Một số vấn đề về tổ chức quản lý & Kế toán tài sản cố định vô hình trong doanh nghiệp Việt Nam

Lời mở đầu Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu cao nhất của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, trong khi đó mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, nhu cầu đòi hỏi của thị trường ngày càng cao về chất lượng, mẫu mã, giá cả sản phẩm. Chính vì vậy, để tăng năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp không thể chỉ đơn giản là quan tâm đến vấn đề có và sử dụng tài sản cố định (TSCĐ) mà điều quan trọng là còn phải tìm ra các biện pháp hữu hiệu để

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về tổ chức quản lý & Kế toán tài sản cố định vô hình trong doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bảo toàn, phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn cố định. Muốn vậy doanh nghiệp phải có chế độ quản lý thích đáng, toàn diện đối với TSCĐ, quản lý TSCĐ một cách khoa học sẽ giúp cho việc kế toán TSCĐ được chính xác, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, chống thất thoát tài sản mà công cụ quan trọng chính là kế toán tài chính. ở Việt Nam trước những năm đầu của thập kỉ 90, người ta mới chỉ biết đến một loại TSCĐ duy nhất là TSCĐ hữu hình. Khái niệm TSCĐ vô hình còn rất mơ hồ và hầu như chưa được biết đến. Song song với thực tế này, kế toán TSCĐ vô hình cũng là một vấn đề khá mới mẻ cho các doanh nghiệp Việt Nam tuy rằng nó đã được đề cập đến trong chế độ kế toán hiện hành (áp dụng từ 11/1995). Các vấn đề về xác định có những loại TSCĐ vô hình nào, nguyên giá và thời gian khấu hao của chúng đã được trình bày trong Quyết định số 1062/TC - CĐTC ngày 14/11/1996, sau đó là Quyết định số 166/1999/QĐ - TC ngày 30/12/1999 và mới gần đây nhất là Chuẩn mực số 4: TSCĐ vô hình, tuy nhiên để vận dụng những quyết định và chuẩn mực này trong thực tiễn kế toán tại các doanh nghiệp khi còn là một vấn đề lớn. Và cũng đã đến lúc những nhà quản lý phải thoát ra khỏi bảng cân đối tài sản để chú ý đến những TSCĐ vô hình đang đóng vai trò mấu chốt cho sự thành công của doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện đại. Nhận thức được vấn đề này, em đã chọn đề tài: "Một số vấn đề về tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong doanh nghiệp Việt Nam" để làm đề án môn học chuyên ngành kế toán tổng hợp với mong muốn đóng góp phần nào cho phạm trù tài sản vẫn còn mới mẻ này. Kết cấu đề tài gồm các nội dung chính sau: I. Lý luận chung về tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong doanh nghiệp. II. Kế toán TSCĐ vô hình theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam và kế toán của một số nước trên thế giới. III. Thực trạng tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong chế độ, thực tế vận dụng chế độ ở Việt Nam. IV. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong các doanh nghiệp Việt Nam. I. Lý luận chung về tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong doanh nghiệp 1. Sự cần thiết phải tổ chức khoa học công tác quản lý TSCĐ nói chung và TSCĐ vô hình nói riêng Sản xuất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người: "Nếu sản xuất chỉ ngừng một ngày thôi, chứ không nói đến ngừng một vài tuần, ngừng một vài năm thì xã hội cũng bị tiêu vong" (Marx- Angel). TSCĐ là cơ sở để thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, là một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là trong cơ chế thị trường thì TSCĐ còn là yếu tố rất quan trọng để tạo nên sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo số liệu của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán (IFAC) năm 1998, từ 50 - 90% gía trị do một công ty tạo ra là nhờ vào việc quản trị các TSCĐ vô hình, như vậy việc quản trị TSCĐ hữu hình chỉ tạo ra 10 - 50% giá trị. Sự chênh lệch này sẽ tiếp tục tăng lên khi nền kinh tế trí thức ngày càng trở thành một thực tế khách quan. Nếu trong những năm 70, tương quan giữa