Lời mở đầu
Tổ chức sản xuất trên lãnh thổ là một trong các hình thức tổ chức sản xuất xã hội trong công nghiệp, quá trình đó tạo ra sự thực hiện phân công lao động giữa các vùng lãnh thổ, hình thành nên cơ cấu công nghiệp hợp lý trên mỗi vùng. Ra đời trong trào lưu phát triển hiện đại của công nghiệp, tổ chức sản xuất công nghiệp gắn liền với các tụ điểm công nghiệp dưới nhiều hình thức: Khu công nghiệp, khu chế xuất....
Ngày nay, xu hướng đô thị hoá cùng với quá trình phát triển các khu công
28 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1539 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề xây dựng và quản lý các khu công nghiệp Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp có tính phổ biến ở các quốc gia tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá nó mở ra những vận hội cho đất nước cơ hội đầu tư nước ngoài, tăng trưởng, hội nhập với quốc tế... Việt Nam tuy là một nước đi sau, nhưng trong quá trình CNH- HĐH, Đảng chỉ rõ quan điểm: "Xây dựng nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả"... Khu công nghiệp Việt Nam được tiến hành xây dựng là để góp phần tích cực thực hiện đường lối đúng đắn đó. Sau 9 năm xây dựng và phát triển, tuy đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Song vẫn nổi lên 2 vấn đề rất đáng quan tâm: Xây dựng và quản lý các khu công nghiệp như thế nào cho có hiệu quả cao? Đây là những vấn đề đã và đang là những đề tài mà các nhà khoa học - kinh tế nghiên cứu. Nhận thức ý nghĩa quan trọng cảu 2 vấn đề trên em thực hiện đề án môn học với đề tài: "Một số vấn đề xây dựng và quản lý các khu công nghiệp Việt Nam hiện nay". Nhằm mang lại cho bản thân tri thức và cách nhìn mới về tổ chức sản xuất công nghiệp ở nước ta trong quá trình đất nước tiến hành công cuộc CNH - HĐH.
Đề án gồm 3 phần:
Phần I- Tổng quan về xây dựng và quản lý khu công nghiệp.
Phần II- Thực tiễn xây dựng và quản lý các khu công nghiệp ở nước ta
hiện nay
Phần III- Một số giải pháp khắc phục, tăng cường hiệu quả xây dựng
và quản lý các khu chế xuất Việt Nam.
Mặc dù đã nỗ lực cố gắng, nhưng do điều kiện có hạn về mặt kiến thức và thời gian nên đề án không tránh khỏi sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý bổ sung của Thầy để đề án của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 16 tháng 05 năm 2000.
Sinh viên
Đoàn Anh Tùng.
Phần I
Tổng quan về xây dựng và quản lý khu công nghiệp
I- Những vấn đề chung về khu công nghiệp:
1. Quan niệm về khu công nghiệp: (KCN)
Từ khi xuất hiện khu công nghiệp đầu tiên trên thế giới với đầy đủ các thành phần của nó được thành lập năm 1896 ở Trafford Park, Machester đã làm xuất hiện một thuật ngữ, mà hiện nay nhiều quốc gia quan tâm, đó là khu công nghiệp. Với sự đa dạng và nhiều đặc điểm mà quan niệm về khu công nghiệp, theo đó cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Theo điều 2- Chương I- Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao (ban hành kèm theo Nghị định 36-CP ngày 24/04/1997 của CP) thì "khu công nghiệp" là: "Khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ trướng CP quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất".
Cũng có thể hiểu: " khu công nghiệp là một khu vực tập trung công nghiệp trên một lãnh thổ nhất định. Một khu công nghiệp có thể gồm một cụm công nghiệp hoặc nhiều cụm công nghiệp. Các cơ sở công nghiệp thuộc cụm có thể là đơn vị cùng ngành hoặc khác ngành nhưng có mối liên hệ sản xuất với nhau hoặc sử dụng chung kết cấu hạ tầng"
Theo qui định tại Nghị định 36/CP ở nước ta thì khu công nghiệp chưa được thừa nhận là một thực thể kinh tế, nó mới chỉ là "túi đựng" các doanh nghiệp công nghiệp. Theo luật khu công nghiệp của các nước trong khu vực thì mỗi khu công nghiệp, là một thực thể kinh tế và theo đó mỗi nước có cơ quan quản lý có đủ thẩm quyền quản lý khu công nghiệp (Trung Quốc, Indônesia có tiếng cơ quan quản lý riêng cho từng khu: Thái Lan, Philipines có một cơ quan Trung ương quản lý thống nhất các khu công nghiệp...) cơ quan này thực hiện chức năng quản lý và kinh doanh.
