Một số vấn đề về tổ chức kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Lời nói đầu Cùng với sự phát triển và tiến bộ của xã hội, cơ chế thị trường ra đời đã làm cho các hoạt động tài chính và sở hữu ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Vì thế chức năng kiểm tra của kế toán dần dần không đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng thông tin. Chính vì vậy, kiểm toán ra đời như một đòi hỏi tất yếu khách quan để đáp ứng nhu cầu đó. Càng ngày, kiểm toán càng trở nên có vai trò quan trọng và phát triển mạnh mẽ, khẳng định mình là một môn khoa học, một lĩnh vực nghiên cứu r

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về tổ chức kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iêng. Cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp (DN) phải nỗ lực vươn lên từ chính bản thân mình. Điều này đòi hỏi các nhà quản trị phải có những quyết định và phương pháp quản lý đúng đắn để bảo đảm cho việc kinh doanh có hiệu quả. Đó cũng là lý do xuất hiện loại hình kiểm toán nội bộ (KTNB). Với sự hiện diện của mình, KTNB giúp cho các nhà quản trị DN có đầy đủ các thông tin chính xác về tình hình hoạt động của DN mình, về các báo cáo tài chính được lập cũng như nhiều báo cáo khác để làm cơ sở cho việc quản trị DN. ở Việt Nam, đại hội IX của Đảng đã xác định: “ Kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.” Điều đó có nghĩa là ngay từ ngay từ đầu quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) thì đã phải quan tâm xây dựng cái nền tảng của nó. Điều hiển nhiên không bàn cãi là kinh tế Nhà nước đóng vai trò quyết định nhất. Trong điều kiện nước ta quá độ lên CNXH, các DN, các thành phần kinh tế knác cần phải và chỉ có thể phát triển trên cái nền tảng lớn mạnh là doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). Vì thế, hơn hết, các DNNN cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động của mình để khẳng định vị trí chủ đạo. KTNB tuy là một lĩnh vực mới mẻ nhưng thíết nghĩ đó là một trong những công cụ hữu hiệu và có vai trò hết sức to lớn trong việc đánh giá tính chính xác của các báo cáo tài chính, kiểm toán tính tuân thủ, hoạt động trong DN, taọ niềm tin cho những người sử dụng thông tin và là cơ sở để ra các quyết định của nhà quản trị. Với tinh thần đó, Chuyên đề “Một số vấn đề về tổ chức kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay” xin được đề cập đến những khía cạnh liên quan đến việc thiết lập và hoàn thiện mô hình KTNB ở Việt Nam và giảI pháp khắc phục những tồn tại cần tháo gỡ. Ngoài lời nói đầu và kết luận, chuyên đề được chia làm hai phần: Phần I : Những lí luận chung về KTNB Phần II : Thực trạng KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay và một số ý kiến đề xuất. chương I Lý luận chung về kiểm toán nội bộ I. Khái quát chung về kiểm toán nội bộ. 1. Sự hình thành và phát triển của kiểm toán nội bộ (KTNB): Hoạt động của kiểm toán nói chung đã xuất hiện từ lâu trên thế giới cùng với sự phát triển không ngừng về kinh tế và xã hội cũng như nhiều mặt khác của mỗi quốc gia . So với kiểm toán độc lập và kiểm toán Nhà nước thì loại hình KTNB ra đời muộn hơn, bắt đầu từ năm 1940 mới xuất hiện khái niệm KTNB . Nhưng nó có sự phát triển rất mạnh mẽ đặc biệt trong công việc quản trị doanh nghiệp. Các đơn vị kiểm toán cơ sở phát hiện ra rằng hệ thống KTNB là phương tiện quản lí có hiệu quả và là công cụ đắc lực giúp các nhà quản lí giám sát được toàn bộ hoạt động của đơn vị mình. Không những thế, trong các cơ quan nhà nước việc hình thành các bộ phận KTNB để kiểm tra thường xuyên các hoạt động trong cơ quan đang tỏ ra có nhiều tác dụng thiết thực. Với sự lớn mạnh và gia tăng quy mô các doanh nghiệp vài thập niên gần đây, tầm quan trọng KTNB cũng lớn mạnh một cách tương ứng, làm cho nó trở thành yếu tố chính trong việc thiết lập hệ thông kiểm soát và kiểm tra nội bộ.