Mục lục
Lời nói đầu
Hiện nay phát triển kinh tế là một vấn đề mang tính chất toàn cầu mà mọi quốc gia đều đặt lên mục tiêu hàng đầu, đi đôi với nó là xu hướng quốc tế hoá các hoạt động kinh tế. Điều này khiến các quốc gia phải thực hiện chính sách hoà nhập vào cộng đồng kinh tế nói chung. Trước tình hình đó và thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh Đảng ta chủ trương chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
62 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1385 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước. Đó là tiền đề khách quan kích thích các tiềm năng trong nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển từng bước tham gia vào phân công lao động quốc tế cũng như tạo dựng tiền đề cho hoạt động tài chính tiền tệ, đặc biệt là hoạt động ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng Thương mại cũng được hoàn thiện và phát triển để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, các Ngân hàng Thương mại phải không ngừng đổi mới. Như vậy đổi mới ngân hàng là xuất phát từ đòi hỏi thực tế khách quan và tầm quan trọng của nó.
Hoạt động của Ngân hàng Thương mại gồm nhiều loại hình khác nhau như huy động vốn, cho vay, làm các dịch vụ cho khách hàng. Với tư cách là trung gian thanh toán nên hoạt động thanh toán là hoạt động cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn và đóng vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Hơn nữa thói quen dùng tiền mặt trong thanh toán chi trả hàng hoá, dịch vụ của dân cư đã tồn tại từ thời bao cấp. Mỗi năm phải tốn nhiều tỷ đồng cho chi phí, vận chuyển, bảo quản, kiểm đếm... chưa kể thời gian thanh toán rất chậm. Đây là một lãng phí lớn trong khi hiện nay ta đang cần vốn để đầu tư và phát triển. Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng đã khắc phục được tình trạng đó. Nó không chỉ tiết kiệm cho nền kinh tế xã hội mà còn là công cụ thiết thực để điều tiết và thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá và tăng vòng quay của vốn. Bên cạnh đó thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho Ngân hàng Thương mại có thêm nguồn vốn trong thanh toán. Đối với ngân hàng nhà nước thanh toán không dùng tiền mặt làm giảm lượng tiền trong lưu thông là điều kiện quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia chống lạm phát.
Xuất phát từ thực trạng của nghiệp vụ đối với nền kinh tế và trước yêu cầu đổi mới cấp bách của hệ thống ngân hàng để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế, tiến tới hoà nhập vào hệ thống ngân hàng thế giới thì việc hoàn thiện và phát triển hệ thống thanh toán ở các Ngân hàng Thương mại Việt Nam là rất cần thiết. Từ luận điểm này em đã lựa chọn nghiên cứu khoá luận với đề tài: “Một số vấn đề về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa”. Với phương pháp nghiên cứu lôgic, kết hợp với bài giảng cùng hiểu biết thực tế khoá luận đề xuất một số vấn đề về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt ở Ngân hàng Công thương Đống Đa. Kết cấu của khoá luận:
Chương I: Cơ sở lý luận về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.
Chương II: Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa.
Chương III: Một số ý kiến nhằm mở rộng và hoàn thiện các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa.
Mặc dù đã hết sức cố gắng trong nghiên cứu, sưu tầm tài liệu nhưng do thời gian có hạn, kiến thức còn hạn chế nên khoá luận không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo, cán bộ ngân hàng và các bạn sinh viên để khoá luận được hoàn thiện hơn, giúp cho quá trình nghiên cứu và công tác.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày ..... tháng 7 năm 2001
Sinh viên
Vũ Tiến Khang
Chương I:
Cơ sở lý luận về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.
I. Sự cần thiết khách quan và vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường:
1. Sự cần thiết khách quan:
Từ sau nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, với sự chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, hoạt động của nền kinh tế đã trở nên sôi động hơn với nhiều loại hình kinh doanh thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan hệ thị trường ngày càng mở rộng.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII cũng đã khẳng định: “Hệ thống ngân hàng cần phải vươn lên làm tốt chức năng trung tâm tiền tệ - tín dụng - thanh toán của các thành phần kinh tế, huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần từng bước ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam”.
Là một ngành có vai trò trọng tâm của toàn bộ nền kinh tế, ngân hàng phải đi trước các ngành kinh tế khác trong công cuộc đổi mới và phát triển của đất nước. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 của Đảng đã khẳng định rõ: “Phải cải tổ hệ thống ngân hàng để hoạt động có hiệu quả, thực sự trở thành trung tâm tiền tệ - tín dụng - thanh toán, đóng vai trò nòng cốt trên thị trường vốn và tiền tệ”.
Thanh toán không dùng tiền mặt ra đời là do chính đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế. Sản xuất hàng hoá phát triển qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao. Nhưng ở giai đoạn nào tiền tệ vẫn đóng vai trò là một công cụ có tầm quan trọng lợi hại đặc biệt và có độ nhạy rất cao. Việc sử dụng công cụ tiền tệ như thế nào sẽ gây tác động dây chuyền như là một tác nhân kinh tế đối với từng mắt xích hoặc có khi đối với các quá trình kinh tế. Trong các học thuyết kinh tế, người ta đã xác định ngân hàng có vai trò là trung tâm thanh toán của hệ thống ngân hàng ngày càng rõ nét và to lớn. Tái sản xuất xã hội là một quá trình liên hoàn, trong đó tồn tại các quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá dịch vụ và do đó phát sinh quan hệ thanh toán.
Mặt khác, tập trung thanh toán vào ngân hàng là một vấn đề thiết yếu đối với mỗi doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư trong điều kiện nền kinh tế phát triển. Ngân hàng là nơi tập trung một khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, số tồn khoản này dành cho các tổ chức kinh tế trong nước để tiến hành mở rộng công việc làm ăn, kinh doanh buôn bán. Trong nền kinh tế hiện đại, ngân hàng kiểm soát và điều động một cách hợp lý khối lượng tiền tệ, chịu ảnh hưởng của mọi chính sách phát triển kinh tế quốc gia. Tập trung công tác thanh toán vào ngân hàng có một ý nghĩa to lớn không chỉ đối với xã hội, chính phủ mà còn với cả các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư.
Ngân hàng đứng trên phương diện rộng lớn, nó phản ánh kinh tế của một nước. Nhìn vào những hoạt động và trình độ công nghệ của các nghiệp vụ trong ngân hàng là ta có thể đánh giá được trình độ phát triển kinh tế của nước đó. Hệ thống ngân hàng phát triển mạnh mẽ sẽ tạo ra động lực cho mọi ngành kinh tế khác trong nước phát triển và ngược lại.
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa thanh toán bằng tiền mặt ngày càng bộc lộ nhiều nhược điểm. Các quan hệ kinh tế trở nên đa dạng, phức tạp, thanh toán không ngừng tăng lên về khối lượng và chất lượng. Như vậy, chính sự phát triển của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá đã dẫn đến sự ra đời của một phương thức thanh toán mới ưu việt hơn: “Thanh toán không dùng tiền mặt”
Thanh toán không dùng tiền mặt là một nấc thang phát triển tất yếu của nghiệp vụ thanh toán trong nền kinh tế thị trường và chính nó đã từng bước đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế hiện đại.
2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường:
Công tác thanh toán là một trong những chức năng trung tâm của ngân hàng. Theo đà phát triển chung của xã hội và hệ thống ngân hàng, thanh toán không dùng tiền mặt ngày trở nên quan trọng.
Ngày nay, thanh toán không dùng tiền mặt là một phần không thể tách rời các doanh nghiệp, các cá nhân và các đoàn thể. Trong nền kinh tế thị trường, thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện trôi chảy sẽ đem lại hiệu quả thiết thực cho tất cả các đối tác tham gia.
- Thứ nhất: Tăng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu chuyển hàng hoá tiền tệ góp phần làm giảm lượng tiền mặt trôi nổi trên thị trường, tiết kiệm được chi phí xã hội gắn liền với việc in tiền, huỷ tiền, hư hỏng, bảo quản, kiểm đếm...
Khối lượng tiền cần thiết để thanh toán trong lưu thông có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu thanh toán không dùng tiền mặt tăng sẽ làm giảm khối lượng tiền mặt cần thiết. Vì vậy khối lượng tiền mặt trong lưu thông giảm xuống, sẽ giảm được chi phí lưu thông mà chủ yếu là chi phí phát hành, bảo quản, kiểm đếm, cất giữ v.v... Giảm được chi phí này sẽ tạo điều kiện tốt để điều hoà lưu thông tiền tệ vì quá trình thanh toán này chịu giám sát trực tiếp hoặc gián tiếp của ngân hàng nhà nước. Vì vậy mà chúng ta kế hoạch hoá và điều hoà lưu thông tiền tệ.
- Thứ hai: Thanh toán không dùng tiền mặt phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Bất kỳ một chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá nào đều bắt đầu bằng khâu thanh toán. Do vậy, phải tổ chức thanh toán nhanh gọn, chính xác vừa đảm bảo an toàn về vốn vừa rút ngắn được chu kỳ sản xuất, tăng tốc độ luân chuyển vốn. Đứng ở tầm vĩ mô, khâu thanh toán ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn, đến kết quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Nếu như thanh toán được tiến hành trôi chảy sẽ giúp cho lưu thông hàng hoá thông suốt, các hoạt động của nền kinh tế sẽ tiến hành thuận lợi.
