên vật liệu cung cấp cho sản xuất. Nhà máy cũng tận dụng tối đa nguyên vật liệu, phế liệu, cố gắng đạt được thành phẩm loại xuất khẩu với tỷ lệ cao, giảm bớt loại I, II. Công tác định mức tiêu hao nguyên vật liệu càng được hoàn thiện, đạt độ chính xác cao, tiêu chuẩn tốt. Định mức tiêu hao nguyên vật liệu được xây dựng cho mỗi năm sản xuất theo phương pháp có căn cứ khoa học, dựa vào thực tế quy trình sản xuất công nghệ sản phẩm của nhà máy, chất lượng nguyên vật liệu và định mức tiêu hao nguyên vật liệu toàn ngành dệt- may. Biểu số 4: Kết quả thực hiện định mức tiêu hao NVL năm 1999: NVL tiêu hao Đơn vị tính Kế hoạch Thực hiện % so với kế hoạch % so với năm 1998 Xơ PE % 4.0 4.2 gần đạt tương đương Sợi làm chỉ % 8.0 7.7 đạt tương đương Xút kg/tấn chỉ 750 625 đạt tương đương Các vật tư khác <định mức Êđịnh mức Nhà máy luôn theo dõi tình hình thực hiện định mức để có kế hoạch sửa ._. nhân lực và vật lực. Nhà máy chưa có chính sách đào tạo, tuyển dụng nhân viên thiết kế sản phẩm chính thức. Vì vậy, việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm bị hạn chế nhiều. Có thể nói, đây là một vấn đề hết sức quan trọng và quyết định đến sự thành bại của nhà máy. phần III: Một số ý kiến góp phần hoàn thiện đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy Chỉ khâu Hà Nội I.Thuận lợi và khó khăn: 1.Thuận lợi: Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, nhà máy Chỉ khâu Hà Nội có nhiều thuận lợi. Thứ nhất, nhà máy đã hoạt động 25 năm trên thị trường, đã có chỗ đứng, có danh tiếng, thế lực, được nhiều doanh nghiệp sản xuất và người tiêu dùng từ Bắc tới Nam biết đến. Thứ hai, chất lượng sản phẩm nhà máy được bảo đảm, giá cả hợp lý, công nghệ sản xuất phù hợp với yêu cầu. Thứ ba, nhà máy được sự hậu thuẫn của công ty mẹ- công ty dệt Phong Phú và sự giúp đỡ của liên doanh Coast Tootal Phong Phú, nên được công ty tư vấn, hướng dẫn tỷ mỉ cách thực hiện và tạo mọi điều kiện về vật lực, không phải lo về đồng vốn và các vấn đề đầu tư máy móc thiết bị. Về thị trường tiêu thụ, công ty và liên doanh Coast Tootal Phong Phú là hai khách hàng lớn nhất của nhà máy. Ngoài ra, công ty cũng tìm kiếm khách hàng cho nhà máy. Vì vậy, sản phẩm đa dạng hoá của nhà máy khi đưa ra thị trường không bị ế ẩm mà nhanh chóng được sự chấp nhận của khách hàng. Đơn đặt hàng ngày càng nhiều hơn. Thứ tư, nhà máy có đội ngũ kỹ sư năng động, nhạy bén, ham học hỏi, luôn tìm tòi, sáng tao, tìm ra những sản phẩm mới phù hợp với năng lực của nhà máy, đảm bảo nhà máy có thể tiến hành sản xuất trong điều kiện hiện tại. Thứ năm, đầu vào của nhà máy khá ổn định. Thị trường nguyên vật liệu tuy có lúc biến động ghê gớm, giá cả tăng vọt nhưng rồi dần dần cũng ổn định trở lại. Trong lúc đó, nhà máy cũng có nhiều biện pháp khắc phục, đón trước sự thay đổi của thị trường, hạn chế được rủi ro xảy ra. Mặt khác, xu hướng thị trường hiện nay đang thiên về các loại chất liệu cotton, polyeste nền nã, lịch sự... 2.Khó khăn: Đối với nhà máy, thuận lợi cũng nhiều mà khó khăn cũng chồng chất. Đối với các sản phẩm sợi PE 100% và sợi Kachiboshi, sợi Visco... đối thủ cạnh tranh rất lớn. Mặc dù công ty dệt Phong Phú và liên doanh Coast Tootal Phong Phú là hai khách hàng lớn và tiêu thụ phần lớn sợi PE 100% cho nhà máy nhưng trong tương lai, nhà máy không thể cứ thụ động trông cậy vào đó. Nhà máy phải tự lực vươn lên, phải tự tiếp xúc với thị trường. Còn đối với sản phẩm chỉ thêu, chỉ móc các loại, không có doanh nghiệp nào là đối thủ cạnh tranh, có thể nói, doanh nghiệp đang độc quyền sản xuất mặt hàng này, tư nhân cạnh tranh mạnh với doanh nghiệp nhưng về chất lượng, họ không thể bằng. Cho đến nay, nhu cầu về mặt hàng này còn ít, khiến cho số lượng tiêu thụ không nhiều. Trong những năm qua, nhà máy đã tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ công nhân viên. Tuy nhiên, tỷ lệ đào tạo chưa ngang tầm với đòi hỏi. Một vấn đề khó khăn nữa là thị trường đầu vào (bông xơ) năm 2000 giá cả sẽ tăng do một