ở một số nước, cơ quan lập pháp đã đưa ra những văn bản pháp luật nhằm tạo ra hành lang pháp lí để tạo điều kiện cho KTNB hoạt động và phát triển. bộ phận KTNB đã phát triển cực nhanh ở Mĩ cũng như ở châu Âu từ những năm 60. Sự phát triển này đă được khuyến khích bởi sự thành lập của tổ chức kiểm toán nội bộ (I IA) năm 1944 tại New York, tổ chức này đã xác định bản chất, mục tiêu và phạm vi hoạt động của bộ phận KTNB. Tổ chức KTNB là thành viên của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC), đồng thời nó nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cấp chứng chỉ cho các kiểm toán viên nội bộ. 2. Kiểm toán nội bộ là gì? Một cách cơ bản có thể hiểu KTNB là một bộ phận được lập ra trong một đơn vị,do các kiểm toán viên nội bộ của đơn vị tiến hành nhằm mục đích rà soát lại hệ thống kế toán và các qui chế kiểm soát nội bộ có liên quan, kiểm tra lại các thông tin kinh tế do kế toán cung cấp, kiểm tra tính hiệu lực, tính hiệu quả của các hoạt động trong đơn vị. Thực hiện chức năng giám sát này giúp cho các nhà quản lý cấp cao trong đơn vị đó gia tăng được quyền lực của mình để quán xuyến được các hoạt động đã và đang diễn ra trong đơn vị, bao gồm: những qui tắc đặt ra có được tuân thủ không? tài sản có được sư dụng hợp lý không?cán bộ công nhân viên làm việc có hiệu quả không? các qui định hiện hành có còn phù hợp khi điều kiện thay đổi ? xác định tính chính xác của các báo cáo tài chính và các báo cáo khác. Như vậy, KTNB hình thành và phát triển xuất phát từ nhu cầu quản lí của bản thân doanh nghiệp. KTNB là chức năng đánh giá một cách đọc lập và khách quan cơ cấu kiểm soát nội bộ của DN. Phạm vi của kiểm toán nội bộ bao gồm tất cả mọi mặt hoạt động của DN ở tất cả các cấp quản lí khác nhau. KTNB xem xét, đánh giá và báo cáo về thực trạng của hệ thống kiểm soát nội bộ, đưa ra những phân tích, kiến nghị , tư vấn mang tính chuyên ngiệp để lãnh đạo DN có cơ sở tin cậy trong việc quản lí thành công các hoạt động của DN. II. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nội dung hoạt động của KTNB: KTNB là nhu cầu tự thân của các DN nên phạm vi hoạt động của nó rất biến động và tuỳ thuộc vào qui mô, cơ cấu của DN cũng như nhu cầu quản lí đơn vị, do vậy KTNB trong các doanh nghiệp khác nhau là khác nhau và phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh của DN. 1. Chức năng của kiểm toán nội bộ. KTNB hình thành do nhu cầu quản lí cho nên chức năng của nó cũng trảI qua qua quá trình phát triển từ thấp đến cao cùng với khoa học quản lí kinh tế, trình độ và kinh nghiệm quản lí của các nhà lãnh đạo DN.Mặc dù theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, chức năng của KTNB hiện đại là đánh giá độc lập hệ thống kiểm soát nội bộ, nhưng chức năng truyền thống của KTNB là xem xét, đánh giá độ tin cậy, thống nhất của các thông tin tài chính và hoạt động, đánh giá việc sử dụng tiết kiệm, hữu ích, có hiệu quả vốn và tài sản DN. Chính vì vậy, việc quy định chức năng, nhiệm vụ cho KTNB cần phải xem xét phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng khu vực kinh tế, từng ngành và từng đơn vị. 2. Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ. Về cơ bản, nhiệm vụ của KTNB bao gồm các nhiệm vụ sau: Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ, tài liệu, số liệu kế toán, việc chấp hành chế độ, thể lệ kế toán tài chính của nhà nước. Kiểm tra và xác nhận mức độ trung thực, hợp lí của báo cáo quyết toán do kế toán và các bộ phận khác trong DN lập ra. Kiểm tra xác nhận giá trị vốn góp của DN và các đối tác tham gia liên doanh với DN. Kiểm tra xác nhận tính trung thực, hợp lí, đầy đủ của số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của đơn vị liên doanh. Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lí của hệ thống kiểm soát nội bộ trong đó có hệ thống kế toán. Giám sát sự hoạt động và tham gia hoàn thiện chúng. Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lí của quy chế kiểm soát nội bộ, đồng thời có kiến nghị hoàn thiện các quy chế này. Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ trên KTNB có trách nhiệm hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ kế toán và các cán bộ nghiệp vụ khác có liên quan, đề xuất các quyết định quản lí, xử lí về tài chính kế toán và các nội dung xử lí khác. 3. Quyền hạn của kiểm toán nội bộ. Do đặc trưng của KTNB là kiểm tra, xác minh tính đúng đắn của các báo các tài chính trong DN, tính tuân thủ và hiệu quả hoạt động của DN nên KTNB có những quyền hạn riêng để đảm bảo mục đích hoạt động. KTNB có quyền: Thứ nhất, KTNB độc lập với các bộ phận khác trong DN, độc về chuyên môn nghiệp vụ trong phạm vi khuôn khổ luật pháp và các chuẩn mực, phương pháp nghiệp vụ chuyên môn. Thứ hai, yêu cầu các bộ phận và các cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu về kế toán, tài chính và các tài liệu khác có liên quan tới nội dung kiểm toán . Thứ ba, có quyền đối chiếu xác minh các thông tin kinh tế có liên quan tới đối tượng được kiểm toán ở trong và ngoài DN. Thứ tư, có quyền kiến nghị với đối tượng được kiểm toán có biện pháp sửa chữa sai phạm và có quyền ghi ý kiến của mình vào báo cáo kiểm toán . Thứ năm, có quyền đề xuất với lãnh đạo DN những kiến nghị và biện pháp về quản lý. Đó là những quyền hạn cơ bản của KTNB, bên cạnh đó tuỳ thuộc vào từng DN, từng điều kiện cụ thể mà KTNB có thể có thêm các quyền hạn khác. 4. Nội dung hoạt động của kiểm toán nội bộ. Rà soát lại hệ thống kế toán và các qui chế kiểm soát nội bộ có liên quan,giám sát sự hoạt động của các hệ thống cũng như tham gia hoàn thiện chúng. Kiểm tra các thông tin tác nghiệp, thông tin tài chính bao gồm việc rà soát lại các phương tiện đã sử dụng để xác định, tính toán, phân loại và baó cáo những thông tin này, kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ, các số dư và các bước công việc. Kiểm tra tính hiệu quả , sự tiết kiệm và hiệu suất của các hoạt động kể cả các qui định không có tính chất tài chính của DN. Như vậy, lĩnh vực chủ yếu của KTNB là kiểm toán hoạt động của các bộ phận trong DN. Ngoài ra, KTNB cũng tiến hành các nội dung kiểm toán tuân thủ để xem xét việc chấp hành các chính sách, qui định của DN. III. Mô hình tổ chức kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp. Việc tổ chức KTNB trong DN là một yêu cầu cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của DN. Tuy nhiên, tuỳ theo qui mô của DN mà tổ chức bộ phận kiểm toán cho phù hợp.Trên cơ sở nhận thức vai trò của KTNB để xác định tổ chức KTNB nên như thế nào. Về vấn đề này, có 3 loại quan điểm: Quan điểm thứ nhất: Quan điểm này cho rằng bộ phận KTNB nên đặt trực thuộc phòng kế toán dưới sự chỉ đạo của kế toán trưởng, bởi vì lâu nay phòng kế toán DN có chức năng kiểm tra kế toán, kế toán trưởng có một chức năng là kiểm soát viên của nhà nước. Mô hình như sau: Giám đốc Bộ phận kế toán Các phòng (Ban) khác Bộ phận kiểm toán Quan điểm thứ hai: Bộ phận KTNB nên đật trực thuộc hội đòng quản trị mà trực tiếp là chịu sự chỉ đạo của ban kiểm soát. Có như vậy, bộ phận KTNB mới phát huy được tính độc lập, kết quả KTNB mới có tính khách quan, khăc phục tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Ta có mô hình: Ban Kiểm soát Bộ phận KTNB Bộ phận kế toán Các phòng ban khác Bộ phận kế toán Giám đốc Hội đồng quản trị Các phòng ban khác Bộ phận kế toán Hội đồng quản trị Quan điểm thứ ba: Bộ phận KTNB nên đặt trực thuộc Gám đốc, Tổng giám đốc DN. Quan điểm này dựa trên cơ sở KTNB là một bộ phận quan trọng của DN, đặt tại DN, tiếp cận thường xuyên, liên tục với mọi hoạt động của DN, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ và phát hiện kịp thời nhữn sai sót, sơ hở, những điểm yếu nhằm báo cáo kịp thời cho lãnh đạo để khắc phục, hoàn thiện. Để đạt được mục tiêu, vai trò của mình, KTNB cần phải được đặt trực thuộc cấp lãnh đạo cao nhất điều hành hoạt động của DN Hội đồng quản trị Tổng Giám đốc Các Phòng, ban khác Bộ phận KTNB Phòng Kế toán Ngày nay, quan điểm thứ nhất