2. Phân loại khu công nghiệp:
Từ các khái niệm đưa ra ở trên ta có thể thấy: khu công nghiệp thể hiện những đặc trưng chung nhất của tổ chức sản xuất công nghiệp trên lãnh thổ. Khu công nghiệp là khái niệm phổ biến nhất ở nhiều nước. Trên thế giới cũng như trong khu vực cũng đã có nhiều cách phân loại khu công nghiệp và theo đó mà KCN cũng được phân loại rất đặc trưng, có thể đưa ra một số hình thức khu công nghiệp phổ biến như sau:
Thứ nhất, cụm công nghiệp: Được phân bố trên phạm vi lãnh thổ không lớn. Các cơ sở công nghiệp thuộc cụm có thể là đơn vị cùng ngành hoặc khác ngành nhưng có mối liên hệ sản xuất với nhau hoặc sử dụng chung kết cấu hạ tầng.
Thứ hai, khu công nghiệp tập trung: Là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên môn hoá, sản xuất một số mặt hàng công nghiệp đặc thù, thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống.
Thứ ba, khu công nghiệp kỹ thuật cao: Tập trung những doanh nghiệp công nghiệp thuộc những ngành sản xuất sản phẩm có hàm lượng khoa học- công nghệ cao và những cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ, nhờ đó quan hệ giữa nghiên cứu và ứng dụng triển khai được tổ chức có hiệu quả. Loại hình khu công nghiệp này cũng được coi là hạt nhân của việc phát triển khoa học - công nghệ của đất nước. Loại hình này còn có một tên gọi khác đó là "khu công nghệ cao", tên gọi này đã được qui định rõ ràng trong mục 3 - Điều 2 - Quy chế về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao (Nghị định 36/CP-24/04/1997).
Một loại hình sản xuất công nghiệp nữa cũng có thể coi nó như là một hình thức của khu công nghiệp. Mặc dầu mục tiêu và đặc thù của nó có đôi chút khác biệt trên mặt lý thuyết:
Đó là khu chế xuất: "Là khu công nghiệp tập trung cho doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập".
Khảo sát qua một số loại hình khu công nghiệp, cho ta thấy việc xây dựng, lựa chọn khu công nghiệp như thế nào cho hợp lý, hiệu quả vẫn luôn là bài toán gặp nhiều khó khăn và phải mang đậm tính khoa học.
Thậy vậy, nếu xét về qui mô: Do có điều kiện thuận lợi về tài nguyên, lao động, vị trí địa lý nên có những khu công nghiệp phát triển gắn với những thành phố hàng triệu dân hoặc hàng chục vạn dân. Bên cạnh đó có khu công nghiệp chỉ bao gồm một số doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ gắn với thị trấn, thị xã vài vạn dân.
Nếu xét vị trí địa lý: Khu công nghiệp được phân bố trong một tỉnh, một vùng trên lãnh thổ liên tỉnh, liên vùng.
Nếu xét về trình độ phát triển: Khu công nghiệp đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh, có khu công nghiệp đang xây dựng, có khu công nghiệp cần đầu tư xây dựng bổ sung. Trong tiến trình phát triển của sản xuất công nghiệp, việc phân loại khu công nghiệp theo cách này chỉ mang ý nghĩa tương đối.
Dựa vào các quan niệm về khu công nghiệp và các loại hình tồn tại của nó, ta có thể thâu tóm thành một số đặc trưng cơ bản sau:Thứ nhất, khu công nghiệp là một khu vực tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp trong nước và xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
Thứ hai, được xây dựng trên một vùng lãnh thổ và có ranh giới địa lý xác định.
Thứ ba, đặc biệt là không có dân cư sinh sống.
Do Chính phủ quyết định thành lập và tạo quan hệ quản lý.
3. Vai trò của khu công nghiệp.
Sự hình thành của các khu công nghiệp có tác động rất to lớn đến quá trình thực hiện, phân công lao động giữa các vùng lãnh thổ của đất nước, tổ chức mối liên hệ sản xuất nội vùng và liên vùng để hình thành cơ cấu công nghiệp hợp lý trên mỗi vùng, nó là luận chứng cho việc lựa chọn địa điểm phân bố các doanh nghiệp công nghiệp. Trong xu hướng phát triển hiện đại của công nghiệp, quá trình tăng cường, tích tụ, tập trung sản xuất theo vùng lãnh thổ là động lực để ra đời các tụ điểm công nghiệp, đảm bảo khai thác có hiệu quả các nguồn lực (nhân công, tài nguyên thiên nhiên, tiến bộ khoa học công nghệ...) về lợi thế của mỗi vùng lãnh thổ, khu công nghiệp sẽ tạo ra các "cực tăng trưởng" mạnh mẽ cho đất nước. Khu công nghiệp cũng bảo đảm sự phát triển đồng điệu các vùng lãnh thổ trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của tổng thể công nghiệp, giải quyết công ăn việc làm và nâng cao đời sống dân cư.