Để tiến hành thanh toán qua ngân hàng, các tổ chức, cá nhân phải mở tài khoản tiền gửi thanh toán thông qua việc gửi một khoản tiền nhất định vào ngân hàng. Tính chất của tài khoản này là luôn dư có, đó là nguồn vốn huy động tạm thời tồn đọng trên các tài khoản tiền gửi thanh toán nhưng chưa sử dụng đến. Hơn nữa, xuất phát từ tính chất không liên tục của việc nộp tiền bán hàng hoá, dịch vụ vào tài khoản và việc chi trả từ tài khoản, do không phải lúc nào các lệnh chi trả cũng được tiến hành cùng một lúc với giá trị như nhau, nên trên tài khoản luôn lưu ký một số dư nhất định. Đây là nguồn vốn tín dụng khá lớn và có chi phí thấp (vì trả lãi thấp), mà ngân hàng được phép sử dụng để mở rộng đầu tư và tín dụng cho nền kinh tế, (sau khi duy trì một tỷ lệ nhất định để đảm bảo chi trả cho chủ tài khoản trong mọi trường hợp).
- Thứ ba: Thanh toán không dùng tiền mặt giúp ngân hàng và các tổ chức tín dụng tập trung được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư vào nền kinh tế để mở rộng việc cấp tín dụng ngân hàng.
Như đã đề cập trong vai trò thứ hai, ngân hàng có thể sử dụng một phần nguồn vốn từ tài khoản tiền gửi thanh toán để cho vay, mở rộng việc cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Chỉ tiêu kế hoạch tín dụng tổng hợp là một trong những chỉ tiêu kế hoạch quan trọng của nền kinh tế, mà kế hoạch tín dụng muốn thực hiện được tốt thì phải đẩy mạnh công tác thanh toán qua ngân hàng. Việc thanh toán này diễn ra càng nhanh chóng thì sẽ giải phóng nhanh vốn trong khâu thanh toán, kết quả là tạo ra nguồn vốn nhàn rỗi lớn thì đẩy mạnh hoạt động cho vay của ngân hàng và cuối cùng là tạo điều kiện để kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân.
Xu hướng trong thời gian tới khối lượng thanh toán sẽ tiếp tục tăng nhanh, do vậy nguồn vốn tiền gửi thanh toán sẽ chiếm một tỷ trọng đáng kể trong toàn bộ cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng.
Thứ tư: Thanh toán qua ngân hàng đã và đang trở thành công cụ cạnh tranh có hiệu quả của các ngân hàng nhằm thu hút khách hàng. Điều này thể hiện trên hai khía cạnh sau:
+ Về dịch vụ ngân hàng:
Mục đích của khách hàng gửi tiền vào ngân hàng không chỉ đề hưởng lãi mà còn để mua các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ dần sẽ trở thành mục đích chính của khách hàng. Vì vậy sức mạnh và khả năng cạnh tranh của các ngân hàng được đo bằng số lượng và chất lượng các dịch vụ ngân hàng trong đó có dịch vụ thanh toán.
+ Về chi phí ngân hàng:
Lãi suất ngân hàng phải trả cho số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán là rất thấp, thậm chí một số nước trên thế giới người gửi tiền không được hưởng lãi trên số dư tài khoản tiền gửi thanh toán. Vì vậy ngân hàng có thể lợi dụng việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt như một giải pháp hữu hiệu để thay đổi cơ cấu nguồn vốn theo xu hướng tăng tỷ trọng nguồn vốn có chi phí thấp, giảm tỷ trọng nguồn vốn có chi phí cao.
Bên cạnh đó, thông qua việc quản lý biến động về số dư trên tài khoản tiền gửi ngân hàng thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát hoạt động, khả năng tài chính của các doanh nghiệp. Đây là cơ sở rất quan trọng để ngân hàng thực hiện nghiệp vụ tư vấn, đầu tư có hiệu quả.
- Thứ năm: Vai trò đối với quản lý vĩ mô của Nhà nước, ngân hàng là tổ chức kinh tế thông qua đó các chính sách của Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và thanh toán được thực hiện. Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước qua các ngân hàng chỉ thực sự phát huy đầy đủ tác dụng khi phần lớn khối lượng thanh toán tập trung qua các ngân hàng. Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện cho ngân hàng Nhà nước quản lý một cách tổng thể quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá.
II. Quá trình phát triển của nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt nam.
1. Thanh toán không dùng tiền mặt trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
ở nước ta từ khi có hệ thống ngân hàng ra đời, phương thức thanh toán không dùng tiền mặt đã được áp dụng.
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp nền kinh tế được thực hiện theo cơ chế hành chính, mệnh lệnh, sản xuất hàng hoá và tiêu thụ sản phẩm được thực hiện theo kế hoạch từ trên giao xuống cho các doanh nghiệp sản xuất và thương nghiệp làm công việc phân phối tiêu thụ hàng hoá. Do vậy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong xã hội tốt hay xấu cũng không ảnh hưởng gì đến nền kinh tế bao cấp này. Hoạt động của ngân hàng cũng được thực hiện theo cơ chế đó, cho nên hiệu quả kinh tế của ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế không được quan tâm nhiều. Thanh toán không dùng tiền mặt trong thời kỳ kế hoạch hoá được thực hiện theo Nghị định 75/NĐ-CP. Với nguyên tắc cứng nhắc, kém hiệu quả. Cụ thể phương thức thanh toán lòng vòng, chậm chạp (một khoản chuyển tiền thanh toán chi trả tiền hàng khi thực hiện phải mất rất nhiều thời gian từ 5-10 ngày). Vì công cụ thanh toán kém linh hoạt, thủ tục phức tạp, các phương tiện làm việc lạc hậu, và thực hiện thanh toán bằng thủ công. Do điều kiện kỹ thuạt lạc hậu, công cụ thanh toán nói trên dẫn đến tốc độ luân chuyển vốn chậm chạp, thiếu chính xác, cung cấp thông tin không kịp thời và không đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia thanh toán làm ảnh hưởng đến tốc độ và kéo dài chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Ngoài công cụ thanh toán nghèo nàn ngân hàng còn có quy định cho các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế chỉ được mở tài khoản tiền gửi tại địa phương mình hoạt động (cùng địa phương).Khách hàng không được tự do lựa chọn ngân hàng dẫn đến không có sự cạnh tranh giữa các ngân hàng.
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp việc thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta tuy đã được áp dụng khá rộng rãi trong nền kinh tế nhằm giảm bớt lượng tiền mặt đi vào lưu thông bằng cách ngân hàng đã quy định cho các doanh nghiệp định mức tồn quỹ tiền mặt, định mức tạo chi... nhưng vẫn kém hiệu quả, cụ thể những năm đó lượng tiền mặt trong lưu thông rất lớn, ngân hàng ở trong tình trạng khan hiếm tiền mặt, như vậy ngân hàng chưa làm tốt chức năng thanh toán của mình để giúp cho nền kinh tế phát triển. Ngân hàng được xây dựng theo mô hình một cấp gồm Ngân hàng Nhà nước và các chi nhánh vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng ngân hàng vừa thực hiện chức năng kinh doanh hoạt động theo phương thức kế hoạch hoá tập trên từ dưới lên trên.
2. Thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Khi nền kinh tế của nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi ngành ngân hàng phải tiến hành sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện chế độ, thể lệ thanh toán và áp dụng tiến bộ khoa học vào kỹ thuật thanh toán không dùng tiền mặt cho phù hợp và đáp ứng được yêu cầu đa dạng hoá của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Ngày 26/03/1988 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53 về tổ chức bộ máy ngân hàng theo Nghị định này hệ thống ngân hàng bắt đầu được chia thành hai cấp.
- Cấp quản lý: Là Ngân hàng Nhà nước có chức năng độc quyền phát triển tiền, quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ngân hàng trên tầm quản lý vĩ mô.
- Cấp kinh doanh: Là các ngân hàng chuyên doanh thuộc sở hữu nhà nước và vẫn trực thuộc ngân hàng trung ương. Các ngân hàng này có chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng.
