Lời nói đầu
C
ùngvới quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng sâu sắc và rộng lớn là xu hướng mở rộng các quan hệ kinh tế tài chính đa phương, nhiều chiều giữa các quốc gia và làm tăng cường sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, không một quốc gia nào có thể đứng ngoài cuộc được. Các quan hệ này đã làm cho hệ thống tỷ giá hối đoái thay đổi một cách sôi động.
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế gắn chặt với những biến động kinh tế của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ và mỗi giai đo
44 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1526 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về tỷ giá hối đoái, ảnh hưởng của nó & Một số biện pháp để hoàn thiện tỷ giá hối đoái trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạn phát triển. Sự biến động của tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế quốc gia. Nó vừa là nguyên nhân đồng thời là kết quả của nhiều nhân tố khác nhau trong nền kinh tế. Sự hoạt động có hiệu quả của các biện pháp, chính sách kinh tế sẽ có tác dụng điều hoà và làm lành mạnh tỷ giá hối đoái. Ngược lại, tỷ giá hối đoái lại kích thích và hoàn thiện các biện pháp, các chính sách giúp cho guồng máy kinh tế hoạt động một cách có hiệu quả và đạt được tốc độ phát triển mong muốn.
Mọi biến động trên các thị trường tài chính quốc tế luôn luôn được các quốc gia theo dõi một cách sát sao nhằm tránh những tác động tiêu cực của những thay đổi trên thị trường tài chính thông qua hệ thống tỷ giá. Song không phải quốc gia nào cũng đạt được hiệu quả mong muốn bởi tỷ giá là vấn đề hết sức phức tạp, nó có quan hệ với các yếu tố bên ngoài quốc gia và sự tương tác của các quá trình, các chính sách kinh tế tài chính tiền tệ của mỗi nước.
Nhận thức một cách đúng đắn và chính xác để từ đó xác định và đưa vào vận hành trong thực tế một tỷ giá hối đoái phù hợp nhằm biến nó như một công cụ quản lý nền kinh tế một cách tích cực là yêu cầu của các quốc gia.
Để có thể hiểu biết thêm về tỷ giá hối đoái, về những ảnh hưởng của nó đến thị trường, đến nền kinh tế vĩ mô, trong khuôn khổ đề tài này, em xin trình bày “một số vấn đề về tỷ giá hối đoái, ảnh hưởng của nó và một số biện pháp để hoàn thiện tỷ giá hối đoái trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam”. Đề án được chia làm 3 chương:
Chương I : Tổng quan chung về hệ thống tỷ giá hối đoái.
Chương II : Hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam.
Chương III: Những giải pháp hoàn thiện tỷ giá hối đoái.
Vì chuyên môn và kiến thức còn hạn chế cộng với những hạn chế trong việc thu thập tài liệu, do đó trong đề án này không tránh khỏi những khiếm khuyết. Vì vậy, em mong được sự chỉ bảo tận tình của các thầy cô và các bạn giúp em có cách nhìn sâu hơn về vấn đề và hoàn thành tốt hơn cho những công trình tiếp theo.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến quý báu của các thầy, cô giáo trong khoa đặc biệt là cô giáo NGUYễN thị ngọc DIệP cùng tập thể bạn bè đã giúp em hoàn thành tốt đề án này.
Chương i:
tổng quan chung về hệ thống tỷ giá hối đoái
i. tỷ giá hối đoái.
1. Khái niệm.
1.1. Tỷ giá hối đoái là gì?
Về hình thức, (tỷ giá hối đoái) TGHĐ là giá cả đơn vị tiền tệ của một nước được biểu hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước kia; là hệ số của một đồng tiền này sang đồng tiền khác và được xác định bởi mối quan hệ cung-cầu trên thị trường tiền tệ.
Về nội dung, TGHĐ là một phạm trù kinh tế bắt nguồn từ nhu cầu trao đổi hàng hoá, dịch vụ, phát sinh trực tiếp từ tiền tệ, quan hệ tiền tệ (sự vận động của vốn, tín dụng....) giữa các quốc gia.
Tỷ giá đồng Yên Nhật và của đôla Mỹ so với đồng Việt Nam ngày 05/09/ 2001 như sau:
1 USD = 119,83 JPY.
1 USD = 15.000 VND.
Như vậy, TGHĐ thể hiện quan hệ về giá trị tiền tệ giữa hai đồng tiền khác nhau.
2. Các loại tỷ giá hối đoái .
2.1. TGHĐ giao ngay và TGHĐ kỳ hạn (Spot and Forward Rate).
TGHĐ giao ngay là tỷ giá yết cho những giao dịch thực tế diễn ra tại thời điểm yết giá và việc thanh toán được thực hiện chậm nhất sau 2 ngày.
Ví dụ: tỷ giá giao ngay USD/VND là 15.000 vào ngày 05/10/2001 áp dụng cho các giao dịch ngoại tệ trong ngày và việc thanh toán được thực hiện chậm nhất vào ngày 07/10/2001.
TGHĐ kỳ hạn là tỷ giá ấn định cho một giao dịch ngoại tệ sẽ diễn ra trong tương lai.
