Mở đầu
Nền kinh tế thế giới đang chuyển mình mạnh mẽ, nhiều quốc gia bùng nổ mạnh mẽ như Anh, Pháp, Mỹ,...Tuy nhiên thì các nhà đầu tư tại các quốc gia này đang có xu hướng chuyển dòng vốn đầu tư của mình tới các quốc gia khác. Đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, đầu tư tại các quốc gia này thì nhà đầu tư co lợi nhuận cao hơn hẳn bởi tại đây chi phí đầu tư thấp( lao động rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong phú,...).Do đó đang có một luồng vốn lớn chuyển vào các quốc gia đang phát triển. Nhưn
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1351 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số ý kiến đóng góp nhằm cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g dòng vốn ấy đầu tư một cách có chọn lọc, mặt khác thì giữa các quốc gia, hay bản thân trong một quốc gia thì sự cạnh tranh giữa các thành phố nhằm thu hút đầu tư cho địa phương mình là rất lớn.
Hà Nội với lợi thế là thù đô, là trung tâm của cả nước nhìn chung tình hình chính trị, trật tự xã hội ổn định, cơ sở hạ tầng tương đối tốt. Nhưng vẫn còn nhiều tồn tại trong môi trường đầu tư của Thành phố, nhiều yếu tố còn kém so với các thành phố khác trong khu vực. Do vậy tình hình thu hút đầu tư nước ngoài của Thành phố vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Nhận thức được điều này em chọn đề tài: “ Một số ý kiến đóng góp nhằm cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hà Nội trong giai đoạn tiếp theo”.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng không thể không tránh khỏi các sai sót, do vậy em rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để chuyên đề của em được hoàn thiện.
Em xin chân thành cám ơn!
Chương I . Môi trường đầu tư của Thành Phố Hà Nội và tác động của nó tới việc thu hút ngồn vốn FDI trên địa bàn giai đoạn 2001-2006.
1. Môi trường đầu tư của Thành phố Hà Nội.
1.1 Quan điểm về môi trường đầu tư.
1.1.1 Quan điểm về môi trường đầu tư.
Môi trường đầu tư là một yếu tố hết sức quan trọng vì nó là cơ sở thúc đẩy đầu tư từ khu vực tư nhân phát triển - động lực cho tăng trưởng và giảm nghèo. Nó làm tăng việc làm và thu nhập cho nhân dân, đồng thời nó cũng làm cho giỏ hàng hoá của người tiêu dùng phong phú cả về số lượng, chủng loại cũng như chất lượng. Mặt khác nó cũng củng cố nguồn thu thuế cho chính phủ nhằm trang trải cho các mục tiêu xã hội khác. Và nhiều mục tiêu của môi trường đầu tư tốt - bao gồm cơ sở hạ tầng hiện đại, đồng bộ, toà án, thị trường tài chính phát triển - đã trực tiếp nâng cao đời sống của nhân dân cho dù người đó không tham gia vào hoạt động kinh doanh. Như vậy chúng ta có thể thấy trách nhiệm của Chính phủ cũng như chính quyền mỗi địa phương trong việc tạo dựng một môi trường đầu tư tốt, hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Thông qua việc cải thiện môi trường đầu tư thì chúng ta có thể tăng cường được nguồn vốn cho hoạt động đầu tư từ đó sẽ giải quyết được các vấn đề về việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện tình trạng đói nghèo.
Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là môi trường đầu tư là những gì? Nó bao gồm những yếu tố gì? Và nó có quan hệ với tăng trưởng và phát triển kinh tế như thế nào?
Môi trường đầu tư đó là tập hợp các yếu tố đặc thù của địa phương, đang định hình cho các cơ hội để doanh nghiệp đầu tư có hiệu quả, tạo việc làm và mở rộng sản xuất.
Môi trường đầu tư bao hàm trong nó nhiều thành tố, từ điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội đến khả năng sinh lợi của các hoạt động đầu tư, từ sự sẵn sàng đồng thuận của chính phủ, chính quyền một quốc gia đến chính quyền địa phương và các thể chế tương ứng.
Một môi trường đầu tư được coi là hấp dẫn gồm các tiêu chí: Cơ hội lợi ích rõ ràng, tính cạnh tranh, khả năng linh hoạt trong vận động của các nguồn lực, bản thân các nguồn lực có chất lượng phù hợp, tính minh bạch của các thể chế và trách nhiệm môi trường cũng như quan hệ doanh nghiệp và xã hội hài hoà và được tôn trọng.
Trong hệ thống các yếu tố tác động mạnh mẽ đến các quyết định đầu tư của doanh nghiệp, thể chế đặc bệt là các thể chế kinh tế được xem là những nhân tố quan trọng nhất tác động đến tính hấp dẫn cao hay thấp của môi trường đầu tư một quốc gia trong tình hình hiện nay.
Đối với mỗi nhà đầu tư thì trước khi đi đến quyết định có nên đầu tư hay không thì họ luôn luôn xem xét, cân nhắc yếu tố: Chi phí, rủi ro.Giữa các yếu tố này, mỗi yếu tố đứng độc lập đều có ý nghĩa và đồng thời thì các yếu tố này cũng có quan hệ với nhau. Một số dạng rủi ro chúng ta có thể giảm được nếu chúng ta tăng chi phí và ngược lại.
Chi phí: Mỗi nhà đầu tư đều rất nhạy cảm khi đứng trước các cơ hội đầu tư, mỗi khi thấy xuất hiện các cơ hội làm ăn thì ngay lập tức nhà đầu tư bắt tay vào tìm hiểu xem xét, xem nó có thực sự khả thi không, nó có thực sự là một cơ hội làm ăn thuận lợi, một cơ hội làm ăn có khả năng sinh lời lớn hay không và để có đựơc câu trả lời cho những câu hỏi trên thì nhà đầu tư có rất nhiều các thức khác nhau tuy nhiên thì một trong những cách thức được dùng phổ biến đó là so sánh giữa chi phí và lợi ích. Trong đó chi phí là tất cả những gì mà nhà đầu tư phải bỏ ra để thu về được khoản lợi ích nhất định, nó bao gồm rất nhiều yếu tố và nó là hàm thông thường của các hoạt động thương mại như chi phí lập thẩm định dự án, chi phí xây dựng, chi phí thiết bị, chi phí mua nguyên vật liệu, chi phí quản lý,... Tuy nhiên thì cũng có những khoản chi phí bắt nguồn trực tiếp hoặc gián tiếp từ các hành vi của Chính phủ, trực tiếp nhất là các khoản thuế, phí, lệ phí. Tuy vậy thì những khoản chi phí này là rất quan trọng vì nó bảo đảm sự vận hành của bộ máy chính quyền cũng như cải thiện môi trường đầu tư. Cụ thể nó là nguồn để thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, củng cố an ninh, quốc phòng,... Vấn đề tạo dựng môi trường đầu tư tốt thì chúng ta tin rằng các doanh nghiệp không những không phản đối mà còn ủng hộ nhưng vấn đề đặt ra là sử dụng có hiệu quả tránh lãng phí và cái quan trọng hơn cả đó là đúng mục đích là cải thiện môi trường đầu tư. Thí dụ: Chi phí liên quan đến tội phạm, tham nhũng, điều tiết, cơ sở hạ tầng yếu kém chiếm đến 25% doanh số - hoặc hơn 3 lần số thuế mà doanh nghiệp phải đóng góp, quy mô và cơ cấu của những khoản chi phí này có thể có sự thay đổi rất lớn hay như việc đăng ký kinh doanh ở Ôxtrâylia chỉ mất 2 ngày trong khi phải mất đến 200 ngày ở Haiti. Như vậy liên quan đến yếu tố Chi phí chúng ta có thể thấy các yếu tố chi phí cho các khoản Thuế, chi cho cơ sở hạ tầng, lao động, tham nhũng, ...
Rủi ro: Như chúng ta đều biết đầu tư là sư hi sinh các nguồn lực ở hiện tại nhằm thu về một khoản lợi ích lớn hơn trong tương lai. Như vậy một trong những đặc điểm của hoạt động đầu tư đó là chứa đựng yếu tố rủi ro. Một hoạt động đầu tư càng rủi ro, càng mạo hiểm thì lợi nhuận càng cao. Hoạt động đầu tư thì mang tình chủ quan còn thị trường thì luôn biến động do vậy chúng ta rất khó dự đoán hết được những rủi ro có thể xảy ra đối với công cuộc đầu tư của chúng ta. Rõ ràng là một thị trường mà có nhiều cơ hội làm ăn có lời trong khi môi trường ít biến động, mọi thứ nằm trong sư kiểm soát của chúng ta thì có thể thấy nó hấp dẫn và chúng ta sẵn sàng bỏ vốn đầu tư, thực hiện đầu tư cho dự án thích hợp. Ví dụ đơn giản đó là "Khủng hoảng" nó sẽ làm cho hàng hoá không bán được, sẽ dẫn tới hoạt động sản xuất bị đình trệ, kinh doanh thua lỗ. Đồng nghĩa với đó là các nghĩa vụ về thuế,... đối với Nhà nước không thực hiện được và Chính phủ cũng sẽ không có tiền để cải thiện tình trạng này, đó là tác động mang tính dây truyền. Đứng trước các yếu tố rủi ro này thì chúng ta có thể nhận thấy không thể thiếu vai trò của Chính phủ trong ổn định kinh tế vĩ mô, bằng các chính sách của mình thì Chính phủ sẽ ngăn trặn được các yếu tố rủi ro, tăng tính hấp dẫn cho các nhà đầu tư, tuy nhiên thì hiện nay đang xảy ra một thực tế là đôi khi các chính sách còn là tăng sự rủi ro bởi các chính sách do chính phủ đưa ra không thực hiện được vai trò của nó, không giải quyết được các vấn đề thực tế thậm chí chúng còn cản trở, sự biến động trong chính sách khiến nhà đầu tư không nắm bắt được và trở nên hoang mang, đồng thời thì hiện nay tồn tại một khoảng cách rất lớn giữa chính sách và việc thực thi chính sách. Các cuộc điều tra cho thấy rằng nếu doanh nghiệp tăng cường được khả năng tiên liệu được các chính sách thì có thể làm cho khả năng sinh lời của các khoản đầu tư lên tới 30%. Yếu tố này bao gồm Sự ổn định, quyền về tài sản, khả năng tiên liệu và mức độ ổn định của các chính sách, phản ứng của người tiêu dùng và của đối thủ cạnh tranh,...
