Một số vấn đề về phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex

Tài liệu Một số vấn đề về phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex: ... Ebook Một số vấn đề về phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1568 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Môc lôc Lêi nãi ®Çu Ở tất cả các quốc gia nói chung, ngành giao thông vận tải được xem là một trong những ngành then chốt trong nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động an toàn hiệu quả của ngành này ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các ngành khác và mức độ hiện đại hóa của các phương tiện giao thông vận tải thể hiện sự trình độ phát triển và văn minh của một đất nước. Ngày nay khi nhu cầu đi lại, trao đổi mua bán hàng hóa, thông thương giữa các vùng miền, các nước ngày càng cao thì các phương tiện sử dụng trong ngành Giao thông vận tải ngày càng nhiều về số lượng, đa dạng về chủng loại và hiện đại hóa về mặt chất lượng, đặc biệt với các phương tiện giao thông đường bộ. Song một thực tế cho thấy khi các phương tiện giao thông đường bộ gia tăng kéo theo số vụ tai nạn giao thông xảy ra với quy mô và mức độ thiệt hại ngày càng lớn, thiệt hại nghiêm trọng về người cũng như tài sản của người tham gia giao thông. Trong những nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm vật chất xe ôtô là một nghiệp vụ bảo hiểm ra đời là một nhu cầu khách quan nhằm giúp cho các chủ xe ổn định cuộc sống, khắc phục khó khăn về mặt tài chính trong trường hợp không may gặp rủi ro tai nạn bất ngờ, và thực tế triển khai nghiệp vụ đã minh chứng vai trò tích cực của nhà bảo hiểm đó là nhà tài trợ, chia xẻ rủi ro đối với chủ xe, lái xe mỗi khi xe lưu hành gây thiệt hại. Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất ôtô là nghiệp vụ bảo hiểm tự nguyện được PJICO triển khai ngay từ những ngày đầu thành lập, trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này Công ty đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên trong tình hình hiện nay sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường với nhiều công ty bảo hiểm có tiềm lực tài chính mạnh cũng như có nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường làm cho PJICO gặp nhiều khó khăn trong việc tăng thị phần và nâng cao hiệu quả trong kinh doanh. Vì vậy vấn đề mà PJICO đang quan tâm hiện nay là việc định mức phí bảo hiểm sao cho chính xác, hợp lý đảm bảo bồi thường nhanh chóng, chính xác, công bằng cho khách hàng khi có tổn thất nhưng vẫn vừa đảm bảo tính cạnh tranh cho sản phẩm. Do đó em đã lựa chọn đề tài: “Một số vấn đề về phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex” làm đề tài báo cáo thực tập tốt nghiệp trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại phòng bảo hiểm khu vực VII thuộc Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex. Bài viết của em gồm 3 phần chính: Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm vật chất xe cơ giới và phí bảo hiểm. Chương II: Thực trạng về phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex. Chương III: Một số kiến nghị trong công tác xác định phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex. Em xin trân trọng cảm ơn cô giáo, Thạc sĩ Tô Thị Thiên Hương và các cán bộ phòng bảo hiểm khu vực VII thuộc Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của cô giáo và các cán bộ nơi em thực tập để bài báo cáo thực tập tốt nghiệp của em được hoàn chỉnh hơn. Hà nội, ngày 26 tháng 4 năm 2006. Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Kim Thư. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI VÀ PHÍ BẢO HIỂM I. SỰ CẦN THIẾT VÀ TÁC DỤNG CỦA BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI 1. Sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe cơ giới 1.1 Đặc điểm của xe cơ giới Trong xã hội hiện đại, xe cơ giới là phương tiện chủ yếu và quan trọng tham gia giao thông trên tuyến giao thông đường bộ. Cùng với sự phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật, các phương tiện sử dụng trong ngành giao thông vận tải nói chung và xe cơ giới nói riêng được cải tiến và ngày một phát triển hơn. Nếu như trước kia xe cơ giới lưu hành với số lượng ít và đơn giản về cấu tạo thì ngày nay xe cơ giới xuất hiện rất phổ biến và đa dạng về chủng loại cũng như có cấu tạo ngày càng hiện đại hơn. Xe cơ giới là loại xe hoạt động bằng chính động cơ của mình và được phép lưu hành trên lãnh thổ của mỗi quốc gia. Xe cơ giới không chỉ là phương tiện vận chuyển mà nó còn là một tài sản có giá trị tương đối lớn đối với cá nhân, tổ chức. Vận chuyển bằng xe cơ giới là hình thức vận chuyển phổ biến, được sử dụng rộng rãi do có tính cơ động cao và linh hoạt, tốc độ vận chuyển nhanh và chi phí thấp, hoạt động trong phạm vi rộng kể cả địa hình phức tạp. Trong quá trình hoạt động xe có một số các đặc điểm ảnh hưởng đến quá trình triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm: - Số lượng đầu xe tham gia ngày càng nhiều đặc biệt ở các nước đang phát triển và chậm phát triển có thời kỳ tăng lên đột biến trong khi đường xá ngày càng xuống cấp và không được đầu tư, tu sửa kịp thời nên tai nạn giao thông xảy ra ngày càng nghiêm trọng. Có thể thống kê tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam giai đoạn 2000-2005 như sau: Bảng 1: Tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2005 Năm Số phương tiện cơ giới đường bộ Số vụ Số người bị chết Số người bị thương Số vụ A Chết B Bị thương C 2000 6.64.740 22.846 33,6 7.500 11,2 25.400 37,9 2001 8.916.134 25.040 28,1 10.477 11,8 29.188 32,7 2002 10.880.401 27.134 24,9 12.800 11,8 30.733 28,2 2003 12.054.000 19.852 16,5 11.319 9,4 20.400 16,9 2004 14.150.816 16.911 12,0 11.739 8,3 15.152 10,7 2005 16,977,748 14.141 8,3 11.184 6,6 11.760 6,9 (Nguồn tạp chí Bạn đường) Trong đó: A: Số vụ TNGT/ 10.000 phương tiện cơ giới đường bộ. B: Số người chết vì TNGT/ 10.000 phương tiện cơ giới đường bộ. C: Số người bị thương vì TNGT/10.000 Phương tiện cơ giới đường bộ. - Xe cơ giới có tính cơ động cao, tính việt dã tốt và tham gia triệt để vào quá trình vận chuyển, vì vậy xác xuất rủi ro đã lớn lại càng lớn hơn so với các loại phương tiện vận tải khác. So sánh tình hình tai nạn giao thông đường bộ so với các loại hình giao thông khác ở Việt Nam: Bảng 2: So sánh tai nạn giao thông đường bộ với các loại hình giao thông vận tải khác tại Việt Nam năm 2005. Loại hình GTVT Số vụ tai nạn (vụ) Tỷ lệ (%) Số người chết Tỷ lệ (%) Số người bị thương Tỷ lệ (%) Đường bộ 27.134 96,9 12,800 97,1 30.733 99,1 Đường sắt 407 1,5 185 1,4 215 0,7 Đường thủy 350 1,2 180 1,3 39 0,1 Hàng hải 102 0,4 21 0,2 12 0,04 Cộng 27.993 100 13.186 100 30.999 100 (Nguồn Tạp chí cầu đường 2005) - Xe cơ giới là tham gia giao thông đường bộ phụ thuộc rất nhiều điều kiện thời tiết, khí hậu, cơ sở hạ tầng, vào ý thức chấp hành luật lệ giao thông của mỗi người dân tham gia giao thông. Nhận thức được vấn đề này, Nhà nước và các cấp, các ngành có liên quan đã có sự quan tâm kịp thời đến công tác nâng cấp, phát triển cơ sở hạ tầng đường xá, cầu cống … Đường bộ ở Việt Nam nhìn chung được nâng lên cả về mặt số lượng và chất lượng, song hệ thống giao thông đường bộ còn nhiều hạn chế như chất lượng còn chưa đồng đều, các công trình giao thông mới xây dựng bị xuống cấp nhanh chóng do chất lượng thi công còn nhiều hạn chế và bất cập. Điều đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự an toàn của xe cơ giới trên đường. 