II- Những yếu tố thúc đẩy hình thành và phát triển khu công nghiệp.
1. Tài nguyên thiên nhiên:
Tài nguyên thiên nhiên và sản xuất công nghiệp có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Sản xuất công nghiệp là một quá trình liên tục tác động vào tài nguyên thiên nhiên để tạo ra của cải cho xã hội. Tài nguyên thiên nhiên chỉ thực hiện sự có ích và trở thành của cair xã hội khi được con người khai thác, chế biến, sử dụng vào mục đích xác định. Tài nguyên phong phú và phân bố nhiều nơi sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức sản xuất công nghiệp trên các vùng lãnh thổ của cả nước, nhờ đó mà tập trung được các doanh nghiệp công nghiệp, các cơ sở khai thác, chế biến và là động lực hình thành nên các khu công nghiệp.
2. Tiến bộ khoa học và công nghệ.
Tiến bộ khoa học và công nghệ có ảnh hưởng rất lớn đến phân bổ sản xuất công nghiệp tạo tiền đề vật chất - kỹ thuật cho tổ chức, hình thành nên những loại hình khu công nghiệp. Tiến bộ khoa học - kỹ thuật cho phép sử dụng đầy đủ tiết kiệm hợp lý nhất các nguồn tài nguyên của đất nước.
Nó cho phép phát triển mạng lưới giao thông vận tải, nhờ vậy các cơ sở sản xuất công nghiệp sẽ giảm dần sự phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, việc khoa học - công nghệ một quốc gia phát triển sẽ tạo ra những doanh nghiệp công nghiệp sản xuất với kỹ thuật cao, tạo điều kiện tích tụ, hội nhập chúng theo vùng lãnh thổ và dần dần hình thành nên các "điểm nhảy vọt" hình thành nên khu công nghiệp.
3. Mối quan hệ giữa các ngành chuyên môn hoá.
Giữa các ngành công nghiệp chuyên môn hoá có mối liên hệ sản xuất chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Điều này ảnh hưởng lớn đến cơ cấu công nghiệp trên lãnh thổ quốc gia. Mối quan hệ này có tác động đến các doanh nghiệp công nghiệp và các khu vực phát triển khu công nghiệp rất nhiều. Tạo ra quá trình tích tụ, tập trung sản xuất trên lãnh thổ.
4. Sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng.
Có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển sản xuất công nghiệp nói chung. Đó là điều kiện không thể thiếu để bảo đảm sự phát triển bền vững và có hiệu quả công nghiệp, khai thác tiềm năng của mỗi vùng. Việc kết cấu hạ tầng phát triển sẽ là tiền đề to lớn cho việc xây dựng thành công các khu công nghiệp, tạo điều kiện cho các khu công nghiệp được hình thành nhanh chóng hơn.
5. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược phát triển công nghiệp:
Mỗi quốc gia đều phấn đấu hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược phát triển công nghiệp cho riêng mình. Do đó yếu tố này xét về mặc chất nó bao hàm sâu sắc những quyết định to lớn đến việc hình thành nên cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghiệp. Nhận thức được sự phát triển ồ ạt của nền công nghiệp thế giới và xem xét nền công nghiệp quốc gia, mà dẫn tới các phương thức phát triển công nghiệp, nó luôn là điểm xuất phát nên những hình thức phát triển công nghiệp quốc gia như: khu công nghiệp, khu chế xuất...
III- Những vấn đề cơ bản về xây dựng khu công nghiệp.
1. Quy hoạch lãnh thổ.
Là việc xác định cơ cấu ngành và các lĩnh vực hoạt động trên địa bàn xây dựng khu công nghiệp thực hiện phân bổ và tổ chức kết hợp các bộ phận hợp thành. Qui hoạch để xây dựng khu công nghiệp phải xác định rõ phương hướng và nhiệm vụ.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng, tổ chức khu dân cư, điều phối lao động phù hợp với hình thức sản xuất công nghiệp và đời sống trên địa bàn định qui hoạch.
- Xây dựng phương án chọn địa điểm bố trí các doanh nghiệp công nghiệp.
Ta biết rằng, khu công nghiệp có một đặc trưng là tập trung công nghiệp trên một lãnh thổ nhất định. Vì vậy để việc xây dựng khu công nghiệp được hoàn thành tốt đẹp cần phải thực hiện qui hoạch lãnh thổ, muốn xác lập được phương án qui hoạch lãnh thổ đúng, làm cơ sở lựa chọn phương án tối ưu, khi xây dựng khu công nghiệp cần phải dựa vào các nguyên tắc tổ chức sản xuất công nghiệp trên lãnh thổ. Đó là:
1.1. Tổ chức sản xuất các ngành công nghiệp theo hướng kết hợp phát triển chuyên môn hoá với phát triển tổng hợp nền kinh tế của vùng lãnh thổ.