Ví dụ: Tỷ giá giao ngay USD/VND là 14.950 vào ngày 05/09/2001. Tỷ giá kỳ hạn 30 ngày ấn định ngày hôm đó là 14.990 nhưng được tiến hành thanh toán vào 30 + 2 ngày sau tức ngày 07/10/2001. Tỷ giá kỳ hạn thường có sự chênh lệch với tỷ giá giao ngay. Mức chênh lệch này phản ánh dự đoán của thị trường về xu thế biến động tỷ giá.
2.2. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực tế .
ở nhiều nước, (Ngân hàng trung ương) NHTW can thiệp vào việc xác định TGHĐ và ấn định mức tỷ giá giao dịch hàng ngày. Tỷ giá đó được gọi là tỷ giá danh nghĩa. Tuy nhiên, các giao dịch thực tế trên thị trường có thể dựa trên một tỷ giá khác được xác định trên cơ sở cung-cầu trên thị trường. Tỷ giá đó gọi là TGHĐ trên thị trường.
TGHĐ danh nghĩa là tỷ giá do NHTW công bố và ấn định, còn TGHĐ thị trường là tỷ giá giao dịch thực tế trên thị trường.
2.3. TGHĐ yết trực tiếp và TGHĐ yết gián tiếp .
TGHĐ yết trực tiếp là tỷ giá được yết trên cơ sở tính giá trị một đơn vị nội tệ theo ngoại tệ. Hình thức yết giá này thường được sử dụng ở Anh-Mỹ nên còn được gọi là yết giá kiểu Anh-Mỹ. Tỷ giá này được ký hiệu là e.
Ví dụ: Tại Anh người ta yết GBP/USD = 1,6669 còn tại Mỹ người ta yết USD/GBP = 0,5999.
TGHĐ yết gián tiếp là tỷ giá được yết trên cơ sở tính giá trị một đơn vị ngoại tệ theo nội tệ. Tỷ giá này được ký hiệu là E .
Ví dụ: Tại Việt Nam ta yết USD/VND = 14.980.
(Nếu yết giá trực tiếp sẽ là: VND/USD = 1/14.980 = 0.0000667)
2.4. Tỷ giá hối đoái tính chéo (Cross Rate) .
Trên thực tế, không phải tỷ giá giữa 2 đồng tiền nào cũng được yết giá trên thị trường ngoại tệ và thị trường hối đoái mà chủ yếu là tỷ giá của các đồng tiền với các đồng tiền mạnh (hard curency) như USD, GBP, FRF, JPY, DEM... tỷ giá giữa các đồng tiền yếu (soft curency) thường không được yết giá do tính kém chuyển đổi (inconvertibility) của chúng. Tuy nhiên trong thực tế, đôi khi người ta lại cần tính toán tỷ giá giữa các đồng tiền này, chẳng hạn giữa đồng Bath và đồng Việt Nam. Khi đó người ta sử dụng tỷ giá tính chéo.
Tỷ giá tính chéo giữa 2 đồng tiền được xác định dựa trên cơ sở so sánh tỷ giá của chúng với một đồng tiền thứ 3 (thường là một đồng tiền mạnh).
Chẳng hạn nếu: USD/VND = 14.890 và USD/Bath = 40 thì tỷ giá tính chéo Bath/VND = 14.890/40 = 372,25 .
Ngoài những khái niệm trên, còn có một số loại tỷ giá khác như tỷ giá mua, tỷ giá bán, tỷ giá Big-Mac ...
3. Phương pháp xác định tỷ giá hối đoái.
Qua việc xác định trên, khi trình bày các khái niệm về TGHĐ, chúng ta có thể để ý thấy rằng có nhiều loại TGHĐ khác nhau cũng như giá trị của chúng cũng có thể không giống nhau. Và có thể ta cũng sẽ băn khoăn là tại sao và làm thế nào các NHTW lại ấn định tỷ giá chính thức? Thị trường quyết định tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn như thế nào? Tại sao tỷ giá USD/VND ngày 05/09/2001 lại là 14.950 chứ không phải 11.000 hay 17.000? Làm sao để xác định tỷ giá trao đổi giữa 2 loại tiền tệ? Trên thực tế người ta đã từng dùng nhiều phương pháp để xác định tỷ giá.
3.1.Ngang giá vàng.
Để hiểu về ngang giá vàng, trước hết chúng ta cần nhớ lại rằng trước kia phương tiện trao đổi và thanh toán chính là vàng, lúc đầu là vàng thỏi (bullion), sau là tiền vàng đúc. Sau đó, tiền giấy ra đời thay thế cho vàng song vẫn được gắn giá trị vào vàng. Đó là chế độ bản vị tiền vàng (Gold Standard).
Ví dụ: 1 USD = 0,888671 gram vàng, trong khi 1 GBP = 2,488281 gram vàng. Người ta đã lợi dụng ngay đặc điểm gắn giá trị của các đồng tiền vào vàng để xác định TGHĐ.
Ngang giá vàng (gold parity) là phương pháp xác định TGHĐ dựa trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng của đơn vị tiền tệ mỗi nước.
Giả định ta có hai loại đồng tiền là A và B. Tỷ giá này được xác định theo công thức sau:
Hàm lượng vàng trong 1 đơn vị tiền A
TGHĐ(Đồng A/ Đồng B)=
Hàm lượng vàng trong 1 đơn vị tiền B
Như vậy, với ví dụ trên thì tỷ giá GBP/USD = 2,488281/0,888671=2,8.