1.2 Sự cần thiết phải bảo hiểm vật chất xe cơ giới: Từ việc nghiên cứu đặc điểm của xe cơ giới ta có thể thấy, với những đặc tính ưu việt của nó so với một số loại hình vận chuyển khác, thì hiện nay xe cơ giới là một phương tiện được sử dụng rộng rãi với số lượng lớn, nhưng bên cạnh đó nó cũng chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro bất ngờ có thể xảy ra. Thực tế cho thấy là sự gia tăng về số lượng vụ tai nạn giao thông gây thiệt hại lớn về người và tài sản cho các chủ phương tiện tham gia giao thông. Khi xảy ra tai nạn, thông thường chủ xe cơ giới phải gánh chịu phần thiệt hại vật chất của phương tiện mình điều khiển và phải gánh chịu phần thiệt hại đối với người thứ ba (trách nhiệm dân sự) nếu chủ xe có lỗi. Đối với phần thiệt hại của người thứ ba đã có Bảo hiểm trách nhiệm dân sự đứng ra bồi thường, đây là loại hình bảo hiểm mang tính bắt buộc mà chủ phương tiện xe cơ giới phải tham gia. Tuy nhiên, đối với phần thiệt hại vật chất thân xe mà chủ xe phải gánh chịu nếu tính bình quân thiệt hại về tài sản của mỗi vụ tai nạn thường lên đến hàng chục triệu đồng, đây là một số tiền không nhỏ đối với các chủ phương tiện. Mức độ thiệt hại mà các chủ xe phải chi trả là một gánh nặng đối với họ nó ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và gây khó khăn về mặt tài chính cho các chủ xe. Xuất phát từ thực tế đó bảo hiểm vật chất thân xe cơ giới đã ra đời, đây là một biện pháp hữu hiệu nhất khắc phục hậu qủa do tai nạn gây ra, đảm bảo ổn định tài chính cho các chủ xe. Ý thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ này đối với các chủ phương tiện xe cơ giới nói riêng và toàn xã hội nói chung, hiện nay nghiệp vụ này đang được tất cả các Công ty bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam triển khai. Bảo hiểm vật chất thân xe là một loại hình của bảo hiểm tài sản thuộc bảo hiểm thương mại, nó luôn được thực hiện dưới hình thức tự nguyện, việc tham gia bảo hiểm phụ thuộc vào nhận thức và nhu cầu của người tham gia bảo hiểm, và thời hạn tham gia bảo hiểm của bảo hiểm vật chất xe thường là một năm trở xuống, nếu hết thời hạn hợp đồng người tham gia có thể tái tục. Khi tham gia bảo hiểm các chủ xe phải đóng góp một phần tài chính của mình gọi là phí bảo hiểm vào qũy tiền tệ của nhà bảo hiểm, qũy này sẽ được sử dụng chủ yếu cho năm mục đích sau: + Bồi thường cho khách hàng khi có rủi ro gây tổn thất thuộc trách nhiêm bảo hiểm. + Đề phòng, hạn chế tổn thất. + Dự trữ, dự phòng. + Nộp ngân sách nhà nước dưới hình thức thuế. + Chi phí quản lý có lãi. Có thể khẳng định rằng bảo hiểm vật chất xe cơ giới ra đời là cần thiết khách quan cho nên ở tất cả các nước trên thế giới đều triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này. Hiện nay PJICO chỉ triển khai bảo hiểm vật chất xe cơ giới với xe ôtô do nó có giá trị lớn. 2. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới Hoạt động trên những nguyên tắc chung của bảo hiểm thương mại đó là: nguyên tắc số đông bù số ít, nguyên tắc rủi ro có thể được bảo hiểm, nguyên tắc phân tán rủi ro, nguyên tắc trung thực tuyệt đối và nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm, việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới có những tác dụng cơ bản sau: - Tích cực góp phần ngăn ngừa và đề phòng tai nạn giao thông. Thông qua việc thu phí từ người tham gia bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ lập một qũy tài chính với mục đích chính là bồi thường cho các rủi ro được bảo hiểm xảy ra, một nhiệm vụ quan trọng của qũy tài chính này phải kể đến đó là sử dụng vào mục đích đề phòng hạn chế tổn thất. Những nguy cơ gây ra tai nạn do chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng còn thấp, như tại các đèo, dốc nguy hiểm (Đèo Cả, Đèo Cù Mông, Đèo Hải Vân…) đã được các công ty bảo hiểm lớn (trong đó có PJICO ) đã hỗ trợ hàng tỷ đồng để xây dựng đường lánh nạn, đường phụ, dốc cứu nạn, thành chắn,… hàng năm cứu thoát khỏi nguy hiểm nhiều vụ tai nạn. Ngoài việc xây dựng thêm các công trình lánh nạn, các công ty bảo hiểm còn bố trí hệ thống các Panô, áp phích có kèm những khẩu hiệu về an toàn giao thông trên đường để nâng cao ý thức người dân trong việc tham gia giao thông nhằm hạn chế các tai nạn xảy ra. Các công ty bảo hiểm cũng khuyến khích các chủ xe thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, nâng cao ý thức thông qua công tác tuyên truyền luật lệ an toàn giao thông. Đặc biệt các công ty bảo hiểm còn giảm phí bảo hiểm nếu sau một thời gian nhất định mà xe không gặp phải bất kỳ một thiệt hại nào. Những biện pháp trên tất cả đều nhằm mục đích góp phần đề phòng hạn chế tổn thất tai nạn giao thông. - Trực tiếp góp phần ổn định tài chính, khắc phục khó khăn đột xuất cho các chủ xe. Xe cơ giới với đặc điểm hoạt động trên địa bàn rộng và phức tạp chứa đựng rất nhiều rủi ro tiềm ẩn. Khi tham gia giao thông nhiều khi chỉ một sơ xuất, bất cẩn nhỏ cũng có thể dẫn tới những hậu quả thiệt hại lớn mà chủ xe là người đầu tiên phải gánh chịu những thiệt hại này. Chủ xe tự chấp nhận rủi ro mà không chuyển giao rủi ro cho bảo hiểm thì việc khắc phục hậu quả sau tai nạn là cả môt quá trình, có thể gây gián đoạn kinh doanh của chủ xe, thiệt hại về tài chính. Nếu chủ xe chuyển giao rủi ro cho bảo hiểm thì hậu quả của rủi ro xảy ra đối với một hoặc một ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền huy động được từ rất nhiều người có khả năng cùng gặp rủi ro như vậy, bảo hiểm sẽ bồi thường nhanh chóng kịp thời cho chủ xe giúp chủ xe khắc phục khó khăn về tài chính, tiếp tục hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên nhà bảo hiểm cũng có những quy định những rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm và khống chế hạn mức trách nhiệm (số tiền bồi thường) để tránh trục lợi bảo hiểm đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm của chủ điều khiển phương tiện tham gia giao thông, - Góp phần xoa dịu bớt sự căng thẳng giữa chủ xe với nạn nhân của các vụ tai nạn. Khi xảy ra tai nạn giao thông đồng thời với những tổn thất xảy ra, hầu hết trong các trường hợp đều có xảy ra xích mích, căng thẳng giữa chủ xe với nạn nhân của vụ tai nạn. Với chuyên môn của mình, nhà bảo hiểm cùng với lực lượng cảnh sát giao thông đứng ra tổ chức giám định, xác định mức độ lỗi của hai bên từ đó nhanh chóng đưa ra mức bồi thường thỏa đáng, giải quyết nhanh chóng những khúc mắc giữa các bên. - Góp phần tăng thu ngân sách, đầu tư xây dựng cơ sở hạn tầng giao thông, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Thông qua việc nộp thuế làm tăng thu ngân sách nhà nước của các công ty bảo hiểm, chính phủ sử dụng ngân sách phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư hỗ trợ nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng để thỏa mãn tốt hơn nhu cầu đi lại của người dân. Ngoài ra, với phạm vi hoạt động rộng rãi của các công ty bảo hiểm hiện nay ở tất cả các tỉnh thành còn giải quyết được một phần không nhỏ công ăn việc làm cho người lao động, những người lao động này họ lam các đại lý, cộng tác viên, những nhân viên bảo hiểm… II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI 1. Đối tượng bảo hiểm Xe cơ giới có thể hiểu là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ bằng động cơ của chính chiếc xe đó, bao gồm ô tô, mô tô và xe máy. Để đối phó với những rủi ro tai nạn bất ngờ có thể xảy ra gây tổn thất cho mình, các chủ xe cơ giới (bao gồm các cá nhân, các tổ chức có quyền sở hữu xe hay bất kỳ người nào được phép sử dụng xe cơ giới, kinh doanh vận chuyển hành khách bằng xe cơ giới) thường tham gia một số loại hình bảo hiểm sau: - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; - Bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới với hàng hoá chở trên xe; - Bảo hiểm tai nan hành khách trên xe; - Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe; - Bảo hiểm tai nạn người ngồi trên xe; - Bảo hiểm vật chất xe. Trong phạm vi báo cáo chuyên đề thực tập này, chỉ tập trung trình bày nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe. Khác với bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hành khách trên xe và đối với người thứ ba khác được áp dụng bắt buộc bằng pháp luật đối với các chủ xe. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản được thực hiện dưới hình thức bảo hiểm tự nguyện. Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe là để được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra với xe của mình do những rủi ro được bảo hiểm gây nên. Vì vậy, đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia. Đối với xe mô tô, xe máy thường các chủ xe tham gia bảo hiểm toàn bộ vật chất thân xe. Đối với xe ôtô, các chủ xe có thể tham gia toàn bộ hoặc cũng có thể tham gia từng bộ phận của xe (Bộ phận thường thống nhất quy định là tổng thành xe). Đứng trên góc độ đặc điểm kinh tế, kỹ thuật chiếc xe ôtô được chia thành bảy tổng thành: - Tổng thành thân vỏ xe gồm: Khung xe, két nước, nắp cabô, chắn bùn, cabin, tổng bơm, bộ điều hòa lực phanh, các đường ống dẫn khí, dẫn dầu, thùng chứa nguyên liệu, kính gương, ghế ngồi, các trang thiết bị khác; - Tổng thành động cơ: Bộ ly hợp, bộ chế hòa khí, bơm cao áp, bầu lọc gió, bơm hơi, và hệ thống điện; - Tổng thành hộp số: Hộp số chính, hộp số phụ, và các lăng; - Tổng thành hệ thống lái: Trục lái, vô lăng lái, hộp tay lái, bổ trợ lực tay lái, thanh kéo ngang, thanh kéo dọc; - Tổng thành trục trước (Cầu trước) bao gồm: Dầm cầu kéo, mayơ, hệ thống treo nhíp, má phanh, may ơ trước, trục lắp; - Tổng thành trục sau ( Cầu sau) bao gồm: Vỏ cầu và ruột cầu; - Tổng thành lốp gồm toàn bộ lốp lắp vào xe và trang bị dự phòng trên xe. Ngoài ra còn có tổng thành chuyên dùng đối với một số xe chuyên dùng khác. 2. Phạm vi bảo hiểm Trong hợp đồng bảo hiểm vật chất xe, các rủi ro được bảo hiểm thông thường bao gồm: - Tai nạn do đâm va, lật đổ. - Cháy, nổ, bão lụt, sét đánh, động đất, mưa đá. - Mất cắp toàn bộ xe. - Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên, Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe được bảo hiểm trong những trường hợp trên, các công ty bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí hợp lý. Chi phí này nhằm: - Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm; - Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất; - Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp tổng số tiền bồi thường (STBT) của công ty bảo hiểm là không vượt quá số tiền bảo hiểm (STBH) đã ghi trên đơn hay giấy chứng nhận bảo hiểm, đồng thời công ty bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại vật chất của xe trong các trường hợp sau: - Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa. Hao mòn tự nhiên được tính dưới hình thức khấu hao và thường được tính theo tháng. - Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị, săm lốp bị hư hỏng mà không phải do tai nạn gây ra. - Mất cắp bộ phận của xe. Để tránh những “nguy cơ đạo đức” lợi dụng bảo hiểm, những hành vi vi phạm pháp luật, hay một số rủi ro đặc biệt khác, những thiệt hại, tổn thất xảy ra trong những trường hợp sau cũng không được bồi thường: - Hành động cố ý của chủ xe, lái xe. - Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy định của Luật an toàn giao thông đường bộ; - Chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng Luật an toàn giao thông đường bộ như: + Xe không có giấy phép lưu hành; + Lái xe không có bằng lá, hoặc có nhưng không hợp lệ; + Lái xe bị ảnh hưởng của rượu bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự khác trong khi điều khiển xe; + Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép; + Xe chở quá trọng tải hoặc số hành khách quy định; + Xe đi vào đường cấm; + Xe đi đêm không đèn; + Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa. - Những thiệt hại gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh. - Thiệt hại do chiến tranh. Cũng cần lưu ý rằng trong thời hạn bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu xe cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực với chủ xe mới. Tuy nhiên, nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ có yêu cầu. 3. Giá trị bảo hiểm Giá trị bảo hiểm của xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm. Việc xác định đúng giá trị của xe tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ sở để bồi thường. Tuy nhiên, giá xe trên thị trường luôn có những biến động và có thêm nhiều chủng loại xe mới tham gia giao thông nên đã gây khó khăn cho việc xác định giá trị xe. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường dựa trên các nhân tố sau để xác định giá trị xe: - Loại xe; - Năm sản xuất; - Mức độ mới, cũ của xe; - Thể tích làm việc của xi lanh… Một phương pháp xác định giá trị bảo hiểm mà các công ty bảo hiểm hay áp dụng đó là căn cứ vào giá trị của xe và mức khấu hao. Trên cơ sở giá rị bảo hiểm, chủ xe có thể tham gia bảo hiểm nhỏ hơn, hoặc bằng, hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. Tuy nhiên, việc quyết định tham gia bảo hiểm với số tiền là bao nhiêu sẽ là cơ sở để xác định STBH khi có tổn thất xảy ra. Vấn đề này các công ty bảo hiểm trên thế giới thường quy định: + Nếu xe bị tai nạn từ ngày 15 trở về đầu tháng thì tháng đó không tính khấu hao, nếu xe bị tai nạn từ ngày 16 đến cuối tháng thì có tính khấu hao tháng đó. + Nếu xe tham gia bảo hiểm từ ngày 15 đến đầu tháng thì xe đó phải tính khấu hao, nếu xe đó tham gia bảo hiểm từ ngày 16 đến cuối tháng thì không tính khấu hao. 4. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất Khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới các công ty bảo hiểm cần chú ý đến việc đề phòng tai nạn xảy ra và hạn chế tối đa mức độ tổn thất để giảm thiểu chi phí bồi thường cho nhà bảo hiểm bởi nếu chi bồi thường quá cao thì doanh nghiệp kinh doanh sẽ ít hoặc thậm chí không có lãi, không đảm bảo duy trì hoạt động kinh doanh. Hằng năm các công ty bảo hiểm thường tiến hành trích một phần doanh thu từ nghiệp vụ để phục vụ cho công tác này. Chủ yếu là để xây dựng hệ thống biển báo tại các đầu mối giao thông quan trọng, xây dựng đường lánh nạn, gương cầu tại đường rộng, đèo dốc. Tuy nhiên, để thực hiện tốt công tác này thì trách nhiệm chính lại thuộc về các chủ phương tiện bởi không ai mua bảo hiểm lại muốn cho rủi ro xảy ra, vì vậy nếu chủ phương tiện thực hiện tốt các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất, như đối với lái xe ôtô cần thắt dây an toàn, cần đội mũ bảo hiểm đối với người sử dụng xe máy, chạy đúng phần đường, đúng tốc độ quy định,…sẽ làm giảm tai nạn xảy ra, giảm số tiền mà nhà bảo hiểm phải bồi thường từ đó giảm phí bảo hiểm cho người tham gia. 5. Giám định và bồi thường tổn thất: 5.1. Giám định tổn thất Đây là một khâu đặc biệt quan trọng trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm. Nó là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm, nó là khâu quan trọng bởi nếu không xác định chính xác mức độ thiệt hại thực tế, trách nhiệm của công ty bảo hiểm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu của công ty cũng như uy tín của công ty với khách hàng. Giám định được thực hiện bởi các giám định viên, có thể là nhân viên của công ty hoặc giám định viên thuê ngoài. Thông thường đối với bảo hiểm vật chất xe cơ giới, việc giám định tổn thất được công ty bảo hiểm tiến hành với sự góp mặt của chủ xe, lái xe hoặc người đại diện hợp pháp nhằm xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại và tất cả các thiệt hại thuộc trách nhiệm của nhà bảo hiểm phải được tiến hành giám định rất kỹ lưỡng. 