Mỗi vùng lãnh thổ thường có những đặc thù riêng về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã hội. Trên cơ sở những ưu thế riêng về những mặt hàng này, cần thiết phải xây dựng và phát triển một số ngành công nghiệp chuyên môn hoá theo mỗi vùng mà ta định qui hoạch để xây dựng KCN. Ngành công nghiệp chuyên môn hoá của lãnh thổ chỉ có thể phát triển có hiệu quả khi có sự phân bố nhiều ngành công nghiệp và các ngành kinh tế khác xung quanh địa bàn hoạt động của khu công nghiệp. Nói cách khác, nền kinh tế của vùng lãnh thổ khi ta chọn qui hoạch phải phát triển tổng hợp.
1.2. Qui hoạch khu công nghiệp phải bảo đảm kết hợp giữa sử dụng tài nguyên với bảo vệ môi trường tự nhiên.
ở nước ta, công nghiệp tuy chưa phát triển, nhưng không thể coi vấn đề bảo vệ môi trường là thứ yếu, là không quan trọng. Thực tế, môi trường tự nhiên ở Việt Nam đã bị ô nhiễm và bị phá huỷ ở những mức độ nhất định. Thực trạng này đang là vấn đề cần nhiều giải pháp để khắc phục, do đó khi qui hoạch lãnh thổ để xây dựng KCN cần phải tuân thủ nguyên tắc đã đề ra.
1.3. Việc qui hoạch khu công nghiệp trên lãnh thổ cần kết hợp chặt chẽ việc phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng an ninh.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước, Đảng ta khẳng định: "Phát triển kinh tế xã hội đi đôi với tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng an ninh trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII trang 17,42,43 - NXB sự thật Hà Nội- 1991
. Thực hiện nguyên tắc này trước hết cần phát triển mạnh công nghiệp để đáp ứng mọi nhu cầu về sản phẩm công nghiệp cho quốc phòng. Thứ đến cần lập kế hoạch xây dựng và phát triển công nghiệp thích ứng với từng thời kỳ, tránh tình trạng rối loạn có thể xảy ra, hạn chế mức thiệt hại thấp nhất.
2. Chọn địa điểm xây dựng khu công nghiệp.
Một trong những nội dung quan trọng của việc xây dựng KCN trên lãnh thổ là xác định địa điểm bố trí doanh nghiệp công nghiệp trong KCN.
Quá trình này được thể hiện thông qua hai nội dung chủ yếu sau:
Một là, phân tích những đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của từng ngành công nghiệp chuyên môn hoá và của mỗi doanh nghiệp thuộc ngành có ảnh hưởng đến việc chọn địa điểm.
Hai là, phân tích mức độ tác động của các căn cứ kinh tế đến việc lựa chọn địa điểm cụ thể xây dựng KCN.
2.1. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của từng ngành công nghiệp chuyên môn hoá và mỗi doanh nghiệp thuộc ngành có ảnh hưởng đến việc lựa chọn địa điểm bố trí các DNCN phù hợp để xây dựng KCN.
Đi sâu phân tích nội dung thứ nhất này là một việc rất cần thiết, đó là việc phân tích các yêu cầu đảm bảo và sử dụng nguyên liệu, đặc điểm về kỹ thuật công nghệ sản xuất sản phẩm, đặc điểm tiêu dùng sản phẩm, những yêu cầu này phải thực sự có ý nghĩa cho mục tiêu xây dựng khu công nghiệp, cần được vận dụng tổng hợp vào công tác lựa chọn phương án địa điểm. Chẳng hạn, sản xuất sản phẩm của ngành điện đòi hỏi khối lượng nhiên liệu lớn hoặc dựa vào ngân thuỷ năng không di chuyển được, do vậy cần lựa chọn xây dựng các cơ sở thuộc ngành điện ở gần nguồn năng lượng...
Nhìn chung có thể sử dụng bố trí địa điểm cho các doanh nghiệp công nghiệp trong khu công nghiệp như sau:
+ Loại doanh nghiệp chế biến nguyên liệu khối lượng lớn cồng kềnh dễ hỏng, chở đi xa khó khăn.. thì nên xây dựng địa bàn KCN ở gần vùng nguyên liệu.
+ Với những doanh nghiệp công nghiệp kinh doanh sản phẩm khó bảo đảm, khó chở đi xa nên bố trí ở gần nơi tiêu thụ.
+ Với những doanh nghiệp công nghiệp sử dụng nguyên liệu sẵn có thì có thể chọn địa điểm xây dựng KCN ở nhiều nơi.