Như vậy đối với mỗi quốc gia cũng như các địa phương thì việc cải thiện môi trường đầu tư là hết sức quan trọng và khó khăn. Nhưng cải thiện không đồng nghĩa với giảm tất cả chi phí, rủi ro mà chúng ta chỉ có thể giảm thiểu tối đa chi phí cung như rủi ro nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư.
1.1.2 Quan hệ môi trường đầu tư, thu hút đầu tư và phát triển kinh tế.
Hiện nay các nước trên thế giới có tốc độ tăng dân số một cách chóng mặt, do trách nhiệm của Chính phủ cũng như chính quyền các địa phương càng trở nên khó khăn, bài toán đặt ra là phải làm sao giải quyết được tình trạng này, xoá đói giảm nghèo đặc biệt là đối với các nước đang phát triển thì trách nhiệm này càng nặng nề. Tình trạng này chỉ có thể được giải quyết khi mà khắc phục được tình trạng hiện nay đó là kinh tế kém phát triển.
Sơ đồ 1: Quan hệ môi trường đầu tư, thu hút đầu tư
và phát triển kinh tế
Môi trường đầu tư.
Phát triển kinh tế.
Thu hút đầu tư.
Chúng ta phải tăng cường đầu tư, xây dựng các xí nghiệp thành lập các công ty,... nhằm giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Như vậy chúng ta phải đẩy mạnh đầu tư.
Như sơ đồ 1 chúng ta có thể thấy giữa ba yếu tố có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau:
Ví dụ: Như khi mà chúng ta tạo dựng được một môi trường đầu tư tốt và an toàn thì ngay lập tức chúng ta sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư thực hiện đầu tư, bởi nó sẽ có lợi cho bản thân nhà đầu tư an toàn mà lại có lợi chắc chắn sẽ đầu tư. Đồng thời với việc thực hiện đầu tư thì kết quả của công cuộc đầu tư đó là các nhà xưởng, các cơ sở sản xuất,... và khi đi vào vận hành thì nó tác động đến cung, làm tổng cung tăng nên, mặt khác với việc nhiều nhà xưởng được xây dựng thì vấn đề việc làm được giải quyết, nhiều lao động có thu nhập và một phần thu nhập của họ được tiêu dùng và lại làm tổng cầu tăng, tổng cầu tăng lại kích thích nhà đầu tư đầu tư thêm và thế là chúng ta sẽ tao ra sự tăng trưởng và phát triển cho nền kinh tế. Và khi nền kinh tế phát triển thì sự sẵn sàng đóng góp của các doanh nghiệp cho Chính phủ nhằm cải thiện môi trường đầu tư càng cao và thể là môi trường đầu tư cũng ngày càng tốt lên.
Như chúng ta đã biết môi trường đầu tư là tập hợp các yếu tố trực tiếp tác động đến hoạt động đầu tư. Nó có thể có những tác động tích cực hoặc là tiêu cực đến hoạt động đầu tư và môi trường đầu tư bao gồm rất nhiều yếu tố do vậy cải thiện môi trường đầu tư tức là chúng ta phải giải quyết một cách đồng bộ trong từng yếu tố chúng ta phải xác định đâu là tác động tích cực đâu là tác động tiêu cực tới hoạt động đầu tư. Từ đó chúng ta phải có các giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, giảm thiểu yếu tố tiêu cực của môi trường đầu tư, cải thiện tốt môi trường đầu tư sẽ khuyến khích đầu tư, tạo cơ hội cho tất cả các thành phần kinh tế phát triển. Môi trường đầu tư được cải thiện đồng nghĩa với việc Đảng và Nhà nước đảm bảo về các yếu tố như pháp luật, chính sách ổn định từ đó tạo niềm tin và sự an tâm cho các nhà đầu tư từ đó họ thiết lập , mở rộng và đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư, giảm thiểu các chi phí ra nhập thị trường, chi phí giao dịch qua đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, qua đó càng làm tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, huy động sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, lao động, tiếp thu được khoa học và công nghệ tiên tiến... ở cả trong và ngoài nước.
1.1.3 Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề cải thiện môi trường đầu tư
Trong tình hình hiện nay thì cả trong nước và trên thế giới đang diễn ra nhiều xu hướng biến động mạnh mẽ, nó tiềm ẩn nhiều cơ hội và thác thức lớn.
Hiện nay chúng ta có thể thấy có một dòng vốn đầu tư nước ngoài của khu vực Mỹ, Châu Âu, đang đổ dồn về khu vực châu Á, mà đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế của các thành phố nói riêng và cả nước nói chung. Nước ta đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh, bị tàn phá, cơ sở vật chất yếu kem, chúng ta phải xây dựng lại từ đầu. Đồng thời do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan mà nước ta có dân số phát triển khá nhanh kéo theo lao động thì thừa, nhu cầu việc làm ngày càng tăng cao.Trong khi chúng ta lại thiếu vốn. Do vậy muốn phát triển chúng ta phải thu hút được đầu tư từ khu vực tư nhân đặc biệt là từ nước ngoài.Việc tiếp nhận nguồn vốn này có đặc điểm chúng ta không phải nợ, thay vì nhận lãi suất trên vốn vay nhà đầu tư tự tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh và nhận phần lợi nhuận thích đáng trên cơ sở vốn góp. Đầu tư nước ngoài sẽ cho chúng ta rất nhiều cái lợi, nhà đầu tư vào nước ta cũng như trên địa ban Thành phố thì nhà đầu tư không đơn thuần chỉ mang theo vốn đầu tư mà họ còn mang đến cho chúng ta nhiều điều quan trọng hơn như máy móc thiết bị hiện đại, phương thức tổ chức,...qua đó thậm chí nó còn hình thành nhiều ngành mới đặc biệt là những ngành đòi hỏi phải kỹ thuật cao,công nghệ hiện đại. Vì thế nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ lớn trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước là: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nướctheo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Có thể nói quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước thì Thành phố Hà Nội đã chú trọng công tác hội nhập, đặc biệt là trong công tác kêu gọi và sử dụng nguồn vốn FDI. Thành Phố đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư, tuy nhiên thì những cái chưa làm được còn rất là nhiều,môi trường đầu tư đã được cải thiện tuy nhiên thì vẫn kém hấp dẫn. Chính vì vậy trong thời gian tới thì Thành Phố phải có các biện pháp khắc phục những hạn chế tồn tại làm lành mạnh hoá môi trường đầu tư.
1.2 Các yếu tố chính của môi trường đầu tư Hà Nội
1.2.1 Nhóm yếu tố liên quan đến chi phí hoạt động đầu tư
1.2.1.1 Thuế
Đối với doanh nghiệp thì phần lớn các khoản thuế phải nộp là các khoản chi phí của doanh nghiệp. Vì vậy trước khi quyết định đầu tư, nhà đầu tư phải xem xét, tính toán các khoản thuế phải nộp. Trong quá trình xin cấp phép đầu tư thì chủ đầu tư cũng nghiên cứu xem lĩnh vực mình hoạt động có được ưu đãi gì không và sau đó đề nghị phòng Đầu tư nước ngoài - bộ phận cấp phép ghi mức ưu đãi.
Đối với một công cuộc đầu tư thì nó rất kéo dài hàng chục thậm chí đến hai, ba chục năm. Và các khoản chi phí thuế bắt đầu phát sinh từ khâu chuẩn bị cho tới tận khi đưa dự án vào vận hành khai thác. Trong quá trình thực hiện dự án thì nhiều nhà đầu tư nhập nguyên liệu từ nước ngoài và chúng ta biết đến với các hình thức thuế suất nhập khẩu. Còn đối với một doanh nghiệp thì chúng ta có thể thấy các hình thức thuế như: Thuế Giá trị gia tăng( VAT), thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thuế Giá trị Gia tăng(VAT): Là loại thuế gián thu, thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ qua các giai đoạn sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Thuế suất được quy định theo mức thuế suất cố định, căn cứ vào hàng hoá, dịch vụ kinh doanh.
Theo hệ thống thuế giá trị gia tăng, " thuế đầu ra" được thu từ người tiêu dùng bằng cách cộng thêm giá trị gia tăng vào số tiền phải trả. Tuy nhiên thì bản thân doanh nghiệp cũng phải nộp thuế giá trị ra tăng cho các doanh nghiệp cung ứng của họ. Doanh nghiệp sẽ phải nộp thuế cho Nhà nước sau khi đã khấu trừ khoản thuế đầu ra doanh nghiệp đã phải trả cho nhà cung ứng. Chính vì vậy hiện nay trên địa bàn Thành phố đang xảy ra hiện tượng đó là trốn thuế, lậu thuế bằng cách các doanh nghiệp mua chứng từ hoá đơn giả mạo nhằm nhận khoản hoàn thuế hàng vài tỷ đồng, mặc dù doanh nghiệp không hề hoạt động. Hiện nay thì trên địa bàn Hà Nội nói riêng và nước ta nói chung thì trong cơ cấu thuế vẫn tồn tại nhiều vấn đề khá phức tạp.