giá trị sổ sách và giá trị thị trường của công ty là 1 -1 thì hiện nay tương quan đó là 1 - 6, những số liệu trên phản ánh một thực tế rõ ràng là TSCĐ vô hình "đang lên ngôi". Việc theo dõi phản ánh đầy đủ tình hình TSCĐ nói chung và TSCĐ vô hình nói riêng là nhiệm vụ quan trọng của công tác kế toán, tổ chức kế toán TSCĐ tốt không những góp phần nâng cao chất lượng quản lý, hiệu quả sử dụng TSCĐ mà còn có ý nghĩa thiết thực trong quá trình định hướng đầu tư. Chính vì tầm quan trọng đã được trình bày ở trên mà chúng ta thấy sự cần thiết tổ chức quản lý TSCĐ nói chung, TSCĐ vô hình nói riêng một cách khoa học là điều tất yếu. 2. TSCĐ vô hình trong chế độ kế toán và Chuẩn mực kế toán 2.1. Chuẩn mực kế toán quốc tế về TSCĐ vô hình (IAS 38) Theo chuẩn mực này, một TSCĐ vô hình là một tài sản phi tiền tệ có thể xác định được mà không cần có nội dung vật chất, tài sản này được giữ để sử dụng trong quá trình sản xuất hoặc cung cấp hàng hoá và dịch vụ, cho các bên khác thuê hoặc phục vụ mục đích hành chính. Một tài sản như vậy được kiểm soát và phân biệt rõ ràng với lợi thế thương mại của một doanh nghiệp. Một TSCĐ vô hình được ghi nhận là tài sản khi có đủ 2 điều kiện: Có khả năng là doanh nghiệp sẽ thu được các lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản này. Giá trị của tài sản có thể tính toán một cách tin cậy. Tất cả các chi phí khác liên quan đến TSCĐ vô hình được tính vào báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (như chi phí nghiên cứu, đào tạo, quảng cáo và chi phí chuẩn bị). Một TSCĐ vô hình cần được ghi nhận ban đầu theo nguyên gái cho dù tài sản đó có được từ trao đổi với bên ngoài hay phát sinh trong nội bộ. Chi phí phát sinh sau đó cho TSCĐ vô hình được ghi nhận là chi phí nếu chỉ để duy trì khả năng hoạt động theo tiêu chuẩn của tài sản đó. Những chi phí này có thể được vốn hoá nếu doanh nghiệp có thể thu được các lợi ích kinh tế lớn hơn mức hoạt động theo tiêu chuẩn ban đầu. Đối với bất kỳ một dự án nội bộ nào nhằm tạo ra một TSCĐ vô hình cần phân biệt giữa giai đoạn nghiên cứu và giai đoạn phát triển, chi phí trong giai đoạn nghiên cứu được hạch toán vào báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Chi phí phát triển được ghi nhận là một TSCĐ vô hình nếu đáp ứng được tất cả các điều kiện sau: Tính khả thi về mặt kỹ thuật của việc hoàn thiện TSCĐ vô hình để có thể sử dụng được hoặc để bán. Dự tính hoàn thiện TSCĐ vô hình và sử dụng hoặc bán tài sản này. Khả năng sử dụng hoặc bán tài sản vô hình. Làm thế nào để TSCĐ vô hình có thể tạo ra các lợi ích kinh tế trong tương lai. Khả năng cung cấp đầy đủ về kỹ thuật, tài chính và các nguồn lực khác để hoàn thiện việc phát triển và sử dụng hoặc bán tài sản vô hình đó. Khả năng xác định chi phí. Một TSCĐ vô hình được tính khấu hao một cách có hệ thống trong thời gian sử dụng ước tính tốt nhất. Có một giả định gây tranh cãi là thời gian hữu dụng ước tính của một TSCĐ vô hình sẽ không vượt quá 20 năm kể từ ngày có tài sản để sử dụng. Phương pháp khấu hao được sử dụng cần phản ánh cách thức doanh nghiệp sử dụng các lợi ích kinh tế do tài sản tạo ra. Nếu cách thức đó không thể xác định được một cách đáng tin cậy thì doanh nghiệp cần áp dụng phương pháp khấu hao đường thẳng. Lợi thế thương mại phát sinh nội bộ, nhãn hiệu hàng hoá, tên công tố, quyền ấn bản, danh sách khách hàng và các khoản có tính chất tương tự không được ghi nhận là tài sản. Trong trường hợp sáp nhập doanh nghiệp, chi phí cho một TSCĐ vô hình không đáp ứng cả tiêu chí xác định lẫn tiêu chí ghi nhận cho một TSCĐ vô hình sẽ được tính vào lợi thế thương mại. 2.2. Chuẩn mực số 4 về TSCĐ vô hình của Việt Nam Theo Quyết định số 166/1999/QĐ - TC ngày 30/12/1999 thì một khoản chi phí thực tế doanh nghiệp bỏ ra thoả mãn hai điều kiện: (1) Có thời gian sử dụng từ một năm trở lên và (2) có giá trị từ 5.000.000 đồng trở lên mà không hình thành TSCĐ hữu hình thì được coi là TSCĐ vô hình. Ngày nay với sự phát triển