Tóm lại, việc phân tích đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của từng ngành công nghiệp chuyên môn hoá và của các doanh nghiệp công nghiệp sẽ là luận chứng thiết thực để lựa chọn địa điểm phù hợp cho các KCN.
2.2. Phân tích các căn cứ kinh tế để chọn địa điểm xây dựng KCN.
Ta biết rằng chọn địa điểm xây dựng KCN, thực chất là công tác lựa chọn địa điểm bố trí cácdn công nghiệp theo hướng tập trung. Do đó xây dựng phương án chọn địa điểm, không thể bỏ qua phân tích căn cứ kinh tế. Đó là việc sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế. Khi xét chọn phương án địa didểm, cần gắn chặt với mục tiêu đặc thù của KCN, cần chú ý điểm khác biệt so với lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh. Thực tế xây dựng và phát triển khu công nghiệp ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới cho thấy: Khi chọn địa điểm KCN, nhưng lại không tính hoặc tính chưa đầy đủ những yêu cầu về kết cấu hạ tầng, về khả năng giải toả mặt bằng, về cung cấp dịch vụ phục vụ KCN, phân tích chưa đầy đủ đến nguồn tài nguyên, mật độ dân cư, các phương án vận chuyển... thì sẽ gây không ít trở ngại đến công tác xây dựng KCN, những chỉ tiêu hiệu quả kinh tế là những biến số phải được tính toán phù hợp với bài toán lựa chọn điạ điểm để xây dựng KCN.
3. Phương pháp luận tổ chức xây dựng KCN và kêu gọi đầu tư.
Hình thành và phát triển KCN trên lãnh thổ của đất nước là một tất yếu. Trong điều kiện sự vận động của nền sản xuất xã hội và tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ ngày càng cao đòi hỏi phải có những phương án xây dựng KCN sao cho đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất, thích ứng với từng giai đoạn cụ thể của đất nước. Hình mẫu KCN như vậy phải được thể hiện trên những nội dung sau:
* Tổ chức được mối liên hệ sản xuất hợp lý chặt chẽ giữa sản xuất kinh doanh với kết cấu hạ tầng, giữa sản xuất công nghiệp với bảo vệ môi trường tự nhiên, với đời sống bên trong KCN. Muốn làm được như thế thì trong quá trình xây dựng, lập phương án tối ưu để xây dựng cần hoàn thành tốt khâu giải toả mặt bằng, phát triển kết cấu hạ tầng, lựa chọn địa điểm, lựa chọn doanh nghiệp công nghiệp hay nói đúng hơn là làm tốt công tác qui hoạch lãnh thổ.
Xuất phát từ những mục tiêu cơ bản về tổ chức KCN, từ những bài học thành công, thất bại của nhiều nước trên thế giới cũng như thực tiễn nước ta, có thể rút ra phương pháp luận về tổ chức xe KCN như sau:
Thứ nhất, phải xây dựng phương án KCN trên từng lãnh thổ.
+ Phân tích mối liên hệ tất yếu giữa các bộ phận cấu thành trong KCN (cơ sở công nghiệp nồng cốt, bổ sung. Các ngành khác...) từ đó xác định các doanh nghiệp cần có.
+ Lựa chọn doanh nghiệp bố trí vào khu công nghiệp.
+ Xác lập các biện pháp cụ thể về kinh tế, kỹ thuật công nghệ, tổ chức để thực hiện phương án hình thành khu công nghiệp.
Thứ hai, xác định thời gian và địa điểm xây dựng KCN. Đây là những nội dung quan trọng. Vì xác định thời gian và địa điểm xây dựng hợp lý sẽ tiết kiệm chi phí triển khai, tạo tâm lý đầu tư thuận lợi.
Thứ ba, giải toả mặt bằng, phải xây dựng được kết cấu hạ tầng đầy đủ: hệ thống điện nước, hệ thống giao thông, bến cảnh, sân bay.
Thứ tư, khuyếch trương cho việc xây dựng KCN, nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, lựa chọn đối tác đầu tư vào KCN.
Thứ năm, cần có sự liên kết phối hợp đa mục tiêu trong xây dựng KCN, sử dụng tốt cơ sở sản xuất hiện có... Để làm tốt công tác xây dựng KCN cần có sự phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành, tuyên truyền sâu rộng để tạo điều kiện thuận lợi từ phía nhân dân.
* Thu hút đầu tư vào KCN: Đây là vấn đề sống còn sau này cho các KCN, đảm bảo một "xuất phát điểm" tốt đẹp cho xây dựng KCN. Vì thế Chính phủ các nước chủ nhà nhất thiết phải có chính sách kích thích để thu hút đầu tư. Có thể nói: nếu có khuyến khích tài chính hào phóng sẵn sàng phục vụ, quản lý đơn giản không phiền hà thì các KCN đã có được nhân tố của sự thành công. Đối tượng nhà đầu tư vào KCN rất đa dạng, gồm 3 nhóm:
Nhóm phải qui hoạch di dời nhà máy vào KCN; nhóm đầu tư mới của nhà đầu tư trong nước; nhóm đầu tư mới của nhà đầu tư nước ngoài. Để thực hiện thu hút đầu tư cần:
- Xây dựng kết cấu hạ tầng đẩy đủ: hệ thống điện, nước, nhà ở công nhân, phòng làm việc ban quản lý hệ thống giao thông, bến cảng, sân bay....