Ngày nay, phương pháp tính tỷ giá này ít được áp dụng.
3.2. Đồng giá lãi suất (Interest Parity).
Để hiểu phương pháp đồng giá lãi suất, trước hết chúng ta hãy xem xét ví dụ về 2 đồng tiền: D (nội tệ) và F (ngoại tệ); E, F lần lượt là tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn giữa 2 đồng tiền. RD và RF lần lượt là lãi suất (theo năm) của 2 đồng tiền. Nếu bắt đầu bằng 1 đồng D thì chúng ta sẽ có 2 phương án:
- Phương án 1:
+ Gửi 1 đơn vị đồng tiền D lấy lãi sau 1 năm thu được (1+ RD)xD đồng tiền D.
- Phương án 2:
+ Chuyển tiền D sang đồng tiền F theo tỷ giá giao ngay E được (1xE)xD đồng tiền F.
+ Gửi lấy lãi (1xE) đồng tiền F sau 1 năm thu được E(1+ RF) đồng tiền F.
+ Chuyển E(1+ RF) đồng tiền F sang đồng tiền D theo tỷ giá kỳ hạn F được E(1+ RF)xF Dđồng tiền D.
Nếu E(1+ RF)xFD > (1+ RD) thì rõ ràng gửi tiền bằng tiền F có lãi hơn. Do số người muốn gửi tiền bằng đồng F tăng lên, lãi suất sẽ giảm xuống để cân đối nguồn vốn. Chỉ đến khi E(1+ RF)xFD < (1+ RD) thì gửi tiền bằng đồng tiền D có lợi hơn và gây ra làn sóng chuyển từ đồng F sang đồng D gửi lấy lãi. Tương tự, dòng di chuyển này chỉ dừng lại khi lãi suất của hai phương án cân bằng. Hay E(1+ RF)xFD = (1+ RD) hay E(1+ RF) = (1+ RD)/FD.
Điều kiện này gọi là điều kiện ngang giá tiền lãi. Nó cho rằng trong điều kiện các nguồn vốn được chu chuyển tự do, lãi suất được hình thành trên cơ sở cung-cầu thị trường và bỏ qua các chi phí giao dịch thì lãi suất ở mọi nơi trên thế giới đều như nhau. Từ đó, người ta xây dựng phương pháp đồng giá lãi suất để xác định TGHĐ trên cơ sở cho rằng tỷ giá phải được xác định để đảm bảo sự đúng đắn của quy luật đồng giá lãi suất. Khi đó, tỷ giá được xác định bởi công thức:
1 + RD E - Eo RD - RF
E = Eo x hay =
1 + RF Eo 1 + RF
Trong đó: E là tỷ giá tại thời điểm nghiên cứu (cần tính) .
Eo là tỷ giá tại thời điểm gốc.
Từ công thức trên ta cũng thấy biến động tỷ giá phụ thuộc vào tương quan lãi suất giữa hai đồng tiền. Vì tỷ giá có thể biến động ngay khi có sự thay đổi lãi suất, xác định tỷ giá theo đồng giá lãi suất được xem là cách xác định TGHĐ ngắn hạn.
3.3. Quy luật một giá và thuyết đồng giá sức mua.
Tương tự như đối với đồng giá lãi suất, để hiểu quy luật một giá chúng ta hãy xem xét giá cả của một mặt hàng là gạo ở 2 quốc gia có 2 đồng tiền lần lượt là D và F. Giá gạo tính bằng 2 đồng tiền lần lượt là PD và PF. Tỷ giá F/D là E. Nếu căn cứ vào đồng tiền D, bạn có 2 phương án chọn:
- Phương án 1: Mua 1 kg gạo bằng đồng D hết PD .
- Phương án 2: Mua 1 kg gạo bằng đồng F hết PF tức là phải bỏ ra (PFxE) đồng tiền D.
Nếu (PFxE) < PD, mua gạo bằng đồng F sẽ rẻ hơn. Các nhà buôn lập tức đổ xô vào mua gạo tại nước F. Kết quả, giá gạo F tăng lên cho đến khi (PFxE) = PD .
Ngược lại nếu (PFxE) > PD, mua gạo bằng đồng D sẽ có lợi, các nhà buôn lập tức chuyển sang mua gạo ở nước D đẩy giá gạo ở đây lên đến khi (PFxE) = PD.
Nói tóm lại, do hoạt động kinh doanh của các nhà buôn, giá gạo tương đối tại hai quốc gia sẽ luôn cân bằng. Đó cũng là nội dung quy luật 1 giá. Quy luật này phát biểu rằng trên các thị trường cạnh tranh hoàn hảo, không có các chi phí giao dịch và vận tải, gia cả tương đối (giá tính theo cùng một loại tiền tệ) là như nhau đối với mọi loại hàng hoá giống nhau, bất kể chúng được sản xuất ở nước nào. Do đó, nếu giá gạo ở 2 nước là PD và PF thì tỷ giá hối đoái E phải được xác định bằng: E = PD / PF để đảm bảo quy luật 1 giá đúng với gạo.