Những hàng hoá và dịch vụ trước đây được xếp vào 11 mức thuế suất doanh thu, nay VAT chuyển sang 4 mức, với các mức thuế suất: 0%, 5%, 10% và 20% . Khoảng cách là rất lớn từ 5 đến 20% như vậy nó đã và đang gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp, dẫn tới nhiều khiếu lại tố cáo về vấn đề này. Hầu hết các doanh nghiệp cho rằng mức thuế 10% và 20% là qua cao, chỉ nên áp dụng mức 5% . Một số doanh nghiệp lại yêu cầu bỏ mức thuế 20% Trên địa bàn Thành phố cũng như nước ta thi hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài như miễn thuế, giảm thuế. Tuy nhiên thì cơ chế này đã tạo không ít phiền hà như trong quá trình cấp phép đầu tư, xác định mức ưu đãi, đồng thời nó đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đây là một cơ chế rất tốt vì nó có thể khuyến khích đầu tư vào các khu vực khó khăn, lĩnh vực cần đẩy mạnh đầu tư, nhưng nhiệm vụ của Chính phủ là phải xây dựng các quy định khuyến khích hợp lý vừ đảm bảo mức thu cho Chính phủ mà vừa không gây quá bất bình đẳng hay vẫn tạo được sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Thuế tiêu thụ đặc biệt: Thuế được tính theo công thức
Thuế Số lượng Giá tính Thuế TTĐB
TTĐB = hàng hoá * thuế đ/vị * Thuế suất - được khấu trừ
phải nộp tiêu thụ hàng hoá đầu vào
Về bản chất thì thuế tiêu thụ đặc biệt giống như thuế VAT nhưng khác với thuế VAT ở chỗ nó chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng hạn chế sản xuất, kinh doanh hoặc xuất nhập khẩu.
Thuế thu nhập doanh nghiệp: Là thuế tình trên lợi nhuận trước thuế ( thu nhập trước thuế ) của doanh nghiệp mức thuế suất được quy định theo tỉ lệ cố định căn cứ vào ngành nghề kinh doanh.
Ngoài ra doanh nghiệp còn chịu nhiều loại thuế khác tuỳ thuộc vào lĩnh vực và ngành nghề kinh doanh.
Như vậy chúng ta có thể thấy một trong những yếu tố quan trong của môi trường đầu tư đó chính là Thuế, vì nó cấu thành vào chi phí và do vậy nó sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả và hiệu quả hoạt động đầu tư. Như thế chúng ta thấy rằng việc xây dựng các mức thuế suất khác nhau là hết sức quan trọng, nó sẽ tác động trực tiếp tới quyết định đầu tư của chủ đầu tư. Vậy thì câu hỏi đặt ra cho mỗi chúng ta là thuế có tác động mạnh thê thì tại sao chúng ta không miễn thuế hoàn toàn cho các nhà đầu tư đi, nhưng vấn đề là ở chỗ thứ nhất qua công cụ thuế Chính phủ kiểm soát được hoạt động của các doanh nghiệp, khống chê được công suất,... nhằm thu được hiệu quả tối ưu cho toàn xã hội. Yếu tố thứ hai đó là Thuế là khoản thu chủ yếu của Ngân sách và nó đóng góp tỉ lệ quan trong trong cơ cấu vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản: điện, đường, trường tram, khách sạn,....những yếu tố này chính là mồi cho những luồng vốn đầu tư.
Hiện nay nhiều doanh nghiệp phàn nàn về vấn đề hoàn thuế, Nhiều nhà đầu tư cho rằng Thành phố chậm trễ trong hoàn thuế. Luật quy định việc hoàn thuế phải được thực hiện trong vòng 15 ngày nhưng trên thực tế phải mất hàng tháng, thậm trí hàng năm doanh nghiệp vẫn chưa được hoàn thuế. Đối với doanh nghiệp thì phải tiến hành vay vốn để đầu tư, phải chịu lãi suất hàng ngày do đó doanh nghiệp phải luôn tính toán sao cho mỗi đồng vốn của họ đều phải sinh lời nhưng thực tế xảy ra tình trạng chậm trong hoàn thuế, tạo cho doanh nghiệp một khoản vốn không sinh lời nằm tồn đọng, mà nguồn thuế đó không những không thấp thậm trí còn chiếm tỉ lệ khá lớn trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
Nguyên nhân của hoàn thế chậm trễ có thể là do thủ tục hành chính quá phức tạp, đội ngũ cán bộ thuế thiếu năng lực. Nhưng một yếu tố không kém phần quan trọng đó là do rắc rối trong hoá đơn. Hoá đơn do Bộ tài chính ban hành và hoá đơn do doanh nghiệp được phép in ấn phát hành gọi là hoá đơn đỏ. Hoá đơn do cá hộ kinh doanh sử dụng và được lưu hành khá phổ biến hiện nay là hoá đơn xanhvì chúng thường được in ấn bằng mực xanh.
Các cơ quan thuế lại chỉ chấp nhận hoá đơn đỏ. Những hàng hoá được mua bằng hoá đơn xanh được coi là các hoá đơn không hợp pháp và các khoản chi phí này đều không được chấp nhận dù có thật và khoản thuế từ hàng hoá này đều không được hoàn thậm trí có thể bị phạt.
Việc thiếu hoá đơn tài chính trong chừng nực nhất định, là một khó khăn khách quan vì nó nảy sinh từ trình độ kinh doanh thấp của một số lượng lớn các hộ kinh doanh tại Việt Nam ( chỉ tính riêng trong lĩnh vực nông nghiệp đã có đến 2 triệu hộ kinh doanh). Đa số các hộ kinh doanh chưa có khẳ năng chấp hành hệ thống hoá đơn và kế toán theo tiêu chuẩn.
Bảng 1 : Doanh nghiệp coi thuế suất là một trong những
trở ngại hàng đầu của họ
Đơn vị: %
Tỷ lệ các nước trong đó doanh nghiệp coi thuế suất là một trong những trở ngại chính
Trở ngại
lớn nhất
Một trong ba trở ngại lớn nhất
Một trong năm trở ngại lớn nhất
Tất cả các nước
18
56
82
Các nước thu nhập trung bình cao
40
90
100
Các nước thu nhập trung bình thấp
12
35
71
Các nước thu nhập thấp
11
56
83
Đông Âu và Trung À
14
62
86
Châu Phi
33
67
83
Châu Á
14
29
71
Châu MỸ Latinh
50
50
50
Nguồn: Điều tra môi trường đầu tư của Ngân hàng Thế giới năm 2005.
Qua bảng 1: Chúng ta có thể thấy các doanh nghiệp, các nhà đầu tư rất chú ý tới vấn đề thuế, hiện nay nước ta vẫn tồn tại nhiều biểu thuế với nhiều mức thuế khác nhau đồng thời hiện nay bên cạnh các pháp lệnh về thuế và luật thuế, thì tuỳ trong nhiều trường hợp phải có các văn bản hướng dân riêng. Trên địa bàn Thành phố cũng vậy nhiều phát sinh trong vấn đề về thuế đối với các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo ra không ít trở ngại. Các chính sách thuế thường xuyên sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình thực tiễn tuy nhiên chính điều này tạo tâm lý e ngại cho các nhà đầu tư trong việc lập kế hoạch cũng như hoạt động. Các nhà đầu tư nước ngoài có rất ít cơ hội để nắm bắt các nguồn thông tin, nên thường nhầm lẫn về thu thuế và nộp thuể không biết đến các quy định sửa đổi và bổ sung.
1.2.1.2 Cơ sở hạ tầng
Trong quá trình đầu tư thì các doanh nghiệp nhận được các điều kiện là rất khác nhau. Ngay trong quá trình xin cấp giấy chứng nhận đầu tư thì có doanh nghiệp chỉ mất có tuần, hai tuần nhưng cũng có những doanh nghiệp phải mất tới vài tháng. Và như vậy thì các cơ hội đầu tư thuận lợi đã trôi qua, thời điểm đầu tư tốt nhất đã không còn. Hay một ví dụ khác đó là trong quá trình vay vốn nhiều doanh nghiệp phải thực hiện các thủ tục rất khắt khe mà vẫn chưa chắc đã vay được vốn nhưng cũng có những doanh nghiệp thì rất rễ vay vốn mà còn được ưu đãi về lãi suất và thời gian vay. Với những điều kiện khác nhau này thì nó ảnh hưởng mạnh đến sự thành bại của doanh nghiệp, và một trong những điều kiện đó là về cơ sở hạ tầng. Nó bao gồm các sân bay, hệ thống đường giao thông, vận tải, hệ thống điện, nước, mạng lưới phân phối khí đốt, hệ thống cầu cảng, viễn thông,...