5.2 Bồi thường tổn thất a. Hồ sơ bồi thường Khi yêu cầu công ty bảo hiểm bồi thường thiệt hại vật chất xe, chủ xe phải cung cấp những tài liệu, chứng từ sau: - Tờ khai tai nạn của chủ xe; - Bản sao của Giấy chứng nhận bảo hiểm, Giấy chứng nhận đăng ký xe, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện cơ giới đường bộ, Giấy phép lái xe; - Kết luận điều tra của Công an hoặc bản sao bộ hồ sơ tai nạn gồm: Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn, Biên bản giải quyết tai nạn; - Bản án hoặc quyết định của Tòa án trong trương hợp có tranh chấp tại Tòa án; - Các chứng từ xác định thiệt hại do tai nạn, ví dụ , chứng từ xác định chi phí sửa chữa xe, thuê cẩu kéo... b. Nguyên tắc bồi thường tổn thất: Khi tiến hành bồi thường các công ty bảo hiểm phải tuân theo các nguyên tắc sau: - Giải quyết đúng chế độ bảo hiểm + Đúng trách nhiệm bảo hiểm: Về đối tượng bảo hiểm, rủi ro nhận bảo hiểm, + Đúng thiệt hại thuộc phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm, + Trả tiền đúng đối tượng, - Đủ căn cứ pháp lý chứng minh được: + Đối tượng được bảo hiểm đã gặp rủi ro nhận bảo hiểm khi hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực; + Thiệt hại thuộc phạm vi nhận bảo hiểm; + Không vi phạm những điểm loại trừ. - Thuận lợi, kịp thời: Thuận lợi, chặt chẽ nhưng không quá phức tạp có thể thực hiện được. Có các phương án thay thế khi cần. Về cụ thể số tiền bồi thường sẽ được tính như sau: * Trường hợp xe tham gia bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế: Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại thực tế * * Trường hợp xe tham gia bảo hiểm trên giá trị: Theo nguyên tắc để tránh việc “lợi dụng” bảo hiểm, công ty bảo hiểm chỉ chấp nhận STBH nhỏ hơn hoặc bằng với GTBH. Nếu người tham gia bảo hiểm cố tình tham gia với STBH lớn hơn GTBH nhằm trục lợi bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm sẽ không có hiệu lực. Tuy nhiên, nếu là vô tình tham gia bảo hiểm trên giá trị, công ty bảo hiểm vẫn bồi thường, nhưng STBT chỉ bằng giá trị thiệt hai thực tế và luôn luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá trị thực tế của xe. Ví dụ, một chiếc xe Toyota có giá trị thực tế là 200 triệu đồng, nhưng chủ xe lại tham gia bảo hiểm với số tiền là 250 triệu đồng. Khi có một tổn thất bộ phận xảy ra, giả sử giá trị thiệt hại là 20 triệu đồng, thì STBH ở đây chỉ là 20 triệu đồng. Hoặc nếu tổn thất toàn bộ xảy ra thì STBH lớn nhất chỉ là 200 triệu đồng. Trong thực tế, cũng có những trường hợp Công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm trên giá trị thực tế, ví dụ theo “Giá trị thay thế mới”. Quay trở lại ví dụ chủ xe có chiếc Toyota trị giá 200 triệu ở trên, chủ xe muốn rằng khi có tổn thất toàn bộ xảy ra, ông ta sẽ có tiền để mua được một chiếc xe Toyota mới với giá trên thị trường là 300 triệu đồng, chứ không phải đi tìm mua một chiếc xe cũ tương đương 200 triệu đồng. Vì vậy ông ta mong muốn được tham gia bảo hiểm với số tiền là 300 triệu đồng, để khi có tổn thất xảy ra ông ta có thể nhận được số tiền là 300 triệu đồng. Trường hợp này được gọi là bảo hiểm theo “giá trị thay mới” . Để được bảo hiểm theo “giá trị thay mới”, chủ xe phải đóng phí bảo hiểm khá cao và các điều kiện bảo hiểm rất nghiêm ngặt. * Trường hợp tổn thất bộ phận: Trong trường hợp này, chủ xe sẽ được giải quyết bồi thường trên cơ sở nguyên tắc một hoặc nguyên tắc hai nêu trên. Tuy nhiên, các công ty bảo hiểm thường giới hạn mức bồi thường đối với tổn thất bộ phận bằng bảng tỷ lệ giá trị tổng thành xe. * Trường hợp tổn thất toàn bộ Xe được coi là tổn thất toàn bộ khi mất cắp, mất tích hoặc xe bị thiệt hại nặng đến mức không thể sửa chữa phục hồi để đảm bảo lưu hành an toàn, hoặc chi phí phụ hồi bằng hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. Trong trường hợp này, STBT lớn nhất bằng STBH và phải trừ khấu hao cho thời gian xe đã sử dụng hoặc chỉ tính giá rị tương đương với giá trị xe ngay trước khi xảy ra tổn thất. Ví dụ: Đầu năm 2005 chủ xe H có chiếc xe Toyota giá trị thực tế 300 Tr.đ tham gia bảo hiểm toàn bộ với số tiền 300 Tr.đ tại công ty bảo hiểm A. Ngày 13/8/2005 xe gặp tai nạn bị tổn thất toàn bộ. Khi tham gia bảo hiểm, xe đã sử dụng được 5 năm, tỉ lệ khấu hao xe là 5%/ năm, Trong trường hợp này số tiền bồi thường của công ty bảo hiểm vật A cho chủ xe H được xác định như sau: Giá trị ban đầu của xe = =400 tr.đ Giá trị xe tại thời điểm trước khi xảy ra tai nạn = = 288,33 tr.đ Như vậy, số tiền bồi thường mà chủ xe H nhận được là 288,33 Tr.đ. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường quy định khi giá trị thiệt hại so với giá trị thực tế của xe bằng hoặc lớn hơn một tỉ lệ nhất định nào đó được xem là tổn thất toàn bộ ước tính, tuy nhiên lại giới hạn bởi bảng tỷ lệ cấu thành xe. Chúng ta hãy xem xét ví dụ họa sau. Ví dụ: Chủ xe A có chiếc xe Toyota giá trị thực tế 200 Tr,đ tham gia bảo hiểm toàn bộ với số tiền 200 Tr.đ tại công ty bảo hiểm K. Theo quy định của công ty bảo hiểm K, chỉ được coi là tổn thất toàn bộ ước tính khi giá trị thiệt hại bằng hoặc trên 80% giá trên giá trị thực tế của chiếc xe tính theo bảng tỉ lệ cấu thành xe. Trong thời hạn bảo hiểm xe bị tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm, giá trị thiệt hại theo chi phí sửa chữa là: Thân vỏ thiệt hại 100% chi phí sửa chữa: 120 tr.đ Động cơ thiệt hại 100% chi phí sửa chữa : 35 tr.đ Hộp số thiệt hại 100% chi phí sửa chữa: 15 tr.đ Tổng cộng thiệt hại: 170 tr.đ Giá trị thiệt hại như trên lớn hơn 80% giá trị thực tế của xe (170 tr.đ/ 200 tr.