loạt các nhân tố. Trước tiên là sự gia tăng mạnh mẽ của nhu cầu. Theo uỷ ban tư vấn bông Quốc Tế, kinh tế thế giới phục hồi nhanh hơn dự đoán, đặc biệt là ở Châu á đã khuyến khích tiêu thụ hàng dệt may tăng trưởng. Điều này làm cho tiêu thụ xơ bông tăng nhanh ở những nước xuất khâủ, cung tăng không kịp cầu. Hình thức làm hàng giả là vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, sử dụng nhãn mác, bao bì của hàng thật hoặc nhái theo kiểu dáng, mẫu mã của hàng thật, chất lượng sản phẩm không đúng yêu cầu. Tuy nhiên, tâm lý người tiêu dùng lại vẫn chấp nhận hàng giả vì vẫn đáp ứng nhu cầu lại hợp khả năng kinh tế. Hiện nay, Trung Quốc đang là thách thức chính trong cạnh tranh phát triển của các doanh nghiệp dệt-may Việt Nam. Hàng dệt-may Trung Quốc có mặt ở hầu hết các nước trên thế giới và có ưu thế vượt xa dần so với Việt Nam... Nhìn chung, giá trị sản lượng của Việt Nam có xu hướng tăng lên đáng kể cả về số tuuệt đối lẫn số tương đối. Điều này cho thấy, năng suất lao động trong ngành dệt-may Việt Nam có những bước đột phá khả quan. Hiện nay buôn lậu dệt-may Trung Quốc vào Việt Nam tràn lan gây khó khăn không nhỏ cho ngành dệt-may Việt Nam. Trong khi đó, các chính sách hành chính chống buôn lậu đã không mấy thành công. Theo nhiều chuyên gia kinh tế, thách thức từ Trung Quốc phải được xem trên bình diện sâu xa là sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Bởi phải thấy rằng cạnh tranh với Trung Quốc hay bất cứ một đối thủ nào cũng mang yếu tố tích cực, ở một mức độ nào đó khuyến khích công nghiệp dệt-may Việt Nam phát triển lên bình diện cạnh tranh với Quốc Tế...do đó đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam, giành lại phần thị trường đã mất. Công nghiệp dệt-may Việt Nam đã đạt được những thành công gây ấn tượng trong thập kỷ qua. Ngành đã góp phần tạo thành công trong việc chuyển đổi từ một nền kinh tế chỉ huy gắn chặt với các nước trong hội đồng các nước tương trợ kinh tế (COMMECOM) sang một nền kinh tế mở, hoà nhập vào cộng đồng thế giới. Thách thức lớn hiện nay là tiến trình cải cách cần được thực hiện với tinh thần đổi mới, nhờ đó công nghiệp dệt-may có sức cạnh tranh Quốc Tế, cùng đất nước hội nhập kinh tế khu vực. II. Một số ý kiến góp phần hoàn thiện đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy Chỉ khâu Hà Nội 1.Tổ chức nghiên cứu thị trường làm cơ sở phát triển đa dạng hoá sản phẩm: 1.1.Cơ sử lý luận: Xã hội càng phát triển, cạnh tranh càng mạnh đòi hỏi các doanh nghiệp phải bám sát nhu cầu thị trường, đón trước những thay đổi của thị trường nhất là những nhu cầu nằm trong khả năng doanh nghiệp có thể đáp ứng. Mục đích chủ yếu của công việc nghiên cứu thị trường là xác định khả năng tiêu thụ của một sản phẩm hay một nhóm sản phẩm nào đó của công ty. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, công ty nâng cao khả năng thích ứng với thị trường của các sản phẩm do mình sản xuất ra và tiến hành sản xuất, tiêu thụ những sản phẩm hàng hoá mà thị trường đòi hỏi. Đồng thời cũng trên cơ sở đó công ty xác định được các hướng đa dạng hoá sản phẩm thích hợp nhất. Thông qua nghiên cứu thị trường, công ty tự xác định cho mình đâu là thị trường mục tiêu, đâu là thị trường tiềm năng của công ty. Quy mô, cơ cấu và sự vận động của từng thị trường để có những chính sách điều chỉnh kịp thời. Nghiên cứu thị trường là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng và trực tiếp quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Khách hàng là những người rất tinh ý, nhạy cảm và khó tính. Họ sẽ xem xét, tìm hiểu và chuyển sang tiêu thụ sản phẩm của đối thủ cạnh tranh có thể không đạt yêu cầu về kỹ thuật và độ chính xác như của doanh nghiệp nhưng bù lại giá rẻ hơn và do đó sẽ tiết kiệm được một khỏan tiền không nhỏ. Vì vậy, nghiên cứu thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng là một vấn đề cần thiết và hết sức cụ thể đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên thực tế, điều này