không còn phù hợp với điều kiện mới của nền kinh tế. Loại quan điểm thứ hai tuy đảm bảo điều kiện về tính độc lập của KTNB nhưng không có tính thực tế vì Hội đồng quản trị và ban kiểm soát không trực tiếp điều hành và quản lí DN. Hơn nữa, Hội đồng quản trị ở tổng công ty nhà nước hiện nay còn nhiều thành viên kiêm chức. Còn cách tổ chức theo quan điểm thứ ba là phù hợp với thực tiễn của các DNNN trong giai đoạn trước mắt. Tuy nhiên người đứng đầu bộ phận KTNB phải được quyền tự do báo cáo kết quả kiểm toán với Ban kiểm soát của Hội đồng quản trị (Đối với DN có hội đồng quản trị). Như vậy qua việc phân tích những chức năng, đặc điểm của KTNB thì việc hình thành KTNB trong các DN trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển đa chiều, cạnh tranh gay gắt là một điều cần thiết để nâng cao tính hoạt động có hiệu quả của các DN, chỉ ra các vấn đề, các hướng để hoàn thiện hệ thống chính sách, hệ thống kế toán trong DN, đồng thời tuỳ theo mỗi nhu cầu tự thân, mỗi điều kiện hoàn cảnh của các DN mà có cơ cấu KTNB ch phù hợp đảm bảo tính hiệu quả của bộ phận này trong quá trình kiểm toán và kiến nghị chiến lược cho các nhà quản trị trong quá trình lãnh đạo cả ở tầm vi mô và vĩ mô. chương II Thực trạng công tác kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và một số ý kiến đề xuất hoàn thiện. I. Thực trạng công tác KTNB ở các DNNN Việt Nam hiện nay: 1. Sự cần thiết phát triển KTNB trong các DNNN Việt Nam hiện nay: Kiểm toán nội bộ là hoạt động kiểm toán được tiến hành trong phạm vi DN, do người của DN thực hiện để phục vụ cho các yêu cầu quản lí sản xuất kinh doanh và quản lí tài chính của bản thân DN. Với mục tiêu như vậy, đặc biệt là trong cơ chế quản lí tài chính hiện nay-DNNN được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính đến mức cao nhất- thì KTNB càng là một đòi hỏi cấp bách đối với tất cả các DNNN. Theo Nghị định số 59/NĐ-CP ra ngày 3/10/1996 của Chính phủ từ năm 1997 cơ quan quản lí tài chính các cấp sẽ không tiến hành kiểm tra phê duyệt quyết toán sản xuất kinh doanh hàng năm của các DNNN. Các DNNN phải công khai báo cáo tài chính và chịu trách nhiệm về các số liệu, chỉ tiêu đã công bố. Đây là một quy định nhằm nâng cao tính tự đọng, tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các DNNN nhưng đồng thời cũng gây không ít khó khăn, lúng túng cho họ. Từ trước năm 1997, sau khi quyết toán năm được duyệt, lãnh đạo DN hoàn toàn yên tâm về hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, về các mặt hoạt động và các giải pháp tài chính trong năm vì đã được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước xác nhận. Mọi sai sót, vi phạm của DN cũng đã được giải quyết hoặc xoá bỏ thông qua việc duyệt quyết toán. Chính vì vậy, trong điều kiện không còn kiểm tra phê duyệt quyết toán hàng năm, KTNB với chức năng kiểm tra, xác nhận tính trung thực và hợp lí, hợp pháp của các thông tin trong báo cáo tài chính sẽ giúp cho lãnh đạo DN bớt lúng túng, yên tâm hơn khi ký các báo cáo tài chính và công khai báo cáo tài chính theo cơ chế mới về quản lí tài chính DNNN. ở Việt Nam hiện nay mô hình Hội đồng quản trị ở các Tổng công ty được thành lập theo nghị định 90/CP và 91/CP có khác so với các nước. Trong mỗi Tổng công ty nhà nước còn có Ban kiểm soát trực thuộc Hội đồng quản trị. Ngoài các thành viên chuyên trách, Hội đồng quản trị còn có một số thành viên kiêm nhiệm. Trong Ban kiểm soát, ngoài Trưởng ban kiểm soát, phần lớn các uỷ viên và các thành viên kiêm nghiệm, có thành viên không tuộc tổng công ty. Với bộ máy như vậy, ban kiểm soát khó lòng thực hiện các nhiệm vụ và trách nhiệm theo quy định của nhà nước mới được ban hành theo điều lệ mẫu của Tổng công ty nhà nước. Vì vậy ở các DNNN trước hết là các Tổng công ty cần thiết phải tổ chức bộ phận KTNB giúp chủ DN điều hành và quản lí mọi mặt hoạt động, đó là một nhu cầu cần thiết và nên làm vì sự phát triển của DN. 2. Thực trạng hoạt động KTNB