đ = 0,85). Nhưng căn cứ vào bảng tỷ lệ tổng thành giá trị thiệt hại thuộc trách nhiệm của công ty bảo hiểm là: Thân vỏ : 53,5% x 100% = 53,5% Động cơ : 15,5% x 100% = 15,5% Hộp số : 7,0% x 100% = 7,0% Tổng cộng: 76,0% Như vậy trường hợp này không được coi là tổn thất toàn bộ ước tính mà chỉ giải quyết theo tổn thất bộ phận. Ngoài ra, khi tính toán số tiền bồi thường còn phải tuân theo những nguyên tắc sau: - Những bộ phận thay thế mới (Tức là khi tổn thất toàn bộ một bộ phận hay một tổng thành), khi bồi thường phải trừ khấu hao đã sử dụng hoặc chỉ tính giá trị tương đương với giá trị của bộ phận được thay thế ngay trước lúc xảy ra tai nạn. Nếu tổn thất xảy ra trước ngày 16 của tháng, tháng đó không phải tính khấu hao. Còn nếu tổn thất xảy ra từ ngày 16 trở đi thì phải tính khấu hao cho tháng đó. Công ty bảo hiểm sẽ thu hồi những bộ phận được thay thế hoặc đã được bồi thường toàn bộ giá. - Trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm một bộ phận hoặc tổng thành xe, số tiền bồi thường được xác định dựa trên thiệt hại của bộ phận hay tổng thành đó. Và số tiền bồi thường cũng thường được giới hạn bởi bảng tỷ lệ giá trị tổng thành xe của bộ phận hay tổng thành tham gia bảo hiểm. - Trường hợp thiệt hại xảy ra có liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba, công ty bảo hiểm bồi thường cho các chủ xe và yêu cầu chủ xe bảo lưu quyền khiếu nại và chuyển quyền đòi bồi thường cho công ty bảo hiểm kèm theo tòan bộ hồ sơ, chứng từ có liên quan. Cụ thể, nếu xe có tham gia bảo hiểm vật chất bị một xe khác có bảo hiểm TNDS đâm va gây thiệt hại thì bồi thường thiệt hại vật chất trước. Đối với TNDS chỉ bồi thường phần chênh lệch giữa số tiền bồi thường TNDS và số tiền thiệt hại vật chất. - Chế độ bảo hiểm theo mức miễn thường. Công ty bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với những tổn thất mà giá trị thiệt hại thực tế vượt quá một mức đã thỏa thuận gọi là mức miễn thường. Việc áp dụng bảo hiểm theo mức miễn thường có thể là tự nguyện hoặc bát buộc. Nếu giữa công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm thỏa thuận sẽ không bồi thường đối với những tổn thất nhỏ hơn mức miễn thường trên cơ sở tự nguyện thì phí bảo hiểm sẽ được giảm bớt phụ thuộc vào mức miễn thường cụ thể. Trong trường hợp miễn thường bắt buộc, phí bảo hiểm vẫn giữ nguyên, Bảo hiểm theo mức miễn thường không chỉ tránh cho công ty bảo hiểm phải bồi thường những tổn thất qua nhỏ so với GTBH mà còn có ý nghĩa trong việc nâng cao ý thức và trách nhiệm đề phòng, hạn chế rủi ro của người được bảo hiểm. Có hai loại miễn thường: Miễn thường không khấu trừ và miễn thường có khấu trừ. Chế độ bảo hiểm miễn thường không khấu trừ đảm bảo chi trả cho những thiệt hại thực tế vượt quá mức miễn thường nhưng STBH sẽ không bị khấu trừ theo mức miễn thường. Số tiền bồi thường bảo hiểm = Giá trị thiệt hại thực tế Trong chế độ bảo hiểm miễn thường có khấu trừ, thiệt hại thực tế phải lớn hơn mức miễ._.n thường mới được bồi thường nhưng STBH sẽ bị khấu trừ theo mức miễn thường này. Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại thực tế – Mức miễn thường Còn trong trường hợp có sự khai báo không chính xác rủi ro, bên bảo hiểm thường áp dụng tỷ lệ “Số phí bảo hiểm đã nộp/ Số phí bảo hiểm lẽ ra phải nộp” để thanh toán nếu chấp nhận bồi thường cho chủ phương tiện: Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại thực tế x Số tiền bảo hiểm đã nộp Số phí bảo hiểm lẽ ra phải nộp * Bảo hiểm trùng: Có những trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe theo một hay nhiều đơn bảo hiểm khác theo đúng nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm, tổng số tiền mà chủ xe nhận được từ tất cả các đơn bảo hiểm chỉ đúng bằng thiệt hại thực tế. Thông thường, các công ty bảo hiểm giới hạn trách nhiệm bồi thường của mình theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm ghi trong Giấy chứng nhận bảo hiểm của công ty mình so với số tổng của những số tiền bảo hiểm ghi trong tất cả các đơn bảo hiểm. 6. Hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là sự thỏa thuận giữa các bên theo đó bên mua bảo hiểm (chủ phương tiện, lái xe ) có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm, bên bảo hiểm (công ty bảo hiểm) có trách nhiệm trả tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm là chứng từ có tính chất pháp lý, quy định rõ nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên tham gia. Trước khi ký kết hợp đồng, chủ xe phải có giấy yêu cầu bảo hiểm và kê khai đầy đủ, trung thực những nội dung có trong giấy yêu cầu bảo hiểm, Đây là căn cứ để ký kết hợp đồng bảo hiểm, Trong hợp đồng bảo hiểm có quy định một số điều khoản quan trọng như: - Điều khoản quy định về hình thức tham gia: Tham gia bảo hiểm toàn bộ hoặc bộ phận, - Điều khoản quy định về mức trách nhiệm: Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm. - Điều khoản quy định về thời gian và hiệu lực hợp đồng bảo hiểm. Công ty bảo hiểm chỉ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm khi chủ xe đã đóng phí bảo hiểm.Thời hạn hiệu lực bảo hiểm bắt đầu và kết thúc được thể hiện trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Trường hợp chủ xe không nộp phí bảo hiểm đầy đủ vào đúng thời hạn quy định thì hợp đồng bảo hiểm mặc nhiên mất hiệu lực cho đến khi chủ xe tiếp tục đóng phí. Trong thời hạn bảo hiểm, nếu có sự chuyển quyền sở hữu xe thì phải thông báo bằng văn bản cho công ty trước 15 ngày. Nếu hợp đồng được hai bên thỏa thuận hủy bỏ, công ty sẽ hoàn lại cho chủ xe 80% phí bảo hiểm của thời gian còn lại với điều kiện đến thời điểm đó chủ xe chưa có lần nào được công ty bảo hiểm chấp nhận trả tiền bảo hiểm. Khi đã ký kết hợp đồng bảo hiểm , thì mỗi bên có nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm và được hưởng những quyền lợi như sau: Đối với công ty bảo hiểm + Trách nhiệm của công ty bảo hiểm: Cung cấp cho chủ xe ô tô quy tắc, biểu phí, ký kết hợp đồng bảo hiểm, chấp nhận tham gia theo đúng luật dịnh. Hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để chủ xe ô tô tham gia bảo hiểm. Công ty bảo hiểm có trách nhiệm phối hợp với cơ quan công an để thu thập các giấy tờ cần thiết có liên quan đến vụ tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Đối với các vị tai nạn đặc biệt nghiêm trọng công ty bảo hiểm phải phối hợp với các chủ xe ô tô và cơ quan chức năng ngay từ đầu để giải quyết khiếu nại. Khi hồ sơ bồi thường đầy đủ và hợp lệ, công ty bảo hiểm tiến hành xét và giải quyết bồi thường theo đúng nguyên tắc chính xác, kịp thời, trung thực. Phải thực hiện kinh doanh theo đúng pháp luật quy định, + Quyền lợi của công ty bảo hiểm : Thu phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, Yêu cầu khách hàng cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, Yêu cầu khác hàng áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của luật pháp, Có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm nếu phát hiện có hiện tượng trục lợi bảo hiểm. Từ chối thanh toán tiền bồi thường cho khách hàng trong những trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm theo như thỏa thuận trong hợp đồng. Đối với chủ xe cơ giới + Trách nhiệm của chủ xe cơ giới Phải nộp phí đầy đủ. Chấp hành đúng luật giao thông. Phải bảo dưỡng xe định kỳ, nếu xe không đủ điều kiện lưu hành phải kịp thời báo cho công ty bảo hiểm biết. Khi tai nạn xảy ra, chủ xe cơ giới có trách nhiệm cứu chữa, hạn chế thiệt hại về người và tài sản, bảo vệ hiện trường và báo ngay cho công an gần nhất để phối hợp giải quyết tai nạn. Trường hợp thay đổi mục đích sủ dụng xe, chủ xe phải thông báo cho công ty bảo hiểm biết để điều chỉnh tỷ lệ phí cho phù hợp. + Quyền lợi của chủ xe Được chi trả tiền bồi thường khi rủi ro xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Được yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích điều kiện, điều khoản, cấp giây chứng nhận bảo hiểm. Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng theo luật khi doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin không chính xác, đầy đủ để giao kết hợp đồng, III. PHÍ BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI 1. Vai trò và yêu cầu của việc định phí bảo hiểm Việc xác định mức giá cho sản phẩm bảo hiểm (hay còn gọi là phí bảo hiểm- giá của một đơn vị bảo hiểm) đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong marketing hỗn hợp bởi vì giá cả sản phẩm sẽ có tác động đến số lượng hợp đồng khai thác được, đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Giá cả cũng tác động đến thị phần và vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Ngoài ra, giá cả sản phẩm bảo hiểm còn tác động đến các vấn đề đầu tư, tái bảo hiểm, khả năng thanh toán… Việc xác định giá cho sản phẩm bảo hiểm thường được xem xét trên hai khía cạnh cơ bản sau: - Thứ nhất là đưa ra “mức giá hợp lý” (giá kỹ thuật) nhằm giúp doanh nghiệp hình thành được qũy tài chính đủ để chi trả (bồi thường) cho các khiếu nại; trang trải được các chi phí hoạt động và mang lại lợi nhuận hợp lý cho doanh nghiệp bảo hiểm. Mức giá này được xác định dựa trên tần suất xảy ra sự kiện bảo hiểm, mức độ tổn thất bình quân, lãi suất đầu tư… Việc định giá được thực hiện bởi các chuyên gia định phí. - Thứ hai là đưa ra “giá bán thực tế” (Giá thương mại tức là giá mà người mua sẽ phải trả). Giá này tính đến các mục tiêu thị phần, môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp… Giá thực tế đưa ra trên cơ sở thu thập ý kiến của nhiều bộ phận có liên quan trong doanh nghiệp (bộ phận đầu tư, bộ phận thẩm định đánh giá rủi ro, bộ phận giải quyết khiếu nại, bộ phận pháp chế, bộ phận kế toán…), nhưng chịu trách nhiệm chính là bộ phận maketing. Giá bán thực tế có xu hướng luôn biến động trong khi giá kỹ thuật có tính ổn định hơn. Giữa giá bán thực tế và giá hợp lý có thể có chênh lệch phụ thuộc vào trạng thái của thị trường tại từng thời điểm, kỳ vọng của người quản lý và các cổ đông (chủ sở hữu)… Như vậy, giá cả sản phẩm bảo hiểm phải đáp ứng các yêu cầu trang trải chi phí, mang lại lợi nhuận hợp lý cho doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu về cạnh tranh…và các yêu cầu quản lý của nhà nước. Giá cả sản phẩm bảo hiểm không được quá cao hoặc không được phân biệt đối xử một cách bất công bằng. Ngoài ra, giá cả sản phẩm bảo hiểm còn phải được đảm bảo tính ổn định theo thời gian và phản ứng được trước những thay đổi của môi trường cũng như bản thân doanh nghiệp. Tham gia vào quá trình xác định giá cả cho sản phẩm, ngoài hai bộ phận định phí bảo hiểm và bộ phận marketing, còn có nhiều bộ phận khác: Bộ phận đầu tư, bộ phận thẩm định đánh giá rủi ro, bộ phận giải quyết khiếu nại, bộ phận pháp chế, bộ phận kế toán… 2. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến phí bảo hiểm 2.1 Mục tiêu định phí Khi doanh nghiệp đưa ra những mức giá cho sản phẩm, thì những mức giá đó nhằm giúp doanh nghiệp đạt được những mục tiêu nhất định, Nói một cách khác, mục tiêu định giá chính là cơ sở cho các quyết định liên qua đến giá cả. Và mục tiêu định giá phải được xác đinh dựa trên những mục tiêu chung của doanh nghiệp. Ví dụ khi mục tiêu chung của doanh nghiệp là duy trì chất lượng dịch vụ hàng đầu vượt hẳn đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp sẽ đặt giá cao hơn đối thủ cạnh tranh nhằm trang trải được các chi phí cao hơn phát sinh do cung cấp dịch vụ với chất lượng cao hơn. Ngoài ra các mục tiêu định giá của doanh nghiệp cũng phải phù hợp với các mục tiêu marketing cụ thể của doanh nghiệp. a. Các mục tiêu hướng theo lợi nhuận: Lợi nhuận là mục tiêu của bất cứ một doanh nghiệp nào khi tham gia kinh doanh, nó chi phối toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên tùy từng sản phẩm hay tùy từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp mà mục tiêu lợi nhuận được ưu tiên trong mục tiêu trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp, Mục tiêu lợi nhuận có thể xác định cho toàn doanh nghiệp hay chỉ cho một hoặc một số lớp sản phẩm hay từng mặt hàng. Nếu doanh nghiệp đặt ra mục tiêu lợi nhuận thì doanh nghiệp phải đặt giá sao cho ít nhất là đạt được mức lợi nhuận đã định. Để đạt được mục tiêu lợi nhuận, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ xem xét đánh giá kết quả thực hiện: Nếu các sản phẩm không đạt được lợi nhuận dự kiến thì sản phẩm đó cần phải được điều chỉnh thậm chí là rút khỏi thị trường. b. Mục tiêu hướng theo số lượng hợp đồng khai thác: Một số doanh nghiệp xây dựng mục tiêu định giá hướng theo số lượng hợp đồng khai thác chứ không hướng theo lợi nhuận. Việc tăng số lượng hợp đồng khai thác không đồng nghĩa với tăng lợi nhuận vì nếu doanh nghiệp quyết định tăng số lượng hợp đồng khai thác bằng cách hạ giá bán thì lợi nhuận của doanh nghiệp có thể giảm do số lượng bán tăng không đủ bù đắp lợi nhuận giảm đi do đơn giá giảm. Trong một nhiều trường hợp, doanh nghiệp muốn tăng số lượng hợp đồng khai thác ở một số thị trường nhất định ngay cả khi lợi nhuận không tăng, với hy vọng thông qua việc tăng vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, hình ảnh của doanh nghiệp trong khách hàng sẽ tăng lên do đó dẫn đến tăng lợi nhuận như mong muốn. c. Mục tiêu hướng theo cạnh tranh Mục tiêu này liên quan đến thị phần của doanh nghiệp, thị phần của doanh nghiệp có thể duy trì hoặc tăng trong đó thị phần của doanh nghiệp có thể được đo lường theo số lượng hợp đồng khai thác được hoặc theo doanh thu phí bảo hiểm thu được. Với mục tiêu hướng theo cạnh tranh, doanh nghiệp thực hiện việc định giá sản phẩm dựa trên giá cả của các đối thủ cạnh tranh thực tế hoặc đối thủ cạnh tranh tiềm năng. Có ba mục tiêu định phí hướng theo cạnh tranh thường thấy là: Không khuyến khích cạnh tranh (triệt tiêu cạnh tranh); đánh bại cạnh tranh; đương đầu cạnh tranh (cân băng cạnh tranh). Tùy vị thế của doanh nghiệp trên thị trường mà mục tiêu định giá của doanh nghiệp sẽ khác nhau: - Trong trường hợp doanh nghiệp độc quyền trên thị trường, có thể chọn mục tiêu định giá “triệt tiêu cạnh tranh”, tức là doanh nghiệp sẽ định giá sản phẩm ở mức thấp nhất sao cho các đối thủ mới khó có thể hoặc không thể đưa ra mức giá thấp như thế mà vẫn thu được lợi nhuận. Như vậy với vị thế mạnh trên thị trường, doanh nghiệp độc quyền sẽ không khuyến khích các đối thủ mới gia nhập thị trường. - Trường hợp doanh nghiệp hoạt động trên thị trường cạnh tranh hơn, có thể chon mục tiêu định giá “đánh bại cạnh tranh ”. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp sẽ định giá thấp hơn mức giá các đối thủ cạnh tranh và các nỗ lực marketing sẽ nhấn mạnh vào mức giá đó. Các doanh nghiệp thường hướng theo mục tiêu này khi họ là những đối thủ cạnh tranh mới trên thị trường và muốn thiết lập nhanh chóng danh tiếng trên thị trường nhằm chiếm lĩnh được thị phần. Ngoài ra, các doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu cạnh tranh giá phải sẵn sàng và có thể thay đổi các mức giá một cách thường xuyên nhằm phản ứng lại những thay đổi trong cạnh tranh. Như vậy sử dụng giá cả làm cơ sở cho cạnh tranh có hai nhược điểm cơ bản là: Lợi thế cạnh tranh qua giá cả thường có vòng đời ngắn vì hầu hết các đối thủ có thể thay đổi mức giá của họ và định giá sản phẩm quá thấp có thể làm cho doanh nghiệp bị thiệt hại tài chính lớn. - Trong trường hợp doanh nghiệp bán các loại sản phẩm mà đa số khách hàng coi là giống với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp sẽ buộc phải định giá theo mức giá chung mà các đối thủ đưa ra. Mục tiêu định giá trong trường hợp này gọi là “đương đầu với cạnh tranh”. Khi muốn cạnh tranh trên cơ sở phi giá cả, tránh việc cạnh tranh giá cả, đa số các doanh nghiệp sẽ theo đuổi mục tiêu này. 2.2 Chi phí: Chi phí là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến việc định giá sản phẩm. Chi phí của sản phẩm định ra giới hạn dưới cho mức giá của sản phẩm bởi vì trong điều kiện kinh tế thị trường, không một doanh nghiệp nào có thể tồn tại nếu bán sản phẩm ở mức giá thấp hơn mức chi phí trong thời gian dài. Bởi khi kinh doanh mục tiêu lợi nhuận luôn được coi là mục tiêu hàng đầu nó giúp doanh nghiệp có thể tồn tại cũng như tăng trưởng trên thị trường. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào chi phí thì việc định giá cho sản phẩm bảo hiểm phức tạp hơn việc định giá các sản phẩm khác rất nhiều, do tất cả các chi phí gắn với một hợp đồng bảo hiểm sẽ không thể xác định được cho đến khi các khiếu nại và các chi phí gắn với hợp đồng bảo hiểm đó phát sinh (chỉ sau khi hợp đồng được thực hiện xong, doanh nghiệp mới có thể xác định được các chi phí). Nói một cách khác, giá cả sản phẩm bảo hiểm được xác định dựa trên các chi phí dự tính chứ không phải dựa trên các chi phí thực tế phát sinh. Đây là điểm khác biệt cơ bản nhất giữa định giá sản phẩm bảo hiểm và định giá sản phẩm trong các lĩnh vực khác. Quá trình định phí có thể được coi là quá trình dự đoán tổn thất và chi phí trong tương lai, phân bổ các chi phí này giữa những người tham gia bảo hiểm. Ở các quốc gia có ngành bảo hiểm phát triển, trong các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, việc định phí được thực hiện bởi bộ phận định phí hoặc đối với các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ quy mô nhỏ hơn thì việc định phí do các công ty tư vấn định phí thực hiện. Còn trong lĩnh vực bảo hiểm tài sản và trách nhiệm, giá cả sản phẩm bảo hiểm được xác định dựa trên số liệu thống kê về khuynh hướng tổn thất do các tổ chức tư vấn cung cấp hoặc từng doanh nghiệp bảo hiểm tự thu thập. Nhìn chung, phụ thuộc vào các điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm, giá cả sản phẩm cụ thể cộng với lãi đầu tư doanh nghiệp thu được phải đủ để trang trải các chi phí như: Chi bồi thường hay trả tiền bảo hiểm, các chi phí họat động (chi phí phát triển sản phẩm, chi phí phân phối sản phẩm, chi phí tái bảo hiểm, chi phí quản lý chung, thuế thu nhập doanh nghiệp…), các chi phí bất thường khác phát sinh không dự tính trước do rủi ro đầu tư … Bởi vì có nhiều nhân tố tác động đến các khoản chi phí này nên doanh nghiệp bảo hiểm phải thận trọng trong việc đưa ra các giả định sử dụng để xác định chi phí dự tính cho sản phẩm. Nhưng nếu qúa cẩn trọng khi ước lượng về chi phí tương lai có thể dẫn đến một mức phí bảo hiểm quá cao làm cho doanh nghiệp khó cạnh tranh. Ngược lại, nếu quá lạc quan khi ước lượng về chi phí có thể dẫn đến mức phí bảo hiểm lại quá thấp làm cho doanh nghiệp khó thu được lợi nhuận. Việc định giá sản mới là rất khó vì doanh nghiệp không có hoặc có rất ít kinh nghiệm cũng như số liệu về chi phí làm cơ sở cho các giả định. Khi doanh nghiệp có kinh nghiệm trong phát triển, marketing và quản lý sản phẩm mới, cũng như khi doanh nghiệp tích lũy được số liệu về chi phí thì khả năng dự đoán chi phí sẽ sát với thực tế. Ngoài ra, việc phân bố chi phí cho một sản phẩm cụ thể cũng là một công việc khá khó khăn. Để phân bổ chính xác, doanh nghiệp phải phân loại chi phí thành chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Trong đó, chi phí trực tiếp là những chi phí liên quan trực tiếp đến sản phẩm (Chi phí bồi thườn hay chi trả tiền bảo hiểm, chi phí thẩm định đánh giá rủi ro, chi phí phát hành hợp đồng bảo hiểm, hoa hồng bảo hiểm, chi phí xử lý khiếu nại…); Chi phí gián tiếp là những chi phí không liên quan trực tiếp đến một sản phẩm bảo hiểm cụ thể mà gắn liền với các họat động chung của doanh nghiệp (lương cho cán bộ quản lý, khấu hao tài sản cố định dùng cho quản lý, thuế môn bài…). 2.3 Khách hàng Cầu về sản phẩm của khách hàng là nhân tố quyết định giới hạn trên của giá cả sản phẩm. Kinh nghiệm marketing thực tế đều cho thấy, cầu của hầu hết các loại sản phẩm (trong đó có sản phẩm bảo hiểm) có quan hệ tỷ lệ nghịch với giá cả của sản phẩm (với các điều kiện là các nhân tố khác - điều kiện kinh tế nói chung, sự sẵn có của sản phẩm, khả năng mua của khách hàng…không thay đổi). Khi phân tích cầu về sản phẩm phải xác định sự thay đổi của nó khi giá cả sản phẩm thay đổi. Để đo lường mức độ thay đổi này (tỷ lệ % thay đổi trong lượng cầu khi có tỷ lệ % thay đổi trong giá cả), kinh tế học vi mô đã đưa ra khái niệm “độ co giãn của cầu theo giá ”. Nhìn chung cầu về sản phẩm bảo hiểm xe cơ giới được coi là không co giãn theo theo giá. Khi mức giá chung tăng lên hay giảm đi, cầu về các sản phẩm này thường không thay đổi (nhưng nếu giá bán sản phẩm của một doanh nghiệp nào đó thay đổi, doanh số bán sản phẩm của doanh nghiệp đó sẽ thay đổi do khách hàng chuyển sang mua sản phẩm của doanh nghiệp khác có mức giá thấp hơn). Còn cầu về sản phẩm bảo hiểm vật chất xe cơ giới khó xác định vì khách hàng không bắt buộc phải mua sản phẩm đó. Độ co giãn của cầu về sản phẩm bảo hiểm theo giá thường bị tác động bởi các yếu tố sau: + Số lượng sản phẩm thay thế sãn có: Khi có nhiều sản phẩm thay thế, cầu về sảm phẩm đó sẽ co giãn nhiều; + Nhu cầu đi liền với sản phẩm: Khi sản phẩm bảo hiểm là thiết yếu, cầu về sản phẩm đó sẽ co giãn ít hơn; + Mức chi tiêu cần để mua sản phẩm: Với các sản phẩm mà chi tiêu cho sản phẩm đó chiếm tỷ trọng lớn trong ngân sách gia đình sẽ có độ co giãn lớn hơn sản phẩm chiếm tỷ trọng nhỏ trong ngân sách. Ngoài cầu về sản phẩm, sức mua của khách hàng, nhận thức về giá mong muốn của khách hàng về sự linh họat giá cũng có cũng có tác động rất mạnh đến lượng sản phẩm mà doanh nghiệp có thể bán ở các mức giá khác nhau. - Sức mua của khách hàng: là thước đo về khả năng mua sản phẩm của khách hàng. Sức mua thường được quyết định bởi thu nhập, tài sản, điều kiện tín dụng đối với khách hàng. Sức mua chịu ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế chung như: Lạm phát, thất nghiệp, vẫn đề thuế…Vì sức mua sản phẩm là có giới hạn nên khách hàng sẽ phân bổ sức mua cho các sản phẩm khác nhau. - Nhận thức của khách hàng về giá cả của sản phẩm: Nhận thức của khách hàng về giá cả của sản phẩm và tầm quan trọng mà khách hàng gắn cho giá cả sản phẩm sẽ thay đổi tùy theo sản phẩm và đoạn thị trường. Ví dụ, với các sản phẩm mà khách hàng mua thường xuyên như thực phẩm, xăng dầu…họ nhận thức rất rõ về giá cả sản phẩm này nên rất nhạy cảm với sự thay đổi của giá cả. Còn với các sản phẩm bảo hiểm, người tiêu dùng không mua các sản phẩm đó một cách thường xuyên nên họ sẽ không nhận thức được sự khác biệt về giá cả giữa các sản phẩm. Như vậy, doanh nghiệp bảo hiểm có thể thay đổi chiến lược giá theo nhận thức của khách hàng. Tương tự như vậy, trong đoạn thị trường mà khách hàng nhận thức rõ về giá, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn nếu đưa ra mức giá cao hơn mức giá của đối thủ cạnh tranh, ngược lại trong đoạn thị trường mà người mua không nhận thức rõ về giá việc định giá sẽ trở nên dễ dàng hơn. Ngoài mức giá mà người tiêu dùng sãn sàng chấp nhận sẽ nói lên sự đánh giá của họ về giá trị sản phẩm. Nếu công tác truyền thông và phân phối sản phẩm tạo ra giá trị mà khách hàng nhận thấy là bằng hoặc lớn hơn giá cả của sản phẩm thì khách hàng sẽ mua sản phẩm. Bản thân giá cả sản phẩm cũng có tác động mạnh đến giá trị mà người tiêu dùng định ra cho sản phẩm. Do vậy, nếu sản phẩm được định giá là quá thấp, khách hàng có thể đánh giá sản phẩm là quá nghèo nàn nên sẽ không mua sản phẩm. Ngược lại, nếu sản phẩm được định giá là quá cao, khách hàng có thể coi sản phẩm vượt quá nhu cầu của và không xứng đáng với mức giá đó. - Mong muốn về sự linh họat giá: Khi định giá sản phẩm doanh nghiệp bảo hiểm còn phải tính đến mức độ linh hoạt của giá cả mà khách hàng mong muốn. Một số khách hàng muốn giá cố định được duy trì, trong khi có một số khác lại muốn giá của sản phẩm sẽ thay đổi và sãn sàng trả mức giá cao trong giai đoạn đầu nhằm hy vọng sau này do hoạt động của doanh nghiệp tiến triển, giá của sản phẩm sẽ hạ xuống. 