đã được chứng minh. Thời kỳ đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhà máy phải đối nặt vơi những khó khăn tưởng chừng như không có lối thoát. Đặc biệt, thị trường sản phẩm triuền thống: chỉ may các loại khó tiêu thụ, làm ăn bấp bênh. Trước thách thức đó, nhà máy đã cử nhiều đoàn cán bộ đi điều tra, nghiên cứu nhu cầu thị trường, kí kết các hợp đồng sản xuất và quyết định đưa 2 mặt hàng chỉ thêu, chỉ ren vào sản xuất. Bên cạnh đó, nhờ nhanh nhạy nắm bắt thời cơ, nhà máy đã đầu tư thêm một dây chuyền máy móc thiết bị để sản xuất sợi PE 100%. Không cỉ dừng lại sở đó, nhà máy tiếp tục nghiên cứu thị trường và lần lượt đưa các mặt hàng sợi Kachiboshi, chỉ nội địa, chỉ Polynozic, sợi Visco... Như vậy, nhờ bám sát nhu cầu thị trường, nhà máy đã cung cấp nhanh và đúng những sản phẩm mà thị trường cần và nhà máy có khả năng sản xuất mà dần dần nhà máy vượt qua giai doạn khó khăn nhất và tiến từng bước vững chắc giành được sự mến mộ của khách hàng. Tuy nhiên, công tác này còn manh mún, thiếu sự chỉ đạo thống nhất từ trên xuống và chủ yếu còn mang tính hình thức, các thông tin thu thập được thường đi sau thị trường nên nhiều khi nhà máy rơi vào thế bị động. Vì vậy, trong thời gian tới, nhà máy cần tập trung nghiên cứu thị trường sâu hơn, xác định cụ thể dung lượng thị trường và đề ra chính sách sản phẩm hợp lý để nâng cao hiệu quả kinh tế hơn nữa. 1.2.Nội dung của biện pháp: Dự báo nhu cầu chỉ thêu, chỉ ren: Sau khi nghiên cứu và phân tích thị trường, khách hàng, phòng kinh doanh nhận thấy: Năm 1999, trên thị trường đã xuất hiện các loại tranh thêu giá bán từ 600.000 đến 6.000.000 đồng. Nhà máy dự đoán: đời sống nhân dân Việt Nam cũng như khu vực và quốc tế tăng nhanh không ngừng, người ta chuyển sang ưa chuộng các loại sản phẩm có giá trị về tinh thần. Các tranh thêu nghệ thuật, các tấm rèm, khăn trải bàn, ga giường, gối thêu...sẽ tăng nhanh. Vì vậy, nhu cầu về sản phẩm chỉ thêu chỉ ren cũng gia tăng đáng kể... -Năm 2000, dự đoàn nhu cầu về chỉ thêu, chỉ ren sẽ tăng nhanh, vì vậy nhà máy dự kiến sản xuất 36 tấn chỉ ren và 24 tấn chỉ thêu (gấp 2 lần so với kế hoạch sản xuất năm 1999) -Năm 2001-2003: nhu cầu về chỉ thêu, chỉ ren tăng tương đối đều, nhu cầu chỉ thêu tăng với tốc độ khoảng 1,15 và chỉ ren tăng với tốc độ gần 1,2. -Năm 2004-2005: nhu cầu chỉ thêu tăng nhanh chủ yếu phục vụ thêu nghệ thuật, các tranh thêu nghệ thuật với đủ các chủ đề, giá bán dao động trong khoảng 600.000-15.000.000 đồng thậm chí cao hơn nữa. Biểu số 24: Nhu cầu chỉ thêu của nhà máy Chỉ khâu Hà Nội: Đơn vị: kg Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Nhu cầu 24.000 27.600 31.600 37.000 60.000 85.000 Biểu số 25: Nhu cầu chỉ ren của nhà máy Chỉ khâu Hà Nội: Đơn vị: kg Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Nhu cầu 36.000 43.200 52.000 75.000 100.000 150.000 Như vậy, cùng với sự sôi động của nhịp sống, thị trường sản phẩm chỉ thêu, chỉ may cũng rộng mở và tiến bước song song với nó là những đòi hỏi, yêu cầu ngày càng khắt khe về chất lượng, mẫu mã, màu sắc, và các tiêu chuẩn kỹ thuật khác. Dự báo nhu cầu sợi Kachiboshi: Ngành dệt-may nước ta phát triển đã lâu, nhưng từ thập niên 90 trở lại đây mới thực sự chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động ngoại thương nói riêng. Trong suốt 4 năm qua (1996-1999), kim ngạch xuất khâủ hàng dệt-may luôn đạt hơn 1 tỷ USD/năm và trở thành mặt hàng xuất khâủ chủ lực của Việt Nam. 6 thàng đầu năm 2000, khăn bông, găng trượt tuyết xuất khâủ sang các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, EC, Châu Âu gia tăng mạnh: Công ty dệt Hải Phòng: 6 tháng đầu năm 2000 xuất khâủ 130 tấn khăn dệt các loại sang Nhật Bản, tăng 61,5% so với cùng ký năm 1998. Công ty dệt Hà Nội: tháng 1/2000, xuất khâủ 130 tấn khăn sang Hàn Quốc và một số nước trong khu vực. Sản phẩm khăn bông của công ty dệt-may 28/3 Đà Nẵng bước đầu xâm nhập thị trường Nhật Bản, khối lượng xuất khâủ tăng hàng năm trên 20%. ... Thị trường