Sau khi hai pháp lệnh ngân hàng ra đời ngày 23/05/1990 đã đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường là lần lượt các Ngân hàng Thương mại, ngân hàng cổ phần được thành lập, chi nhánh ngân hàng nước ngoài... Năm 1990 hệ thống kho bạc ra đời mà chức năng quản lý quỹ ngân sách nhà nước. Bắt đầu của thời kỳ thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện bằng quyết định 101/NH-QĐ ngày 30/07/1991. Quyết định này ban hành các thể lệ chế độ thanh toán không dùng tiền mặt bằng bốn công cụ sau:
- Séc,
- Uỷ nhiệm chi,
- Uỷ nhiệm thu,
- Thẻ tín dụng,
Sau một thời gian thực hiện bốn công cụ trên chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu đa dạng hoá của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Để đáp ứng nhu cầu cấp bách của thị trường Ngân hàng Nhà nước đã bổ sung và ra quyết định số 22/QĐ - NH1 ngày 22/02/1994 theo quyết định này đã bổ sung thêm hai công cụ thanh toán mới đó là :
- Ngân phiếu thanh toán
- Thẻ thanh toán
Riêng thanh toán bằng séc đã được bổ sung thêm séc cá nhân nhằm thu hút và tạo điều kiện cho người dân quen dần với công việc thanh toán qua ngân hàng. Sau đó ngày 09/05/1996 Chính phủ ban hành Nghị định 30/CP về việc sử dụng séc mới trong cả nước áp dụng kể từ ngày 01/04/1997 thay thế cho các loại séc cũ. Việc áp dụng công cụ thanh toán mới đã đáp ứng được những yêu cầu thanh toán đa thành phần trong nền kinh tế, mọi tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế đều có thể tham gia trực tiếp thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá, dịch vụ phát triển, góp phần phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Từ khi đổi mới chế độ thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta đã có nhiều chuyển biến tốt và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Điều này đã được chứng minh trên các mặt sau:
- Qua các công cụ thanh toán liên hàng giữa các ngân hàng trong toàn quốc và thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước đã có bước tiến bộ rõ rệt. Từ khi áp dụng kỹ thuật máy vi tính để thanh toán liên hàng (trong cùng hệ thống ngân hàng công thương) tiến tới thanh toán điện tử thực hiện từ ngày 01/07/1996 trong toàn hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam. Khi thanh toán điện tử các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong thanh toán điện tử được hoàn tất trong một ngày làm việc. Trường hợp khách hàng yêu cầu chuyển nhanh và hoàn tất trong thời gian từ 1-3 giờ (khách hàng phải chịu phí dịch vụ khẩn theo quy định).
- Qua thanh toán bù trừ: Các Ngân hàng Thương mại, tổ chức tín dụng, kho bạc khi tham gia thanh toán bừ trừ được giao nhận chứng từ hai phiên trong ngày qua đĩa mềm (tại ngân hàng chủ trì là ngân hàng nhà nước).
Việc áp dụng thanh toán điện tử, thanh toán bừ trừ đã làm tăng nhanh tốc độ thanh toán, giảm bớt thời gian chiếm dụng vốn, mức độ an toàn cao, tiện lợi cho các khách hàng, rút ngắn thời gian chu chuyển vốn của doanh nghiệp và cá nhân.
- Bổ sung hai công cụ thanh toán mới: ngân phiếu thanh toán và thẻ thanh toán, sửa đổi một số quy định trong các công cụ thanh toán truyền thống lạc hậu đã thấy rõ ngân hàng đã làm tốt chức năng thanh toán, đáp ứng yêu cầu đổi mới của nền kinh tế nhiều thành phần.
- Việc ngân hàng từng bước áp dụng công nghệ tin học tiên tiến vào thanh toán nhằm hạn chế sai sót nhỏ của thao tác thủ công, tăng nhanh tốc độ luân chuyển nhằm thu hút khách hàng, tạo lòng tin của ngân hàng đối với doanh nghiệp và cá nhân. Đồng thời cũng nâng cao trình độ của ngành ngân hàng trong nước tiến kịp các ngân hàng trong khu vực và thế giới.
- Việc khách hàng được tự do lựa chọn ngân hàng để hoạt động đã tạo điều kiện mở rộng mạng lưới thanh toán không dùng tiền mặt. Để thu hút được nhiều khách hàng ngân hàng phải nâng cao uy tín của mình bằng chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng trên thương trường.
Xuất phát từ sự đổi mới này, thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta, đặc biệt từ sau quyết định 22/QĐ-NH đã tăng nhanh về số lượng, chất lượng và các thành phần tham gia. Như vậy lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt đã không ngừng được mở rộng ở mọi thành phần kinh tế. Việc nâng cao và cải tiến áp dụng khoa học tiên tiến vào kỹ thuật thanh toán luôn là khâu mấu chốt quan trọng để ngân hàng đảm bảo thanh toán nhanh, an toàn rút ngắn thời gian thanh toán, chính xác tiện lợi, góp một phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới kinh tế thị trường của đất nước. Qua đó nó cũng tỏ rõ ưu thế hơn hẳn của thanh toán không dùng tiền mặt so với thanh toán bằng tiền mặt.
III. Những quy định mang tính nguyên tắc về thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt nam.
Hiện nay ở nước ta thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện theo quyết định 22/QĐ-NH1 ngày 21/2/1994 và Thông tư hướng dẫn số 08/TT-NH2 ban hành ngày 02/6/1994 và mới đây là nghị định 30/CP ngày 09/5/1996 của Chính phủ và Thông tư 07/TT - NH1 ngày 27/12/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện quy chế phát hành và sử dụng séc. Trong đó có các quy định:
1. Quy định chung:
“Các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, đoàn thể...công dân Việt nam và người nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt nam (gọi chung là đơn vị hay cá nhân) đều có quyền lựa chọn ngân hàng để mở tại khoản giao dịch và thực hiện thanh toán”.
Với quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình kinh doanh, họ sẽ tìm thị trường thuận lợi nhất để hoạt động, lựa chọn những ngân hàng có uy tín, chất lượng và phục vụ tốt nhất cho nhu cầu thanh toán của họ. Từ đó tạo cho khách hàng có điều kiện mở rộng mạng lưới kinh doanh của mình trên toàn quốc mà vânx tiến hành giao dịch thanh toán chi trả một cách thuận lợi, nhanh chóng và an toàn.
Đối với ngân hàng quy định này đòi hỏi mỗi một ngân hàng phải thường xuyên đổi mới, hoàn thiện dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt bằng cách phải đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ và sử dụng máy vi tính thành thạo để nắm bắt được những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, bên cạnh đó thái độ phục vụ khách hàng của cán bộ nhân viên phải nhiệt tình, hướng dẫn đơn vị và cá nhân làm tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt theo đúng chế độ ban hành. Nhằm nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường và thu hút được nhiều khách hàng.
2. Quy định đối với khách hàng:
2.1. Quy định đối với bên mua (bên phải trả)
''Để thực hiện thanh toán đầy đủ, kịp thời, các chủ tài khoản (bên trả tiền) phải có đủ số dư trên tài khoản. Mọi trường hợp thanh toán vượt quá số dư trên tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, kho bạc nhà nước là vi phạm chế độ thanh toán và phải bị xử lý theo pháp luật ''.
Quy định này nhằm tránh tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các bên tham gia thanh toán, giúp cho người chi trả cũng như người thụ hưởng chủ động vốn của mình trong quá trình sản xuất kinh doanh, góp phần tăng nhanh vòng quay vốn của các đơn vị kinh tế cũng như tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn trong toàn bộ nền kinh tế.
2.2. Quy định đối với bên bán (bên thụ hưởng)
''Người thụ hưởng khi nhận được các chứng từ thanh toán phải kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ này (ghi đầy đủ mọi yếu tố quy định, không sửa chữa tẩy xoá các chữ ký và dấu phải đúng với mẫu chữ ký đã đăng ký ở ngân hàng). Nộp các chứng từ thanh toán vào ngân hàng đúng với thời gian quy định cho từng loại chứng từ. Nếu thiếu một trong các điều kiện trên, giấy tờ thanh toán sẽ không hợp lệ, không có giá trị thanh toán ''.
Quy định này nhằm bảo vệ an toàn tài sản cho các khách hàng kể cả người chi trả, người thụ hưởng và ngân hàng tránh tình trạng sơ hở để kẻ gian lợi dụng tham ô.
3. Quy định đối với ngân hàng (người thực hiện thanh toán).
Ngân hàng Thương mại và kho bạc nhà nước có trách nhiệm thực hiện các uỷ nhiệm thanh toán của chủ tài khoản, đảm bảo chính xác, kịp thời, an toàn, thuận tiện. Các Ngân hàng Thương mại và kho bạc nhà nước có trách nhiệm chi trả bằng tiền mặt hay chuyển khoản trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi theo yêu cầu của chủ tài khoản.
Ngân hàng Thương mại và kho bạc Nhà nước có trách nhiệm kiểm tra khả năng thanh toán của chủ tài khoản (bên trả tiền) trước khi thực hiện việc thanh toán, đồng thời được quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản không đủ tiền hoặc chứng từ thanh toán không đầy đủ các yếu tố quy định. Ngân hàng Thương mại hay kho bạc nhà nước không chịu trách nhiệm về nội dung liên đới của hai bên khách hàng. Nếu do thiếu sót trong quá trình thanh toán gây thiệt hại cho khách hàng thì ngân hàng và kho bạc nhà nước phải bồi thường thiệt hại tuỳ theo mức độ.
- Ngân hàng Thương mại và kho bạc nhà nước chỉ cung cấp số liệu trên tài khoản khách hàng cho các cơ quan bên ngoài khi có văn bản của cơ quan có thẩm quyền theo qui định của pháp luật.