nền kinh tế thị trường, sự toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, hàng rào thuế quan giữa các quốc gia gần như được bãi bỏ hoàn toàn. Những quy định pháp luật về quốc tế hoá đầu tiên của WTO hay AFTA đã nhanh chóng được thực hiện, làm tiền đề cho quá trình biến mất biên giới giữa các quốc gia. Nhận thức được vấn đề này, ngày 31/12/2001 Bộ Tài chính ban hành Quyết định 149/2001/BTC về việc ban hành và công bố bốn (04) chuẩn mực kế toán Việt Nam (đợt 1) trong đó có Chuẩn mực số 04: TSCĐ vô hình mà dựa trên nền tảng cơ bản là Chuẩn mực kế toán quốc tế với mục đích làm cho hệ thống kế toán Việt Nam ngày càng phù hợp hơn với điều kiện hiện nay. Theo Chuẩn mực số 04, TSCĐ vô hình là tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá trị và do doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình. Các doanh nghiệp thường đầu tư để có các nguồn lực vô hình như: quyền sử dụng đất có thời hạn, phần mềm máy vi tính, bằng sáng chế, bản quyền, giấy phép khai thác thuỷ sản, hạn ngạch xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhượng quyền, quan hệ kinh doanh với khách hàng hoặc nhà cung cấp, sự trung thành của khách hàng, thị phần và quyền tiếp thị... Tuy nhiên không phải tất cả các nguồn lực vô hình trên đều được vốn hoá thành TSCĐ vô hình mà muốn được coi là TSCĐ vô hình thì phải xem xét 3 yếu tố: tính có thể xác định được, khả năng kiểm soát nguồn lực và tính chắc chắn của lợi ích kinh tế trong tương lai. Nếu một nguồn lực vô hình không thoả mãn định nghĩa TSCĐ vô hình thì chi phí phát sinh để tạo ra nguồn lực vô hình đó phải ghi nhận là chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ hoặc chi phí trả trước. Riêng nguồn lực vô hình doanh nghiệp có được thông qua việc sáp nhập doanh nghiệp có tính chất mua lại được ghi nhận là lợi thế thương mại vào ngày phát sinh nghiệp vụ mua. Tính có thể xác định được: TSCĐ vô hình phải là tài sản có thể xác định được để có thể phân biệt TSCĐ đó với lợi thế thương mại. Một TSCĐ vô hình có thể xác định riêng biệt khi doanh nghiệp có thể đem TSCĐ vô hình đó cho thuê, bán, trao đổi hoặc thu được lợi ích kinh tế cụ thể từ tài sản đó trong tương lai. Khả năng kiểm soát: Doanh nghiệp nắm quyền kiểm soát một tài sản nếu doanh nghiệp có quyền thu lợi ích kinh tế trong tương lai mà tài sản đó mang lại, đồng thời cũng có khả năng hạn chế sự tiếp cận của các đối tượng khác đối với lợi ích đó. Khả năng kiểm soát của doanh nghiệp đối với lợi ích kinh tế trong tương lai từ TSCĐ vô hình thông thường có nguồn gốc từ quyền pháp lý. Chính vì vậy khi doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên lành nghề và thông qua việc đào tạo có thể xác định được sự nâng cao kiến thức của nhân viên sẽ mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai hoặc có danh sách khách hàng hay thị phần nhưng do doanh nghiệp không có đủ khả năng kiểm soát các lợi ích kinh tế đó nên cũng không được ghi nhận là TSCĐ vô hình. Lợi ích kinh tế trong tương lai: Lợi ích kinh tế trong tương lai mà TSCĐ vô hình đem lại cho doanh nghiệp có thể là: tăng doanh thu, tiết kiệm chi phí hoặc lợi ích khác xuất phát từ việc sử dụng TSCĐ vô hình. Như vậy, trên nền cơ sở là Chuẩn mực kế toán quốc tế thì Chuẩn mực số 04 của Việt Nam đã có cái nhìn tổng quan về TSCĐ vô hình khác biệt so với trước đây nhằm phù hợp với xu thế chung trên toàn thế giới. Theo Quyết định số 166/1999 QĐ - TC ngày 30/12/1999 thì chi phí thành lập doanh nghiệp là các chi phí doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình chuẩn bị cho sự thành lập doanh nghiệp được coi là một TSCĐ vô hình của doanh nghiệp. Song đến Chuẩn mực số 04, chi phí thành lập doanh nghiệp lại không được coi là TSCĐ vô hình mà phải ghi nhận là chi phí kinh doanh hoặc chi phí trả trước. Đây là sự tiến bộ trong việc nhận định về TSCĐ vô hình và rất phù hợp với mong muốn của các doanh nghiệp. Sở dĩ như vậy là vì khi coi chi phí thành lập doanh nghiệp chỉ là khoản