Trung Đông, Nga là những bạn hàng truyền thống, hiện nay nền kinh tế của họ đang phục hồi và có những dấu hiệu khả quan. Các doanh nghiệp Việt Nam đã nhanh chóng nắm bắt thời cơ này và thâm nhập thị trường Trung Đông, Nga. Đồng thời, Mỹ từ trước đến nay vẫn là một nước có mức nhập khẩu hàng dệt-may lớn nhất nên các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang raó riết tiến hành thăm dò, tìm kiếm. Với một cơ hội thị trường rộng mở như vậy, nhiều doanh nghiệp đã khẳng định: “Không có thị trường khó, chỉ sợ không giám tìm tòi”. Tháng 3/2000, công ty dệt Hoà Thọ mới đưa xưởng may II và xưởng dệt vào hoạt động với quy mô hiện đại gồm 150 máy may công nghiệp và một số thiết bị chuyên dùng khác, xưởng dệt khăn xuất khâủ gồm 80 máy dệt Trung Quốc vào dây chuyền sản xuất. Điều đáng quan tâm ở đây là toàn bộ máy móc thiết bị này do công ty dệt Phong Phú chuyển giao và bao tiêu sản phẩm. Bởi vậy, trong tương lai, nhà máy Chỉ khâu Hà Nội sẽ có thêm bạn hàng mới tiêu thụ sản phẩm sợi Kachiboshi và sợi PE 100% Biểu số 26: Dự báo nhu cầu sợi Kachiboshi: Đơn vị: kg Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Nhu cầu 180.000 340.000 680.000 900.000 1.200.000 1.440.000 Dự báo nhu cầu sợi PE 100%: Biểu số 26: Nhu cầu sợi PE 100%: Đơn vị: tấn Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Nhu cầu 732 892 1200 1400 1650 1900 2200 Bóng 650 750 950 1100 1300 1450 1650 Mờ 80 142 250 300 350 450 550 Dự báo nhu cầu chỉ may công nghiệp 40/2: Biểu số 27: Nhu cầu chỉ may công nghiệp 40/2 của nhà máy Chỉ khâu: Đơn vị: kg Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Nhu cầu 25.000 32.000 38.000 48.000 60.000 75.000 1.3.Điều kiện thực hiện biện pháp: Hiện nay, phòng kinh doanh gồm 4 nhân viên: trong đó có 1 nhân viên phụ trách về mảng thị trường đầu vào; 1 nhân viên phụ trách bán hàng, nhận đơn đặt hàng; 1 nhân viên làm kế hoạch và nghiên cứu thị trường; 1 trưởng phòng kinh doanh kiêm phụ tá giám đốc. Như vậy, việc nghiên cứu thị trường đã co một người đảm nhiệm mà khối lượng công việc nhiều nên sẽ bị hạn chế về thời gian và mức độ chính xác của nguồn thông tin cũng như độ xác thực của dự báo. Vì thế trông thời gian tới, nhà máy cần phải tổ chức một phòng chuyên trách về Marketing, thực hiện công tác nghiên cứu dự báo nhu cầu thị trường và tổ chức các đợt thăm dò thị trường. Phòng sẽ gồm 6 nhân viên, được phân công giao nhiệm vụ cụ thể, phụ trách từng mảng thị trường cho mỗi loại sản phẩm. Nhóm 1: gồm 2 nhân viên, phụ trách nghiên cứu thị trường chỉ thêu, dhỉ móc... Nhóm 2: gồm 2 nhân viên, phụ trách nghiên cứu thị trường sợi PE 100%, sợi Visco. Nhóm 3: gồm 2 nhân viên, phụ trách nghiên cứu thị trường sợi Kachiboshi, chỉ may công nghiệp 40/2 (tức nghiên cứu thị trường khăn bông xuất khâủ, thị trường găng tay xuất khâủ, hàng may mặc xuất khâủ...) Bộ phận Marketing có nhiệm vụ chủ yếu là: phân tích thị trường khu vực và quốc tế (Hàn Quốc, Nhật Bản, Italia, EU, EC, Châu Âu...) về khối lượng, chủng loại, chất lượng, các yêu cầu kinh tế kỹ thuật...để từ đó dự đoán được nhu cầu thị trường trong nước và dự đoán khối lượng sản xuất của nhà máy. -Dự báo sự xuất hiện nhu cầu sản phẩm mới -Dự báo sự thu hẹp của các loại sản phẩm nhà máy hiện đang sản xuất để có đối sách kịp thời. -Đánh giá các đối thủ cạnh tranh cùng các tiềm năng của họ. Nghiên cứu thị trường là một công việc phức tạp, phải trả lời chuẩn xác các câu hỏi: Doanh nghiệp nên sản xuất sản phẩm gì? nên mở rộng loại sản phẩm nào và thu hẹp sản phẩm nào? bán với giá bao nhiêu? Bán cho ai? Bán với hình thức nào? sản phẩm đó có chu kỳ sống là bao lâu? Để có thể thực hiện được phương án này, nhà máy cần tuyển dụng 5 nhân viên, trong đó gồm cả người có kinh nghiệm lâu năm và cả người mới vào nghề, sinh viên mới ra trường để có thể khai thác các yếu tố: sáng kiến, sự năng nổ, nhiệt tình và cả kinh nghiệm... Nhà máy cần tăng cường đầu tư hơn nữa cho mỗi đợt khảo sát, nghiên cứu thị trường. Nhà máy cũng cần trang