- Khi thực hiện các dịnh vụ thanh toán cho khách hàng, ngân hàng được thu phí theo qui định của Thống đốc ngân hàng nhà nước.
Qui định này đã hoàn toàn xoá bỏ mặc cảm trước đây của khách hàng về thanh toán ngân hàng, tạo sự tin tưởng tuyệt đối của khách hàng khi mà họ có số lượng vốn không nhỏ giữ tại ngân hàng và uỷ quyền cho ngân hàng thanh toán.
Qui định cũng phân biệt trách nhiệm vật chất, pháp lý rõ ràng giữa ngân hàng và khách hàng khi một trong hai bên vi phạm chế độ thanh toán, nhằm đảm bảo quyền lợi cho khách hàng và quy định những khoản phí mà họ phải trả cho ngân hàng khi thực hiện thanh toán. Việc thu phí dịch vụ thanh toán làm tăng khoản thu nhập của ngân hàng.
IV. Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng ở nước ta hiện nay:
Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của các mối quan hệ kinh tế xã hội, trong quá trình hoạt động kinh tế, ngày nay hầu hết các ngân hàng đã và đang từng bước đưa công nghệ tiên tiến, tin học hoá vào khâu thanh toán song song với việc thực hiện áp dụng khoa học kỹ thuật, ngành ngân hàng cũng ra sức hoàn thiện các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt sao cho mang lại hiệu quả cao nhất.
Thanh toán không dùng tiền mặt là phương thức thanh toán có nhiều ưu điểm. Nó được áp dụng rộng rãi khắp trên thế giới. ở Việt Nam thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng trong ngân hàng kể từ khi ngân hàng mới được thành lập. Để phù hợp với yêu cầu đổi mới nền kinh tế và đổi mới hoạt động ngân hàng theo cơ chế thị trường, trước đây theo quyết định số 22/QĐ - NH1 ban hành ngày 21/2/1994 và hiện nay theo nghị định 30/CP của chính phủ ban hành ngày 09/5/1996 ngân hàng đang áp dụng các thể thức sau.
- Thanh toán bằng tiền séc
- Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi - chuyển tiền
- Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu
- Thanh toán bằng thẻ tín dụng
- Thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán
- Thanh toán bằng thẻ thanh toán
1. Thanh toán bằng séc:
Séc được thực hiện thanh toán qua ngân hàng từ năm 1951(khi ngân hàng Việt Nam thành lập) theo quyết định 101/QĐNH ra đời rồi thay thế bằng quyết định 22/QĐ của thống đốc ngân hàng Nhà nước ngày 21/2/1994 và gần đây nhất là nghị định 30/CP ngày 09/5/1996 của Chính phủ đã quy định thống nhất việc thanh toán bằng séc qua ngân hàng.
Séc là loại giấy tờ thanh toán do chủ tài khoản lập trên mẫu in sẵn đặc biệt của ngân hàng, được giao trực tiếp cho người hưởng sau khi đã nhận hàng hoá và được cung ứng dịch vụ sau đó ngân hàng trích tài khoản của mình cho người được hưởng có tên trên tờ séc.
Trong quan hệ thanh toán gồm có 3 chủ thể:
- Người phát hành: Là chủ tài khoản tiền gửi thanh toán hoặc người được uỷ quyền ký tên để phát hành tờ séc theo đúng quy định của pháp luật về uỷ quyền. Người phát hành séc phải chịu mọi trách nhiệm pháp lý về việc pháp hành séc của mình theo đúng thủ tục của ngân hàng quy định và phải chịu phạt khi phát hành quá số dư.
- Người thụ hưởng séc: Là người có quyền sở hữu số tiền ghi trên séc. Khi nhận séc người thụ hưởng phải kiểm tra đầy đủ tính hợp lệ, hợp pháp của tờ séc và phải nộp vào ngân hàng tờ séc đó trong thời hạn của nó.
- Ngân hàng: Séc của ngân hàng hay khách hàng phát hành trước hết được thanh toán trong ngân hàng đó, tuỳ từng loại có thể được thanh toán ở ngân hàng khác cùng hệ thống hoặc khác hệ thống trên địa bàn. Ngân hàng phải kiểm tra tính hợp lệ và hựp pháp của tờ séc trước khi chấp nhận thanh toán và ngân hàng có quyền từ chối thanh toán nếu phát hiện séc xin thanh toán là giả, không hợp lệ, séc quá thời hạn và séc đã được thông báo mất...
Về nguyên tắc séc được nộp vào ngân hàng ghi nợ trước có sau, tuỳ từng hệ thống ngân hàng, tuỳ từng thể thức thanh toán mà trên thực tế séc có thể được ghi có trước nợ sau.
Thời hạn hiệu lực thanh toán của séc là 15 từ ngày phát hành séc, kể cả ngày lễ và chủ nhật. Nếu ngày đến hạn là ngày lễ hoặc chủ nhật thì thời hạn của tờ séc được lùi vào ngày làm việc tiếp theo.
ở nước ta hiện nay có các loại séc sau đây được sử dụng rộng rãi: séc chuyển khoản, séc bảo chi.
1.1. Séc chuyển khoản:
Séc chuyển khoản là lệnh trả tiền của người phát hành séc đối với ngân hàng phục vụ mình về việc trích trả tiền từ tài khoản của mình trả cho người có tên trên tờ séc.
- Phạm vi áp dụng: Dùng để thanh toán giữa hai khách hàng có tài khoản trong cùng một ngân hàng hay hai ngân hàng cùng hoặc khác hệ thống nhưng có tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp trên địa bàn địa phương, tỉnh, thành phố.
- Nguyên tắc hạch toán: Ghi “Nợ” tài khoản bên trả tiền trước, ghi “Có” tài khoản người thụ hưởng sau. Séc chuyển khoản khi về đến ngân hàng, Kho bạc Nhà nước phục vụ bên trả tiền nếu quá số dư tài khoản tiền gửi hoặc tiền lưu ký thì xử lý như sau:
+ Người phát hành séc chuyển khoản phải chịu phạt tiền bằng 30% số tiền phát hành quá số dư.
+ Chịu phạt chậm trả (kể từ ngày tờ séc quay về ngân hàng phục vụ người phát hành séc chuyển khoản cho đến ngày có đủ vốn thanh toán) bằng mức lãi suất nợ quá hạn loại cho vay cao nhất tại ngân hàng phục vụ người phát hành.
Trường hợp séc chuyển khoản thanh toán giữa hai ngân hàng có tham gia giao nhận chứng từ trực tiếp thì người hưởng lập bảng kê nộp séc theo từng ngân hàng phục vụ người chi trả để nộp vào ngân hàng phục vụ mình hoặc nộp trực tiếp vào ngân hàng phục vụ bên mua. Nếu nộp séc kèm bảng kê nộp séc vào ngân hàng phục vụ bên bán thì ngân hàng bên bán sẽ chuyển séc và bảng kê sang ngân hàng phục vụ bên mua để ngân hàng bên mua căn cứ vào tờ séc cùng các chứng từ khác để hạch toán:
Nợ: Tài khoản đơn vị phát hành séc.
Có: Tài khoản thanh toán bù trừ.
Hoặc có: Tài khoản tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước (nếu thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước).
Hoặc có: Tài khoản liên hàn._.g đi (hai ngân hàng cùng hệ thống có thanh toán).
Sau đó chuyển chứng từ vào bảng kê sang ngân hàng phục vụ đơn vị bán. Tại ngân hàng phục vụ đơn vị bán sẽ hạch toán:
Nợ: TK tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước.
Hoặc: TK thanh toán bù trừ.
Hoặc: TK liên hàng đến.
Có: TK của đơn vị bán.
1.2. Séc bảo chi:
* Nội dung và phạm vi phát hành séc bảo chi:
- Séc bảo chi là tờ séc được ngân hàng phục vụ người mua đảm bảo thanh toán trước khi trao tờ séc cho người bán.
- Séc bảo chi được thanh toán trong phạm vi giữa hai đơn vị mua và bán mở tài khoản cùng một Ngân hàng, giữa hai đơn vị mua và bán mở tài khoản ở hai ngân hàng khác hệ thống nhưng có tham gia thanh toán bù trừ và giao nhận chứng từ trực tiếp và được áp dụng giữa 2 đơn vị mua và bán ở khác ngân hàng nhưng cùng hệ thống.
- Thời hạn của séc bảo chi là 15 ngày làm việc.
* Thủ tục phát hành séc bảo chi.
- Đơn vị mua hàng muốn thanh toán bằng séc bảo chi sẽ lập ba liên uỷ nhiệm chi và tờ séc chuyển khoản đã ghi đầy đủ các yếu tố gửi vào ngân hàng phục vụ mình. Tại ngân hàng phục vụ đơn vị mua sẽ kiểm soát tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc và uỷ nhiệm chi. Nếu tất cả đều hợp lệ thì kế toán sẽ căn cứ vào các liên uỷ nhiệm chi ghi:
Nợ: Tài khoản tiền gửi thanh toán của đơn vị phát hành séc.
Có: Tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi.