- Xây dựng được hệ thống dịch vụ và thuận lợi như bưu điện, y tế, khách sạn, ra vào KCN dễ dàng, không gây phiền hà cho nhà đầu tư, bảo đảm tốt an ninh trật tự.
- Tổ chức tốt công tác tiếp thị, khuyếch trương KCN, kêu gọi đầu tư. Cần có chắc một chương trình tỉ mỉ và phối hợp chặt chẽ. Giảm đi một phần chi phí trong đầu tư. Qua thông tin đại chúng...
- Đưa ra nhiều biện pháp ưu đãi đặc thù, có cơ chế chính sách tài chính thích hợp để hấp dẫn đầu tư.
- Tạo môi trường chính trị - xã hội ổn định và nới rộng hành lang pháp lý thích hợp cho thu hút đầu tư.
Việc thu hút đầu tư cần quan tâm tới 3 mặt: lợi ích quốc gia, lợi ích nhà đầu tư và lợi ích của công nhân viên khi tổ chức KCN.
IV- Một số vấn đề cơ bản trong quản lý KCN.
Khu công nghiệp là một khái niệm hết sức quen thuộc và phổ biến ở các quốc gia trên thế giới. Do đó mà mỗi nước có một phương thức, lý luận về quản lý KCN cho riêng mình, trong phạm vi đề tài này em không thể một lúc đưa ra và diễn giải hết được những vấn đề lý luận quản lý chung trong tầm quốc tế mà muốn trình bày nó ở góc độ quan điểm của nước ta, để có thể tiếp cận gần hơn voí những vấn đề xây dựng và quản lý các KCN Việt Nam hiện nay.
1. Nội dung quản lý KCN:
Theo điều 21. Qui chế về quản lý KCN, KCX,.... ban hành kèm với Nghị định 36/CP-1997 ở nước ta có thể khái quát nội dung quản lý như sau:
Một là, xây dựng chiến lược, qui hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển KCN.
Hai là, ban hành các văn bản qui phạm pháp luật về hoạt động KCN.
Ba là, qui định và hướng dẫn việc thi hành xây dựng phát triển và quản lý hoạt động của KCN.
Bốn là, cấp điều chỉnh và thu hồi các loại giấy phép và thực hiện các thủ tục hành chính Nhà nước liên quan.
Năm là, tổ chức bộ máy, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
Sáu là, kiểm tra, thanh tra giám sát các hoạt động của KCN và giải quyết các vấn đề phát sinh.
2. Tổ chức bộ máy quản lý.
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với khu công nghiệp và Ban quản lý KCN cấp địa phương trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo qui định hiện hành và uỷ quyền cho Ban quản lý KCN cấp tỉnh thực hiện một số nhiệm vụ đối với KCN. Như vậy bộ máy quản lý KCN cụ thể là: Đứng đầu là Chính phủ.
+ Bộ máy kế hoạch và đầu tư
+ Bộ Công nghiệp
+ Bộ xây dựng
+ Bộ Khoa học - công nghệ và môi trường
+ Bộ thương mại
+ Ban tổ chức cán bộ - Chính phủ.
+ Ban quản lý các KCN Trung ương.
+ UBND cấp tỉnh
+ Ban quản lý KCN cấp tỉnh.
(Có đại diện quản lý tại các KCN).
3. Các quan hệ quản lý.
Trước hết Bộ kế hoạch đầu tư đóng vai trò chủ trì, phối hợp với Bộ công nghiệp, Bộ Xây dựng, Ban quản lý và KCN xây dựng qui hoạch tổng thể phát triển KCN trong phạm vi cả nước phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ để Chính phủ phê duyệt. Thực hiện công tác chỉ đạo, cấp giấy phép, thanh tra, vạch kế hoạch định kỳ, hàng năm về các vấn đề đầu tư, dự án KCN với các cơ quan còn lại trong Bộ máy quản lý. Bộ công nghiệp chủ trì cùng với ban quản lý các KCN hướng dẫn việc xác định danh mục ngành nghề cho phép đầu tư và thực hiện các chức năng khác của mình liên quan KCN... Ngoài các chức năng cơ bản mà qui chế đã đề ra thì các cơ quan quản lý trong bộ máy quản lý phải thường xuyên liên kết phối hợp chặt chẽ với nhau.