chi phí trả trước thì doanh nghiệp có thể nhanh bù đắp được khoản chi phí này, đồng thời việc tính chi phí thành lập doanh nghiệp vào chi phí kinh doanh làm tăng chi phí của doanh nghiệp trong kỳ, điều này sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận và doanh nghiệp có thể giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho Nhà nước. Thứ hai, trước đây chi phí nghiên cứu phát triển được vốn hoá thành TSCĐ vô hình thì nay trong Chuẩn mực số 04, có sự phân biệt rõ ràng giai đoạn nghiên cứu và giai đoạn triển khai, toàn bộ chi phí phát sinh trong giai đoạn nghiên cứu không được ghi nhận là TSCĐ vô hình mà được ghi nhận là chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ, điều này là hợp lý vì nếu các công trình nghiên cứu thất bại thì nó không có giá trị sử dụng và chính vì vậy sẽ không thoả mãn điều kiện "có thời gian sử dụng từ một năm trở lên". II. Kế toán TSCĐ vô hình theo chuẩn mực kế toán Việt Nam và kế toán của một số nước trên thế giới 1. Kế toán TSCĐ vô hình theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam Một tài sản vô hình được ghi nhận TSCĐ vô hình phải thoả mãn đồng thời: - Là tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá trị và do doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình. - Bốn tiêu chuẩn ghi nhận: + Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai do tài sản đó mang lại. + Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy. + Thời gian sử dụng ước tính trên một năm. + Có đủ tiêu chuẩn giá trị theo quy định hiện hành. TSCĐ vô hình phải được xác định giá trị ban đầu theo nguyên giá. Tài khoản sử dụng: Tài khoản 213 - TSCĐ vô hình Kết cấu và nội dung phản ánh của Tài khoản 213 - TSCĐ vô hình: Bên Nợ: Nguyên giá TSCĐ vô hình tăng Bên Có: Nguyên giá TSCĐ vô hình giảm Số dư bên Nợ: Nguyên giá TSCĐ vô hình hiện có ở doanh nghiệp Tài khoản 213 - TSCĐ vô hình có 6 tài khoản cấp 2: Tài khoản 2131 - Quyền sử dụng đất: Phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là toàn bộ các chi phí thực tế đã chi ra có liên quan trực tiếp tới sử dụng, gồm: tiền chi ra để có quyền sử dụng đất, chi phí cho đền bù, giải phóng mặt bằng, san lấp mặt bằng... Tài khoản 2132 - Quyền phát hành : phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có quyền phát hành. Tài khoản 2133 - Bản quyền, bằng sáng chế: phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là các chi phí thực thế chi ra để có bản quyền tác giả, bằng sáng chế. Tài khoản 2134 - Nhãn hiệu hàng hoá: phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là các chi phí thực tế liên quan trực tiếp tới việc mua nhãn hiệu hàng hoá. Tài khoản 2135 - Phần mềm máy tính: phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có phần mềm máy tính. Tài khoản 2136 - Giấy phép và giấy nhượng quyền: phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là các khoản chi ra để doanh nghiệp có được giấy phép và giấy phép nhượng quyền thực hiện công việc đó. Tài khoản 2138 - TSCĐ vô hình khác: phản ánh giá trị TSCĐ vô hình khác chưa quy định phản ánh ở các tài khoản trên. 1.1. Xác định nguyên giá TSCĐ vô hình trong từng trường hợp - Mua TSCĐ vô hình riêng biệt: nguyên giá TSCĐ vô hình mua riêng biệt bao gồm giá mua (trừ các khoản được chiết khấu thương mại hoặc giảm giá), các khoản thuế (không gồm các khoản thuế được hoàn lại) và các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào sử dụng theo dự tính. - Mua TSCĐ vô hình từ việc sáp nhập doanh nghiệp: nguyên giá TSCĐ vô hình hình thành trong quá trình sáp nhập doanh nghiệp có tính chất mua lại là giá trị hợp lý của tài sản đó vào ngày mua (ngày sáp nhập doanh nghiệp). Doanh nghiệp phải xác định nguyên giá TSCĐ vô hình một cách đáng tin cậy để ghi nhận tài sản đó một cách riêng biệt. - TSCĐ vô hình được Nhà nước cấp hoặc biếu tặng: nguyên giá TSCĐ vô hình được xác định theo giá trị hợp lý ban đầu cộng các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào sử dụng theo dự