ở nước ta trong thời gian qua: Kiểm toán nội bộ có vai trò quan trọng và cần thiết nhưng những hiểu biết của chúng ta về lĩnh vực này còn quá ít so với kiểm toán Nhà nước và kiểm toán độc lập. Trên thực tế , hầu như có rất ít các công trình hay đề tài nghiên cứu khoa học một cách hệ thống và sâu sắc về KTNB .Trong điều kiện đó, vướng mắc về nhận thức là lẽ đương nhiên; việc triênr khai thực hiện hoạt động KTNB ở các DN lại càng lúng túng. Trong thời gian vừa qua, ở Việt Nam đã xuất hiện những nhu cầu và điều kiện cần thiết cho việc thiết lập hệ thống KTNB trong các đơn vị. Tuy nhiên vì là giai đoạn đầu nên việc hình thành mới được rất ít và chậm chạp, chủ yếu tập trung ở các tổng công ty lớn, các DN có qui mô lớn. Hơn thế nữa, KTNB bước đầu còn gặp nhiều khó khăn trong công tác tổ chức và hoạt động, bộ phận KTNB còn quá mỏng manh so với cả một khối lượng công việc khổng lồ.Xin lấy mô hình KTNB trong một tổng công ty (TCT) tiêu biểu: tổng công ty xây dựng Sông Đà. Tổng công ty xây dựng Sông Đà là một DN có qui mô tầm trung bình trong số những tổng công ty 90 của Nhà nước, hình thành và hoạt động hơn 30 năm quavới nhiều công trình xây dựng lớn. Xác định đúng đắn sự cần thiết của KTNB đối với sự phát triển của tổng công ty, ngày1/1/1998 phòng KTNB tổng công ty chính thức ra đời. Giai đoạn đầu, phòng KTNB gồm 5 cán bộ có trình độ chuyên môn sau đại học chuyên nghành tài chính kế toán và trình độ đại học, có nhiều năm thực tế công tác trong lĩnh vực kiểm tra kiểm soát nội bộ học trong lĩnh vực tài chính của TCT. Vừa xây dựng vừa hoạt động trong năm1998 KTNB của TCT đã hoàn thành một khối lưọng công việc đáng kể. Tại các DN thành viên của TCT trong giai đoạn này tuy còn đang hoàn thiện về công tác tổ chức nhưng 100% đơn vị đã bổ nhiệm được kiểm toán viên hoặc thành lập tổ KTNB. Song chỉ có một số đơn vị sớm tuyển chọn, bổ nhiệm được kiểm toán viên đủ năng lực và ổn định tổ chức thì phát huy được tác dụng bước đầu, đóng góp vào công tác chấn chỉnh quản lí tại DN,còn lại phần lớn KTNB tại các DN thành viên trong hệ thống KTNB của TCT vẫn chưa thực sự đi vào hoạt động. Để phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của KTNB, trong vài năm vừa qua, TCT đã ban hành qui chế KTNB nhằm hoàn thiện cho công tác này. Có thể thấy rằng hiện nay hệ thống KTNB ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển mà vẫn ở giai đoạn hình thành và hoàn thiện. Lực lượng kiểm toán viên còn quá ít, hệ thống chính sách, qui chế về KTNB chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu kiểm toán của DN, hiệu quả hoạt động chưa cao. Mặc dù vậy, hiện nay Nhà nước ta đang khuyến khích các DNNN hình thành bộ phận KTNB trong DN. Theo điều 36, chưong 5- nghị định số 59/NĐ-CP ngày 3/10/1996 qui định : “ DN tự tổ chức KTNB báo caó tài chính của mình hoặc thuê kiểm toán độc lập nếu thấy cần thiết” chính là nhằm tạo cho DNNN cơ hội lựa chọn việc có nên tổ chức bộ phận KTNB trong DN hay không. Mặt khác giữa thực trạng phát triển KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay và nhu cầu đòi hỏi của nhà nước về khía cạnh pháp lý còn có một số mâu thuẫn. Theo điểm 3, mục I- thông tư 73 TC/TCDN ngày 12/11/1996 của Bộ tài chính: “ Báo cáo tài chính được lập được coi là hợp pháp, hợp lệ khi có đủ chữ kí của người lập, người kiểm toán, kế toán trưởng, giám đóc và đóng dấu DN”, trong điều kiện hiện nay khi lực lượng cán bộ kiểm toán và hệ thống KTNB chưa thực sự hoàn thiện và phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu kiểm toán của tất cả các DNNN thì việc qui định như vậy là chưa thoả đáng. Như vậy xét về thực trạng phát triển KTNB trong các DNNN ở Việt Nam thì chúng ta thấy rõ rằng KTNB vẫn đang ở trong giai đoạn hình thành và phát triển, việc thí điểm mới chỉ dừng lại ở các TCT, các DN có qui mô lớn .Việc hình thành mô hình KTNB nói chung còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Tuy nhiên, việc phát triển hệ thống