Mỗi cơ quan trong bộ máy quản lý KCN đều có những chức năng nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể đối với mọi vấn dề xoay quanh khu công nghiệp. Trong tổng thể hệ thống quản lý đó thì các đơn vị quản lý này phải thường xuyên làm việc với nhau để tạo ra mối quan hệ quản lý chặt chẽ. Cơ quan cấp trên ra những quyết định quản lý cho cơ quan cấp dưới thực hiện những chức năng quản lý Nhà nước đối với KCN.
Phần II
Những vấn đề thực tiễn của xây dựng và
quản lý các khu công nghiệp ở nước ta.
I- Thực trạng xây dựng và quản lý các khu công nghiệp ở nước ta hiện nay.
Sau 9 năm thành lập và phát triển (1991-1999) đến đầu năm 2000 Việt Nam đã có 66 khu công nghiệp tập trung (63 khu công nghiệp, 3 khu chế xuất, chưa kể khu công nghiệp Dung Quất). Các khu công nghiệp được phân bổ ở cả 3 miền, nhiều nhất là Nam Bộ 40 khu công nghiệp, còn miền Bắc chỉ có 13 khu công nghiệp và miền Trung có 13 khu công nghiệp. 27/61 tỉnh, thành phố có KCN, trong đó tập trung nhiều ở vùng tứ giác kinh tế trọng điểm phía Nam: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu và Bình Dương. Các KCN được qui hoạch sử dụng hoảng 10.000ha đất. Trong đó có 6.500 ha qui hoạch cụ thể phát triển công nghiệp. Có thể nói, đến nay các khu công nghiệp đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu kinh tế Việt Nam hoạt động của nó đã và đang đem lại những kết quả đánh khích lệ về mặt kinh tế và xã hội, giúp đất nước có cơ hội tăng trưởng cao hơn và đẩy nhanh tiến trình hội nhập khu vực và thế giới phục vụ cho việc phát triển đất nước theo hường công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nổi bật đó thì việc xây dựng và quản lý các khu công nghiệp vẫn còn nhiều điều bất cập, đòi hỏi phải có sự giải quyết kịp thời của các cấp các ngành trong bộ máy quản lý khu công nghiệp.
1. Thực tiễn xây dựng khu công nghiệp ở Việt Nam.
Hiện nay nước ta đã tiến hành xây dựng được 67 khu công nghiệp với những quy mô khác nhau, tiến trình này phát triển khá nhanh. Trong 2 năm 1991-1992 mới khai sinh được 3 khu chế xuất: Linh Trung, Linh Thuận và Cần Thơ. Các KCN khác mới chỉ được cấp giấy phép trong các năm từ 1994 trở lại đây. Tuy trong thời gian ngắn như thế đã có trên 70% KCN và KCX giải phóng mặt bằng thu hút 850 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn 7,48 USD của 24 nước và vùng lãnh thổ. Ngoài những dự án đầu tư nước ngoài. Các khu công nghiệp thu hút các nhà đầu tư trong nước với số vốn tính đến tháng 12/1999 là 16.998 tỷ đồng. Những kết quả đã đạt được đóng góp một cách tích cực cho công cuộc công nghiệp hoá đất nước. Chính vì thế mà một số địa phương đã coi KCN, KCX là niềm hy vọng, miền đất hứa. Nói khởi dậy lòng ham muốn cháy bỏng có KCX hoặc ít ra cũng có KCN ở tỉnh mình. Những địa phương đã có rồi lại muốn nhiều hơn nữa nhằm tạo ra những bước nhảy đột biến. Tuy nhiên, xét về qui hoạch tổng thể KCN, đến nay phần lớn các KCN và KCX tập trung ở vùng kinh tế động lực Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và miền Đông Nam Bộ và gần đây nhất đã hình thành được 13 KCN ở miền Trung, song sự phân bố này chưa phải là cân đối. Việc di dời nhà máy vào KCN còn có nhiều vấn đề khó khăn. Ngoài ra còn vấn đề qui hoạch mặt bằng, xây dựng kết cấu hành chính tần gặp nhiều thách thức lớn. Đến cuói năm 1999, ở miền Bắc có 13 KCN thì Hà Nội 5, Hải Phòng 4 và Quảng Ninh 2. Miền Đông Nam Bộ thì mật độ dày đặc hơn, còn ở miền Trung 13KCN phân bố một cách chênh lệch. Sự hình thành quá nhiều, quá nhanh KCN và KCX đã thu hút khá nhiều vốn vào xây dựng cơ sở hạ tầng để tạo ra sức hút đối với nhà đầu tư nước ngoài. Để xây dựng hoàn chỉnh cơ sở hạ tần cho một khu công nghiệp đòi hỏi chi