tính. - TSCĐ vô hình mua dưới hình thức trao đổi: Nguyên giá TSCĐ vô hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ vô hình khác hoặc không tương tự được xác định theo giá trị hợp lý của TSCĐ vô hình nhận về. Nguyên giá TSCĐ vô hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ vô hình tương tự hoặc do được bán để đổi lấy quyền sở hữu một tài sản tương tự thì được tính bằng giá trị còn lại của TSCĐ vô hình đem trao đổi. - TSCĐ vô hình được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp: Doanh nghiệp phải phân biệt giai đoạn nghiên cứu với giai đoạn triển khai. Toàn bộ chi phí phát sinh trong giai đoạn nghiên cứu không được ghi nhận là TSCĐ vô hình mà ghi nhận là chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Tài sản vô hình tạo ra trong giai đoạn triển khai được ghi nhận là TSCĐ vô hình nếu thoả mãn bảy điều kiện sau: Tính khả thi về mặt kỹ thuật đảm bảo cho việc hoàn thành và đưa TSCĐ vô hình vào sử dụng hay để bán. Doanh nghiệp dự định hoàn thành tài sản vô hình để sử dụng hay để bán. Doanh nghiệp có khả năng sử dụng hoặc bán tài sản vô hình đó. Tài sản vô hình đó tạo ra được lợi ích kinh tế trong tương lai. Có đầy đủ các nguồn lực kỹ thuật, tài chính... để hoàn tất các giai đoạn triển khai, bán hoặc sử dụng tài sản vô hình đó. Có khả năng xác định chắc chắn toàn bộ chi phí trong giai đoạn triển khai để tạo ra tài sản vô hình đó. Ước tính có đủ tiêu chuẩn về thời gian sử dụng và giá trị theo quy định cho TSCĐ vô hình. Nguyên giá TSCĐ vô hình được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp gồm các chi phí liên quan trực tiếp hoặc được phân bổ theo tiêu thức hợp lý và nhất quán từ các khâu thiết kế, xây dựng, sản xuất thử nghiệm đến chuẩn bị đưa tài sản đó vào sử dụng theo dự tính. - Chi phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu được tính vào nguyên giá TSCĐ vô hình nếu thoả mãn đồng thời 2 điều kiện: Chi phí này có khả năng làm cho TSCĐ vô hình tạo ra có lợi ích kinh tế trong tương lai nhiều hơn mức hoạt động được đánh giá ban đầu. Chi phí này được đánh giá một cách chắc chắn và gắn liền với một TSCĐ vô hình cụ thể. - Sau khi ghi nhận ban đầu, trong quá trình sử dụng, TSCĐ vô hình được xác định theo nguyên giá, khấu hao luỹ kế và giá trị còn lại. 1.2. Khấu hao TSCĐ vô hình Theo quy định, các doanh nghiệp có quyền tự xác định thời gian khấu hao các loại TSCĐ vô hình của mình tối đa là 20 năm. Khi xác định thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ vô hình làm căn cứ tính khấu hao cần xem xét các yếu tố: + Khả năng sử dụng dự tính của tài sản. + Vòng đời của sản phẩm và các thông tin chung về các ước tính liên quan đến thời gian sử dụng hữu ích của các loại tài sản giống nhau được sử dụng trong điều kiện tương tự. + Sự lạc hậu về kỹ thuật, công nghệ + Tính ổn định của ngành sử dụng tài sản đó và sự thay đổi về nhu cầu thị trường đối với các sản phẩm hoặc việc cung cấp dịch vụ tài sản đó mang lại. + Hoạt động dự tính của đối thủ cạnh tranh hiện tại hoặc tiềm năng. + Mức chi phí cần thiết để duy trì, bảo dưỡng. + Thời gian kiểm soát tài sản, những hạn chế về mặt pháp lý, về quá trình sử dụng tài sản. + Sự phụ thuộc thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ vô hình với các tài sản khác trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao phải phản ánh cách thức thu hồi lợi ích kinh tế từ tài sản đó của doanh nghiệp. Phương pháp khấu hao cho từng TSCĐ vô hình được áp dụng thống nhất qua nhiều thời kỳ và có thể được thay đổi khi có sự thay đổi đáng kể cách thức thu hồi lợi ích kinh tế của doanh nghiệp. Chi phí khấu hao cho từng thời kỳ phải được ghi nhận là chi phí hoạt động sản xuất, kinh doanh trừ khi chi phí đó được tính vào giá trị của tài sản khác. = - Giá trị thanh lý được ước tính khi TSCĐ vô hình được hình thành đưa vào sử dụng bằng cách dựa trên giá bán phổ biến ở cuối thời gian sử dụng hữu ích ước tính của một tài sản tương tự và đã hoạt động trong các điều