KTNB trong các DNNN ở nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường là một đòi hỏi cần thiết và tất yếu vì sự tồn tại và hưng thịnh của chính các DNNN trong cơ chế thị trường canh tranh khốc liệt. 3. Một số thiếu sót thường gặp trong công tác kiểm toán tại các DNNN: Hàng năm bộ phận kiểm toán phảI tiến hành kiểm tra báo cáo tài chính tai các DNNN để xác định đúng đắn kết quả hoạt động kinh doanh, xác định nghiã vụ cuả DN đối với nhà nước.Qua thực trạng của công tác kiểm toán nói chung, công tác kiểm toán nội bộ nói riêng tại các DNNN, ta thấy nổi lên một số vấn đề sau: Về hạch toán tài sản cố định (TSCĐ): Khái niệm về nâng cấp TSCĐ và sửa chữa TSCĐ không được nắm vững tại một số DN nên việc hạch toán không chuẩn xác. Chi phí nâng cấp TSCĐ là những chi phí nhằm kéo dàI thời gian sử dụng, nâng cao năng suất tính năng, tác dụng của TSCĐ. Theo cơ chế tài chính hiện hành sẽ được hạch toán tăng giá trị nguyên giá TSCĐ nhưng có DN lại hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh và ghi theo bút toán: Nợ TK 627, 642, 642 Có TK 111, 112 Hạch toán như vậy làm tăng giá thành giả tạo, làm giảm lợi tức DN.Bút toán trên phải sửa lại ghi tăng giá trị TSCĐ: Nợ TK 211 Có TK 111,112 Về hạch toán sửa chữa lớn TSCĐ đối với ngành đặc thù như nông lâm nghiệp nếu chi phí phát sinh không đều giữa các kỳ, các năm mà DN muốn biết trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ và chi phí sản xuất kinh doanh cần lập kế hoạch tính trước để trình cơ quan tài chính xem xét. Nhưng có một số DN không tuân theo qui địnhtrên nên việc quản lí chi phí sản xuất kinh doanh gặp khó khăn. Hạch toán nguyên vật liêu: Có những DN hạch toán tăng giá đầu vào khi mua nguyên vật liêu dùng biên nhận thay cho hoá đơn do Bộ tàI chính phát hành đã làm khó khăn cho việc kiểm soát chi phí. Việc hạch toán chi phí nguyên vật vào giá thành sản phẩm không tuân theo định mức chhi phí thực tế mà vận dụng cách khoán chi phí không đủ căn cứ tin cậy đã làm giá thành sản phẩm phản ánh không chính xác. Hạch toán một số chi phí vào giá thành không đúng Đó là các chi phí như quà biếu, ủng hộ đoàn thể, các cá nhân. Một số khoản không được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh nhưng DN vãn thực hiện như: DN sản xuất kinh doanh thưa lỗ nhưng vẫn trao đủ lương cấp bậc và các khoản phụ cấp cho các chức danh giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng đôn vị trái với qui định hiện hành của Nhà nước. Các trường hợp hạch toán vừa thừa vừa thiếu: Hạch toán không đầy đủ doanh thu (thiếu) một số trường hợp tiêu thụ nội bộ quà biếu bằng sản phẩm hàng hoá DN không đưa vào doanh thu như: ngành điện sử dụng điện nội bộ, ngành bưu điện dùng điện thoại đàm thoại nội bộ. Hạch toán tăng chi phí không hợp lí: Đó là việc chi phí tiền lương không dựa vào đơn giá sản phẩm, nghiệm thu ước khối lượng đã đưa vào hạch toán, lại có trường hợp hạch toán những khoản vượt định mức tiêu hao về lao động, vật tư để giảm lãi. Chứng từ kế toán chưa đảm bảo qui định Một số DN lập chứng từ khong đảm bảo tính hợp lí, hợp lệ, không đủ những yếu tố qui định của Bộ tài chính. Nhiều DN còn dùng hoá đơn cũ để mua bán vật tư, việc ghi chép trên hoá đơn không đúng qui định phản ánh mỗi bên hoá đơn một số liệu khác nhau. Chứng từ kế toán không chuẩn mực dẫn đến những sai sót khác làm mấy đi tính trung thực của kế toán. Chấp hành sổ sách kế toán còn những sai phạm Có những DN dùng nhiều hình thức kế toán tại DN (vừa nhật kí chứng từ, vừa chứng từ ghi sổ, vừa nhật kí chung). Việc chấp hành chế độ sổ sách kế toán như trên làm cho việc ghi chép trùng lặp, mất nhiều thời gian, khó khăn cho việc kiểm tra. Phương pháp vận dụng hệ thống tài khoản kế toán còn sai sót Việc tập hợp chi phí nguyên vật liệu vào giá thành không được một số DN ghi vào TK 621 chi phí nguyên vật liệu mà ghi thẳng vào chi phí: Nợ TK 154 Có TK 152,153 Một số DN đã hạch toán chi phí bán hàng và chi phí quản lí ( TK 