Những doanh nghiệp mà có cơ hội đầu tư tại các khu vực có điều kiện cơ sở hạ tầng thuận lợi thì sẽ có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp khác. Ví dụ: Trong giai đoạn vừa qua chúng ta có thể thấy Thành phố đã thực hiện cắt điện ở một số quận, huyện nhằm thực hiện tiết kiệm điện. Nhiều doanh nghệp cả trong và ngoài nước đã phải chịu ảnh hưởng mạnh, mất điện đồng nghĩa với ngừng sản xuất và dẫn tới nhiều doanh nghiệp đã không thể hoàn thành hợp đồng đúng thời hạn, phải chị phạt và khoàn tiền phạt này là rất lớn. Chính điều này làm cho nhiều nhà đầu tư rất thận trọng, không dám mở rộng quy mô, mà chỉ có thể sản xuất với quy mô hiện tại, hoặc phải chuyển địa điểm đầu tư.
Các báo cáo cho thấy cơ sở hạ tầng ở Nam Phi và Nam Á yếu kém hơn rất nhiều so với các khu vực còn lại. Tuy nhiên vấn đề bảo dưỡng và đặc biệt là xây dựng mới hệ thống điện, hệ thống cung cấp năng lượng thường đòi hỏi phải có một nguồn kinh phí rất lớn do vậy chúng ta hoàn toàn có thể hiểu tại sao khu vực này cơ sở hạ tầng yếu kém, nhưng vấn đề không chỉ tồn tại ở khâu huy động vốn. Các công trình này có nhiều đặc điểm rất khác biệt ví như hệ thống đường sắt chẳng hạn. Chúng ta không thể để cho hai hay nhiều nhà đầu tư xây dựng hai hay ba hệ thống đường sắt cùng đến một địa điểm để cạnh tranh nhau. Chúng sẽ rất lãng phí nguồn lực, như vậy cơ chế thị trường không thể điều tiết dẫn tới phải có vai trò của Chính phủ. Trên thực tê nguồn thu ngân sách, cung như các nguồn vay ưu đãi khác thì rất hạn chế trong khi lại cần rất nhiều vốn cho xây dựng cơ bản. Điều này làm hạn chế cơ sở hạ tầng ở khu vực này, Chính phủ tiến hành đấu thầu thực hiện các công trình này, tuy nhiên thì do chưa tạo được lòng tin nên các doanh nghiệp vẫn còn e ngại các công trình xây dựng này sau khi vận hành, phải mất một thời gian rất dài doanh nghiệp mới có thể thu hồi vốn, bởi họ phải đặt giá thấp cho các sản phẩm cung ứng. Đồng thời các công trình này mang tính bất động, tức nếu chính phủ không thực hiện về lời hứa thì doanh nghiệp cũng không thể di chuyển công trình đi nơi khác.
Rõ ràng một Thành phố có cơ sở hạ tầng tốt sẽ hấp dẫn được các nhà đầu tư. Một trong những vấn đề cơ bản của các Thành phố nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng đó là cải thiện hệ thống giao thông đi lại, cải thiện hệ thống điện, hệ thống cung cấp nước, thoát nước, hệ thống cầu cảng,hệ thống viễn thông,...
Biểu 1: Chi phí giao thông và viễn thông đang giảm
100
80
Vận tải biển
60
40 Vận tải hàng không
20 Viễn thông
0 1930 1940 1950 1960 1970 1980 1990 2000 năm
Chú thích: Chỉ số cho mọi loại dịch vụ là 100 vào năm 1930
Nguồn: BESSE.
Tuy nhiên hiện nay thì vấn đề nổi cộm của Thành phố, tác động không nhỏ đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp đó là vấn đề về giao thông.
Hệ thống giao thông cũng như các dịch vụ hạ tầng khác là những đầu vào trung gian. Nó góp phần làm cho các hoạt động khác tăng năng suất, đóng góp vào tăng trưởng phát triển kinh tế cũng như xoá đói giảm nghèo. Đối với các nhà đầu tư thì vấn đề giao thông có vai trò vô cùng quan trọng nó tác động rất lớn tới các công cuộc đầu tư, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận đến các nguồn lực sản xuất như vốn, nguyên vật liệu, lao động, cung như tới thị trường tiêu thụ góp phần làm giảm chi phí kinh doanh.
Hiện nay các Thành phố đang tìm mọi cách phát triển hệ thống giao thông nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư. Và kéo theo có thể thấy trong biểu 1 đó là các chi phí liên quan cũng đang có xu hướng giảm mạnh mẽ. Điều này càng làm cho việc cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài càng trở nên khốc liệt.
Phát triển giao thông nó liên quan đến cả ba nội dung phát triển bền vững là kinh tế, xã hội và môi trường.
Sơ đồ 2: Tác động của giao thông vận tải tới phát triển bền vững.
Phát triển cơ sở hạ tầng giao thông
-Tính sẵn có
-Giảm chi phí
-Tiết kiệm thời gian
- Sự tiện lợi của các dịch vụ
Phát triển kinh tế
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
- Cải thiện môi trường đầu tư.
- Tăng cường khả năng tiếp cận thị trường cho các doanh nghiệp.
-Tăng cường năng lực canh tranh của doanh nghiệp.
Phát triển bền vững
Phát triển xã hội
- Cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như: giáo dục, y tế,...giảm tai nạn giao thông
- Giảm chênh lệch giữa các vùng
Môi trường
- Tiếng ồn
- Ô nhiễm không khí
Như vậy giao thông vận tải có tác động rất lớn tới phát triển bền vững của một đô thị. Giao thông được coi là một yếu tố cơ bản của môi trường đầu tư, nó có vai trò quan trọng trong quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư của chủ đầu tư.Theo điều tra của Ngân hàng Thế giới năm 2005 thì giao thông vận tải là một trong những trở ngại lớn nhất trong hoạt động kinh doanh. So với các nước trong khu vực như singapore, indonesia, Thailan,... thì vấn đề giao thông của Việt Nam còn là vấn đề trở ngại lớn hơn.
Theo kết quả điều tra này có đến 24% các doanh nghiệp Việt Nam cho rằng giao thông là rào cản đối với hoạt động kinh doanh. Bởi hiện nay chúng ta đang xá còn thiếu, chất lượng đường kém,... do đó làm chi phí vận tải là rất lớn.
Theo đánh giá trong báo cáo về “môi trường đầu tư tốt hơn cho mọi người năm 2005” thì do chất lượng đường xá kém thế nên chi phí vận tải chiếm khoảng 15% giá hàng ở Nga và khoảng 20% -40% ở Brazin. Trong khi đó nó chỉ chiếm khoảng 7-8% ở Tây Âu và Hoa Kỳ bởi tại đây hệ thống giao thông vận tải rất tốt. Như vậy chúng ta cũng có thể thấy tỷ lệ chi phí vận tải chiếm một tỉ lệ rất cao trong giá thành sản phẩm, bởi chất lượng giao thông vận tải của chúng ta vẫn chưa thể bằng Nga hayBrazin.
Biểu 2: Tỷ lệ phần trăm doanh nghiệp cho rằng GTVT là yếu tố cản trở đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Ấn Độ Malaysia Thái Lan Indonesia Philippines Việt Nam
Hà Nội là một trong những đầu mối giao thông hết sức là quan trọng. Muốn phát triển Hà Nội thành một trung tâm kinh tế cho xứng tầm với các thành phố trên thế giới, và tăng cường thu hút đầu tư thì chúng ta phải cải thiện được môi trường đầu tư của thành phố
Hiện nay tuy đã được đầu tư khá nhiều nhưng vấn đề giao thông của Thành phố vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại.
a. Cơ sở hạ tầng yếu kém
Tuy là trung tâm của cả nước nhưng giao thông Hà Nội vẫn rất yếu kém, nghèo nàn và lạc hậu.
Bảng 2: So sánh hiện trạng đường phố Hà Nội với các Thành phố lớn trong cả nước.
Tiêu chí
Thành phố
Cả nước
Hà Nội
TPHCM
Đà Nẵng
Diện tích (Km2)
329.241
927
2.095
1.256
Dân số(1000 người)
82.032
2.793
5.037
728,8
Tổng chiều dài đường(Km)
72.926
1.423
1.658
433
Mật độ đường
0,22
1,09
0,79
0,34
Độ dài đường trên 1000 dân (km/ 1000dân)
0.95
0,36
0,33
0,59
Tỷ lệ diện tích đường trên tổng
diện tích
0,62
7%
6%
4,2%
Nguồn: TDSI,Bộ giao thông vận tải.
Theo bảng 2 ta thấy quỹ đất dành cho giao thông của Thành phố còn rất thấp chỉ khoảng 2,5% trong khi ở Thành phố Hồ Chí Minh là 1,5%, trên thế giới là 20-25%. Diện tích đường chỉ có 5,2 km2 trong tổng số 84,3km của 7 quận nội thành; ở ngoại thành chỉ có 770 km đường các loại chiếm khoảng 0,9% trong tổng diện dích đất ngoại thành. Mật độ đường ở Hà Nội chỉ có 1,9km/km2 thấp hơn rất nhiều so với các đô thị khác trong khu vực và trên thế giới (5-6 km/km2). Không những tỉ lệ đường thấp thì việc phân bố rất không đồng đều, Hoàn Kiếm tỉ lệ đường chiếm 12% diện tích, trong khi các quận còn lại chỉ đạt 4-5%.Hầu hết 326 tuyến đường trong thành phố đều ngắn và hẹp ngang, giao cắt nhiều các tuyến đường trong phố cổ chỉ có chiều rộng từ 6-8m, các tuyến đường cũ từ 12-18m khoảng cách giữa các nút giao cắt chỉ 50-100m. Do hẹp ngang, đồng thời nhiều nút giao cắt nên ảnh hưởng tới tốc độ các phương tiện trung bình chỉ đạt 17,7 đến 27,7 km/h.