bị thêm cả máy móc phục vụ cho công tác nghiên cứu dự báo thị trường như máy vi tính, máy in, máy photocopy và các loại tạp chí, sách báo có liên quan, có quan hệ mật thiết với các trung tâm nghiên cứu, đào tạo... 3.4.Hiệu quả của giải pháp: Chi phí cho phương án này là rất lớn nhưng nó sẽ trở thành nhỏ bé so với những hiệu quả có thể và sẽ đạt được trong tương lai như: -Thông qua việc nghiên cứu thị trường, nhà máy có thể nắm bắt nhanh nhất nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, của thị trường, đánh giá hoạt động của nhà máy trong thời gian qua trên những thông tin hiện có, từ đó xác định được sản phẩm của mình đang nằm ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống để có phương sách kéo dài hoặc thu hẹp chu kỳ sống của nó. -Mặt khác, thông qua nghiên cứu thị trường, nhà máy cũng thấy trước được các nguy cơ sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp đe doạ nhà máy để có biện pháp khắc phục. -Đồng thời cũng thấy trước được sự xuất hiện của những nhu cầu sản phẩm mới để làm cơ sở cho khâu thiết kế, hoàn thiện, sản xuất và tham gia cung ứng, góp phần thúc đẩy việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm. Như vậy, nghiên cứu thị trường sẽ giúp nhà máy đánh giá được hoạt động của mình trên những thị trường hiện có, phát hiện thị trường tiềm năng và qua đó mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. 2.Tổ chức tốt khâu thiết kế sản phẩm: 2.1.Cơ sở lý luận: Đối với một doanh nghiệp công nghiệp, thiết kế sản phẩm là một khâu đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến quá trình sản xuất kinh doanh, đến mục tiêu và kết quả của doanh nghiệp. Hình dáng, kích thước, mẫu mã, màu sắc của sản phẩm được hình thành thông qua khâu thiết kế sản phẩm.Vì thế, thiết kế sản phẩm là khâu không thể thiếu được, nó gắn liền với quá trình sản xuất. Sản phẩm có “bắt” mắt, có hợp thị hiếu và thoả mãn nhu cầu của khách hàng hay không, có tạo sự hấp dẫn đối với khách hàng hay không cũng là nhờ khâu thiết kế sản phẩm. Thiết kế sản phẩm tốt sẽ đem lại doanh thu, lợi nhuận cao cho doanh nghiệp, mở rộng thị trường cho doanh nghiệp tiến bước. Thiết kế sản phẩm là khâu đầu tiên của quá trình sản xuất, là nhiệm vụ đầu tiên doanh nghiệp phải thực hiện. Thông qua thiết kế, các định mức hao phí nguyên vật liệu, lao động, máy móc thiết bị... được dự kiến, các thông số về kỹ thuật, màu sắc, độ dai, độ bền, độ co dãn... Thực tế trong những năm qua, khâu thiết kế sản phẩm ở nhà máy chưa được quan tâm triệt để. Sản phẩm của nhà máy chủ yếu là gia công thuê hoặc học hỏi kinh nghiệm các doanh nghiệp khác, cử người đi học cách sản xuất những sản phẩm đang thịnh hành trên thị trường. Sản phẩm của doanh nghiệp là những sản phẩm “đi sau thị trường”. Doanh nghiệp chưa thiết kế được các sản phẩm hoàn toàn mới đối với thị trường. Vì vậy, khâu thiết kế sản phẩm cần được đầu tư hơn nữa để đem lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp. 2.2.Nội dung của biện pháp: 2.2.1.Đối với công tác thiết kế sản phẩm: Yêu cầu chung đối với công tác thiết kế sản phẩm là mỗi cán bộ thiết kế phải nắm chắc nghiệp vụ, nắm vững mục tiêu của công tác nghiên cứu như: đảm bảo cho các sản phẩm thiết kế đạt các thông số về kỹ thuật (độ bền, độ dai, độ dây phai, độ sai chi số sợi...) cũng như các tiêu chuẩn về hình dáng, mẫu mã; các chỉ tiêu kinh tế: giá thành, doanh thu, lợi nhuận, năng suất, hiệu quả... Dựa trên các bản báo cáo kết quả nghiên cứu thị trường của phòng kinh doanh, phòng kỹ thuật sẽ tiến hành phân tích, nghiên cứu, chế tạo loại sản phẩm thị trường ưa chuộng, đưa ra các phác thảo, tạo lập các phương án và chọn ra phương án tối ưu nhất, đem lại hiệu quả cao nhất. Sau khi xem xét đầy đủ các yếu tố cần thiết phục vụ quá trình thiết kế, cán bộ thiết kế phải lập các tài liệu so sánh đặc điểm của mẫu mới với đặc điểm các sản phẩm nhà máy đã có hoặc đang tiến hành sản xuất. Nếu sự khác biệt không lớn thì cần thực hiện cải tiến, thay đổi các mẫu đó về màu sắc, kích thước, tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc chất lượng... Cuối cùng, cán bộ thiết kế phải xây dựng các tài liệukhẳng định sự thích hợp của các mẫu thiết kế đó, lập hồ sơ xây dựng quy trình sản xuất sản phẩm và bản hướng dẫn sản xuất sản phẩm. 2.2.2.