641, 642 ) vào giá thành không đúng với qui định hạch toán mới đã ghi: Nợ TK 154 Có TK 641,642 Theo chế độ kế toán mới chi phí gián tiếp hạch toán vào tài khoản 911 xác định kết quả phải ghi như sau: Nợ TK 911 Có TK 641,642 Về hạch toán công nợ Đã có DN dùng tài khoản công nợ để hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh, tạo nguồn mua sắm TSCĐ và các tảI sản cho DN và đã hạch toán Nợ TK154 Có TK 332 “phải trả người bán” (thực ra là không có) Có TK 136 “phải trả khác” (thực ra không có) Sau đó DN hạch toán chi phí mua sắm TSCĐ đã ghi: Nợ TK 211 Có TK111,112 Đối với DN hạch toán ghi có tàI khoản công nợ (nhưng không có đối tượng trả) phải được chuyển thành lãI hoạt động kinh doanh hạch toán vào thu nhập bất thường đểtừ đó kết chuyển xác định kết quả kinh doanh Nợ TK liên quan Có TK 721 Sau đó Nợ TK 911 Có TK 421 Trên đây là một số sai sót phổ biến do những nguyên nhân khách quan và chủ quan mang lại. Về nguyên nhân chủ quan dễ thấy là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số kế toán trưởng không vững nên đã hạch toán sai nộị dung, phương pháp mà không biết. Nguyên nhân khách quan đem lại là do kế toán truởng được Nhà nước bổ nhiêm nhưng đặt tại DN, hưởng lương, sinh hoạt và các quyền lợi khác gắn với DN nên không tránh khỏi tình trạng “ Ăn cây nào rào cây nấy” có khi phải nghe theo ý kiến chỉ đạo của giám đốc nên mất đi chức năng kiểm soát viên tài chính tại DN. Đây là một vấn đề cần được xem xét nghiêm túc để có những điều chỉnh hợp lí. II. Những khó khăn chính trong việc hình thành kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. 1. Về mặt pháp lý: Tại Việt Nam, khái niệm KTNB mới chính thức xuất hiện kể từ khi Chính phủ ban hành nghị định số 59/CP (03/10/1996) về “Quy chế quản lí tài chính và hạch toán kinh doanh đối với các DNNN”.Theo đó các báo cáo tài chính của các DNNN buộc phải được kiểm toán bởi kiểm toán viên độc lập hoặc kiểm toán viên nội bộ. Trên cơ sở nghị định 59/ CP này, Bộ tài chính đã ban hành quy định số 832 TC/ QĐ/ CĐKT (28/10/1997) và thông tư số 52/1998-TT-BTC (16/4/1998) nhằm đưa ra những quy chế về KTNB và tổ chức thực hiện công việc thiết lập bộ máy KTNB trong các DNNN.Với các quy định và thông tư này việc tổ chức bộ máy KTNB là một yêu cầu bắt buộc. Xét về khía cạnh pháp lí thì mọi DNNN phải lập bộ phận KTNB và nó có thể thay thế cho kiểm toán độc lập, tuy nhiên KTNB phụ thuộc rất lớn vào người lãnh đạo cao nhất trong DN nên tính độc lập của KTNB chưa cao và kém hiệu quả. Mặt khác bộ phận KTNB tuy độc lập vơí các bộ phận khác trong DN nhưng vẫn là một bộ phận trong DN nên không thể hoàn toàn độc lập với DN. Vì vậy báo cáo KTNB được DN rất tin tưởng nhưng ít có giá trị pháp lí. Chính điều này đã làm cho các DN không tích cực trong việc bộ phận KTNB trong DN mình vì phải bỏ ra chi phí thành lập mà hiệu quả lại chưa cao, chưa tạo được niềm tin cho những người sử dụng thông tin về bá cáo tài chính do KTNB thực hiện kiểm toán. Đồng thời trong quá trình thực hiện NĐ 59/CP và QĐ số 832 TC/QĐ/CĐKT (28/10/1997) và thông tư số 52/1998/TT-BTC (16/4/1998) đã nảy sinh vướng mắc rằng có những DN với quy mô hoạt động nhỏ, lĩnh vực hoạt đông đặc thù và đội ngũ kế toán viên đủ mạnh mà không nhất thiết phải thiết lập bộ máy KTNB. Đối với các DN có qui mô nhỏ, lãnh đạo DN có thể kiểm tra chặt chẽ mọi hoạt động thì viêc thành lập một bộ phận KTNB này là quá thừa, hoàn toàn không cần thiết và hạn chế khi thành lập là không có cán bộ làm công tác này. Như đã nói, việc thành lập bộ phận KTNB là nhu cầu tự thân của DN, nhiều trường hợp lợi ích từ việc thiết lập bộ máy KTNB nhỏ hơn so với chi phí bỏ ra nên sự bắt buộc đối với toàn bộ các DNNN phải có bộ phân KTNB là điều không hợp lí. Chính vì thế, Bộ tài chính tiếp tục ra thông tư số 171/1998/TT-BTC (22/12/1998) nhằm thay thế thông tư số 52/1998/TT-BTC. Theo đó, việc tổ chức bộ máy KTNB là không bắt buộc đối với các DNNN mà phải tuỳ theo qui mô