Thành phố đang có chủ trương phát triển thành phố theo hướng Tây và Tây- Nam do vậy hiện nay khu vực này dân số đang tập trung nhanh, đồng thời các ._.phương tiện cũng tăng nhanh bên cạnh đó thì giao thông tại khu vực này vẫn chưa cải thiện nên thường xuyên xảy ra tắc nghẽn giao thông.
Để có thể đạt chỉ tiêu đất giành cho giao thông 20-25% bằng mức chung của thế giới thì Thành phố cần 15 triệu m2 với tổng số tiền giải phóng mặt bằng 210.000 tỷ đồng(14 tỷ $). Trong khi đó thì quy hoạch tổng thể của thành Phố đến 2020 nhu cầu vốn cho giao thông chỉ có 5 tỷ $ do vậy nếu Thành phố vẫn tiếp tục đầu tư cho giao thông thì càng làm cho luồng dân vào thành phố càng nhiều, giá đất trong thành phố vẫn cao, đất đai tại các khu đô thị mới càng không hấp dẫn, do đó Thành phố cần xây dựng quy hoạch rộng hơn và cần xây dựng quy hoạch hệ thống giao thông vành đai thật tốt. Cần xây dựng và hoàn thiện các hệ thống đường vành đai I, II, III xây mới tuyến vành đai mới, vành đai IV.
b. Tắc nghẽn giao thông ngày càng nghiêm trọng.
Chúng ta có thể thấy bản chất của tắc nghẽn giao thông là do cơ sở hạ tầng không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu đi lại. Đối với Hà Nội thì vấn đề tắc nghẽn vẫn chưa nghiêm trọng bằng một số thủ đô khác trong khu vực như Băngkok, Manila,... Nhưng nó đang diễn ra ngày càng nhiều và với quy mô ngày càng nghiêm trọng, thời gian tắc nghẽn kéo dài, tắc không chỉ còn diễn ra ở quy mô nhỏ mà nó đã diễn ra trên quy mô hệ thống và nó có ảnh hưởng không nhỏ tới kinh tế. Hà Nội hiện nay có đến hàng trăm điểm thường xuyên xảy ra tắc nghẽn, thời gian tắc nghẽn ngắn thì 30-45 phút dài thì có thể vài tiếng và đặc biệt nghiêm trọng là các điểm nút cửa ngõ thành phố như tuyến Ngã Tư Sở; Diễn,...Chúng ta có thể chí ra một số nguyên nhân của hiện tượng tắc nghẽn đó là:
- Sự gia tăng nhanh chóng của các phương tiện giao thông
Tốc độ gia tăng các phương tiện giao thông giai đoạn 2000-2006 là 26,7% đặc biệt là sư gia tăng của xe máy (năm 1985 xe máy chỉ có 7,5% thì đến 2005 đã là 63,2% và năm 2006 là 72,2%).
- Tình trạng lấn chiếm đường giao thông và sự thiếu quỹ đất cho giao thông tĩnh. Hiện nay thành phố vẫn thiếu rất nhiều cac bãi đỗ xe, mới chỉ có 135 điểm đỗ xe nhưng chỉ có một số điểm được đầu tư hiện đại. Tỷ lệ đất giành cho giao thông tĩnh chỉ chiếm 1%, đến nay thì mới chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu. 90% còn lại thì được đặt không đúng chức năng như vỉa hè, lòng đường,...
- Vận tải giao thông chưa hiệu quả`
- Mạng lưới giao thông đô thị hiện có mới chỉ có đường bộ chưa có đường sắt trên cao, tàu điện ngầm,...
- Dòng giao thông hỗn hợp, gồm nhiều loại có tốc độ khác nhau
- Ý thức tham gia giao thông của người dân còn kém.
c. Yếu kém trong công tác xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch
Hiện nay thì quy hoạch hiện tại của Việt nam bao gồm một số lượng lớn các quy hoạch, trong đó có nhiều quy hoạch chồng chéo về địa bàn phạm vi và chuuyên ngành. Viện chiến lược và phát triển giao thông( TDSI), Bộ GTVT xây dựng quy hoạch quốc gia dài hạn và trung hạn, các Cục, Vụ chuyên ngành của Bộ GTVT xây dựng quy hoạch và các chiến lược về các ngành vận tải quốc gia, còn các Sở xây dựng chiến lược và quy hoạch cấp tỉnh. Chúng ta có thể thấy các quy hoạch này hiện nay chưa có được sự gắn kết các quy hoạch cấp tình và cả quy hoạch cấp quôc gia. Giữa các quy hoạch này thiếu sự liên kết thống nhất, và cũng không có cơ quan nào đứng ra nhằm phối hợp trong công tác phối hợp giữa các cấp nhằm tạo ra sự nhất quán. Quy hoạch hiện nay chưa thực sự công khai, chưa có được sự đóng góp của dân. Đồng thời thì hiện nay chưa phân rõ chức năng giữa các cơ quan trong quản lý quy hoạch về chức năng xây dựng hiện nay vẫn tồn tại hai cơ quan đó là Sở quy hoach kiến trúc Thành phố Hà Nội và Sở Xây dựng. Đồng thời nguồn kinh phí chi cho công tác xây dựng quy hoạch và đông thời thì đội ngũ cán bộ thiếu năng lực hoặc được sử dụng không đúng chức năng dẫn tới chất lượng công tac lập kế hoạch và quy hoạch của Thành phố nói chung và kế hoạch quy hoạch về giao thông nói riêng là rất kém, tính khoa học và khả thi chưa cao.Một ví dụ thực tế là Thành Phố có phố Nguyễn Văn Cừ, Cầu Giấy, Chùa Bộc, Phạm Văn Đồng mới chỉ được xây dựng gần đây trên dưới 10 năm nhưng đến nay đã quá tải.
d. Vốn đầu tư cho giao thông vận tải chưa đáp ứng nhu cầu
Hiện nay có thể thấy Thành phố đang phát triển với tốc độ rất nhanh, nó đang đặt ra yêu cầu phải phát triển hệ thống giao thông vận tải sao cho phù hợp với tốc độ phát triển. Tỷ trọng vốn dành cho cơ sở hạ tầng giao thông chỉ chiếm 17% vốn đầu tư cho hạ tầng hiện nay hay 9,96% vốn đầu tư toàn xã hội. Mặt khác tỉ lệ này lại giảm qua các năm.
Bảng3: Vốn đầu tư phát triển giao thông đô thị giai đoạn 2001-2005
Chỉ tiêu
Đơn vị
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội
Tỷ đồng
18.120
22.185
24.957
29.027
34.640
Tốc độ phát triển định gốc
%
0
22,44
37,73
60,19
91,16
Tốc độ phát triển liên hoàn
%
0
22,44
12,49
16,3
19,33
Tổng vốn đầu tư cho giao thông
Tỷ đồng
1.077,4
1.590,7
2.677,8
1.878,2
4.909,2
Tỷ trọng so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội
%
5,94
7,17
10,72
6,47
14,17
Tốc độ phát triển định gốc
%
0
47,63
148,53
74,32
355,63
Tốc độ phát triển liên hoàn
%
0
47,63
68,34
-29,85
161,37
Nguồn: Sở giao thông công chính Hà Nội.
e.Khó khăn trong công tác đền bù và giải phóng mặt bằng
Hiện nay thì công tác đền bù giải phóng mặt bằng cũng như tái định cư cho các hộ dân đang gặp rất nhiều khó khăn. Chủ yếu là chi phí đền bù quá tốn kém Ví dụ: Tháng 12/2005 dự án đường Kim Liên - Ô chợ Dừa (Đường vành đai I) được khởi công giá trị xây lắp 1080m chỉ hết 100 tỷ đồng trong khi chi cho đền bù giải phóng mặt bằng là 600 tỷ. Năm 2002 để có 550m đường đoạn Voi Phục - Cầu Giấy Hà Nội đã phải chi 8 triệu $ ( 113 tỷ đồng ) trong khi xây lắp chỉ mất 13 tỷ đồng.
1.2.1.3 Thị trường tài chính
Một nền kinh tế muốn phát triển thì phải có vốn đầu tư, mà muốn có vốn đầu tư thì cần phải có sự tích luỹ, tiết kiệm. Ngược lại một nền kinh tế phát triển tốt thì lại có thể gia tăng tích luỹ nhằm tái đầu tư. Đó chính là quan hệ nhân quả và là nền tảng cho sự phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng sản xuất kinh doanh và cải thiện đời sống nhân dân.
Tuy nhiên thì cũng tồn tại một thực tế là xã hội tồn tại hai bộ phận đó là bộ phận những người có khoản tiển nhàn rỗi, nhưng họ lại không thấy được các cơ hội đầu tư hoặc không dám mạo hiểm. Đồng thời cũng tồn tại bộ phận thứ hai là những người có các cơ hội đầu tư nhưng vấn đề lớn nhất của họ là không có vốn. Và thế là hình thành thị trường tài chính. Đó là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các tài sản tài chính.