Đối với công tác nghiên cứu chế tạo thử sản phẩm. Đây là khâu quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của sản phẩm mới. Thông qua khâu chế tạo thử nghiệm này, tất cả các ý tưởng của thiết kế mẫu được thực hiện trên cơ sở bản thiết kế và các thông số kỹ thuật, các chỉ tiêu kinh tế, hiệu quả... Chế thử mẫu đòi hỏi độ chính xác cao (cao hơn yêu cầu khi đưa vào sản xuất). Qua chế thử mẫu, những thiếu sót trong khâu thiết kế được phát hiện (sai sót về máy móc thiết bị, về sản phẩm, kỹ thuật...) và nhiều ý tưởng mới được hình thành. Từ đó tiếp tục hoàn thiện, sửa chữa phần sai sót và bổ sung những chi tiết mới để có thể tạo ra một sản phẩm hoàn thiện, với kết cấu theo đúng yêu cầu đặt ra. Quá trình chế thử sản phẩm mới được lập lại nhiều lần để đảm bảo tính chính xác và để khẳng định một cách chắc chắn: sản phẩm mới không những đạt các yêu cầu về kiểu dáng, màu sắc...mà còn đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng mà bên thiết kế mẫu đưa ra. Sau khi có được kết quả thử nghiệm đạt yêu cầu, nhà máy thực hiện sản xuất hàng loạt nhỏ trong điều kiện bình thường của sản xuất hàng loạt. Nếu đạt tiêu chuẩn cho phép thì kết quả sản xuất thử hàng loạt nhỏ sẽ được sử dụng để xây dựng quá trình sản xuất. 2.2.3.Xây dựng quá trình sản xuất: Khi có kết quả của việc sản xuất thử, các cán bộ thiết kế kỹ thuật phải nhanh chóng xây dựng các quy trình công nghệ sản xuất, các định mức hao phí nguyên vật liệu, định mức hao phí lao động để phòng tổ chức có kế hoạch về nhân sự và phòng kinh doanh có kế hoạch mua sắm vật tư. Việc xây dựng quy trình công nghệ sản xuất phải đảm bảo tính hợp lý giữa thiết kế, sản xuất và máy móc thiết bị nhằm mục đích tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành. Vì vậy, khi xây dựng quy trình sản xuất phải quán triệt các yêu cầu sau: -Nâng cao trình độ cơ khí hoá và bán tự động quá trình sản xuất. -áp dụng phong phú công nghệ tiên tiến nhằm tăng năng suất lao động và tiết kiệm nguyên vật liệu... thứ tự các bước công việc. Đối với mỗi bước công việc cần nêu rõ phương pháp thao tác thích hợp và có lợi, các công cụ và thiết bịcần thiết, mức tiêu hao vật tư và trình độ tay nghề, bậc thợ của công nhân. -Quy trình công nghiệp vừa phải đảm bảo các yêu cầu kinh tế vừa phải đảm bảo các tiêu chuẩn về chất lượng, kỹ thuật... Sau khi xây dựng quy trình sản xuất, tiến hành sản xuất thử để xem xét tính hợp lý của quy trình sản xuất khắc phục sai sót (nếu có) để nhanh chóng đưa sản phẩm vào sản xuất bình thường. Trong thời gian đầu, các cán bộ kỹ thuật, thiết kế sản phẩm phải thường xuyên theo dõi quy trình sản xuất để khắc phục các sự cố, trao đổi và hướng dẫn công nhân thực hiện. 2.3.Điều kiện thực hiện: 2.3.1.Về con người: Con người là yếu tố then chốt quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Thế nhưng đến nay, vấn đề nhân sự của nhà máy còn nhiều bất cập. Nhà máy cần có các biện pháp khắc phục, xây dựng các chính sách đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ kỹ thuật, thiết kế. Cụ thể như: -Gửi cán bộ đi học tại các khoá đào tạo ngắn- trung- dài hạn để nâng cao nghiệp vụ kỹ thuật chuyên môn. -Cho tiếp xúc với những máy móc thiết bị công nghệ hiện đại của những nước có nền kinh tế phát triển mà tốc độ hiện đại của khoa học kỹ thuật phát triển nhanh, tạo điều kiện cho họ tiếp xúc với những công trình máy móc hiện đại, kỹ thuật tiên tiến của thế giới để mở mang tầm nhìn, mở rộng sự hiểu biết, kinh nghiệm. -Thường xuyên cập nhật các thông tin khoa học công nghệ, các thông tin về sản phẩm mới. -Đồng thời nhà máy cần tuyển dụng thêm những kỹ sư trẻ để bổ sung cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu, thí nghiệm, chế thử sản phẩm mới cho nhà máy đặc biệt là các kỹ sư thiết kế mĩ thuật, koá hữu cơ, hoá vô cơ chuyên ngành dệt-may, cơ khí... Đây chính là động lực có sức bật lớn về tư duy, sáng tạo, sự dột phá trong cách nghĩ, cách làm, là lớp kế cận thay thế cho lớp cán bộ đi trước. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện cơ giới hóa việc thiết kế mẫu, việc sử dụng máy vi tính để thiết kế mẫu trở nên phổ biến. Trong tương lai, nhà máy cần cố gắng để đạt được điều này. 2.3.2.Về máy móc thiết bị: Mặc dù trong thời gian qua, nhà máy đã trang bị một hệ thống máy vi tính, máy fax, máy in và một số các công cụ dụng cụ phục vụ công tác thí nghiệm. Tuy nhiên, số máy móc thiết bị này chưa đủ, nhà máy cần trang bị thêm các máy vi tính và một số chương trình phần mềm. Đầu năm 2000, “Hội nghị chuyên ngành nhuộm hoàn tất đã khai mạc”. Đây là một cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp tiên tiến nhất. Trong các lần khai mác tới, nhà máy nên cử cán bộ tham gia để học hỏi thêm kinh nghiệm bởi lẽ khâu nhuộm của nhà máy còn nhiều yếu kém. Nhà máy cũng cần trang bị thêm các công cụ mới dùng cho các thông số màu. Đầu năm 2000, hãng Macbeth Cheshire (Anh) đã chế tạo ra 2 phổ quang kế mới dùng đo và điều chỉnh màu sắc các vật liệu dệt-may... -Mẫu Color Eye 2180 là dụng cụ com-pac (chắc, gọn) quy cách 23,818,137,5 cm. -Mẫu Color Eye 580 là dụng cụ xách tay khối lượng 2,28 kg. Các dụng cụ đều được cung cấp nguồn sáng xênon xung lượng (không gây ảnh hưởng đến các mẫu vật liệu đo). Việc sử dụng các dụng cụ này đặc biệt hợp lý khi đo các màu tối hoặc bão hoà (chúng có tính chất tái hiện nhanh các kết quả đo). Đồng thời hãng còn giới thiệu một chương trình toán dùng kiểm tra màu các vật liệu. Các kết quả thử có thể được giới thiệu dưới dạng biểu đồ hoặc biểu hiện bằng biểu thức số. Chương trình toán xác định độ bền ánh sáng của vật liệu, đảm bảo tiến hành 20 mẫu thử khác nhau. Chương trình đảm bảo tự động chọn và kiểm tra các kết quả thử: nhiệt độ, thời gian, tính liên tục của các thời kì mưa và chiếu ánh sáng mặt trời. Viện nghiên cứu thiết bị dệt may và thí nghiệm đã chế tạo các Senso cho sức căng sợi chỉ... Do sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học kỹ thuật nên các thiết bị kỹ thuật rất nhanh trở nên lạc hậu. Đối với các thiết bị phục vụ công tác thiết kế lại càng nhanh bị lạc hậu hơn nên càng cần có sự cải tiến, đổi mới vì mỗi sự thay đổi của khách hàng lại tạo cho nó những tính năng mới hoàn thiện lơn giúp cho người sử dụng có thể thực hiện một cách hoàn hảo các thao tác theo những ý muốn và suy nghĩ của mình để tạo nên những mẫu sản phẩm mới. Trong thời gian tới, nhà máy cần đầu tư hơn nữa cho lĩnh vực này để đảm bảo khâu đầu tiên của quá trình sản xuất được tiến hành tốt nhất. 2.4.Hiệu quả của giải pháp Giải pháp này càng được thực hiện tốt và đồng bộ, sản phẩm thiết kế thử nghiệm sẽ càng đạt mức tiêu chuẩn cao. Các sản phẩm mẫu sẽ có tính thực tế cao hơn, dễ được người tiêu dùng chấp nhận. Đồng thời, khâu thiết kế sản phẩm được thực hiện tốt thì công tác đa dạng hoá sản phẩm mới đạt hiệu quả cao, danh mục sản phẩm của nhà máy sẽ được mở rộng và kéo dài... thị trường hoạt động của nhà máy được mở rộng, mục tiêu (danh tiếng, uy tín, doanh thu, lợi nhuận...) của nhà máy được nâng cao. Lời kết Năm 2000 là năm bản lề giữa 2 thiên niên kỷ đang mở ra những thách thức và cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế đất nước nói chung và ngành công nghiệp nói riêng. Thách thức không tự mất đi, thời cơ không cho phép ta do dự, chần chừ. Những người làm công nghiệp quyết định bình tĩnh , tự tin, vượt qua thử thách, tận dụng thời cơ, cùng cả nước đưa sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước tới thành công. Cánh cửa của năm 1999 đã khép lại để chúng ta chào đón năm 2000, năm có ý nghĩa đặc biệt vì là năm bản lề bước sang thiên niên kỷ mới, năm kết thúc việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 1991-2000 