Sau đó làm thủ tục đóng dấu bảo chi lên tở séc và trao cho khách hàng. Trường hợp khách hàng xin bảo chi từ tài khoản chuyển tiền phải trả thì chỉ cấn lập uỷ nhiệm chi hay giấy xin bảo chi séc. Khi đó ngân hàng sẽ viết vào séc và làm thủ tục chi cho khách hàng.
* Thủ tục thanh toán séc bảo chi:
- Nếu séc bảo chi thanh toán giữa hai đơn vị mở tài khoản cùng ở một ngân hàng thì bên thụ hưởng phải lập bảng kê nộp séc kèm tờ séc bảo chi gửi vào ngân hàng, ngân hàng sẽ tiến hành kiểm soát tính hợp pháp, hợp lệ và thời hạn hiệu lực, sau đó hạch toán.
Nợ: TK tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi.
Có: TK tiền gửi của người thụ hưởng.
- Nếu hai đơn vị mở tài khoản ở khác ngân hàng khác hệ thống có tham gia thanh toán bù trừ thì tại ngân hàng phục vụ đơn vị thụ hưởng sau khi kiểm soát đủ điều kiện sẽ hạch toán:
Nợ: TK thanh toán bù trừ ngân hàng thành viên.
Có: TK tiền gửi của người thụ hưởng.
Trường hợp thanh toán khác ngân hàng cùng hệ thống và khác địa phương hạch toán:
Nợ : TK liên hàng đi .
Có : TK tiền gửi của người thụ hưởng .
Tại ngân hàng phục vụ đơn vị phát hành séc (đơn vị mua) khi nhận được các chứng từ kèm séc bảo chi từ ngân hàng khác chuyển đến thì sẽ hạch toán:
Nợ: TK tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi.
Có: TK liên hàng đến.
Hoặc TK thanh toán bù trừ.
2. Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi - chuyển tiền:
Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản được lập theo mẫu in sẵn của ngân hàng, yêu cầu ngân hàng phục vụ mình (nơi mở tài khoản tiền gửi) thanh toán để chi trả cho người thụ hưởng.
Uỷ nhiệm chi dùng để thanh toán các khoản trả tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc chuyển tiền trong cùng hệ thống và khác hệ thống ngân hàng.
Trong một ngày làm việc, ngân hàng hoặc kho bạc nhà nước phải hoàn tất lệnh chi đó hoặc từ chối nếu tài khoản của khách không đủ tiền hoặc lệnh chi không hợp lệ. Ngân hàng bên thụ hưởng khi nhận được chứng từ hợp lệ phải ghi có ngay vào tài khoản của khách hàng và báo cho khách biết.
Uỷ nhiệm chi còn để xin cấp séc chuyển tiền, nếu khách hàng có nhu cầu xin cấp séc chuyển tiền phải lập 3 liên uỷ nhiệm chi kèm theo chứng minh thư của người cầm séc mang đến ngân hàng thanh toán xin ký gửi khoản tiền trên tờ séc vào tài khoản của ngân hàng đảm bảo cho thanh toán séc. Sau khi kiểm soát đầy đủ các yếu tố, ngân hàng sẽ cấp séc uỷ nhiệm (chỉ đựơc áp dụng trong cùng hệ thống ngân hàng). Thời hạn hiệu lực tờ séc chuyển tiền là 30 ngày kể từ ngày phát hành ghi trên tờ séc.
Uỷ nhiệm chi là một hình thức thanh toán đơn giản thuận tiện và được áp dụng nhiều năm nay. Uỷ nhiệm chi được sử dụng khá phổ biến trong thanh toán phi hàng hoá như cấp kinh phí, trả nợ, thực hiện nghĩa vụ ngân sách.
Hướng đổi mới công nghệ thanh toán là phát huy ưu thế của công cụ uỷ nhiệm chi trong việc hình thành và phát triển các quan hệ thương mại, tín nhiệm giữa các doanh nghiệp trong cả nước.
3. Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu.
ủy nhiệm thu do người thụ hưởng lập theo mẫu in sẵn của ngân hàng và gửi vào ngân hàng phục vụ mình để thu tiền hàng đã giao, hoặc dịch vụ đã cung ứng
ủy nhiệm thu được áp dụng thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản cùng một chi nhánh ngân hàng hoặc các chi nhánh ngân hàng cùng hệ thống hoặc khác hệ thống có tham gia thanh toán bừ trừ.
Để được thanh toán bằng uỷ nhiệm thu, khách hàng mua và bán phải thống nhất ký hợp đồng thoả thuận dùng hình thức thanh toán uỷ nhiệm thu với điều kiện thanh toán đã ghi rõ trong hợp đồng kinh tế và phải thông báo bằng văn bản cho ngân hàng phục vụ người mua biết để làm căn cứ thanh toán các uỷ nhiệm thu.
Sau khi đã hoàn tất dịch vụ cung ứng, bên thụ hưởng lập uỷ nhiệm thu kèm theo hoá đơn, vận đơn gửi đến ngân hàng phục vụ mình hoặc gửi trực tiếp tới ngân hàng phục vụ bên trả tiền để yêu cầu thu hộ. Khi nhận được giấy uỷ nhiệm thu trong vòng một ngày làm việc, ngân hàng bên trả tiền trích tài khoản của bên trả tiền trả ngay cho bên thụ hưởng để hoàn tất việc thanh toán. Nếu tài khoản bên trả tiền không đủ tiền thì bên trả phải bị phạt chậm trả cho bên thụ hưởng. Thời gian phạt tính từ ngày nhận uỷ nhiệm thu mà tài khoản tiền gửi không đủ tiền thanh toán đến ngày có đủ tiền. Mức phạt được tính như sau:
Số tiền x Số ngày chậm trả x 150% mức lãi suất vay hiện hành
Uỷ nhiệm thu được áp dụng cho hai bên thanh toán mua và bán có sự tín nhiệm với nhau, hình thức thanh toán thích hợp đối với các dịch vụ cung ứng, với khối lượng định kỳ như điện, nước, điện thoại..v.v..
Đối với hình thức này, hiện nay ít được khách hàng sử dụng vì có nhiều nhược điểm như sự sai lệch tiền và hàng, mọi tranh chấp về chứng từ khống. Dịch vụ này đều do hai bên tự giải quyết, các đơn vị thường tìm cách chiếm dụng vốn lẫn nhau. Mặt khác Uỷ nhiệm thu và chứng từ giao hàng lại xuất phát từ bên bán nhưng đòi hỏi ghi Nợ trước Có sau cho nên thanh toán chậm trễ, không thu hút được khách hàng.
4. Thanh toán bằng thư tín dụng.
Thư tín dụng được dùng để thanh toán tiền hàng trong điều kiện bên bán đòi hỏi phải có đủ số tiền để chi trả ngay và phù hợp với tổng số tiền hàng đã giao theo hợp đồng hoặc đơn đặt hàng đã ký.
Khi có nhu cầu, bên mua lập giấy mở thư tín dụng yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tài khoản tiền gửi (hoặc tiền vay ngân hàng) một số tiền bằng tổng giá trị hàng đặt mua để lưu ký vào một tài khoản riêng. Ngân hàng bên trả tiền phải gửi ngay thư tín dụng cho ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng để báo cáo cho khách hàng biết.
Mức tối thiểu của một thư tín dụng là 10 triệu đồng, tiền gửi thư tín dụng không được hưởng lãi, mỗi thư tín dụng chỉ dùng để trả cho một người thụ hưởng.
Thời hạn hiệu lực thanh toán của một thư tín dụng là 03 tháng kể từ ngày ngân hàng bên mua nhận mở thư tín dụng. Bên bán có trách nhiệm giao hàng cho bên mua sau khi nhận được giấy báo thư tín dụng đã mở.
Thư tín dụng được áp dụng thanh toán giữa hai đơn vị mở và sử dụng tài khoản ở hai ngân hàng khác nhau trong cùng hệ thống.
Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng trả tiền cho bên thụ hưởng căn cứ vào hoá đơn, vận đơn, các chứng từ giao nhận hàng có chữ ký của người đại diện trả tiền, kèm theo giấy uỷ nhiệm của người đã trả tiền do người thụ hưởng xuất trình, phù hợp với các điều khoản quy định thống nhất giữa hai bên mua, bán được ghi trên thư tín dụng. Sau khi trả tiền ngân hàng phục vụ người thụ hưởng phải báo nợ ngay cho ngân hàng phục vụ người trả tiền để tất toán thư tín dụng.
Mọi trường hợp tranh chấp về hàng hoá đã giao và tiền hàng đã trả do hai bên mua bán giải quyết.
Phần lớn thư tín dụng được áp dụng trong thanh toán ngoại thương. Mua bán ở phạm vi quốc gia ít được sử dụng vì thủ tục phiền hà, hơn nữa phải lưu ký một số tiền lớn trên tài khoản mà không được hưởng lãi nên gây ra đọng vốn.
5. Thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán.
Đáp ứng nhu cầu ngày thanh toán ngày càng phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho việc chu chuyển vốn của các doanh nghiệp, góp phần giảm bớt nhu cầu tiền mặt, ngày 21/11/1992, Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành quyết định 239/QĐ - NH1, đưa ngân phiếu thanh toán vào sử dụng.