Yếu tố này có quan hệ mật thiết tới chi phí của doanh nghiệp và do đó sẽ có ảnh hưởng thúc đẩy hoạt động đầu tư nếu như tính hoàn thiện cao và hỗ trợ đắc lực cho những nhu cầu về vốn cho các chủ thể, tính chất này đồng nghĩa với việc hạn chế chi phí đầu tư kinh doanh. Trái lại những chi phí đầu tư sản xuất kinh doanh liên quan đến loại hình thể chế thị trường này làm phát sinh tăng những yếu tố chi phí của doanh nghiệp tất sẽ dẫn đến giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Chẳng hạn việc có những khoảng cách về tiếp cận những khoản vay giữa những tác nhân kinh tế khác nhau cũng là một nhân tố góp phần làm giảm động lực đầu tư. Ví dụ như việc các chủ thể thuộc khu vực tư nhân khó tiếp cận với những khoản tài chính thuộc sở hữu nhà nước, khiến họ phải tìm kiếm đến các nguồn khác với chi phí cao hơn và ít bình đẳng hơn sẽ là một biểu hiện của môi trường đầu tư kém hấp dẫn và do đó không giải phóng được hết các nguồn lực trong xã hội, đó cũng là hình ảnh của một môi trường đầu tư không hấp dẫn. Đó là chưa kể tới tác động tiêu cực của một hệ thống tỷ lệ lãi suất cao. Các thị trường tài chính thiếu ổn định, hiệu quả thấp thường đi liền với lãi suất cao khi cho vay, từ đó cũng làm cho chi phí đầu tư cao. Đây là một trong những điểm yếu khá phổ biến đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Khi hoạt động tốt, các thị trường tài chính liên kết các doanh nghiệp với những người cho vay và các nhà đầu tư muốn cấp tiền cho các hoạt động kinh doanh và chia sẻ một số rủi ro của họ. Ngược lại, việc thiếu tài chính và cơ sở hạ tầng tạ ra những rào cản cơ hội và làm tăng các chi phí đối với nhiều doanh nghiệp nhỏ thậm chí ngay cả đối với các công ty lớn hay tập đoàn đa quốc gia. Những thể chế hay những quy tắc và cơ chế cũng như các tổ chức thực hiện việc điều tiết các hoạt động của thị trường tài chính nếu như nó gây ra những chi phí bằng việc ngăn cản việc thâm nhập mới vào các thị trường sẽ làm giảm những khuyến khích nhằm đổi mới và đầu tư. Những can thiệp của chính phủ đối với thị trường tài chính không phải lúc nào cũng thành công. Thị trường tài chính bị bóp méo khi việc thực hiện tín dụng chỉ đạo một cách tràn lan. Từ đó làm tăng chi phí cho các doanh nghiệp khác, họ có thể phải mất chi phí để thực hiện vận động hành lang để có được những khoản tín dụng chỉ định như vậy. Việc làm này đương nhiên hạn chế các cơ hội tiếp cận nguồn tài chính của các doanh nghiệp khác . Mặt khác đối với một thể chế thị trường hoạt động tốt hay phát triển, nó sẽ cung cấp các dịch vụ thanh toán hộ, trong đó Ngân hàng sẽ cấp cho các doanh nghiệp giấy chấp nhận thanh toán đó. Nó là giấy bảo đảm rằng Ngân hàng sẽ thanh toán vô điều kiện khoản tiền mà bên mua còn thiếu vào một ngày xác định. Khi các thị trường tài chính này hoạt động tốt chúng tạo ra cho tất cả các loại hình doanh nghiệp khả năng nắm bắt cơ hội đầu tư tốt hơn. Chúng làm giảm sự lệ thuộc của các doanh nghiệp vào các dòng tiền mặt tự tạo. Trên thực tế hiện nay, các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam có sự khác biệt khá lớn về nguồn tài trợ cho kinh doanh. Việc tiếp cận các nguồn vốn nhất là các ngân hàng chính thức để đầu tư đối với các doanh nghiệp lớn và đối với một số quốc gia chẳng hạn như Việt Nam, thông thường đơn giản so với các doanh nghiệp nhỏ. Nguyên nhân kinh tế thường xuất phát từ chỗ các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ thường có những dự án chưa thực sự hấp dẫn đối với các ngân hàng, do đó việc cân nhắc cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, nhiều khi nguyên nhân tâm lý cà chính trị cũng có thể là cản trở chính . Trong trường hợp như thế khó có thể nói đó là một môi trường đầu tư có độ hấp dẫn cao. Tác động tương tự tới môi trường đầu tư dói với những thể chế quy định về việc linh hoạt trong chu chuyển các nguồn lực tài chính với tư cách là kết quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài còn chưa được tự do hoá cũng là tác nhân gây cản trở cho sự sẵn sàng mở rộng đầu tư của cả khu vực trong nội bộ quốc gia cũng như đói với các chủ đầu là người nước ngoài.
Biểu đồ 3 các nguồn tài trợ cho hoạt động đầu tư đối với các doanh nghiệp nhỏ và lớn tại khu vực các nước đang phát triển
Nguồn: các nghiên cứu về môi trường đầu tư của Ngân hàng thế giới, nghiên cứu về doanh nghiệp vừa và nhỏ - báo cáo phát triển thế giới 2005
Các giao dịch tài chính tại Hà Nội đã phát triển đáng kể trong những năm gần đây mặc dù vấn đề quyền sở hữu vẫn chưa rõ ràng và toà án kinh tế vẫn thụ động. Tại Hà Nội tính đến đầu năm 2006 có 5 ngân hàng thương mại nhà nước đang hoạt động với 41 chi nhánh cấp 1; 28 ngân hàng cổ phần và chi nhành ngân hàng cổ phần; 5 ngân hàng liên doanh; 13 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 12 quỹ tín dụng; 64 văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài; 4 công ty tài chính; 5 công ty cho thuê tài chính. Mặc dù trong vài năm trở lại đây Hà Nội đã có sự gia tăng mạnh về các Ngân hàng nhưng Hà Nội vẫn còn là một thành phố có hệ thống ngân hàng kém phát triển. Hiện nay tồn tại một thực tế là các ngân hàng tại Hà nội bị chi phối bởi các ngân hàng thương mại Nhà nước với 80% hoạt động ngân hàng trên địa bàn là Ngân hàng thương mại nhà nước. Đồng thời thì 39,5% doanh nghiệp được điều tra cho rằng việc tiếp cận vốn trên địa bàn là rất khó. Tuy nhiên thì hoạt động của các ngân hàng lại cao hơn mức trung bình của cả nước, điều này cũng đã có nhiều nghiên cứu chứng minh như nghiên cứu của VŨ và Haughton (2004) cho thấy là mức độ đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp tại Hà Nội là cao hơn mức trung bình của cả nước.
1.2.1.4 Lao động
Trong mọi thời đại việc sản xuất kinh doanh luôn cần đến con người. Tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của sản xuất xã hội mà nhu cầu về trình độ và kỹ năng của người lao động khác nhau. Trong điều kiện hiện nay, lao động không có kỹ năng và trình độ chuyên môn thấp sẽ là nhân tố không hấp dẫn các doanh nghiệp. Với nền kinh tế thị trường mọi yếu tố cần thiết cho sản xuất đều được thực hiện thông qua thị trường, ngay cả sức lao động cũng vậy. Do đó, khi thị trường sức lao động chưa thực sự hoạt động một cách chính thức sẽ buộc các doanh nghiệp phải tự tìm kiếm nguồn đầu vào quan trọng này cho mình. Đương nhiên việc này đòi hỏi các chi phí kèm theo và làm phát sinh tăng những khoản mục chi phí mới. Chi phí cao tăng lên đồng nghĩa với lợi nhuận kỳ vọng thấp. Trong trường hợp đó khó có thể hấp dẫn cao các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài.
Hà Nội là trung tâm, là đầu não của cả nước thế nên Hà Nội đã được đầu tư khá nhiều về vấn đề giáo dục và đào tạo. Trên địa bàn Thành phố tập trung rất nhiều các trường Đại học, Cao Đẳng Và Trung Học Chuyên Nghiệp cung như các trường dạy nghề. Trong đó có các trường Đại học lớn có vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước như Đại học Bách Khoa, Đại học ngoại thương, Đại Học Kinh tế Quốc dân, Đại học GIao Thông Vận tải,....Do đó Hà Nội được đánh giá là địa điểm đầu tư có chất lượng nguồn nhân lực tương đối cao. Các nhà đầu tư hồng Kông, EU, và Trung Quốc đánh giá cao vai trò của lao động và Hà Nội đã đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng lao động. Các nhà đầu tư đến từ Đài Loan thì chỉ đánh giá tầm quan trọng của yếu tố này ở mức trung bình song họ đánh giá cao về chất lượng lao động tại Hà Nội và đó cũng chính là một trong những yếu tố tích cực khiến các nhà đầu tư thích hơn khi đầu tư vào Hà Nội.
Tuy nhiên thì lao động tại Hà Nội vẫn còn một số yếu kém, khiến các nhà đầu tư đánh giá không cao về lao động tại đây. Có thể nói c trình độ chuyên môn cũng như sự cần cù của người lao động tại đây tương đối tốt song một trong những yếu kém của chúng ta khiến không đáp ứng của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như nền công nghiệp đó là tính kỷ luật trong công việc cũng như sự năng động. Do xuất phát điểm của chúng ta là nền nông nghiệp nên bản chất của chúng ta là thích khi nào làm thì làm đó là điều không tốt, cần sửa. Các nhà đầu tư Hoa Kỳ đánh giá rất cao yếu tố kỷ luật trong công việc và do Hoa Kỳ chỉ tuyển nhân viên đã qua đào tạo ở trình độ cao nên họ thấy Hà Nội đáp ứng được yêu cầu này trong khi Singapore, Hàn Quốc và Trung Quốc cho rằng Hà Nội không đáp ứng được yếu tố này, lao động ở đây tính kỷ luật công việc chưa cao.