kiện tương tự. Giá trị thanh lý ước tính không tăng lên khi có thay đổi về giá cả hoặc giá trị. Các doanh nghiệp phải xem xét lại thời gian khấu hao và phương pháp khấu hao TSCĐ vô hình ít nhất vào cuối mỗi năm tài chính. Nếu thời gian sử dụng hữu ích ước tính của tài sản khách biệt nhiều so với các ước tính trước đó thì thời gian khấu hao phải được thay đổi tương ứng. Nếu có sự thay đổi phương pháp khấu hao TSCĐ vô hình thì phải điều chỉnh chi phí khấu hao cho năm hiện hành và các năm tiếp theo. 1.3. Hạch toán kế toán một số hoạt động kinh tế chủ yếu - Mua TSCĐ vô hình dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ: Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình (giá mua chưa có thuế GTGT) Nợ TK 1332 - Thuế GTGT được khấu trừ Có TK 112 - Tiền gửi ngân hàng; hoặc Có TK 141 - Tạm ứng; hoặc Có TK 331 - Phải trả cho người bán. - TSCĐ vô hình được hình thành từ nội bộ doanh nghiệp trong giai đoạn triển khai: + Khi phát sinh chi phí trong giai đoạn triển khai thì tập hợp vào chi phí sản xuất kinh doanh hoặc chi phí trả trước dài hạn: Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn; hoặc Nợ TK 642 - Chi phí quản lý doanh nghiệp Có TK 111, 112; 152, 331... + Khi thấy kết quả triển khai thoả mãn định nghĩa và tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình thì: Tập hợp chi phí thực tế phát sinh ở giai đoạn triển khai: Nợ TK 241 - Xây dựng cơ bản dở dang Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (nếu có) Có TK 111, 112, 152, 331... Kết thúc giai đoạn triển khai, xác định nguyên giá TSCĐ vô hình: Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình Có TK 241 - Xây dựng cơ bản dở dang - Khi doanh nghiệp được biếu tặng TSCĐ vô hình sử dụng ngay cho hoạt động sản xuất kinh doanh + Nhận TSCĐ vô hình được tài trợ, biếu tặng: Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình Có TK 711 - Thu nhập khác + Tính thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp (nếu có) trên giá trị TSCĐ vô hình được tài trợ, biếu tặng. Nợ TK 421 - Lợi nhuận chưa phân phối Có TK 3334 - Thuế và các khoản phải nộp NSNN. + Sau đó ghi tăng vốn kinh doanh của doanh nghiệp Nợ TK 421 - Lợi nhuận chưa phân phối Có TK 411 - Nguồn vốn kinh doanh - Hạch toán giảm TSCĐ vô hình trong trường hợp chi phí nghiên cứu, lợi thế thương mại, chi phí thành lập doanh nghiệp đã được hạch toán vào TSCĐ vô hình trước khi thực hiện Chuẩn mực kế toán: + Nếu giá trị còn lại của những TSCĐ vô hình này nhỏ: Nợ TK 627, 641, 642 (Giá trị còn lại) Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Số đã trích khấu hao) Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá) + Nếu giá trị còn lại của những TSCĐ vô hình này lớn: Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn (Giá trị còn lại) Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Số đã trích dẫn khấu hao) Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá) - Nếu do thay đổi phương pháp khấu hao và thời gian khấu hao TSCĐ mà mức khấu hao TSCĐ vô hình: + Tăng lên so với số đã trích trong năm: Nợ TK 627, 641, 642 (Số chênh lệch khấu hao tăng) Có TK 2143 - Hao mòn TSCĐ vô hình + Giảm so với số đã trích trong năm: Nợ TK 2143 - Hao mòn TSCĐ vô hình Có TK 627, 641, 642 (Số chênh lệch khấu hao giảm). 2. Kế toán TSCĐ vô hình trên thế giới 2.1. Ghi chép TSCĐ vô hình Những quy định về ghi chép TSCĐ vô hình của Việt Nam đã phải thay đổi để hội nhập với các nước trên thế giới mà biểu hiện cụ thể là Chuẩn mực 04 ra đời chính là sự kết hợp Chuẩn mực kế toán quốc tế với kế toán một số nước vào thực tiễn Việt Nam. Đối với những TSCĐ vô hình phát triển nội bộ thì giá trị của TSCĐ được phản ánh là chi phí bỏ ra để tạo ra TSCĐ vô hình đó, còn đối với TSCĐ vô hình mua ngoài thì giá trị tài sản là chi phí đã bỏ ra để có những tài sản này. Tuy nhiên trên thực tế có những trường hợp chi phí bỏ ra cho TSCĐ vô hình chỉ được thừa nhận như một khoản chi phí trong thời kỳ phát sinh mà không được tài snả háo vì một số