Một số ý kiến đề suất nhằm nâng cao chất lượng công tác thanh toán bù trừ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hai Bà Trưng

chương I Cơ sở lý luận về thanh toán không dùng tiền mặt I. Sự cần thiết khách quan và vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM). 1. Sự cần thiết khách quan của TTKDTM. Thanh toán trong nền kinh tế diễn ra dưới hai hình thức là thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt. Nền kinh tế càng phát triển thì thanh toán và chu chuyển hàng hoá càng được mở rộng từ đó sẽ tác động tích cực trở lại đối với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Hơn nữa, nó còn là khâu đầu

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số ý kiến đề suất nhằm nâng cao chất lượng công tác thanh toán bù trừ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và cũng là khâu cuối của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, thanh toán là điều kiện quan trọng để đảm bảo sự tuần hoàn bình thường của quá trình chu chuyển vốn trong từng doanh nghiệp, từng đơn vị kinh tế, từng cá nhân cũng như nền kinh tế quốc dân. Do đó, khi nền kinh tế phát triển cao hơn thì hình thức thanh toán bằng tiền mặt đã bộc lộ những nhược điểm của nó. Nền kinh tế phát triển, lưu lượng thanh toán sẽ tăng cả về số lần thanh toán và doanh số mỗi lần thanh toán. Nếu dùng tiền mặt thì không đáp ứng được nhu cầu thanh toán đó, làm cho quá trình luân chuyển vốn chậm. Với sự gia tăng này, nếu ta duy trì hình thức thanh toán bằng tiền mặt sẽ làm cho khối lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên, gây sức ép đối với nền kinh tế, có tác động xấu đến giá cả hàng hoá và làm cho lạm phát gia tăng, đồng tiền mất giá, đời sống nhân dân không ổn định. Thanh toán bằng tiền mặt không những làm cho chi phí xã hội, chi phí lưu thông tăng lên mà còn không đảm bảo được sự an toàn, không đáp ứng được linh hoạt, kịp thời, đầy đủ mọi nhu cầu trong quá trình thanh toán. Hơn nữa, tình trạng sử dụng tiền mặt một cách tuỳ tiện sẽ có sự tác động ngược lại qua trình tăng trưởng kinh tế và sự lành mạnh của trật tự xã hội. Đây là một thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam nói riêng và các nước phát triển nói chung. Vì thế, cần phải có hình thức thanh toán mới khắc phục được những nhược điểm của hình thức thanh toán cũ, đáp ứng theo kịp được với nhu cầu phát triển của nền kinh tế, đố là hình thức “thanh toán không dùng tiền mặt”. Sự ra đời của thanh toán không dùng tiền mặt là một bước tiến quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng và nền kinh tế làm thay đổi bộ mặt nền kinh tế, mang lại sự văn minh hiện đại cho toàn xã hội. Đây là hình thức thanh toán không có sự xuất hiện của tiền mặt, được thực hiện thông qua trung gian thanh toán là Ngân hàng. Do vậy, nó không những mang lại rất nhiều tiện ích cho các chủ thể tham gia mà nó còn tiết kiệm được rất nhiều chi phí cho khách hàng, Ngân hàng và xã hội. Đã tạo điều kiện cho các Ngân hàng mở rộng nguồn vốn huy động từ đó có cơ hội tăng khả năng cho vay, góp phần tăng lợi nhuận cho Ngân hàng. Như vậy, thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt là hai hình thức thanh toán có vị trí, vai trò riêng đối với từng thời kỳ của nền kinh tế. Tuy nhiên thanh toán không dùng tiền mặt là cách thức thanh toán mang lại hiệu quả kinh tế lớn nhất, phù hợp với sự phát triển của lưu thông hàng hoá hiên nay. Chính vì thế mà sự ra đời của nó là một tất yếu khách quan của quá trình phát triển kinh tế. 2. Khái niệm và vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường. 2.1 Khái niệm về thanh toán không dùng tiền mặt. Thanh toán không dùng tiền mặt (thanh toán chuyển khoản) là phương thức chi trả thực hiện bằng cách trích một số tiền từ tài khoản người chi chuyển sang tài khoản người được hưởng. Các tài khoản này đều được mở tại Ngân hàng. Như vặy thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ trung gian của Ngân hàng, Ngân hàng chỉ thực hiện hiện thanh toán khi có lệnh của chủ tài