Nghiên cứu những tác động của thể chế đói với môi trường đầu tư, trường hợp tỉnh Bình Dương.
Trường hợp tỉnh Bình Dương: Trong thời kỳ đổi mới vừa qua Bình Dương được xem như là một ví dụ điển hình về thu hút đầu tư nước ngoài. những thành tựu về thu hút đầu tư nước ngoài là một trong những kết quả quan trọng nhất của hoạt động thúc đẩy đầu tư. Điều này cũng thể hiện mối quan hệ chặt chẽ về thể chế và sự hạn chế các chi phí tác động của thẻ chế có ý nghĩa như thế nào đối với môi trường đầu tư.
Sơ đồ 3: Quan hệ chi phí v à tính hấp dẫn của môi trường đầu tư
Các thể chế
Thuế
Thị trường tài chính
Thị trường lao động
Chi phí
Cao
Thấp
Tính hấp dẫn kém của môi trường đầu tư
Tính hấp dẫn cao của môi trường đầu tư
Để tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong nước cũng như đối với các nhà đầu tư nước ngoài, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã căn cứ trên cơ sở những quy định của Chính phủ để ban hành những quy định rất rõ ràng. Chẳng hạn công bố trên trang web của tỉnh những quy định và thủ tục cần thiết, những hồ sơ cụ thể cần phải có và đặc biệt quy định trách nhiệm của các nhân viên phụ trách vấn đề thẩm định dự án nếu các dự án đó được phép phê duyệt tại tỉnh; bên cạnh đó còn quy định trách nhiệm hỗ trợ của các cơ quan có liên quan đến thủ tục đàu tư, các ưu đãi cụ thể đối với nhà đầu tư…. Những quy định cụ thể này được đăng tải trên website của tỉnh. Hiệu quả thu được trong năm 2005, toàn tỉnh đã thu hút được 613 dự án mới đang ký kinh doanh với số vốn là 2014 tỉ 390 triệu đồng và 237 dự án bổ sung vốn 1406 tỉ 25 triệu đồng. Đến nay toàn tỉnh có 3347 dự án với tổng số vốn đăng ký lên trên 15110 tỉ đồng. Toàn tỉnh thu hút 764 triệu đô la gồm 165 dự án mớ, vốn 431 triệu 443 ngàn đôla và 123 dự án bổ sung vốn 332 triệu 566 ngàn đôla; so với cùng kỳ năm ngoái tổng số vốn đầu tư nước ngoài tăng 27.5% trong đó vốn đầu tư mới tăng 61%. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 1036 dự án đầu tư nước ngoài với số vốn đầu tư là 4 tỉ 470 triệu đôla và 20 khu công nghiệp trong đó đã có hơn 10 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động. Các khu công nghiệp của tỉnh trong năm 2005 thu hút thêm 433 triệu 266 ngàn đô la và 28 tỉ đồng gồm 76 dự án đầu tư mới, 10 dự án đàu tư trong nước với 28 tỉ đồng và 65 dự án đàu tư nước ngoài bổ sung vốn 9137 triệu, 188 ngàn đô la. Tính đến cuối tháng 9 năm 2005 có 655 doanh nghiệp trong khu công nghiệp gồm 483 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và 172 doanh nghiệp trong nước.
1.2.2.Nhóm thể chế liên quan đến yếu tố rủi ro trong hoạt động đầu tư.
Những hình thái thể chế ảnh hưởng đến môi trường đầu tư thông qua sự tác động của chúng đến yếu tố rủi ro kinh doanh rất đa dạng. Mặc dù vậy, nhóm thể chế này chịu tác động rất mạnh mẽ của Chính phủ và Chính quyền địa phương. Những quy tắc do Chính phủ đặt ra, chính sách do địa phương ban hành liên quan đến vấn đề này sẽ có tác động hết sức to lớn đối với tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Thuộc nhóm yếu tố này bao gồm mức độ ổn định của của chính sách, các quyền tài sản và thu hồi tài sản của nhà đầu tư hay doanh nghiệp, các vấn đề về an ninh chính trị.
1.2.2.1 Mức độ ổn định của chính sách.
Một cách tổng quát nhất, khi các nhóm thể chế khu vực nói trên không ổn định hoặc thiếu minh bạch tất sẽ làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư của một nước hay các bộ phận lãnh thổ đặc thù của quốc gia đó, khi mà khả năng tiên liệu và độ tin cậy của chính sách thấp chắc chắn sẽ khó có thể tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn. Cụ thể là: Trước hết, có một sự liên quan chắc chắn giữa sự bất định của chính sách kinh tế và quyết định đầu tư của các doanh nghiệp. Sự bất định luôn đóng một vai trò trung tâm trong các cân nhắc về đầu tư. Bất ổn định kinh tế vĩ mô và bất ổn định về chính sách là những nhân tố cản trở lớn nhất đối với các quyết định đầu tư.
Biểu 3: Sự bất ổn định của chính sách chiếm phần lớn sự quan ngại của doanh nghiệp về môi trường đầu tư
Nguồn: Đánh giá về môi trường đầu tư năm 2005.
Những lo ngại về sự không ổn định của chính sách có thể bắt nguồn từ tính chất mơ hồ của chính sách hoặc thể chế hiện hành. Thậm chí kể cả khi chính sách được thể hiện rõ ràng trên giấy thì không hẳn đã hết quan ngại về chính sách đó được thực như thế nào trên thực tế, hiện nay thì vấn đề tồn tại đó là khoảng cách giữa các chính sách và việc thực hiện chúng còn rất xa. Một môi trường đầu tư hấp dẫn khi và chỉ khi hạn chế tối đa những bất định đối trong chính sách, nền kinh tế đang vận động mạnh mẽ do đó các cơ chế chính sách phải thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế tuy nhiên thì cũng yêu cầu phải hạn chế tối đa việc thay đổi cơ chế chính sách. Kinh tế học vi mô thường vạch ra mối quan hệ giữa việc giảm lãi suất và thúc đẩy đầu tư, tuy nhiên với sự bất định của chính sách cao thì một thông báo giảm lãi suất của nhà quản lý kinh tế chưa hẳn đã là điểm thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư. Các nghiên cứu gần đây trên thế giới cho thấy giảm những bất định về lợi nhuận kỳ vọng trong tương lai có ý nghĩa hấp dẫn các nhà đầu tư cao hơn so với việc giảm lãi suất. Tác động của thể chế hay các chính sách kinh tế đến các quyết định đầu tư thay đổi trên nhiều phương diện. Mặc dù mọi khoản đầu tư đều đòi hỏi những chi phí ngay lập tức song một số có thể xoay chuyển dễ dàng hơn so với một số khác. Đầu tư càng khó xoay chuyển thì doanh nghiệp càng có nguy cơ tổn thương cao trước những thay đổi bất định trong tương lai.
Hiện nay đang trong qua trình hoàn thiện cơ chế chính sách trong điều kiện hội nhập kinh tế đặc biệt là khi Việt Nam chính thức thành thành viên thứ 150 của WTO thì các địa phương ban hành một loạt các chính sách điều chỉnh nhằm thu hút FDI và đảm bảo sự phù hợp của Địa phương với Thế Giới. Tuy nhiên thì hiện nay Hà Nội vẫn còn nhiều yếu kém trong khâu ra các chủ trương, chính sách do đó các chính sách ban hành chất lượng kém, khả năng thực hiện không cao, các văn bản ban hành hướng dẫn thì chồng chéo, gây nhầm lẫn cho các nhà đầu tư cũng như cơ quan cấp giấy chứng nhân đầu tư và các cơ quan khác.
Khả năng đối phó với các rủi ro của các doanh nghiệp cũng khác nhau. Những doanh nghiệp lớn thường có khả năng và cơ hội để đa dạng hoá các rủi ro hơn là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp trong nông nghiệp lại càng chịu tổn thất nhiều hơn so với khu vực khác khi tính chất bất định của chính sách cao và do đó rủi ro đầu tư cao. Những phản ứng thoái lui đầu tư của doanh nghiệp trước sự bất định của thể chế suy cho cùng là do sự tin tưởng của họ vào tương lai kém đi. Thái độ của họ với rủi ro của doanh nghiệp cũng có thể thay đổi, tuỳ theo tính chất doanh nhân của mỗi người và doanh nghiệp mà họ đang sở hữu.