lý do sau: Để đơn giản cho việc xác định thuế thu nhập doanh nghiệp: ở một số nước, một số khoản chi phí cho TSCĐ vô hình được phép khấu trừ khi xác định lợi tức chịu thuế trong thời kỳ phát sinh chi phí. Chẳng hạn, chi phí cho nghiên cứ khoa học mà có thể dẫn đến những sản phẩm, hoặc phương pháp sản xuất mới có thể đăng ký bản quyền thường được phép khấu trừ khi xác định lợi tức chịu thuế trong năm có phát sinh chi phí. Xác suất để có những lợi ích kinh tế trong tương lai từ những chi phí đã chi ra nhỏ hơn mức cần thiết để có thể coi đó là một tài sản. Những chi phí chi ra cho tài sản vô hình không dáng kể nên có thể không được tài sản hoá mà phân bổ ngay trong kỳ phát sinh chi phí. Đối với TSCĐ vô hình xác định được thì việc xác định giá trị của tài sản phát triển nội bộ và mua ngoài không có gì khác nhau. Nhưng với TSCĐ vô hình không xác định được thì vấn đề lại khác hẳn, chẳng hạn công ty A mua lại toàn bộ công ty B theo giá thị trường là 50 triệu USD trong đó giá thị trường của toàn bộ TSCĐ hữu hình và các khoản nợ là 45 triệu USD, phần chênh lệch 5 triệu USD được coi là giá trị của uy tín kinh doanh. Còn nếu tài sản này được phát triển nội bộ thì không được ghi nhận là TSCĐ vô hình dù chúng vẫn tồn tại trong doanh nghiệp. Chẳng hạn uy tín của công ty được hình thành trong suốt quá trình hoạt động, được kết tinh từ nhiều yếu tố khách quan và chủ quan trong nhiều thời kỳ khác nhau thì mặc dù chúng có khả năng mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai nhưng về chi phí hình thành nên tài sản này không thể đo lường một cách tin tưởng nên chúng không thể phản ánh như một tài sản ở đơn vị. Nhiều nhà nghiên cứu đã đề xuất nhiều giải pháp khác nhau để giải quyết mâu thuẫn trên nhưng đến nay chưa có phương pháp nào giải quyết vấn đề một cách thuyết phục. 2.2. Khấu hao TSCĐ vô hình Theo thông lệ khi một tài sản đã được thừa nhận thì đồng thời phải hình thành một phương pháp khấu hao phù hợp nhằm phản ánh giá trị hao mòn của tài sản đó trong quá trình sử dụng. Chế độ kế toán khấu hao TSCĐ vô hình ở các nước trên thế giới thường rất khác nhau. Đối với TSCĐ vô hình xác định được thì phương pháp kế toán chung ở các nước trên thế giới là áp dụng một chế độ khấu hao có hệ thống. Nhưng về thời gian khấu hao thì tuỳ thuộc vào chế độ kế tóan ở mỗi nước. Thông thường chế độ kế toán ở các nước chỉ quy định khống chế về mặt thời gian tối đa, còn thời gian áp dụng cho việc tính khấu hao cụ thể của mỗi TSCĐ vô hình ở mỗi doanh nghiệp thì được xác định tuỳ theo tính chất và quan niệm của mỗi doanh nghiệp trên cơ sở những nguyên tắc được chấp nhận. Đối với TSCĐ vô hình không xác định được thì chế độ khấu hao còn có sự không thống nhất cả về mặt quan điểm và phương pháp giữa các nước, các khu vực. Tại Anh và Đức, các công ty được phép ghi bút toán triệt tiêu giá trị của uy tín kinh doanh bằng việc ghi giảm các khoản dự trữ của công ty ngay trong năm có phát sinh. Như vậy là các công ty của Anh và Đức không phải thực hiện việc khấu hao loại TSCĐ vô hình này. Trong khi đó ở Canada thì quy tắc kế toán lại buộc các công ty phải phản ánh giá trị của uy tín kinh doanh trên hệ thống sổ sách như một tài sản và cho phép được khấu hao giá trị trong thời hạn tối đa là 40 năm (ở Australia thì thời hạn khấu hao tối đa chỉ là 20 năm). Nguyên nhân của sự không thống nhất này có lẽ bắt nguồn từ bản chất "không xác định được" của loại TSCĐ vô hình này cũng như những yếu tố chủ quan có tính quy ước trong việc xác định giá trị của uy tín kinh doanh. Đối với Mỹ, khấu hao TSCĐ vô hình chỉ được tính theo phương pháp bình quân cho đến khi có phương pháp nào được chứng minh là thích hợp hơn. Theo thông lệ, khấu hao TSCĐ vô hình được ghi "Có" trực tiếp vào tài khoản tài sản đó, tài sản vô hình được báo cáo trên bảng tài khoản tài sản theo phần giá trị chưa được khấu hao. Lấy ví dụ như một TSCĐ vô hình là bằng sáng chế, khi mua độc quyền sáng chế thì tất cả các chi phí để mua