Dựa trên cách tiếp cận của quy luật 1 giá, Ricardo và nhiều nhà kinh tế đã đưa ra lý thuyết đồng giá sức mua (Purchasing Power Parity). Lý thuyết này phát biểu rằng, tỷ giá hối đoái giữa 2 đồng tiền bằng tỷ số giữa các mức giá của giá hàng hoá 2 nước. Thuyết này tính toán sức mua của các đồng tiền thông qua giá cả của giá hàng hoá ở mỗi nước, sau đó so sánh chúng với nhau:
Sức mua của đồng nội tệ
E =
Sức mua của đồng ngoại tệ
Tính toán TGHĐ theo cách này gọi là đồng giá sức mua tuyệt đối (PPP tuyệt đối).
Một hàm ý khác của thuyết đồng giá sức mua là đồng giá sức mua tương đối (PPP tương đối). PPP tương đối cho rằng sự thay đổi theo tỷ lệ phần trăm trong TGHĐ giữa 2 đồng tiền trong bất kỳ một điều kiện nào cũng bằng mức chệnh lệch giữa các thay đổi tỷ lệ phần trăm trong mức giá giữa các quốc gia. Nghĩa là:
(E - Eo) / Eo = (CPID – CPIF) / CPID
E CPID Eo x CPID
= hay E =
Eo CPIF CPIF
Trong đó:
Eo : tỷ giá tại thời điểm chọn gốc
E : tỷ giá tại thời điểm nghiên cứu
CPID : chỉ số giá trong nước
CPIF : chỉ số giá nước ngoài
Công thức trên được gọi là công thức Ricardo - Cassel (do David Ricardo và Gustav Cassel cùng đưa ra trong tác phẩm của mình). Công thức này gợi ý rằng nếu chúng ta biết TGHĐ tại một thời điểm lý tưởng là gốc thì ta có thể xác định được tỷ giá tại một thời điểm khác qua các mức giá 2 nước. Tỷ giá được xác định theo phương pháp này tạm gọi là TGHĐ đồng giá sức mua (PPP). Cũng từ công thức Ricardo-Cassel, chúng ta có thể xác định được tỷ giá trong đó bỏ qua yếu tố lạm phát. Tỷ giá đó gọi là tỷ giá thực (Real exchange rate or Effective rate) còn TGHĐ được yết hàng ngày là TGHĐ danh nghĩa. TGHĐ thực được xác định bởi công thức:
CPIF
ER = EN x
CPID
Trong đó: ER là TGHĐ thực
EN là TGHĐ danh nghĩa
Mặc dù lý thuyết đồng giá sức mua đã nêu bật được những nhân tố quan trọng nằm đằng sau sự vận động của TGHĐ nhưng nó cũng thể hiện là một phương thức phức tạp và chưa hoàn thiện ở chỗ:
- Bao giờ cũng tồn tại chi phí giao dịch, vận chuyển hàng hoá. Do đó, không có gì bảo đảm giá của cùng một sản phẩm lại như nhau ở mọi nơi.
- Do có những hàng rào ngăn trở nên mậu dịch và lưu thông hàng hoá không hoàn toàn tự do. Do vậy, thị trường không thể điều hoà giá cả trên phạm vị thế giới.
- Các mặt hàng ở các nước khác nhau cũng không giống nhau.
- Các điều kiện thu thập dữ liệu, số liệu và lựa chọn khác nhau; ngoài ra còn các sai số thống kê làm cho các kết quả thu được mất tính chính xác và không đủ điều kiện so sánh.
3.4. Xác định tỷ giá hối đoái theo quan hệ cung-cầu tiền tệ .
Với những nhược điểm của phương pháp đồng giá lãi suất và đồng giá sức mua. Ngang giá vàng được coi là biện pháp có hiệu quả, song chỉ có tác dụng dưới chế độ bản vị vàng. Khi tiền giấy tách ra khỏi vàng, việc so sánh qua vàng trở nên không thể thực hiện được. Giá trị tiền giấy biến động liên tục và buộc việc xác định tỷ giá phải dựa trên những căn cứ mới. Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta không biết xác định TGHĐ như thế nào, thì tỷ giá vẫn cứ tồn tại trong các giao dịch trên thị trường, nó được xác định theo quan hệ cung-cầu ngoại tệ.
- Cầu về tiền của một nước xuất hiện trên thị trường ngoại hối khi người dân hay chính phủ nước khác muốn sử dụng tiền của nước đó để thanh toán, dự trữ hay đầu cơ.
- Cung về tiền của một nước xuất hiện trên thị trường ngoại hối khi người dân hay chính phủ nước đó muốn sử dụng tiền của nước khác cho mục đích giao dịch, dự trữ hay đầu cơ.
Và tỷ giá được xác định trên thị trường ngoại tệ trên cơ sở cân bằng giữa cung-cầu tiền tệ.
Sự thay đổi của TGHĐ do thay đổi quan hệ cung cầu cũng giống như các hàng hoá thông thường khác. Khi cầu > cung, lập tức tỷ giá tăng lên để phân phối được lượng cung hạn chế. Do vậy, bất cứ tác động tăng cầu hay giảm cung nào cũng có tác động làm cho tỷ giá tăng lên. Khi cung > cầu, tỷ giá bị kéo xuống để phân phối hết lượng cung thừa. Do vậy, bất cứ tác động nào làm tăng cung hay giảm cầu đều có tác động kéo tỷ giá xuống.