1.2.2.2 Thể chế đảm bảo quyền tài sản
Thuộc hình thái thể chế này bao gồm : hiến pháp, những quy định về chế độ sở hữu; hệ thống luật pháp và các quy định về cấp giấy chứng nhận quyền tài sản…Thể chế đảm bảo các quyền về tài sản có tác động hai mặt đối với việc tạo lập một môi trường đầu tư hấp dẫn. Bảo đảm các quyền về tài sản đòi hỏi những thể chế cơ bản như: chế độ và các quy định về sở hữu tài sản. Việc đảm bảo quyền tài sản nhằm gắn nỗ lực với những thành quả, bảo đảm cho các doanh nghiệp lớn và nhỏ, chính thức và không chính thức, ở nông thôn hay thành thị rằng họ sẽ thu được những thành quả từ công cuộc đầu tư của mình. Khi các quyền về tài sản được bảo vệ bởi một thể chế phù hợp, minh bạch thì mối liên hệ giữa công sức và thành quả càng lớn, do đó càng có nhiều động lực để mở ra các cơ hội đầu tư kinh doanh mới, đầu tư thêm vào các hoạt động đang tiến hành triển khai và đơn giản một điều là để nỗ lực nhiều hơn. Kinh nghiệm ở Trung Quốc cho thấy rằng: sau cuộc cách mạng của Mao Trạch Đông, các hộ nông dân được chia đất, một loại hình tài sản và cũng là tư liệu sản xuất cơ bản đối với hầu hết các nông dân của đất nước này. Tuy nhiên những quyền năng đối với mảnh đất mà họ được hưởng là hết sức thiếu rõ ràng và do đó, họ không được bán quyền sử dụng mảnh đất của mình, cũng không được tự do chuyển thành các mục đích sử dụng khác. Tất cả những điều này đã gây ra rất nhiều cản trở và đình trệ trong sản xuất nghiêm trọng những năm 70 của thế kỷ XX. Việc thừa nhận những quyền năng của hộ nông dân đối với đất đai đã tạo ra những đột phá về chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Trung Quốc, đặc biệt là sự xuất hiện của hệ thống doanh nghiệp hương trấn, mô hình doanh nghiệp thành công nhất trong thế giới thứ ba. Kinh nghiệm của Việt Nam cũng tương tự, từ sau năm 1986 cùng với sự thay đổi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đất đai trong sản xuất nông nghiệp đã được trao đến tận tay người nông dân thì năng suất lao động đã tăng lên đáng kể, nước ta từ một nước thiếu lương thực đã trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới bên cạnh đó khi các quyền được chính thức thừa nhận trong Luật Đất đai thì đã tạo ra hàng ngàn những trang trại mới, mặc dù những cải cách này chưa triệt để nhưng nó đã giải phóng được những nguồn lực đầu tư lớn trong nội bộ nhân dân.
Có thể thấy thêm được mối quan hệ giữa thể chế đảm bảo quyền tài sản với những thành tựu thu hút đầu tư nước ngoài tại Hà Nội trong những năm qua. Có nhiều nguyên nhân làm cho khả năng thu hút đầu tư nước ngoài của Thành phố tăng lên song việc thực hiện đảm bảo quyền sỏ hữu đối với tài sản của các nhà đầu tư nước ngoài là một nhân tố quan trọng.
Việc cấp giấy chứng nhận cho các tài sản có ý nghĩa quan trọng. Khi chúng ta cấp giấy chứng nhận cho các chủ của các tài sản về tài sản mà họ đang nắm giữ thì cũng làm cho chủ của tài sản đó dễ dàng tiếp cận đối với các khoản tài chính và tín dụng khi cần và do đó thúc đẩy đầu tư nhiều hơn có nghĩa là tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn bởi vì khi ngân hàng và các tổ chức tín dụng có được giấy chứng nhận các quyền về tài sản của người đi vay có nghĩa là họ có một sự đảm bảo rằng khi mà người đi vay không có khả năng trả nợ thì họ vẫn thu hồi được nợ dựa trên giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu về tài sản mà họ đang nắm giữ của người đi vay.
Một dạng tài sản ngày càng có vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh đó là các tài sản trí tuệ. Các bằng sáng chế, những phát minh, thương hiệu, bản quyền tác giả … chúng được tạo lập một cách hợp pháp qua hoạt động sáng tạo của cá nhân hay doanh nghiệp. Khi tạo ra các tài sản này đòi hỏi rất nhiều chi phí không chỉ về tiền bạc mà còn cả về thời gian và sức lực, do vậy bất kỳ một sự khai thác trái phép nào đều gián tiếp hay trực tiếp gây tổn thất về thu nhập của doanh nghiệp. Chính vì vậy trong mọi toan tính đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia hay của doanh nghiệp của các nước đang phát triển luôn có sự hiện diện của thể chế đảm bảo việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Trong quan điểm kinh doanh hiện đại một môi trường đầu tư có cơ chế bảo đảm quyền tài sản sở hữu trí tuệ yếu kém là một môi trường đầu tư không hấp dẫn. Chính vì vậy mà WTO có cả một hiệp định quan trọng trong các trụ cột cơ bản của nó là Hiệp định liên quan đến khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Ngay cả trong các văn bản ký kết song phương các quốc gia hay công ty hiện nay cũng dành một nội dung thoả đáng cho vấn đề đảm bảo quyền tài sản sở hữu trí tuệ. Ngày nay không chỉ Hà Nội mà hầu hết các địa phương khác đều muốn thu hút FDI. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ tại Hà Nội vẫn chưa được chú trọng và chưa có các giải pháp cần thiết để ngăn chặn các hành vi tranh chấp các nhà đầu tư nước ngoài cung đang quan ngại về vấn đề này. Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang cho thấy Hà Nội là một trong những địa điểm đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài nhưng họ chưa dám đầu tư vì hiện nay công nghệ của địa phương thì chưa có khả năng đáp ứng, muốn đầu tư buộc các nhà đầu tư nước ngoài phải mang theo công nghệ, nhưng họ không dám mang theo các công nghệ hiện đại của mình vì thấy rằng việc đảm bảo quyển sở hữu trí tuệ ở đây còn kém. Các quyền về tài sản sẽ được đảm bảo hơn và có giá trị hơn khi chi phí và những rủi ro trong việc trao đổi các quyền này thấp. Trong một môi trường hoàn hảo, tất cả các giao dịch đều được thực hiện bằng hợp đồng. Theo đó quyền hạn và trách nhiệm của các bên hoàn toàn tự nguyện và rõ ràng. Hiện nay việc áp dụng thực hiện các hợp đồng là khá tốt trên địa bàn Hà Nội, các nhà đầu tư hợp tác đều đã có hợp đồng do đó hiện nay thì Hà Nội ít xảy ra tình trạng tranh chấp do không có hợp đồng. Một môi trường đầu tư như vậy cũng là rất lý tưởng.
Vấn đề đảm bảo quyền tài sản có liên quan đến việc thu hồi tài sản của doanh nghiệp. Trong một số trường hợp vì mục tiêu xã hội, thể chế kinh tế có thể quy định những việc thu hồi tài sản của doanh nghiệp vì mục tiêu xã hội. Chẳng hạn vì mục tiêu sức khoẻ của cộng đồng hay tính mạng của con người trong các trường hợp khẩn cấp. Tương ứng với những điều kiện đó, việc thu hồi tài sản vô điều kiện và đặc biệt nguy cơ lạm dụng quyên hạn đó cao sẽ không khuyến khích các hoạt động mở rộng đầu tư nước ngoài đồng thời làm cho môi trường đầu tư xấu đi. Các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư thì luôn sợ trong quá trình đầu tư thì tài sản của mình sẽ bị tịch thu. Thành phố Hà Nội thực hiện những vấn đề mang tính nhạy cảm này rất công khai và rõ ràng thế nên đã và đang tạo được lòng tin trong các nhà đầu tư nước ngoài.
1.2.2.3 Ổn định về an ninh chính trị.
Đối với nhà đầu tư thì vấn đề đầu tiên mà họ quan tâm đó là mức độ an toàn khi đầu tư. Trước khi đi đến quyết định đầu tư thì nhà đầu tư luôn luôn phải xem xét xem liệu mình đầu tư vào đây thì đồng vốn bỏ ra có an toàn không. Và một trong những yếu tố hàng đầu được xem xét đó là sự ổn định an ninh và chính trị. Khi mà một khu vực thường xuyên có chiến tranh hay bất ổn về an ninh thì sẽ không thu hút, không hấp dẫn đối với nhà đầu tư đặc bịêt là các nhà đầu tư nước ngoài.
Theo tính toán trong gần 50 năm qua thì chiến tranh sắc tộc hay vấn đề nội chiến tiêu biểu kéo dài 7 năm và làm giảm tốc độ dự kiến 2,2% đến khi kết thúc chiến tranh GDP đạt được thấp hơn 15% mức lẽ ra phải có.Trong ngắn hạn thì chiến tranh cũng làm giảm một phân ba mức thu nhập bình quân đầu ngời của các quốc gia láng giềng. Như vậy chúng ta có thể thấy vai trò của yếu tố ổn định của an ninh và chính trị. Khi xay ra chiến tranh hay bất ổn định về an ninh và chính trị sẽ làm cho các nhà đầu tư mới không dám đầu tư còn các nhà đầu tư cũ thì di chuyển luồng vốn sang các nước khac. Điều này sẽ có tác động tiêu cực, nó làm giảm cung đồng thời lao động thất nghiệp gia tăng và kéo theo một loạt các tác động tiêu cực khác. Tuy nhiên thì chúng ta có thể thấy vấn đề an ninh chính trị thì được đánh giá là một trong những lợi thế của Hà Nội. Hà Nội và cũng như Việt Nam được đánh giá là một trong những điểm đến an toàn nhất trên thế giới.
Hà Nội với vài trò là thủ đô, là trung tâm của cả nước tập trung nhiều cơ quan đầu não do đó vấn đề an ninh trật tự trên địa bàn được thực hiện rất tốt, an ninh chính trị ổn định đây chính là tiền đề cho Hà Nội xây dựng môi trường đầu tư an toàn và ổn định.
2. Thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2001-2006.
Sau năm 1975 đất nước ta được thống nhất, nhân dân hai miền Nam-Bắc bắt tay vào khôi phục đất nước tuy nhiên trong giai đoạn đầu do vẫn còn nhiều bất cập nên nền kinh tế đất nước vẫn còn kém phát triển. Nhận thức rõ vấn đề này nên tại Đại hội Đảng lần thứ VI Đảng ta đã quyết định chuyển đổi nền kinh tế sang n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0080.doc