phí ít nhất hàng trăm tỷ đồng, thời gian xây dựng cơ sở hạ tầng kéo dài trong vòng 2-3 năm. Những khu công nghiệp do Việt Nam tự xây dựng đều là vốn vay trung hạn. Nếu xây dựng xong mà chưa cho thuê được ngay thì không biết lấy gì để trả lãi suất tiền vay. Không ít khu công nghiệp đã xây dựng xong cơ sở hạ tầng mà không có nhà đầu tư nào nhòm ngó tới. Một vấn đề đang tồn tại là giá thuê đất, những khu công nghiệp và khu chế xuất do đầu tư của nước ngaòi có tiện ghi tốt hơn giá thuê đất cao hơn. Trong khi đó các khu công nghiệp do Việt Nam xây dựng thường có giá mền hơn. Tuy nhiên, nói là rẻ hơn cũng chỉ so sáng trên địa bàn Việt Nam, so với các nước trong khu vực thì giá đất của Việt Nam vẫn cao, làm nãn lòng các chủ đầu tư. Mục tiêu xây dựng khu công nghiệp không chỉ thu hút FDI mà còn đưa các doanh nghiệp trong nước tập trung thành những trung tâm để dễ lề quản lý. Song cho tới nay ý tưởng tốt đẹp này chưa thành hiện thực được. Các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay không phải trả tiền thuê địa điểm. Nếu chuyển sang địa bàn mới (vào KCN) lẽ đương nhiên là doanh nghiệp phải thuê địa điểm theo giá cảu Nhà nước qui định. Trong bối cảnh hiện nay chắc chắn các doanh nghiệp không chịu bỏ tiền ra trừ chi phi có sự cưỡng chế của luật pháp.
Việc chuyển dời địa điểm đòi hỏi phải kèm theo nhiều chi phí phát sinh thế là các doanh nghiệp phải đầu tư xây dựng mới. Chẳng hạn theo quyết định của UBND thành phố HCM ngày 17/02/1998, nhà máy sản xuất băng tải và dây caeroie của công ty cao su Bến Thành phải di chuyển từ đường Ông ích Khiêm đến KCN Tân Phú Trung để đảm bảo môi trường. Qua tính toán sơ bộ, việc di chuyển tốn kém khoảng 54,278 tỷ động. Từ nay đến năm 2001 các doanh nghiệp sản xuất hoá chất... sẽ di chuyển hết voà KCN. Mới tính sơ bộ ở 12 doanh nghiệp, tiền di chuyển lên tới 291 tỷ đồng... vượt quá khả năng của họ, thật là lực bất tòng tâm. Một nghịch lý đã và đang diễn ra là: những KCN với cơ sở hạ tầng tốt, tiện nghi hiện đại...thì hoang vắng, việc di dời vào KCN còn mất nhiều bút mực để giải quyết.
Vấn đề bức thiết nóng bỏng là việc đền bù giải phóng mặt bằng, hoàn thiện thủ tục đất đai để đivào xây dựng cơ bản. Trong quá trình đền bù giải phóng mặt bằng, nông dân thường có những thắc mắc kiện cáo vô cớ vì chưa nắm được các qui định của Nhà nước. Nhiều qui hoạch KCN đã được duyệt thậm chí đã đi vào xây dựng cơ sở hạ tầng thì ở một số địa phương lại bị thay đổi qui hoạch về ranh giới, gây ra sự hoài nghi về tính ổn định của môi trường đầu tư và hiệu lực các quyết định làm nản lòng các nhà đầu tư. Lấy ví dụ: Khu công nghiệp Hà Nội - đầu tư có diện tích 40 ha. KCN Hà Nội -đầu tư nằm trong qui hoạch tổng thể của thành phố Hà Nội đến 2002. Theo qui hoạch, KCN có vị trí thuận lợi, phia Đông tiếp giáp với đường vành đai số 3 của thành phố, mặt KCN nhìn ra giao thông lớn, vị trí này trở thành lợi thế cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài vào KCN. Nhưng gân đây do thay đổi qui hoạch, đoạn quốc lộ 1 này tương lai sẽ hoà nhập và trở thành một bộ phận của tuyến đường vành đai 3 của thành phố, nhưng vị trí của nó lại không đi sát KCN như qui hoạch đã duyệt mà dịch chuyển về phía Đông 300-400m, tạo ra một khoảng trống là đất canh tác nằm giữa vành đai 3 và KCN Hà Nội - đầu tư. Việc thay đổi vị trí này có ảnh hưởng trực tiếp đến những điều kiện giao thông, cảnh quan của KCN, gián tiếp đến thu hút nhà đầu tư nước ngoài. Với các KCN ở Hà Nội, việc xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông, cấp điện, thoát nước ngoài KXN do phía Việt Nam đảm nhiệm thường chậm sau việc xây dựng hạ ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35001.doc