* Các yếu tố cấu thành cung - cầu ngoại tệ:
3.4.1. Cung ngoại tệ tạo thành từ các nguồn sau:
- Doanh thu từ hoạt động xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ ra nước ngoài.
- Đầu tư nước ngoài:
+ Các nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.
+ Các nguồn vốn vay ODA và vay nợ thương mại.
+ Các nguồn đầu tư gián tiếp qua các tài sản tài chính.
- Các nguồn đầu cơ, giao dịch phi thương mại.
- Nguồn tiền ròng từ nước ngoài qua con đường kiều hối, viện trợ không hoàn lại.
3.4.2. Cầu ngoại tệ hình thành từ các nguồn sau:
- Thanh toán cho hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu.
- Đầu tư nước ngoài:
+ Đầu tư trực tiếp.
+ Đầu tư gián tiếp.
- Chu chuyển ngoai tệ ròng dưới hình thức chuyển lợi nhuận về nước, trả lãi ...
- Dự trữ, đầu cơ, giao dịch, tỷ giá Tom-next ...
4. Các nhân tố tác động lên quá trình hình thành tỷ giá.
Trên thực tế, sự hình thành quan hệ tỷ giá là tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Tuy có những mâu thuẫn trong phương pháp nghiên cứu, tiếp cận và đánh giá vai trò, tính chất, phương thức cường độ, tốc độ tác động của các yếu tố cụ thể, song nhìn chung có một số yếu tố quan trọng, trực tiếp cấu thành GNP và tác động lên quá trình hình thành TGHĐ, đó là:
- Sức mua của các đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm phát ở các nước.
- Trạng thái cán cân thanh toán ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ, thông qua đó tác động lên mức tỷ giá và kéo theo sự dao động của tỷ giá lệch khỏi sức mua của đồng tiền.
- Chênh lệch mức giá giữa các nước, giữa thị trường tín dụng nội địa và quốc tế.
- Thực trạng hoạt động của các thị trường tài chính, ngoại hối và các xu hướng nghiệp vụ đầu cơ ảnh hưởng đến tỷ giá.
- Hệ số tín nhiệm đối với các đồng tiền trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế.
- Các phương thức, công cụ điều chỉnh, các chính sách can thiệp của Nhà nước.
- Các cú sốc kinh tế, chính trị xã hội và các chính sách lớn của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, tài chính tiền tệ.
5. Các phương pháp chủ yếu điều chỉnh tỷ giá hối đoái .
Sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng đã chấm dứt cơ chế tự điều tiết TGHĐ. Bởi tỷ giá ảnh hưởng tới nhiều biến số kinh tế vĩ mô khác nhau, hầu hết các chính phủ phải ít nhiều can thiệp vào TGHĐ nhằm đạt đợc các mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế. Muốn vậy, họ phải sử dụng các công cụ can thiệp TGHĐ.
5.1. Lãi suất chiết khấu.
Lãi suất chiết khấu là lãi suất thông qua đó NHTW cho vay chiết khấu hay tái chiết khấu đối với các NHTM. Khi lãi suất chiết khấu giảm xuống, các ngân hàng sẽ vay chiết khấu nhiều hơn. Vì nguồn vốn vay bây giờ rẻ hơn nên lãi suất cho vay của các ngân hàng giảm xuống. Lãi suất của hàng loạt các tài sản chính cũng giảm theo. Do đó, NHTW có thể vận dụng công cụ lãi suất chiết khấu để điều chỉnh lãi suất thị trường. ở điều kiện bình thường, lãi suất được thiết lập đảm bảo sự cân bằng mức lãi ròng giữa trong nước và ngoài nước. Khi NHTW nâng cao mức lãi suất chiết khấu, lãi suất thị trường tăng lên. Gửi tiền trong nước trở nên có lợi tạo ra dòng vốn ồ ạt chảy vào trong nước. Cung ngoại tệ tăng và tỷ giá theo đó giảm xuống. Ngược lại, khi muốn tăngTGHĐ, NHTW giảm lãi suất trong nước so với lãi suất bên ngoài. Luồng vốn chảy ra ngoài gây áp lực về cầu ngoại tệ và kéo tỷ giá lên.
Tuy nhiên, tác động của lãi suất lên tỷ giá chỉ mang ý nghĩa gián tiếp. Tỷ giá phụ thuộc vào cung cầu ngoại tệ trên thị trờng trong khi lãi suất bị giới hạn bởi tỷ suất lợi nhuận bình quân. Hơn nữa, đôi khi lãi suất không phải là mục tiêu các của nhà đầu tư mà là tính an toàn vốn (đặc biệt khi đang xảy ra khủng hoảng tài chính chính tiền tệ). Mặt khác, ở nhiều quốc gia có những qui định hạn chế chu chuyển vốn. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, chính sách lãi suất hầu như không có ảnh hưởng đến tỷ giá.