quyền này được ghi "Nợ" vào tài khoản "Bằng sáng chế", tương tự, các khoản chi phí về kiện cáo bảo vệ độc quyền sáng chế cũng được ghi "Nợ" vào tài khoản "Bằng sáng chế". Bằng sáng chế cho người chủ nhân tấm bằng độc quyền sáng chế trong vòng 17 năm, tuy vậy giá trị tấm bằng phải được khấu hao dần trong một thời kỳ ngắn hơn 17 năm. Chẳng hạn nếu độc quyền sáng chế có giá trị 25.000 USD và có thời gian hữu dụng ước tính là 10 năm thì bút toán điều chỉnh sau được thực hiện vào cuối năm để khấu hao dần 1/10 giá trị của bằng. T12 31 Khấu hao bằng sáng chế 2.500,00 Bằng sáng chế 2.500,00 (Để xoá sổ 1/10 giá trị bằng) Bút toán ghi "Nợ" 2.500 USD là nguyên nhân của chi phí độc quyền sáng chế xuất hiện trên báo cáo thu nhập như một khoản của chi phí sản phẩm độc quyền được sản xuất ra, số ghi "Nợ" trực tiếp làm giảm số dư của tài khoản "Bằng sáng chế". Một số tài sản vô hình có thời hạn hiệu lực giới hạn do pháp luật, hợp đồng hay bản chất của tài sản quyết định, các tài sản vô hình khác có thời gian sử dụng vô hạn nhưng các nguyên tắc kế toán đã được thừa nhận đòi hỏi thời gian khấu hao TSCĐ vô hình không bao giờ vượt qúa 40 năm, sự giới hạn này áp dụng cho cả trường hợp thời gian của tài sản (như sự tín nhiệm, nhãn hiêu) có thể kéo dài vô tận. Tóm lại, với một nền kinh tế thị trường còn ở giai đoạn thấp như chúng ta thì vấn đề nghiên cứu bản chất cũng như chế độ kế toán TSCĐ vô hình còn chưa được chú ý tương xứng với tầm quan trọng của nó. Song với xu thế tất yếu của kinh tế thị trường, việc nghiên cứu và tham khảo phương pháp kế toán tài sản vô hình trên thế giới có ý nghĩa quan trọng trong việc định hình nhận thức về một phạm trù mới mẻ này. III. Thực trạng tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong chế độ, thực tế vận dụng chế độ ở Việt Nam Chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam ban hành theo Quyết định 1141 - TC - CĐKT ngày 01/11/1995 của Bộ Tài chính đã đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong sự phát triển của kế toán Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử kế toán, chế độ kế toán được ban hành đầy đủ cùng lúc gồm cả chế độ chứng từ, hệ thống tài khoản, chế độ sổ kế toán và hệ thống báo cáo tài chính. Riêng đối với TSCĐ vô hình thì đây cũng là lần đầu tiên TSCĐ vô hình được đề cập đến như là một yếu tố khá quan trọng trong một doanh nghiệp. Tuy nhiên việc vận dụng chế độ kế toán nói chung và kế toán TSCĐ vô hình nói riêng trong thực tiễn ở Việt Nam vẫn còn một số tồn tại thể hiện trong công tác kế toán và trong việc tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình. 1. Công tác kế toán TSCĐ vô hình hiện nay Bằng cách thông tin đặc biệt của mình kế toán phục vụ cho các nhu cầu khác nhau của xã hội. Căn cứ vào các thông tin kế toán các nhà quản lý đặt ra kế hoạch, lập dự án; các nhà đầu tư quyết định liệu có nên đầu tư hay không, giúp cho Nhà nước hoạch định chính sách, soạn thảo luật lệ... Kế toán TSCĐ là một trong những phần hành kế toán quan trọng trong doanh nghiệp, song kế toán TSCĐ vô hình lại chỉ đóng vai trò thứ yếu trong phần hành này, không tương xứng với vai trò của TSCĐ vô hình trong doanh nghiệp. Cho đến nay, các doanh nghiệp mới chỉ tập trung vào công tác kế toán TSCĐ hữu hình mà quên đi một loại tài sản có thể tạo ra sự tăng trưởng đột biến, điều mà TSCĐ hữu hình không thể nào làm được, đó chính là TSCĐ vô hình. 2. Thực trạng tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình hiện nay Chuẩn mực số 04 của Việt Nam ra đời đánh dấu một bước tiến trong sự nhìn nhận về TSCĐ vô hình theo hướng phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, hội nhập trên toàn thế giới. Song như đã trình bày ở các phần trước, chính vì sự mới mẻ của TSCĐ vô hình đã khiến cho việc quản lý và kế toán TSCĐ vô hình còn nhiều vấn đề tồn tại cần giải quyết sớm. Vấn đề thứ nhất: Bản quyền là biện ph._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK1251.doc
Tài liệu liên quan