và kế hoạch 5 năm 1996-2000, một năm có những bước nhảy vọt vượt bậc. Nhìn lại năm 1999, chúng ta có quyền tự hào về những thành tựu to lớn đã đạt được dù phải trải qua những thăng trầm- thử thách, khó khăn-thuận lợi do khách quan và chủ quan gây ra (cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vức cộng với thiên tai 1998 chưa khắc phục song, trận lũ thế kỷ tại Miền Trung ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế ...) Phấn đấu các chỉ tiêu kế hoạch năm sau cao hơn năm trước trên cơ sở tốc độ tăng trưởng bình quân gia tăng, giá trị lợi nhuận trước thuế tăng, kế hoạch nộp ngân sách tăng, mức thu nhập bình quân của cán bộ công nhân tăng. Định hướng bước đi mới của nhà máy được mở ra song diễn biến của từng bước đi lại không hề nóng vội, phản ánh tính kiên định , vững vàng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý trong từng khâu của dây chuyền sản xuất kinh doanh . Mục lục: Trang Lời mở đầu 1 Phần thứ nhất: Đa dạng hoá sản phẩm - một khuynh hướng phổ biến giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường 3 I.Đa dạng hoá sản phẩm và phân loại đa dạng hoá sản phẩm 1.sản phẩm 3 1.1.Khái niệm sản phẩm 3 1.2.Phân loại sản phẩm 4 2.Danh mục sản phẩm 6 3.đa dạng hoá sản phẩm 7 3.1.Khái niệm đa dạng hoá sản phẩm 8 3.2.Các hình thức đa dạng hoá sản phẩm 8 3.3.Phân loại đa dạng hoá sản phẩm 10 4.Tầm quan trọng của đa dạng hoá sản phẩm 14 4.1.Sự cần thiết khách quan của đa dạng hoá sản phẩm 14 4.2.Vai trò của đa dạng hoá sản phẩm 16 II.Nhân tố ảnh hưởng 19 1.Những nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp 19 2.Nhân tố bên ngoài 22 III.Các chỉ tiêu đo lường mức độ đa dạng hoá sản phẩm và đánh giá hiệu quả đa dạng hoá sản phẩm 25 1. Các chỉ tiêu đo lường mức độ đa dạng hoá sản phẩm 2.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đa dạng hoá sản phẩm Phần thứ hai: Thực trạng đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy Chỉ khâu Hà Nội I.Quá trình hình thành , phát triển và một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật của nhà máy Chỉ khâu Hà Nội 1.Quá trình hình thành và phát triển 2.Đặc điểm kinh tế- kỹ thuật 2.1.Đặc điểm tổ chức quản lý 2.2.Đặc điểm tổ chức sản xuất 2.2.1.Đặc điểm sản phẩm 2.2.2.Đặc điểm nguyên vật liệu làm nên sản phẩm 2.2.3.Đặc điểm máy móc thiết bị công nghệ 3.Tình hình quản lý chất lượng sản phẩm 4.Tình hình sử dụng các yếu tố vật chất 5.Tình hình sử dụng vốn 6.Vấn đề lao động- tiền lương 7.Môi trường kinh doanh II.Tình hình thực hiện đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy Chỉ khâu. 1.Thực trạng đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy 1.1.Hệ thống sản phẩm truyền thống của nhà máy 1.2.Hệ thống sản phẩm đa dạng hoá 1.2.1.Đa dạng hoá sản phẩm bằng cánh đưa ra thị trường những sản phẩm mới 1.2.2.Đa dạng hoá bằng cách kéo dài danh mục sản phẩm 2.Kết quả đạt dược từ việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm 3. Những tồn tại và nguyên nhân trong quá trình thực hiện đa dạng hoá sản phẩm 3.1.Những tồn tại 3.1.1.Sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu so 3.1.2.Khâu thiết kế sản phẩm còn yếu kém 3.1.3.Công tác đổi mới công nghệ tuy đã được quan tâm và bước đầu có hiệu quả nhưng còn chậm và chưa toàn diện 3.2.Nguyên nhân 3.2.1.Vấn đề nghiên cứu thị trường còn hạn hẹp 3.2.2.Trình độ cán bộ công nhân viên Phần III.Một số ý kiến góp phần hoàn thiện đa dạng hoá sản phẩm I.Thuận lợi và khó khăn 1.Thuận lợi 2.Khó khăn II.Một số ý kiến góp phần hoàn thiện đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy Chỉ khâu 1.Tổ chức tốt công tác nghiên cứu thị trường làm cơ sở phát triển đa dạng hoá sản phẩm 1.1.Cơ sở lý luận 1.2.Nội dung của biện pháp 1.3.Điều kiện áp dụng 1.4.Hiệu qủa của biện pháp 2.Tổ chức tốt khâu thiết kế sản phẩm 2.1.Cơ sở lý luận 2.2.Nội dung của biện pháp 2.3.Điều kiện áp dụng 2.4.Hiệu qủa của biện pháp. Lời kết. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0267.doc
Tài liệu liên quan