Vào thời kỳ 1971-1973, lãi suất ở thị trường New York cao gấp 1,5 lần thị trường London và gấp 3 lần thị trường Frankfurk nhưng vốn vẫn không chảy vào Mỹ mà lại chuyển sang Đức và Nhật. Lý do là trong thời kỳ này, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng dầu lửa, kinh tế Mỹ sa sút nghiêm trọng tạo ra nguy cơ mất giá đồng đôla. Rủi ro hối đoái tăng lên quá cao đẩy lùi mọi ý tưởng mạo hiểm. Gần đây nhất, để đối phó với cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực, các chính phủ Thái Lan, Indonesia... đều đồng loạt nâng cao lãi suất nhằm giữ ổn định tỷ giá. Nhưng trước sự hủng hoảng lòng tin của dân chúng và các nhà đầu tư cũng như sự lo ngại về mất giá đồng tiền nên TGHĐ của các đồng tiền khu vực vẫn tiếp tục tăng vọt. Lãi suất tăng vọt trên mức lợi nhuận bình quân còn gây ra tình trạng khó khăn cho các doanh nghiệp muốn vay vốn và tình hình hoảng loạn trên thị trường tài chính do các nhà đầu tư ồ ạt bán ra các chứng khoán có lãi suất thấp. Dẫu vậy, lãi suất vẫn là công cụ ưa thích và có hiệu quả của các chính phủ, đặc biệt trong tình hình đồng bản tệ bị mất giá mạnh.
5.2. Nghiệp vụ thị trường hối đoái .
Dường như có một cách đơn giản hơn để các chính phủ tác động vào TGHĐ đó là tham gia trực tiếp vào thị trường với vai trò là người bán hoặc người mua. Khi cung<cầu, gây sức ép tăng tỷ giá, chính phủ có thể bán ra ngoại tệ nhằm tăng cung để giữ vữngTGHĐ, chính phủ cũng có thể mua ngoại tệ vào để tăng cầu và kéo tỷ giá lên. Khi muốn thay đổi tỷ giá, các chính phủ chỉ việc lựa chọn nên đứng bên cung hay bên cầu (đứng bên cung khi muốn giảm tỷ giá và đứng bên cầu khi muốn tăng tỷ giá). Hoạt động can thiệp trực tiếp của NHTW vào thị trường ngoại tệ thông qua mua bán gọi là nghiệp vụ thị trường hối đoái.
Can thiệp theo hình thức này có thuận lợi là có thể tiến hành bất kỳ lúc nào, tuỳ thuộc vào quyết định của NHTW và lượng dự trữ ngoại tệ hiện có. Đồng thời, can thiệp theo phương pháp này cũng có độ chính xác cao, có thể tác động liều lượng nhỏ và tiến hành nghiệp vụ ngược khi có dấu hiệu can thiệp quá mạnh.
Tuy nhiên phương pháp này cũng bộc lộ một số khó khăn như :
- Để có hiệu quả, đặc biệt là khi có khủng hoảng, thì tỷ giá cần phải có lượng ngoại tệ rất lớn cũng như phải có thực lực kinh tế. Điều này khó có thể đáp ứng ở nhiều nước đang phát triển.
- Việc can thiệp bằng nghiệp vụ thị trường hối đoái ảnh hưởng đến lượng cung tiền nội địa. Khi bán ngoại tệ, nội tệ bị thu về gây giảm cung tiền và tạo bất lợi cho sản xuất và thanh toán, đồng thời làm giảm tổng cầu hàng hoá. Ngược lại, khi ngân hàng mua vào ngoại tệ, nó đã vào lưu thông thêm một lượng nội tệ làm tăng cung tiền và gây ra lạm phát. Để ngăn ngừa những biến động trong cung tiền do can thiệp hối đoái, NHTW phải tiến hành hoạt động trung hoà.
Trung hoà (Neutrialization) là nghiệp vụ thị trường tự do giữa tiền và chứng khoán trong nước nhằm mục đích điều tiết lượng cung tiền khỏi những ảnh hưởng do những hoạt động can thiệp tỷ giá của NHTW.
Nghiệp vụ can thiệp hối đoái gắn liền với các nghiệp vụ trung hoà gọi là can thiệp vô hiệu (Uncertain Interference). Can thiệp hối đoái không gắn liền với các nghiệp vụ trung hoà gọi là can thiệp hữu hiệu (Certain Interference).
5.3. Quỹ bình ổn hối đoái.
Quỹ bình ổn hối đoái là hình thức tạo nguồn vốn tập trung đủ lớn cho hoạt động can thiệp vào thị trường ngoại hối của NHTW. Quỹ này có thể lấy từ các nguồn:
- Phát hành trái phiếu kho bạc bằng nội tệ và dùng số tiền này mua ngoại tệ khi muốn nâng cao tỷ giá. Số ngoại tệ thu được sẽ dùng để bán ra khi muốn ổn định tỷ giá và thu hồi lại các trái phiếu kho bạc đã ban hành.
- Dùng dự trữ vàng để lập quỹ.
Thực chất can thiệp của quỹ cũng giống như can thiệp bằng nghiệp vụ thị trường hối đoái có trung hoà.