Ngân phiếu thanh toán là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do Nhà nước độc quyền phát hành. Ngân phiếu thanh toán được lưu hành trong cả nước, có mệnh giá trên mỗi tờ, không ghi tên và địa chỉ chuyển nhượng.
Mệnh giá cụ thể do Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định trong từng thời kỳ. Hiện nay, ngân phiếu thanh toán có các mệnh giá là 500.000 đồng, 1.000.000 đồng và 5.000.000 đồng.
Ngân phiếu thanh toán được áp dụng cho khách hàng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, trả nợ ngân hàng, nộp ngân sách, gửi vào tài khoản tiền gửi ngân hàng và gửi tiết kiệm.
Thủ tục nộp, lĩnh ngân phiếu thanh toán được áp dụng như thủ tục nộp và lĩnh tiền mặt.
Khi khách hàng không sử dụng ngân phiếu thanh toán hoặc hết thời hạn lưu hành, người sử dụng ngân phiếu thanh toán nộp vào ngân hàng hay kho bạc nhà nước để ghi có vào tài khoản tiền gửi hoặc đổi lấy tiền mặt hay ngân phiếu thanh toán đang có giá trị lưu hành theo yêu cầu của khách.
Ngân phiếu thanh toán không có hiệu lực thanh toán là ngân phiếu đã hết thời hạn lưu hành, bị tẩy xoá, rách nát, dây bẩn...
Ngân phiếu thanh toán được bảo quản như tiền, mất ngân phiếu thanh toán cũng như mất tiền.
Ngân phiếu thanh toán là một hình thức mới ra đời, khách hàng rất ưa chuộng vì sử dụng tiện lợi, như sử dụng tiền mặt, song lại tiết kiệm nhiều công sức kiểm đếm giao nhận, phạm vi thanh toán rộng, tốc độ thanh toán nhanh, phù hợp với cơ chế thị trường. Người sử dụng ngân phiếu chủ động. Nếu để thanh toán ngân phiếu lưu thông một cách qúa rộng rãi cũng có thể gây ra lạm phát như lưu thông tiền mặt. Từ đó ngân phiếu thanh toán chỉ coi như là một giải pháp tình thế trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi. Khi nhu cầu tiền mặt đủ đảm bảo bình thường thì thay thế ngân phiếu thanh toán bằng hình thức thích hợp hơn.
6. Thẻ thanh toán.
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán gắn với kỹ thuật tin học được ứng dụng trong ngân hàng.
Thẻ thanh toán do ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng hoá, dịch vụ, các khoản thanh toán khác và rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền tự động.
Thẻ thanh toán có nhiều loại, trước mắt được áp dụng 03 loại thẻ sau:
6.1. Thẻ ghi nợ (thẻ không phải ký quỹ) còn lại là thẻ loại A.
Khách hàng sử dụng loại thẻ này không phải lưu ký trước số tiền vào một tài khoản nhằm đảm bảo thanh toán cho thẻ mà căn cứ để thanh toán là dựa trên số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng và hạn mức thanh toán theo quy định đã được ngân hàng ghi vào bộ nhớ của thẻ.
Thẻ được dùng đối với khách hàng có quan hệ tín dụng, thanh toán thường xuyên, có tín nhiệm với ngân hàng, do giám đốc ngân hàng phát hành thẻ xem xét và quyết định.
6.2. Thẻ ký quỹ thanh toán (thẻ loại B)
Muốn sử dụng thẻ này khách hàng phải lưu ký tiền vào một tài khoản riêng tại ngân hàng và được sử dụng thẻ có giá trị thanh toán bằng số tiền ký quỹ ghi trong thẻ đã lưu ký. Loại thẻ này được áp dụng rộng rãi cho mọi khách hàng.
6.3. Thẻ tín dụng (thẻ loại C)
áp dụng đối với các khách hàng có đủ điều kiện được ngân hàng cho vay tiền. Khách hàng chỉ được thanh toán số tiền trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được ngân hàng chấp nhận bằng văn bản.
Thẻ thanh toán ở nước ta mới ở giai đoạn thí nghiệm cần phải tiếp tục hoàn thiện. Đây là một dịch vụ hoàn toàn tự động và dựa trên cơ sở công nghệ tiên tiến nên phải có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Hiện nay do vốn đầu tư hạn chế nên chưa trang bị được máy đọc thẻ ở nhiều nơi, vì vậy chưa được sử dụng rộng rãi. Trong tương lai, Việt Nam sẽ xây dựng nhiều siêu thị, trung tâm thương mại thì thẻ thanh toán sẽ được sử dụng rộng rãi và trở thành phương tiện thanh toán được dùng nhiều nhất, tiện lợi nhất.
Chương II:
Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt
tại Ngân hàng Công thương Đống Đa
I. Khái Quát hoạt động kinh tế xã hội Quận Đống Đa.
Đống Đa là một trong bẩy quận nội thành của thành phố Hà Nội, có mật độ dân cư đông đúc, diện tích rộng với khu công nghiệp lớn, tập trung nhiều nhà máy lớn sản xuất công nghiệp như ngành cơ khí, chế biến cao su, may mặc, giầy da... Đống Đa mang tính đặc thù là khu trung tâm sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của thành phố, lại là một trong những quận có diện tích lớn, cho nên hoạt động kinh tế trên địa bàn quận rất sôi động với tất cả các thành phần kinh tế, nhất là khu vực kinh tế tư nhân, cá thể có khả năng tiềm tàng rất lớn. Phần lớn các doanh nghiệp quốc doanh là một số lượng lớn các công ty tư nhân đóng trên địa bàn quận đều mở tài khoản và thực hiện thanh toán tại Ngân hàng Công thương Đống Đa. Được tự do cạnh tranh, bình đẳng trước pháp luật cho nên tất cả các thành phần kinh tế, hộ sản xuất cá thể, tư nhân có vốn, có khả năng sản xuất kinh doanh đều vươn ra thị trường.
Theo báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế, xã hội 6 tháng đầu năm 2000 và phương hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2000 của uỷ ban nhân dân quận Đống Đa về tình hình sản xuất kinh doanh :
- Sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2000 là 82 tỷ 999 triệu đạt 41% kế hoạch năm.
- Kinh tế tập thể tăng 34%so với cùng kỳ, tập trung ở các hợp tác xã đã cổ phần hoá
- Kinh tế cá thể tăng 41% so với cùng kỳ.
Nhìn chung trong 6 tháng đầu năm 2000 kinh tế trong quận tiếp tục tăng trưởng. Tuy nhiên một số doanh nghiệp nhà nước trong quận có phần chững lại, kinh doanh hiệu quả thấp. Quận đã tập trung tìm biện pháp tháo gỡ, củng cố để các doanh nghiệp phấn đấu đến cuối năm 2000 giá trị sản lượng công nghiệp đạt 114.802.000.000 = 59% kế hoạch năm, tăng 20,7% so với cùng kỳ năm 1999. Giá trị xuất khẩu tăng 28,8% so với năm 1999.
Đống Đa là quận có nhiều khu dân cư lớn như Kim Liên, Trung Tự, Giảng Võ, Vĩnh Hồ, Thành Công... và nhiều khu tập trung sản xuất kinh doanh như Nam Đồng, Tôn Đức Thắng, Khâm Thiên... nhất là thành phần kinh tế tư nhân, hộ kinh doanh cá thể. Đa số các hộ gia đình có thu nhập trên trung bình trở lên và rất nhiều hộ có thu nhập cao, có nhu cầu chi tiêu, thanh toán rất lớn. Trình độ dân trí đã cao hơn, nhất là trong thời đại kĩ thuật thông tin nghe nhìn như hiện nay.
Ngân hàng Công thương Đống Đa đóng trên địa điểm được coi là trung tâm địa bàn quận, là một đơn vị kinh doanh tiền tệ tín dụng đã góp phần quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn và thanh toán giúp cho các doanh nghiệp, cá nhân tham gia đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thanh toán kịp thời góp phần thúc đẩy kinh tế trong quận đạt hiệu quả cao.
II. Khái quát tình hình hoạt động của Ngân hàng Công thương Đống Đa.
1. Mô hình tổ chức:
Ngân hàng Công thương Đống Đa được thành lập ngày 01/08/1988 là một doanh nghiệp nhà nước thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng đối với các tổ chức doanh nghiệp, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước, đáp ứng nhu cầu vay vốn ngắn hạn trung và dài hạn (kể cả ngoại tệ) của mọi thành phần kinh tế có nhu cầu về vốn và thanh toán trong nền kinh tế.
Sự chuyển mình của cơ chế thị trường đã đặt các ngân hàng vào một môi trường mới, môi trường mà ở đó chỉ có chỗ đứng cho những ngân hàng nhạy bén, năng động và sáng tạo. Ngân hàng Công thương Đống Đa ngoài chức năng đi vay để cho vay, còn tổ chức tốt dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, làm nhiệm vụ bảo lãnh, dự thầu... Giúp cho các doanh nghiệp, cá nhân mở rộng hoạt động kinh doanh của mình để cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho xã hội, nhằm thúc đẩy nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển.