khoản. Chủ tài khoản là các tổ chức kinh tế, các cá nhân mở tài khoản tại Ngân hàng. Thông thường tham gia thanh toán gồm có 4 bên: - Bên mua hàng (nhận dịch vụ cung ứng). - Ngân hàng phục vụ bên mua, tức là Ngân hàng nơi đơn vị mua mở tài khoản giao dịch. Bên bán tức là bên cung ứng hàng hoá hay dịch vụ Ngân hàng phục vụ bên bán tức là Ngân hàng nơi đơn vị bán mở tài khoăn. Trong quan hệ thanh toán không dùng tiền mặt, Ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian cung cấp dịch vụ tài chính cho cả bên mua và bên bán với mức phí dịch vụ thích hợp. 2.2 Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường. Khi thanh toán không dùng tiền mặt ra đời đã khắc phục được những nhược điểm của thanh toán bằng tiền mặt và phát huy được vai trò to lớn đối vơí sản xuất, lưu thông hàng hoá; tiết kiệm chi phí lưu thông; góp phần tăng nguồn vốn cho Ngân hàng và tăng quản lý vĩ mô đối với hoạt động thanh toán trong nền kinh tế. Ngày nay thanh toán không dùng tiền mặt là một phần không thể tách rời các doanh nghiệp, các cá nhân và các đoàn thể. Trong nền kinh tế thị trường, thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện trôi chảy sẽ đem lại hiệu quả thiết thực cho các đối tác tham gia. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt thể hiện: - Tăng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu chuyển hàng hoá tiền tệ góp phần làm giảm lượng tiền mặt trôi nổi trên thị trường, tiết kiệm được chi phí xã hội gắn liền với việc in tiền, huỷ tiền, hư hỏng, bảo quản, kiểm đếm… Khối lượng tiền cần thiết để thanh toán trong lưu thông có mỗi quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu thanh toán không dùng tiền mặt tăng sẽ làm giảm khối lượng tiền mặt cần thiết. Vì vậy khối lượng tiền mặt trong lưu thông giảm xuống, sẽ giảm được chi phí lưu thông, mà chủ yếu là chi phí phát hành, bảo quản, kiểm điếm, cất giữ,… Giảm được chi phí này sẽ tạo đều kiện tốt để điều hoà lưu thông tiền tệ vì quá trình thanh toán này chịu giám sát trực tiếp hoặc gián tiếp của Ngân hàng Nhà nước. Vì vậy mà chúng ta kế hoạch và điều hoà lưu thông tiền tệ. - Thanh toán không dùng tiền mặt phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Bất kỳ một chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá nào đều bắt đầu bằng khâu thanh toán. Do vậy, phải tổ chức thanh toán nhanh gọn, chính xác vừa đảm bảo an toàn về vốn. Đứng ở tầm vĩ mô, khâu thanh toán ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn, đến kết quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Nếu như thanh toán được tiến hành trôi chảy sẽ giúp cho lưu thông hàng hoá thông suốt, các hoạt động của nền kinh tế sẽ tiến hành thuận lợi. - Thanh toán không dùng tiền mặt giúp Ngân hàng và các tổ chức tín dụng tập trung được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư vào nền kinh tế để mở rộng việc cấp tín dụng cho Ngân hàng. Để tiến hành thanh toán qua Ngân hàng, các tổ chức, cá nhân phải mở tài khoản tiền gửi thanh toán thông qua việc gửi một khoản tiền nhất định vào Ngân hàng. Tính chất của tài khoản này là luôn dư có, đó là nguồn vốn huy động tạm thời tồn đọng trên các tài khoản tiền gửi thanh toán nhưng chưa sử dụng đến. Hơn nữa, xuất phát từ khách không liên tục của việc nộp tiền bán hàng hoá, dịch vụ vào tài khoản và việc chi trả từ tài khoản, do không phải lúc nào các lệnh chi trả cùng một lúc với giá trị như nhau. Nên trên tài khoản luôn lưu ký một số chủ nhất định. Đây là nguồn vốn tín dụng khá lớn và có chi phí thấp (vì trả lãi thấp), mà Ngân hàng được phép sử dụng để mở rộng đầu tư và tín dụng cho nền kinh tế. (sau khi duy trì một tỷ lệ nhất định để đảm bảo chi trả cho chủ tài khoản trong mọi trường hợp). - Thanh toán qua Ngân hàng đã và đang trở thành công cụ cạnh tranh có hiệu quả của các Ngân hàng nhằm thu hút khách hàng. Mục đích của khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng không chỉ để hưởng lãi mà còn để mua các dịch vụ Ngân hàng và dịch vụ dần sẽ trở thành mục đích chính của khách hàng. Vì vậy sức mạnh và khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng được đo bằng số lượng và chất lượng các dịch vụ Ngân hàng trong đó có dịch vụ thanh toán. - Vai trò đối với quản lý vĩ mô của Nhà nước, Ngân hàng là tổ chức kinh tế thông qua các chính sách của Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và thanh toán được thực hiện. Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước qua các Ngân hàng chỉ thực sự phát huy đầy đủ tác dụng khi phần lớn khối lượng thanh toán tập trung qua các Ngân hàng. Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước quản lý một cách tổng thể quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. II. Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng ở nước ta hiện nay. Thanh toán không dùng tiền mặt là phương thức thanh toán có nhiều ưu điểm. Nó được áp dụng rộng rãi trên khắp thế giới. ở Việt Nam thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng các thể thức sau: - Thanh toán bằng séc. - Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi - chuyển tiền. - Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu. - Thanh toán bằng thư tín dụng. - Thanh toán bằng thẻ thanh toán. 1. Thanh toán bằng séc. Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu do Ngân hàng Nhà nước qui định, yêu cầu đơn vị thanh toán trích một số tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán của mình để trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên séc hoặc người cầm séc. Séc được chia ra séc ký danh và séc vô danh. Séc ký danh là séc có ghi họ tên, địa chỉ người thụ hưởng trên tờ séc. Séc vô danh là séc không ghi họ tên, người thụ hưởng trên tờ séc. Séc có thể được chuyển nhượng, tức là người thụ hưởng ghi trên séc có thể chuyển nhượng cho người khác được thụ hưởng số tiền ghi trên séc và trong phạm vi thời hạn hiệu lực của tờ séc. Nếu trên séc có cụm từ “không được phép chuyển nhượng” hay cụm từ “không tiếp tục chuyển nhượng” thì séc không được chuyển nhượng cho người thụ hưởng khác. Theo nghị định 159/2003/NĐ - CP của chính phủ ban hành ngày 10/12/2003 thì thời hạn hiệu lực của Séc là 30 ngày theo lịch kể từ ngày ký phát hành séc đến ngày người thụ hưởng séc vào đơn vị thanh toán séc (tổ chức tín dụng, Kho bạc Nhà nước). Nếu ngày nộp trùng vào ngày chủ nhật hay ngày nghỉ lễ, tết thì ngày nộp được chuyển vào ngày tiếp theo sau ngày nghỉ. Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 01/04/2004. Séc do từng hệ thống tổ chức tín dụng và Kho bạc Nhà nước tự in tên cơ sở mẫu séc đã được Ngân hàng nhà nước duyệt để đảm bảo tính thống nhất và an toàn tài sản. Tham gia vào quá trình phát hành và sử dụng séc gồm có: - Người phát hành séc: Là chủ tài khoản tiền gửi thanh toán hoặc người được uỷ quyền ký tên để phát hành séc theo đúng qui định của pháp luật về uỷ quyền. - Người thụ hưởng séc: Là người có quyền sở hữu ghi trên tờ séc. - Người chuyển nhượng séc: Là người chuyển quyền sở hữu số tiền ghi trên séc của mình cho người khác. - Đơn vị thanh toán: Là đơn vị giữ tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ tài khoản, được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động dịch vụ thanh toán (như các Ngân hàng thương mại, Kho bạc nhà nước). - Đơn vị thu hộ: Là đơn vị được phép nhận séc với tư cách làm đại lý cho người thụ hưởng séc để thu hộ tiền. Người phát hành séc không được ký khống chỉ trên các tờ séc (chủ tài khoản ký séc trước, nội dung của tờ séc ghi sau) và chỉ phát hành séc trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi thanh toán mở tại đơn vị thanh toán séc. Trường hợp phát hành quá số dư thì: - Vi phạm lần đầu, phạt tiền theo qui định xử phạt vi phạm hợp đồng và có công văn nhắc nhở để tránh tái phạm. - Vi phạm lần thứ hai, ngoài việc phạt tiền vi phạm lần đầu còn bị đình chỉ quyền phát hành séc trong 6 tháng và thu hồi toàn bộ số séc chưa sử dụng. Sau đó phải có cam kết không tái phạm của chủ tài khoản thì mới được khôi phục quyền phát hành séc. Nếu vẫn tái phạm thì bị