5.4. Phá giá tiền tệ .
Phá giá tiền tệ là sự nâng cao TGHĐ thực tế mà các chính phủ cam kết duy trì. Khái niệm phá giá chỉ được dùng trong chế độ TGHĐ cố định hoàn toàn hoặc chế độ tỷ giá cố định có điều chỉnh. Đó là sự đánh sụt giá trị đồng bản tệ sau một thời kỳ tương đối ổn định nhằm kích thích xuất khẩu, giảm nhập khẩu và cải thiện cán cân thanh toán.
5.5. Nâng giá tiền tệ .
Nâng giá tiền tệ là sự đánh giá sụt TGHĐ mà các chính phủ muốn duy trì. Nâng giá tiền tệ thường dùng khi có bội chi cán cân thanh toán, lạm phát cao, nợ nước ngoài lớn. Giải pháp này rất ít được thực hiện.
II. Các hệ thống tỷ giá.
TGHĐ có ý nghĩa rất quan trọng đối với tất cả các đối tượng tham gia vào các giao dịch đối ngoại cho dù đó là nhà thương mại hay nhà đầu tư. TGHĐ cũng có vai trò trung tâm trong chính sách tiền tệ trong đó tỷ giá có thể là mục tiêu hay công cụ hay chỉ đơn thuần là một chỉ số phụ thuộc vào cơ chế chính sách của mỗi quốc gia. Mức độ can thiệp khác nhau của nhà nước khác nhau đến TGHĐ đã tạo nên những cơ chế TGHĐ khác nhau giữa các quốc gia. Có hai cơ chế tỷ giá cơ bản là: cơ chế TGHĐ cố định (vào vàng, vào một đồng tiền hay một nhóm đồng tiền) và cơ chế tỷ giá thả nổi (tỷ giá được xác định dựa vào cung cầu trên thị trường). Mỗi quốc gia trong một thời kỳ khác nhau có sự lựa chọn khác nhau về mức độ cố định thả nổi TGHĐ hay có sự dung hoà nào đó về sự cố định hay thả nổi TGHĐ. Điều này đã đưa đến các nguyên tắc khác nhau về điều hành TGHĐ hay các chính sách có liên quan khác của mỗi quốc gia. Sự khác nhau đó đã tạo nên sự đa dạng về cơ chế TGHĐ ở trên thế giới.
1. Chế độ tỷ giá cố định.
Mục đích của quan điểm giữ tỷ giá cố định là phải giữ TGHĐ ổn định để kiềm chế lạm phát ở mức thấp và củng cố niềm tin của dân chúng vào đồng tiền nội địa. Khi sử dụng chế độ tỷ giá cố định người ta có thể sử dụng các hệ thống sau:
* Chế độ bản vị vàng :
Trong chế độ này chính phủ của mỗi quốc gia cố định giá vàng tính bằng tiền nước họ và duy trì khả năng chuyển đổi đồng tiền trong nước thành vàng chính phủ sẽ mua và bán vàng nhiều bằng mức mà nhân dân muốn giao dịch tại giá trị ngang giá này và chính phủ tuân theo quy tắc nhằm gắn liền đồng tiền trong nước với số vàng nhà nước có. Chính phủ chỉ có thể phát hành tiền bằng cách mua vàng của công chúng, tức là nếu công chúng chuyển đổi tiền giấy của họ thành vàng thì lượng tiền lưu hành sẽ giảm đi. Dưới chế độ bản vị vàng khả năng của chính phủ trong việc tăng mức cung tiền bị hạn chế nghiêm ngặt bởi yêu cầu là chỉnh phủ phải nắm giữ một giá trị vàng tương đương trong kho bạc.
Chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, đồng tiền rất ít khi bị mất giá, việc thanh toán nợ nần giữa các quốc gia cũng được thực hiện bằng vàng như vậy nó thực sự đẩm bảo một cơ chế tự động điều chỉnh sự mất cân đối trong thương mại và thanh toán quốc tế. Vì vậy chế độ này đã được sử dụng hầu như suốt thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX ở các nước. Bản vị vàng có những ưu điểm lớn nhưng cũng có một số nhược điểm đáng kể. Bằng cách gắn chặt, nếu không phải là hoàn toàn mức cung tiền nội địa với mức dự trữ vàng, bản vị vàng thực sự đã loại trừ việc phát hành tiền liên tục trên quy mô lớn và tỷ lệ lạm phát một cách thường xuyên cao. Tuy nhiên, do cơ chế chủ yếu để phục hồi công ăn việc làm đầy đủ là sự giảm giá và tiền lương nội địa mà phải mất nhiều năm để điều chỉnh hoàn toàn theo mức giảm đáng kể về tổng cầu cho nên thời kỳ của bản vị vàng là thời kỳ trong đó các nền kinh tế riêng lẻ dễ bị tổn thương dẫn tới những giai đoạn suy thoái lâu dài và sâu sắc.
2. Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods .
Dưới chế độ bản vị vàng, TGHĐ danh nghĩa được cố định một cách vô thời hạn. Bây giờ chúng ta sẽ bàn về hệ thống điều chỉnh hạn chế, trong đó các TGHĐ thông thường được cố định nhưng đôi lúc các nước được phép thay đổi TGHĐ của mình. Hệ thống này được ra đời gần cuối thế chiến thứ hai trong một hội nghị đa quốc gia được tổ chức ở Bretton Woods Newpshire để hoạch định" một hệ thống TGHĐ có trật tự thuận lợi cho luồng thương mại tự do". Theo hệ thống này tỷ giá chính thức giữa đồng tiền của các nước thành viên được hình thành trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng của đôla Mỹ (1 USD= 0,888671 gram vàng) và chỉ được phép dao động trong biên độ 1% của tỷ giá chính thức đã được đăng ký tại quỹ tiền tệ quốc tế IMF vì thế hệ thống tỷ giá này còn được biết với đến với tên gọi bản là vị đôla. Theo chế độ bản vị đôla, các đồng tiền được chuyển đổi theo đôla chứ không phải theo vàng. Tại mức TGHĐ cố định, các NHTW cam kết mua hoặc bán đôla từ nguồn dự trữ ngoại hối hoặc lượng đôla hiện có của họ. Họ cam kết can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ TGHĐ cố định theo đồng đôla.
Sự khác nhau căn bản giữa bản vị vàng và bản vị đôla là ở chỗ không còn sự đảm bảo đổi lại 100% đối với đồng tiền nội địa, các chính phủ có thể in thêm tiền để làm tăng sức cạnh tranh trong nước. Nếu tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài chính phủ phải dùng ngày càng nhiều dự trữ ngoại hối của mình để trang trải cho thâm hụt, thì cuối cùng đất nước sẽ cạn kiệt dự trữ ngoại hối, lúc đó nhà nước sẽ phải phá giá TGHĐ của mình chuyển sang một nước giá trị ngang giá thấp hơn theo đôla để cố gắng tăng thường xuyên sức cạnh tranh và loại trừ sự mất cân đối cơ bản trong thanh toán quốc tế.
TGHĐ cố định, nếu bền vững hay được coi là bền vững thì sẽ tạo cho các doanh nghiệp có cơ sở để lập kế hoạch và tính toán giá, như vậy sẽ thúc đẩy đầu tư và thương mại quốc tế; TGHĐ cố định tạo ra sự hạn chế đối với chính sách tiền tệ trong nước vì do TGHĐ cố định nên không khuyến khích sự luân chuyển vốn vào hay ra khỏi quốc gia và do đó không cần thiết phải có sự quan tâm thường xuyên của NHTW. TGHĐ cố định sẽ là tối ưu nếu các NHTW có thể thực hiện được sự điều chỉnh cho tới mức tỷ giá tương đối cân bằng và thực hiện việc cố định tỷ giá ở mức đó; cơ chế tỷ giá cố định trực tiếp đặt ra sự tuân thủ đối với chính sách tiền tệ và có thể được coi là phù hợp trong tình huống các công cụ tài chính và thị trường tài chính chưa phát triển đủ mức cho sự vận hành của chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường.
Tuy nhiên, TGHĐ cố định trong trường hợp thiếu tin cậy sẽ bị ảnh hưởng rất lớn của đầu cơ, điều này có thể dẫn tới sự phá vỡ hoàn toàn sự ổn định tiền tệ, ổn định kinh tế hay ảnh hưởng tới dự trữ ngoại hối; TGHĐ cố định có thể làm người ta phải từ bỏ đầu cơ, do đó thị trường sẽ buồn tẻ, khó có thể xác định đâu là TGHĐ tối ưu, hay hợp lý cho một nền kinh tế, mặc dù cả chính phủ và NHTW đều cần thiết phải hiểu hơn ai hết đâu là mức cân bằng. TGHĐ danh nghĩa cố định có thể là quan trọng nhưng nó không quyết định TGHĐ thực tế mà nó chỉ được coi là chỉ số hay mục tiêu quan trọng mà thôi. Duy trì TGHĐ cố định đòi hỏi NHTW phải luôn sẵn sàng can thiệp vào thị trường ngoại hối để đảm bảo mức TGHĐ cố định.Tuy nhiên, khó có thể đưa ra về mức độ cần can thiệp như thế nào để tác động vào nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu can thiệp. NHTW cần thiết phải duy trì một mức nhất định về dự trữ ngoại hối, như vậy chi phí về quản lý tài sản sẽ lớn. TGHĐ này cũng phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của quốc gia khác và đó là điều đôi khi gây bất lợi do việc gắn đồng tiền bản tệ vào một đồng ngoại tệ nào đó.
3. Tỷ giá hối đoái thả nổi.
Là TGHĐ được hình thành trên cơ sở diễn biến cung-cầu. Có hai loại tỷ giá thả nổi là thả nổi tự do và thả nổi có quản lý. Chúng ta biết rằng nền kinh tế cân bằng dài hạn là phải cân đối cả bên trong lẫn bên ngoài (tức là đầy đủ việc làm, xuất khẩu ròng bằng không và tài khoản vãng lai cân bằng). Nhu cầu nhập khẩu phụ thuộc vào mức sản lượng trong nước và TGHĐ thực tế. Nhu cầu xuất khẩu phụ thuộc vào mức sản lượng ở nước ngoài và TGHĐ thực tế. Do đó, khi nền kinh tế trong nước và nước ngoài đều ở trong tình trạng cân đối hoặc ở mức sản lượng tiềm năng, thì chỉ có một tỷ giá chính thức duy nhất đồn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0759.doc