Ngân hàng Công thương Đống Đa là một chi nhánh ngân hàng quận trực thuộc Ngân hàng công thương Việt Nam. Cho nên Ngân hàng Công thương Đống Đa là một đơn vị hạch toán nội bộ, trực tiếp kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng trên địa bàn quận Đống Đa.
Ngân hàng Công thương Đống Đa có quy mô tương đối lớn khoảng 300 cán bộ nhân viên. Ngân hàng gồm có ban giám đốc với 1 giám đốc và 3 phó giám đốc. Các phòng ban chức năng đảm nhiệm công việc kinh doanh tuỳ từng nội dung. Hoạt động bao gồm :
1. Phòng kế toán - tài chính.
2. Phòng kinh doanh.
3. Phòng nguồn vốn.
4. Phòng kho quỹ tiền tệ.
5. Phòng Tổ chức - Hành chính.
6. Phòng thanh toán quốc tế.
7. Phòng kiểm soát.
Với 2 phòng giao dịch:
a. Phòng giao dịch Kim liên.
b. Phòng giao dịch Cát linh.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban giám đốc Ngân hàng Công thương Đống Đa, các phòng ban phối kết hợp chặt chẽ để hoạt động, làm tốt chức năng kinh doanh của ngân hàng là đi vay để cho vay, làm dịch vụ thanh toán đảm bảo an toàn vốn vay, thu hồi cả gốc và lãi, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và thu lợi nhuận của ngân hàng cao. Bằng cách luôn đổi mới phong cách lề lối làm việc, trân trọng khách hàng, nâng cao uy tín của ngân hàng đối với khách hàng, đưa khoa học công nghệ tin học mới vào khâu thanh toán. Thực hiện thanh toán nhanh, kịp thời, an toàn cho khách hàng và ngân hàng góp phần không nhỏ trong công cuộc phát triển kinh tế nhiều thành phần, thúc đẩy sản xuất, dịch vụ của nước ta ngày càng phát triển.
2. Hoạt động nguồn vốn.
Nhận thức được tầm quan trọng về công tác nguồn vốn của ngân hàng là “đi vay để cho vay” nên ngay từ đầu năm Ngân hàng Công thương Đống Đa đã đặc biệt quan tâm bằng mọi biện pháp duy trì và không ngừng tăng trưởng nguồn vốn. Vì vậy nguồn vốn của ngân hàng là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập và huy động được để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác.
Nguồn vốn tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động tiền gửi của Ngân hàng phải kể đến nguồn tiền gửi tiết kiệm. Để khai thác tối đa nguồn tiền gửi này, Ngân hàng Công thương Đống Đa đã đưa ra nhiều hình thức huy động tiết kiệm như tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn 3 tháng. 6 tháng, 9 tháng, 1 năm và tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ. Song song với việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn tiền gửi tiết kiệm, Ngân hàng đã mở rộng mạng lưới thu hút tiền gửi tiết kiệm đến tận các Phường trong Quận đống đa. Trong những năm qua Ngân hàng Công thương Đống Đa đã có nhứng khoản chi lớn để tu bổ, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật cho các Qũy tiết kiệm cũ, mở thêm các quỹ tiết kiệm mới, nâng tổng số qũy tiết kiệm của Ngân hàng lên 14 Quỹ. Hầu hết các qũy được xây dựng đẹp. ở vị trí thuận tiện, với đội ngũ nhân viên lịch sự trong giao tiếp đối với khách hàng nên đã thu hút thêm nhiều khách hàng tới gửi tiền ở Ngân hàng.
Nguồn vốn là cơ sở để thành lập và tổ chức các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, vì đối tượng kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ. Nếu nguồn vốn dồi dào, ngân hàng có điều kiện mở rộng quy mô tín dụng để thoả mãn tối đa nhu cầu về vốn trên địa bàn quận mà vẫn đảm bảo khả năng thanh toán chi trả cho đơn vị, mặt khác nó quyết định khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Nhận thức được vai trò cần thiết, quan trọng của nguồn vốn trong kinh doanh, Ngân hàng Công thương Đống Đa luôn quan tâm, chỉ đạo công tác huy động vốn trên địa bàn một cách tích cực, bằng nhiều biện pháp:
- Tuyên truyền, quảng cáo trên truyền hình, báo chí để thu hút khách hàng để mở tài khoản tiền gửi cá nhân và các tổ chức kinh tế. Với tháI độ tiếp khách nhiệt tình, văn minh, phục vụ khách hàng nhanh, đảm bảo chính xác và an toàn, thủ tục mở tài khoản đơn giản tránh phiền hà để thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư.
Với việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và mở rộng mạng lưới huy động vốn trên địa bàn Quận đã thu hút thêm nhiều khách hàng đến mở tài khoản tại Ngân hàng, nâng số tài khoản hoạt động từ 1824 tài khoản vào cuối năm 1999 lên 2300 tài khoản vào cuối năm 2000. Đến ngày 30/6/2001 tổng số tài khoản tiền gửi đã tăng lên 2602 tài khoản, tăng 302 tài khoản so với năm 2000.
Kết cấu vốn lưu động của Ngân hàng Công thương Đống Đa thời gian qua được phản ánh qua biểu sau:
Đơn vị : tỷ đồng.
Thời gian
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
30/6/2001
1. Tiền gửi của các TCKT
339
436
347
439
469
2. Tiền gửi dân cư và tiền gửi khác
850
859
1171
1360
1401
Tổng nguồn vốn
1.189
1295
1518
1799
1870
Theo bảng số liệu trên chúng ta thấy rằng tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng có chiều hướng gia tăng nhanh. Chỉ trong vòng 04 năm từ 1997 đến 2001 nguồn vốn huy động đã tăng rất nhanh. Trong đó nguồn vốn của các tổ chức kinh tế có chiều hướng gia tăng nhưng còn chậm. Trong thời gian gần đây do nguồn gửi tiết kiệm của Ngân hàng gia tăng mạnh Ngân hàng đã giảm bớt hình thức huy động bằng kỳ phiếu.
3. Công tác sử dụng vốn.
Với nguồn vốn huy động được trên địa bàn quận là chủ yếu, Ngân hàng Công thương Đống Đa đã sử dụng một cách tối đa để đáp ứng nhu cầu vay vốn: ngắn hạn, trung hạn, dàI hạn của các đơn vị kinh tế và cá nhân... trong quận bằng nhiều hình thức: cho vay ngắn hạn, cho vay đầu tư các dự án, cho vay sinh viên, tạo công ăn việc làm, cho vay hộ sản xuất, cầm cố...
Do tình hình sản xuất kinh doanh, dịch vụ của các thành phần kinh tế trong quận có nhiều biến động. Cụ thể về sản xuất công nghiệp: các doanh nghiệp sản xuất (quốc doanh và tư nhân) kỹ thuật công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới, thiếu vốn đầu tư... dẫn đến sản xuất hàng hoá trong một số doanh nghiệp trong quận sản phẩm sản xuất ra bị ứ đọng, chậm tiêu thụ gây ảnh hưởng không nhỏ cho việc kinh doanh của ngân hàng và đơn vị kinh tế.
Nhưng với đội ngũ cán bộ tín dụng có trình độ nghiệp vụ chuyên sâu và nhiệt tình, có đạo đức tốt nên Ngân hàng Công thương Đống Đa đã mở rộng thị trường tín dụng. Cán bộ tín dụng đã trực tiếp tiếp cận với doanh nghiệp và cá nhân để nắm vững tình hình các đối tượng có nhu cầu xin vay vốn, giúp cho việc phát tiền vay của ngân hàng mang lạI hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo an toàn vốn vay của ngân hàng, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất, giúp cho các đơn vị, cá nhân tìm ra hướng đI mới phù hợp với kinh tế thị trường, cải thiện đời sống kinh tế xã hội.
Để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động và vốn cố định của khách hàng Ngân hàng tiến hành cấp tín dụng với thời hạn ngắn, trung và dài hạn. Trong các loại hình cho vay này thì tín dụng ngắn hạn bao giờ cũng chiếm tỷ trọng lớn hơn so với tín dụng trung và dài hạn. Thực tế đó thể hiện qua biểu sau:
Đơn vị : tỷ đồng
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
30/6/2001
1. Dư nợ ngắn hạn
474
503
573
588
592
2. Dư nợ trung và dài hạn
67
100
121
183
190
Tổng dư nợ
541
603
694
771
782
Theo biểu trên thì dư nợ ngắn hạn và trung dài hạn đều có chiều hướng gia tăng.
Mặc dù nhu cầu vay vốn trung dài hạn lớn nhưng Ngân hàng vẫn không có đủ nguồn vốn trung dài hạn để đáp ứng nhu cầu vay này. Trong thời gian qua Ngân hàng tuy đã thực hiện cấp tín dụng bằng ngoại tệ nhưng loại tín dụng này vẫn chưa phát huy được hiệu quả do nguồn vốn ngoại tệ của Ngân hàng còn rất hạn hẹp, Ngân hàng phải thường xuyên nhận vốn điều hoà từ Ngân hàng Công thương trung ương, trong nhiều trường hợp Ngân hàng phải cho khách hàng vay VND để mua ngoại tệ.