cấm phát hành séc vĩnh viễn. ở nước ta hiện nay có các loại séc sau đây được sử dụng rộng rãi: Séc chuyển khoản và séc bảo chi. 1.1. Séc chuyển khoản. Séc chuyển khoản là tờ séc do chủ tài khoản phát hành để trực tiếp giao cho người thụ hưởng, hình thức này áp dụng khi bên mua và bên bán rất tín nhiệm nhau. Séc chuyển khoản không được phép lĩnh tiền mặt. Phạm vi thanh toán: Dùng để thanh toán giữa hai khách hàng có tài khoản trong cùng một Ngân hàng hoặc khác hệ thống nhưng có tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp trên địa bàn địa phương tỉnh, thành phố. Nguyên tắc hạch toán: Ghi “nợ” tài khoản bên trả tiền trước, ghi “có” tài khoản người thụ hưởng sau. Quy trình thanh toán bằng séc chuyển khoản: (Sơ đồ phần phụ luc 1) 1.2. Séc bảo chi. Séc bảo chi khác với séc chuyển khoản là trước khi người mua giao séc cho người bán thì người mua phải đến Ngân hàng phục vụ mình làm thủ tục bảo chi séc bằng cách, yêu cầu Ngân hàng trích tài khoản tiền gửi của rành hoặc là nộp vào Ngân hàng một số tiền để làm thủ tục bảo chi séc. Sau đó Ngân hàng mới giao séc cho người mua để đi mua hàng. Phạm vi thanh toán séc bảo chi: Séc bảo chi được thanh toán trong phạm vi giữa hai đơn vị mua và bán mở tài khoản cùng một Ngân hàng, giữa hai đơn vị mua và bán mở tài khoản ở hai Ngân hàng khác hệ thống nhưng có tham gia thanh toán bù trừ và giao nhận chứng từ trực tiếp và được áp dụng giữa hai đơn vị mua và bán ở khác Ngân hàng nhưng cùng hệ thống. Thời hạn hiệu lực của séc bảo chi là 30 ngày kể từ ngày bảo chi séc. Thủ tục bảo chi séc: khi khách hàng có nhu cầu bảo chi séc, sẽ lập giấy yêu cầu bảo cho séc để gửi tới Ngân hàng kèm theo tờ séc. Ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra các nôi dung trên giấy yêu cầu bảo chi cũng như tờ séc, kiểm tra số dư tài khoản của khách hàng xin bảo chi séc, nếu đủ điều kiện thì làm thủ tục bảo chi séc và đóng dấu bảo chi lên tờ séc. Quy trình thanh toán: thủ tục thanh toán séc bảo chi được tiến hành như đối với thanh toán séc chuyển khoản. 2. Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi - chuyển tiền. 2.1. Uỷ nhiềm chi. Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản được lập theo mẫu in sẵn của Ngân hàng, yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình (nơi mở tài khoản tiền gửi) trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình chuyển vào tài khoản người thụ hưởng để thanh toán tiền mua bán, cung ứng dịch vụ, hàng hoá hoặc nộp thuế, thanh toán nợ,... Uỷ nhiệm chi được áp dụng để thanh toán cho người được hưởng có tài khoản ở cùng ngân hàng, khác hệ thống ngân hàng, khác tỉnh. Sơ đồ quy trình thanh toán: (Phụ lục 2). 2.2. Séc chuyển tiền. Séc chuyển tiền là một hình thức chuyển tiền theo yêu cầu của khách hàng xin trích tài khoản của mình hoặc nộp tiền mặt để chuyển tiền đến ngân hàng khác. Séc chuyển tiền được thanh toán giữa các ngân hàng khác địa phương nhưng cùng hệ thống ngân hàng thương mại. Khách hàng có nhu cầu xin cấp séc chuyển tiền phải lập 3 liên uỷ nhiệm chi kèm theo chứng minh thư của người cầm séc mang đến Ngân hàng thanh toán xin ký gửi khoản tiền trên tờ séc vào tài khoản của Ngân hàng đảm bảo cho thanh toán séc, sau khi kiểm soát đầy đủ các yếu tố, Ngân hàng sẽ cấp uỷ nhiệm chi (chỉ được áp dụng trong cùng hệ thống Ngân hàng). Thời hạn hiệu lực tờ séc chuyển tiền là 30 ngày kể từ ngày phát hành ghi trên tờ séc. Sơ đồ quy trình thanh toán: (Phụ lục 3). 3. Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu. Uỷ nhiệm thu do người thụ hưởng lập theo mẫu in sẵn của Ngân hàng và gửi vào Ngân hàng phục vụ mình để thu tiền hàng đã giao, hoặc dịch vụ đã cung ứng. Uỷ nhiệm thu được áp dụng thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản cùng một chi nhánh Ngân hàng hoặc các chi nhánh Ngân hàng khác cùng hệ thống hoặc khác hệ thống có tham gia thanh toán bù trừ. Muốn thanh toán bằng uỷ nhiệm thu, bên mua và bên bán phải thống nhất ký hợp đồng thảo thuận dùng hình thức thanh toán uỷ nhiệm thu với điều kiện thanh toán ghi rõ trong hợp đồng kinh tế và phải thông báo bằng văn bản cho Ngân hàng phục vụ người mua biết để làm căn cứ thanh toán các uỷ nhiệm thu. Sau khi đã hoàn tất dịch vụ cung ứng, bên thụ hưởng lập uỷ nhiệm thu kèm theo hoá đơn, vận đơn gửi đến Ngân hàng phục vụ mình hoặc gửi trực tiếp tới Ngân hàng phục vụ bên trả tiền để yêu cầu thu hộ. Khi nhận được giấy uỷ nhiệm thu trong vòng một ngày làm việc, Ngân hàng bên trả tiền trích tài khoản của bên trả tiền ngay cho bên thu hưởng để hoàn tất việc thanh toán. Nếu tài khoản bên trả tiền không đủ tiền thì bên trả phải bị phạt trả chậm cho bên thụ hưởng. Thời gian phạt tính từ ngày nhận uỷ nhiệm thu mà tài khoản tiền gửi không đủ tiền thanh toán đến ngày có đủ tiền. Hình thức phạt được tính như sau: Số tiền x số ngày chậm trả x 150% mức lãi suất vay hiện hành. Uỷ nhiệm thu được áp dụng cho hai bên thanh toán mua và bán có sự tín nhiệm với nhau, hình thức thanh toán thích hợp đối với các dịch vụ cung ứng, với khối lượng định kỳ như điện, nước, điện thoại.v.v. Sơ đồ quy trình thanh toán: (Phụ lục 4). 4. Thanh toán bằng thư tín dụng. Thư tín dụng (TTD) là lệnh của Ngân hàng bên mua đối với Ngân hàng bên bán khác địa phương yêu cầu trả tiền theo các chứng từ của người bán đã giao hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo đúng điều kiện của người mua. Bên mua phải lập giấy mở TTD yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình trích tài khoản tiền gửi (hoặc tiền vay Ngân hàng) một số tiền bằng tổng giá trị hàng đặt mua để lưu ký vào một tài khoản riêng. Ngân hàng bên trả tiền phải gửi ngay TTD cho Ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng để báo cáo cho khách hàng biết. Mức tối thiểu của một TTD là 10 triệu đồng, thời hạn hiệu lực thanh toán của mỗi TTD là 3 tháng kể từ ngày Ngân hàng bên mua nhận mở thư tín dụng. Tiền gửi thư tín dụng không được hưởng lãi, mỗi thư tín dụng chỉ được thanh toán một lần cho một người hưởng thụ. Bên bán có trách nhiệm giao hàng cho bên mua sau khi nhận được giấy báo thư tín dụng đã mở. Thư tín dụng được áp dụng thanh toán giữa hai đơn vị mở và sử dụng tài khoản ở hai Ngân hàng khác nhau trong từng hệ thống. Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng trả tiền cho bên thụ hưởng căn cứ vào hoá đơn, vận đơn, các chứng từ giao nhận hàng có chữ ký của người đại diện trả tiền, kèm theo giấy uỷ nhiệm của người đã trả tiền do người thụ hưởng xuất trình, phù hợp với các điều khoản qui định thống nhất giữa hai bên mua, bán được ghi trên thư tín dụng. Sau khi trả tiền Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng phải báo nợ ngay cho Ngân hàng phục vụ người trả tiền để tất toán thư tín dụng. Mọi trường hợp tranh chấp về hàng hoá đã giao và tiền hàng đã trả do hai bên mua bán giải quyết.0 Sơ đồ quy trình thanh toán: (Phụ lục 5). 5. Thanh toán bằng thẻ thanh toán. Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán gắn với kỹ thuật tin học được ứng dụng trong Ngân hàng. Thẻ thanh toán do Ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng hoá dịch vụ, các khoản thanh toán khác và rút tiền mặt tại Ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động. Tại Việt Nam thẻ phát hành dùng trong nước có 3 loại. - Thẻ loại A (Thẻ ghi Nợ): Thẻ thanh toán cho những người có uy tín với Ngân hàng nhất là về tài chính. Người sử dụng thẻ không phải lưu ký tiền vào tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán thẻ, căn cứ để thanh toán là số dư tài khoản tiền gửi của chủ thẻ tại Ngân hàng và hạn mức tối đa của thẻ do Ngân hàng tiền quy định. - Thẻ loại B: để sử dụng thẻ khách hàng phải lưu ký một số tiền nhất định vào tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán thông qua việc trích tài khoản tiền gửi hoặc nộp tiền mặt hoặc vay Ngân hàng, số tiền ký quý chính là hạn mức của thẻ. - Thẻ loại C (Thẻ tín dụng): áp dụng cho những khách hàng được vay vốn của Ngân hàng, khách hàng chỉ được thanh toán hoặc rút tiền trong phạm vị hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng chấp nhận. Hiện nay do trình độ Khoa học kỹ thuật và vốn đầu tư của nước ta còn hạn chế nên chưa trang bị được máy đọc thẻ ở nhiều nơi, vì vậy thẻ thanh toán chưa được sử dụng rộng rãi, chủ yếu là một số địa phương phát triển. Trong tương lai thì thẻ thanh toán sẽ là phương tiện thanh toán được dùng nhiều nhất và tiện lợi nhất. Chương II Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt và hoạt động thanh toán bù trừ tại chi nhánh ngân hàng công thương hai bà trưng I. kHái quát về hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng. 1- Sơ lược về quá trình ra đời và phát triển Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng là đơn vị thành viên trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam, trụ sở đóng tại 285 Trần Khát Chân - Quận Hai Bà Trưng - TP.Hà Nội. Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng được thành lập trên cơ sở chi nhánh Ngân hàng Nhà nước quận Hai Bà Trưng cùng với sự ra đời của Ngân hàng thương mại trong đó có Ngân hàng Công thương Việt Nam. Trước đó hệ thống Ngân hàng Việt Nam được tổ chức theo mô hình một cấp, hoạt động với hai chức năng chính là quản lý nhà nước về tiền tệ và kinh doanh tiền tệ. Ngân hàng Công thương Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 53/HĐBT ban hành ngày 26/03/1988 và Nghị đinh số 402/CT-HĐBT ngày 14/11/1990 của chủ tịch hội đồng Bộ trưởng, nay là Thủ tướng Chính Phủ và NHCT Hai Bà Trưng là một chi nhánh là một chi nhánh của NHCT Việt Nam. Sau những năm thành lập cho đến nay, từ một chi nhánh Ngân hàng Nhà nước cấp quận chuyển thành Ngân hàng thương mại khu vực, chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng đã từng bước thích nghi với cơ chế thị trường và giữ vững vai trò chủ đạo là một đơn vị Ngân hàng thương mại Nhà nước. Đặc biệt từ năm 1993 đến nay, sau khi NHCT Việt Nam thực hiện cơ chế Ngân hàng hai cấp và sáp nhập chi nhánh NHCT khu vực I vào chi nhánh NHCT khuvực II thành chi nhánh NHCT khu vực Hai Bà Trưng, trực thuộc NHCT Việt Nam. Đồng thời với việc đổi mới cơ chế quản lý trong kinh doanh, NHCT HBT được quyền tự chủ trong hoạch toán kinh doanh. Điều này đặt NHCT HBT trước thử thách mới là làm thế nào để hoạt động có hiệu quả theo đúng quy định của pháp luật và yêu cầu của NHCT. Trong điều kiện nền kinh tế mới bắt đầu khởi sắc, đầu tư tín dụng còn hạn chế, nguồn vốn huy động lớn nhưng với cơ cấu chủ yếu là tiết kiệm với lãi suất cao. Trước tình hình đó, Ban lãnh đạo Chi nhánh đã không ngừng nghiên cứu tìm tòi các giải pháp khắc phục. Nhờ có định hướng đúng cùng với tinh thần chủ động sáng tạo, Ngân hàng Công thươngNHCT Hai Bà Trưng đã vượt qua khó khăn ban đầu, vững bước đi lên đạt hiệu quả trong kinh doanh. Hiện nay, Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng đã thưc sự đứng vững, ngày càng phát triển trong hệ thống NH Việt Nam trong nhiều năm liền và được đáng giá là một trong những Chi nhánh hàng đầu của NHCT Việt Nam hiện nay. 2- Cơ cấu tổ chức và hoạt động của NHCT Hai Bà Trưng. Cơ cấu tổ chức của NHCT Hai Bà Trưng bao gồm ban giám đốc và các phòng ban. Ban giam đốc gồm 4 vị: 1 Giám đốc và 3 Phó Giám đốc Các phong ban gồm có: Phòng kinh doanh đối nội: với chức năng cho vay VNĐ và ngoại tệ, thực hiện các dịch vụ cầm cố, bảo lãnh cho các đơn vi kinh té vay vốn nước ngoài. Phòng kinh doanh đối ngoại: Làm nhiệm vụ kinh doanh quốc tế bằng hình thức mở L/C, nhập nhờ thu, lập những bộ chứng từ với các đơn vị xuất khẩu, mua bán kinh doanh thu đổi ngoại tệ. Phòng kế toán: Làm nhiệm vụ kế toán Ngân hàng, hạch toán tiền gửi, hạch toán tiền vay, thanh toán chuyển tiền cho các đơn vị và làm nhiêm vụ hạch toán nội bộ cho ngân hàng. Phòng kho quỹ: Có chức năng chủ yếu là thu chi tiền mặt, đáp ứng yêu cầu tiền mặt cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, đảm bảo an toàn kho quỹ. Phòng nguồn vốn: có nhiệm vụ chủ yếu là nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, chịu trách nhiệm về huy động vốn của ngân hàng. Phòng