sản xuất kinh doanh ,địa bàn hoạt động, trình độ của đội ngũ cán bộ kế toán ...mà tổ chức cho phù hợp hoặc không cần tổ chức bộ máy KTNB. Các DNNN đã tổ chức bộ máy KTNB theo qui định tại thông tư số 52/1998/ TT-BTC thì tuỳ theo tình hình cụ thể của DN có thể tiếpp tục duy trì và hoạt động hoặc tổ chức lại theo qui định ở thông tư này. Như vậy một hệ thống chính sách chưa hoàn thiện, triệt để lại hay thay đổi khiến cho các DNNN lúng túng trong việc thành lập bộ phận KTNB, các DN đang thực hiện theo chính sách này thì lại chuyển đổi theo chính sách khác gây lãng phí tiền của, công sức và thời gian. Đồng thời do tính chất chưa ổn định của hệ thống pháp lí làm cho các DNNN chần chừ trong việc thành lập bộ phận KTNB mà vẫn còn đợi tính hoàn thiện của hệ thống này, thấy rõ hơn tính thiệt hơn khi thành lập bộ phận KTNB so với việc thuê kiểm toán nhà nước hay kiểm toán độc lập. Đây cũng là những lí do làm cho tiến trình thành lập KTNB trong các DNN ở nước ta còn chậm và chưa hiệu quả. Mặt khác, tại điều 6, mục2, quyết định 832 TC/QĐ/CĐkế toán đã nêu rõ: “Bộ phận KTNB được tổ chức độc lập với các quản lí và điều hành kinh doanh trong DN (cả phòng kế toán- tài chính), chịu sự chỉ đạo và lãnh đạo trực tiếp của (Tổng) giám đốc DN.” Đây là một qui định hoàn toàn đúng với nguyên tắc và thông lệ chung về tổ chức bộ máy KTNB. Tuy vậy đến thông tư 171/1998/TT-BTC ở điểm 3 lại có sự “nới lỏng” như sau: “tuỳ thuộc vào qui mô sản xuất kinh doanh ,địa bàn hoạt động tập trung hay phân tán, điều kiện cụ thể của trình độ năng lực đội ngũ kế toán, DN có thể chọn lựa hình thức tổ chức bộ máy KTNB cho phù hợp và có hiệu quả thiết thực. Việc tổ chức bộ máy KTNB không bắt buộc đối với các DN. Vậy đối với các DN tổ chức bộ mát KTNB thì tổng giám đốc DN lựa chọn và ra quyết định hình thức tổ chức bộ máy cho phù hợp”. Theo sự nới lỏng này, nhiều đơn vị đã sát nhập trở lại bộ phận KTNB vào bộ máy kế toán, từ đó làm mất đi nguyên tắc tối quan trọng của tổ chức bộ máy KTNB là “độc lập với các bộ phận còn lại và chỉ phụ thuộc vào người lãnh đạo cao nhất của đơn vị”. Chính điều này đã làm mất đi tính hiệu quả trong công việc của KTNB do phụ thuộc vaò bộ phận kế toán, tao ra cáI nhìn thiếu tin tưởng vào hiệu quả hoạt động của KTNB ở các DN chưa thành lập bộ phận KTNB, làm cho các DN này chưa thực sự muốn hình thành bộ phận KTNB trong DN mình. Đó là những nguyên nhân chủ yếu của hệ thống chính sách pháp lí ảnh hưởng đến sự hình thành bộ phận KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay. 2 Về mặt cán bộ và quy mô của các DNNN ở nước ta hiện nay: Trước hết, xét về mặt tiêu chuẩn kiểm toán viên nội bộ (KTVNB): Do KTVNB là người kiểm toán các hoạt động của DN cả về tài chính và kiểm toán hoạt động cho nên đòi hỏi về mạt đạo đức, KTVNB phải là người thẳng thắn, trung thực, công minh, nhiệt tình với công việc, có tác phong làm việc thận trọng, có uy tín trong DN, được lãnh đạo và quần chúng tin tưởng. Về trình độ chuyên môn, KTVNB phải là những chuyên gia có trình độ nghề ngiệp vững vàng. Trước hết, đó là những người có trình độ kế toán thành thạo, có thể là những cán bộ đã tốt nghiệp đại học kế toán hoặc đại học ngành kế toán, ngân hàng, tài chính nhưng đã làm nghiệp vụ kế toán ít nhất 5 năm hoăc đã qua chức vụ kế toán trưởng đơn vị. Nói chung về mặt nghiệp vụ, KTVNB ít nhất phải tương đương kế toán trưởng một đơn vị. Tuy nhiên trên thực tế , cán bộ về kiểm toán ở nước ta chưa có nhiều nên nhu cầu về KTV là rất lớn vàvẫn đang khan hiếm. Việc lập bộ phận KTNB lại phải hội đủ các tiêu chuẩn ở trên . Do vậy hiên nay một số DNNN có qui mô nhỏ rất khó khăn khi thành lập KTNB vì không có nhân sự theo tiêu chuẩn, nhất là chọn trưởng phòng( trưởng ban) KTNB. Điều này dẫn đến hiện tượng điều động, luân chuyển cán bộ không hợp lý. Rất nhiều kế toán viên vừa là người của bộ phận KTNB, vừa k._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK1195.doc
Tài liệu liên quan