Thấy được tầm quan trọng của thành phần kinh tế quốc doanh đối với nền kinh tế, trong quan hệ tín dụng với thành phần kinh tế này Ngân hàng Công thương Đống Đa đã tập trung một khối lượng vốn lớn để thoả mãn nhu cầu vốn lưu động và vốn cố định cho các doanh nghiệp làm ăn thực sự có hiệu quả để giúp doanh nghiệp có đủ sức vươn lên đứng vững trên thị trường.
4. Kinh doanh đối ngoại.
Sáu tháng đầu năm 2001 kinh doanh đối ngoại thu được kết quả đáng kể, thông qua hoạt động đối ngoại uy tín của Ngân hàng Công thương Đống Đa ngày càng được nâng cao, thu hút được thêm nhiều khách hàng. Lĩnh vực kinh doanh đối ngoại đã thu được 1852 triệu đồng, bao gồm phí thanh toán mở L/C và lãi mua bán, cụ thể:
- Đã mở 290 L/C nhập khẩu, số tiền là 18.528.040 USD cho 22 khách hàng.
- Đã mở được 8 L/C xuất khẩu, số tiền là 646.814 USD.
- Thu dịch vụ phí thanh toán quốc tế đạt 1348 triệu Đồng, bằng 124% so với 9 tháng đầu năm 1999.
Kinh doanh ngoại tệ:
- Tổng doanh số mua vào 20.991.548 USD và 2.183.881 DEM bằng 136% so với cùng kỳ năm 1999.
Tổng số doanh số bán ra là 22.142.062 USD và 2.146.604 DEM bằng 128% so với cùng kỳ năm 1999. Chênh lệch lãi 387 triệu Đồng chi trả kiều hối.
- Ngân hàng nhận số tiền 196.527 USD và 758.193 DEM
- Trả số tiền 193.927 USD và 755.950 DEM.
Hoạt động kinh doanh đối ngoại là nghiệp vụ tuy còn mới nhưng đã có nhiều triển vọng phát triển có hiệu quả. Thời gian qua ngoại tệ khan hiếm, nhưng chi nhánh đã tích cực khai thác bằng nhiều nguồn để tăng khả năng thanh toán bằng ngoại tệ đáp ứng được nhu cầu nhập vật tư hàng hoá của doanh nghiệp cũng như nhu cầu thanh toán kiều hối cho dân cư, Chi nhánh đã sử dụng nguồn ngoại tệ từ quỹ điều hoà của Trung ương cho vay có hiệu quả tăng vòng quay vốn ngoại tệ.
5. Công tác thanh toán:
Trong công tác thanh toán Ngân hàng Công thương Đống Đa luôn đặt việc phục vụ khách hàng với chất lượng cao, gây lòng tin với khách hàng là mục tiêu hàng đầu để thực hiện. Đào tạo đội ngũ thanh toán viên có trình độ nghiệp vụ thành thạo, thái độ phục vụ nghiêm túc, nhiệt tình, hướng dẫn khách hàng nắm vững thủ tục thanh toán không dùng tiền mặt trong giao dịch. Bên cạnh việc đào tạo con người, Ngân hàng còn trang bị hệ thống vi tính, thực hiện việc nối mạng trong toàn chi nhánh để cung cấp thông tin nhanh, chính xác để lãnh đạo chỉ đạo việc kinh doanh hoạt động của Ngân hàng được tốt.
Việc ngân hàng áp dụng thanh toán liên hàng đIện tử, thanh toán bù trừ qua vi tính (giao nhận qua đĩa mềm) đã đẩy nhanh tốc độ thanh toán rút ngắn thời gian chu chuyển vốn của khách hàng, đảm bảo an toàn cao, ít sai sót gây lòng tin và uy tín với khách hàng.
6. Kết quả tài chính:
Năm 1999 thu nhập cả năm đạt 111 tỷ đồng trong đó:
Thu lãi cho vay: 60,6 tỷ đồng
Thu lãi điều chuyển vốn : 45,2 tỷ đồng
Thu phí dịch vụ và bảo lãnh: 5,2 tỷ đồng
Năm 2000 thu nhập cả năm đạt 132 tỷ đồng trong đó:
Thu lãi cho vay: 72,5 tỷ đồng
Thu lãi điều chuyển vốn: 51,5 tỷ đồng
Thu phí dịch vụ và bảo lãnh: 8,0 tỷ đồng.
II. Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa:
1. Tình hình thanh toán nói chung:
Hoạt động trên phạm vi quân Đống Đa với nền kinh tế thị trường đa thành phần. Khách hàng là những doanh nghiệp nhà nước, HTX, tổ sản xuất, công ty TNHH, hộ cá thể và cá nhân, với số tài khoản tiền gửi lên tới 2102 có nhu cầu thanh toán qua ngân hàng. Đòi hỏi Ngân hàng Công thương Đống Đa quan tâm, chú trọng đến công tác thanh toán không dùng tiền mặt và coi đó là mục tiêu quan trọng hàng đầu. Vì nếu làm tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng, làm tăng thêm nguồn vốn trong thanh toán (với lãi suất thấp) tạo đIều kiện cho kinh doanh ngân hàng có hiệu quả cao, đáp ứng vốn cho nền kinh tế và tăng thu nhập về dịch vụ. Đồng thời giúp cho cá nhân quen dần với thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng, thấy hết được sự hơn hẳn của nó so với thanh toán bằng tiền mặt.
Thấy rõ được ưu điểm và thuận lợi của công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng nên một số các doanh nghiệp, công ty...và khách hàng càng quan tâm hơn đến phương thức này nhằm giảm tối đa về chi phí, tranh thủ được thời gian, cũng như an toàn vốn cao. Bên cạnh đó công tác thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện ở Ngân hàng Công thương Đống Đa trong 6 tháng đầu năm 2001 vẫn gặp khó khăn. Số liệu bảng 1 sẽ thể hiện điều đó:
Bảng 1:
Tình hình thực hiện thanh toán chung 6 tháng đầu năm 2000
và 6 tháng đầu năm 2001
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
6 tháng đầu năm 2000
6 tháng đầu năm 2001
So sánh
Doanh số
Tỷ trọng (%)
Doanh số
Tỷ trọng (%)
Tuyệt đối
Tương đối (%)
Thanh toán bằng tiền mặt
2.140.247
31,8
2.103.956
28,1
-36.291
-1,7
Thanh toán không dùng tiền mặt
5.140.573
70,6
5.383.413
71,9
+244.838
4,8
Doanh số thanh toán chung
7.280.822
100
7.489.369
100
+208.547
+2,8
Qua số liệu ở bảng 1 cho ta thấy: Tổng doanh số thanh toán chung 6 tháng đầu năm 2001 là 7.489.369 Triệu đồng tăng + 208.547 Triệu đồng so với 6 tháng đầu năm 2000, số tương đối tăng + 2,9%.
Sở dĩ có sự gia tăng này là do ngân hàng không ngừng cải tiến công nghệ thanh toán, nâng cao chất lượng phục vụ của đội ngũ thanh toán viên, công tác hạch toán kế toán luôn đảm bảo kịp thời, nhanh chóng, phản ánh chính xác hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng luôn tận tình hướng dẫn giúp đỡ khách hàng lựa chọn hình thức thanh toán phù hợp mang lại hiệu quả cao.
Đặc biệt hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa có chiều hướng tăng, cụ thể: 6 tháng đầu năm 2001 so với 6 tháng đầu năm 2000 tăng về số tuyệt đối là: + 244.838 Triệu đồng, số tương đối tăng + 4,8% và thanh toán bằng tiền mặt giảm xuống: về số tuyệt đối giảm - 36.291 Triệu đồng, số tương đối giảm - 1,7%. Điều đó cho thấy NHCT đã khắc phục được những tồn tại trong chế độ cũng như việc tổ chức thực hiện, góp phần mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tại địa phương giúp cho các doanh nghiệp, cá nhân rút ngắn thời gian chu chuyển vốn, góp phần tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển.
2. Thực trạng áp dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa:
Hiện nay Ngân hàng Công thương Đống Đa đang áp dụng chủ yếu các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt sau:
- Séc
- Uỷ nhiệm chi - chuyển tiền
- Uỷ nhiệm thu
- Ngân phiếu thanh toán
Qua khảo sát thực tế tại Ngân hàng Công thương Đống Đa cho thấy việc sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt nói chung như sau:
Các thể thức thanh toán bằng uỷ nhiệm chi - chuyển tiền, séc, ngân phiếu thanh toán được sử dụng nhiều, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh số thanh toán.
Một số thể thức thanh toán khác như: uỷ nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ thanh toán... bộc lộ nhiều nhược điểm như: Thủ tục rườm rà, chậm thu được tiền vốn... cho nên ít được khách hàng áp dụng.
Tuy nhiên thể thức nào cũng có những mặt ưu - nhược điểm khác nhau và được sử dụng trong những trường hợp cụ thể khác._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29395.doc