kiểm soát: Kiểm tra giám sát toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh và hoạt động của toàn chi nhánh theo sự chỉ đạo của Giám đốc Ngân hàng Công thương Viêt Nam. Phòng tổ chức - hành chính: có nhiệm vụ tiếp nhân và tổ chức đào tạo cán bộ, lo hậu cần tài chính cho chi nhánh. Phòng giao dịch: đươc thành lập với mục đích mở rộng hoạt động kinh doanh của chi nhánh trên địa bàn, hoạt động chủ yếu của phòng giao dịch nay là cho vay. Phòng tổng hợp: có nhiêm vụ hoàn thành các báo cáo, tổng hợp các loại báo cáo, theo dõi thực hiên đIều hoà vốn. Cửa hàng kinh doanh vàng bạc: với chức năng mua bán và kinh doanh vàng bạc, cầm cố tài sản. Phòng thanh toán điện toán: có nhiêm vụ cài đặt và vận hành phần mềm, thực hiện chương trình lưu trữ cơ sở dữ liệu, đảm bảo an toàn máy móc, thiết bị thông tin, cung cấp các loại báo cáo, cân đối. Tổ nghiệp vụ bảo hiểm: có chức năng thực hiện các hợp đồng bảo hiểm đối với khách hàng, đồng thời có nhiệm vụ thu phí bảo hiểm. (Sơ đồ tổ chức NHCT Quận Hai Bà Trưng: phụ lục 6) 3- Hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng năm 2003. Năm 2003 đã khép lại, nhưng những hoạt động sôi động và quyết liệt, những lỗ lực vượt bậc và những thành công của chi nhánh đã tạo đà để chi nhánh bước vào năm 2004 vững vàng tự tin. Dưới sự chỉ đạo sát sao của NHCTVN, NHNN thành phố Hà Nội, sự ủng hộ nhiệt tình của các ban ngành hữu quan, cùng với sự lỗ lực với tinh thần trách nhiệm cao của toàn thể CBNV, năm 2003 chi nhánh đã hoàn thành tốt nhiệm vụ: nguồn vốn tăng trưởng ổn định, chất lượng tín dụng được cải thiện và nâng cao, dư nợ tín dụng lành mạnh ngày càng tăng, các dịch vụ Ngân hàng phát triển, thu hút thêm nhiều khách hàng. Đặc biệt là môt trong bốn Chi nhánh trên địa bàn Hà Nội được chọn triển khai thí điểm chương trình hiện đại hoá Ngân hàng, bước đầu thực hiện tuy có nhiều khó khăn vướng mắc nhưng Chi nhánh đã thực hiện chuyển đổi thành công chương trình Hiện đại hoá, các bộ phận vận hành chương trình mới đã đáp ứng yêu cầu công việc để phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. Hoạt động huy động vốn. Huy động vốn là một hoạt động quan trọng của Ngân hàng.Trong những năm gần đây chi nhánh đã luôn chủ động tích cực quan tâm phát triển công tác huy động vốn dưới mọi hình thức, để đảm bảo quy mô nguồn vốn tiếp tục tăng trưởng theo kế hoạch xác định. Năm 2003, công tác huy động vốn gặp rất nhiều khó khăn do biến động về lãi suất, nên ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình huy động vốn của chi nhánh, nhất là sự cạnh tranh hết sức sôi động về lãi suất giữa các NHTM hoạt động trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. Mặc dù lãi suất huy động không cao so với mặt bằng chung của các ngân hàng thương mại khác hệ thống trên địa bàn, đặc biệt là lãi suất huy động USD giảm mạnh, nhưng do chủ động triển khai nhiều biện pháp, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và thường xuyên coi trọng chất lượng dịch vụ kết hợp tốt chính sách khách hàng, nên Tổng nguồn vốn huy động của chi nhánh tăng đều, đảm bảo được cân đối vốn cung cầu và tạo thế chủ động cho hoạt động kinh doanh, ngoài ra còn thường xuyên nộp vốn thừa theo kế hoạch bình quân hơn 1.000 tỷ đồng về NHCT Việt Nam, để điều hoà chung trong toàn hệ thống. Bên cạch đó là công tác huy động vốn tiền gửi dân cư được phát triển với màng lưới các quỹ tiết kiệm hợp lý, thái độ phục vụ văn minh lịch sự. Công tác quản lý tiền gửi dân cư được chi nhánh thực hiện thường xuyên nghiêm túc thông qua công tác kiểm tra với nhiều hình thức qua đó đã khắc phục những sai sót, đảm bảo an toàn tuyệt đối nguồn tiền gửi dân cư và các giấy tờ in quan trọng tạo được truyền thống uy tín cao của chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng. Song song với việc huy động vốn trong dân cư, chi nhánh đã chú trọng đến việc thu hút tiền gửi của doanh nghiệp, thông qua việc khẳng định uy tín của mình bằng chất lượng dịch vụ không ngừng hoàn thiện. Tính đến ngày 31/12/2003: Tổng nguồn vốn huy động đạt 2.094.456 triệu đồng. Tăng so với năm 2002 là 131.780 triệu đồng, tăng 6,29%. Bảng 1: Tình hình huy động vốn tại Chi nhánh năm 2002 - 2003. Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2003/2002 Tăng(+), Giảm(-) 1. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế VNĐ Ngoại tệ (đã quy đổi) 645.759 637.404 8.355 686109 679.995 6.114 + 6,25% + 6,68% - 26,82% 2. Tiền gửi của dân cư VND Ngoại tệ (đã quy đổi) 1.316.919 870.389 446.530 1.408347 1.058.058 350.289 + 6,94% + 21,65% - 21,55% Tổng nguồn vốn huy động 1.962.678 2.094456 + 6,71% (Nguồn số liệu: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2002 – 2003) b. Hoạt động cho vay (sử dụng vốn). Với bối cảnh trong nước gặp nhiều khó khăn, môI trường đầu tư không thuận lợi, số lượng dự án có đủ đIều kiện vay vốn không nhiều. Nhưng Chi nhánh đặt ra quyết tâm đưa dư nợ tăng trưởng một cách lành mạnh vững chắc. Bằng nhiều biện pháp tích cực, sáng tạo, vận dụng kịp thời linh hoạt các chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, của ngành nên kết quả cho vay của chi nhánh đã đạt được kết quả khả quan. Dư nợ cho vay nền kinh tế năm 2003 đạt 1.221.260 triệu đồng, tăng so với năm 2002 là 189.298 triệu (18,34%). Về chất lượng tín dụng, Chi nhánh quan tâm chú ý đến việc nâng cao tiêu chuẩn tín dụng, chọn lọc khách hàng, tuân thủ chặt chẽ quy trình nghiệp vụ Tín dụng, đặc biệt là khâu thẩm định cho vay. Do vậy đã kiềm chế được nợ quá hạn mới phát sinh. Tỷ lệ nợ quá hạn chỉ chiếm 1,01% trong tổng dư nợ cho vay. Thực hiện chỉ đạo của NHCT Việt Nam, công tác xử lý nợ tồn đọng đã triển khai rất tích cực, tất cả các khoản nợ tồn đọng đều được rà soát lại và phân tích những khó khăn thuận lợi để tìm ra biện pháp xử lý phù hợp nhất. Tổng số nợ xử lý trong năm 2003 được 5.184 triệu đồng, trong đó xử lý rủi ro 2.039 triệu đồng, được NHCT VIệt Nam đánh giá, xếp loại khá trong công tác xử lý nợ tồn đọng. Bảng 2: Tình hình cho vay (sử dụng vốn) tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng năm 2002 - 2003. Đơn vị:Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2003/2002 1. Phân theo thành phần kinh tế Kinh tế quốc doanh Kinh tế ngoài quốc doanh 1.031.962 969.206 62.756 1.221.260 1.149.734 71.526 + 18,34% + 11,86% + 11,39% 2. Phân theo kỳ hạn cho vay Cho vay ngắn hạn Cho vay chung, dài hạn 1.031.962 960.432 71.530 1.221.260 1.066.787 154.473 + 18,34% + 11,11% + 21,59% 3. Cho vay theo nội và ngoại tệ - Cho vay bằng VNĐ - Cho vay bằng ngoại tệ (đã quy đổi) 1.031.962 844.136 187.826 1.221.260 813.988 407.262 + 18,34% - 3,57% + 21,68% (Nguồn số liệu: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2002 – 2003). II. thực hiên công tác thanh toán không dùng tiền mặt tạI chi nhánh ngân hàng công thương hai bà trưng. 1. Kết quả công tác thanh toán tại chi nhánh NHCT HBT. Thanh toán không dùng tiền mặt là một trong những nghiệp vụ quan trọng của Ngân hàng. Cho đến nay, thanh toán không dùng tiền mặt đã chứng tỏ nhiều ưu điểm và ngày càng chiếm tỷ lệ cao ở hầu hết các Ngân hàng. Điều này được thể hiện rất rõ thông qua tình hình thực hiện công tác thanh toán tại Chi nhánh NHCT quận Hai Bà Trưng trong 2 năm 2002 và 2003. Bảng 3: Tình hình thực hiện công tác thanh toán tại NHCT HBT. Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Thanh toán bằng TM 2.625.766 25,36% 2.841.540 23,88% Thanh toán không dùng TM 7.726.327 74,64% 9.056.588 76,12% Tổng cộng 10.352.093 100% 11.898.128 100% (Nguồn số liệu: Báo cáo nghiệp vụ thanh toán năm 2002, 2003). Qua bảng 3 ta thấy lượng thanh toán không dùng tiền mặt năm 2003 đã tăng đáng kể so với năm 2002 là 1.330.261 triệu đồng (17.22%) và chiếm 76,12% trong tổng doanh số thanh toán chung. Năm 2002 thanh toán bằng tiền mặt đạt 2.625.766 triệu đồng, chiếm 25,36% và thanh toán không dùng tiền mặt là 7.726.327 triệu đồng, chiếm 74,64% trong tổng doanh số chung. Trong khi đó năm 2003 thanh toán bằng ti._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29286.doc
Tài liệu liên quan