2.4 Yếu tố cạnh tranh Doanh nghiệp bảo hiểm cần xem xét đối thủ cạnh tranh khi định giá cho sản phẩm. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp có mức phí không cạnh tranh, doanh thu phí bảo hiểm sẽ giảm do khách hàng chuyển sang mua sản phẩm của các doanh nghiệp khác có mức giá rẻ hơn. Thiệt hại về doanh thu sẽ khá lớn đối với sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhóm hoặc khi sản phẩm có số tiền lớn, còn đối với sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ trong đó có bảo hiểm vật chất xe cơ giới thì doanh thu cũng có giảm nhưng nó không rõ nét bằng sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. Ngoài ra, sản phẩm có mức giá không cạnh tranh cũng ảnh hưởng đến khâu phân phối bởi các đại lý bảo hiểm thường chọn các doanh nghiệp có sản phẩm có giá rẻ để làm đại lý để việc bán sản phẩm của mình thuận lợi hơn. Còn môi giới bảo hiểm cũng có xu hướng tư vấn cho khách hàng những doanh nghiệp cung cấp sản phẩm có mức giá cạnh tranh. Như vậy, trong trường hợp cầu về sản phẩm co dãn theo giá và có các sản phẩm thay thế của các đối thủ cạnh tranh thì phản ứng của các đối thủ với mức giá chung của ngành tác động đến việc định giá của riêng của từng sản phẩm của doanh nghiệp. Muốn đưa ra mức giá thấp hơn mức giá của đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp phải tìm cách cắt giảm chi phí hoặc lợi nhuận xuống dưới mức của đối thủ cạnh tranh. Để thực hiện cạnh tranh, khi định giá sản phẩm doanh nghiệp phải xem xét các yếu tố: + Số lượng đối thủ cạnh tranh và số sản phẩm cạnh tranh; + Yếu tố chi phí gắn với từng sản phẩm của từng đối thủ cạnh tranh; + Nguồn lực tài chính của từng đối thủ nói chung cũng như nguồn lực từng đối thủ cạnh tranh dành riêng cho sản phẩm; + Vai trò của sản phẩm trong danh mục sản phẩm của đối thủ cạnh tranh; + Hành vi định giá trước đay của từng đối thủ; +Phản ứng dự kiến của từng đối thủ cạnh tranh trước sự thay đổi giá cả; + Điểm mạnh, điểm yếu của từng đối thủ cạnh tranh… Khai thác những thông tin này sẽ giúp doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra những mức giá phù hợp cho sản phẩm của mình trong mối tương quan với giá cả sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. 2.5 Sự can thiệp của nhà nước Sự can thiệp của nhà nước có thể tác động trực tiếp hay gián tiếp đến giá cả sản phẩm cuả doanh nghiệp. Ở một số quốc gia, luật pháp không trực tiếp điều chỉnh tỷ lệ phí bảo hiểm vì các nhà quản lý cho rằng thị trường cạnh tranh sẽ đưa ra mức phí hợp lý. Một số quốc gia khác, nhà nước thường quy định những tỷ lệ phí bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm bắt buộc phải áp dụng, Ngoài ra, giá cả sản phẩm bảo hiểm cũng chịu tác động gián tiếp bởi yêu cầu quản lý, mà điển hình nhất là việc yêu cầu các doanh nghiệp phải hình thành các qũy dự phòng cho từng nghiệp vụ bảo hiểm. Để đảm bảo khả năng thanh toán, doanh nghiệp bảo hiểm duy trì các tài sản có ít nhất bằng với quy mô qũy dự phòng. Và để có được tài sản này, doanh nghiệp phải đưa ra mức phí cho phù hợp. 2.6 Các nhân tố khác Vì các nhân tố marketing hỗn hợp có tác động qua lại lẫn nhau nên nỗ lực truyền thông, hệ thống phân phối và các đặc điểm cụ thể của sản phẩm, các lợi ích và các dịch vụ đi kèm theo sẽ có tác động đến chi phí của sản phẩm do vậy tác động đến mức giá của sản phẩm bảo hiểm. Ngoài ra bản thân sản phẩm bảo hiểm và cách thức phân phối sản phẩm trong mối liên hệ với giá cả có tác động đến nhận thức kỳ vọng của khách hàng từ đó tác động đến việc định giá sản phẩm. 3. Các chiến lược định phí bảo hiểm Chiến lược định giá là những chỉ dẫn chung mà DNBH áp dụng nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra. Chiến lược định giá giúp doanh nghiệp xác định cách thức sử dụng giá cả như một biến trong marketing hỗn hợp. Chiến lược định giá thường được chia thành ba nhóm: 3.1 Các chiến lược định phí theo hướng theo chi phí Những chiến lược này sử dụng các khoản chi phí làm cơ sở cho việc định phí sản phẩm. Nội dung cơ bản của chiến lược này là đưa mức giá trang trải được tất cả các chi phí DNBH đã bỏ ra trong quá trình thiết kế, phân phối và khuếch chương sản phẩm, ngoài ra còn mang lại một khoản lợi nhuận nhất định cho doanh nghiệp. Chiến lược định phí hướng theo chi phí chỉ có thể thành công trong những thị trường mà doanh nghiệp độc quyền hoặc doanh nghiệp là người dẫn đầu. Ngoài ra, chiến lược này cũng có thể thành công trong các thị trường mà ở đó DNBH hoạt động trên thị trường có ít đối thủ cạnh tranh, hoặc khi có khách hàng trung thành với doanh nghiệp. 3.2 Các chiến lược định giá theo hướng cạnh tranh Đây là chiến lược định giá dựa trên các mức giá do đối thủ cạnh tranh đưa ra và cho phép DNBH sử dụng việc định giá để xác định vị trí trên thị trường. Tùy thuộc vào mục tiêu kinh doanh hay mục tiêu định giá ba doanh nghiệp có thể định giá cho sản phẩm bằng hoặc cao hơn hay thấp hơn mức giá thị trường. Một doanh nghiệp có mục tiêu định giá là “đương đầu với cạnh tranh” có thể đưa ra mức phí bằng mức phí trung bình của các doanh nghiệp cạnh tranh gần nhất với doanh nghiệp cho một loại sản phẩm cụ thể. Còn doanh nghiệp có mục tiêu định giá là “triệt tiêu cạnh tranh” có thể đưa ra mức phí thấp nhất trong số các DNBH cung cấp sản phẩm cùng loại. Do vậy, trong chiến lược định giá cạnh tranh, sản phẩm thường được thiết kế hoặc được điều chỉnh nhằm phù hợp với mức phí đã định sẵn. Hai ví dụ thường thấy của chiến lược định giá cạnh tranh là chiến lược “định giá thâm nhập ” và chiến lược “định giá linh hoạt”, trong đó: - Chiến lược “định giá thâm nhập” là chiến lược định giá trong đó doanh nghiệp đưa ra mức giá tương đối thấp hơn mức giá của các đối thủ cạnh tranh. Mục đích là giúp doanh nghiệp thâm nhập thị trường và tăng nhanh lượng bán nhằm chiếm lĩnh thị phần của doanh nghiệp khác. Chiến lược này thường được sử dụng với các sản phẩm mới đưa ra thị trường có nhiều đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp đã họat động lâu trên thị trường nhưng có biên lợi nhuận thấp áp dụng chiến lược này nhằm ngăn cản các đối thủ cạnh tranh gia nhập thị trường. - Chiến lược “định giá linh họat” (còn gọi là chiến lược định giá biến đổi) là chiến lược định giá cho phép doanh nghiệp có thể đàm phán với khách hàng về giá cả cảu sản phẩm. Cụ thể, việc định giá được thực hiện thông qua đấu giá cạnh tranh cà đưa ra cá hợp đồng có thể đàm phán với các nhóm khách hàng quy mô lớn. Trong đó đấu giá cạnh tranh là hình thức trong đó người mua sản phẩm yêu cầu những người cung cấp đưa ra bảng giá cho các hợp đồng yêu cầu, còn hợp đồng có thể đàm phán là hợp đồng trong đó các điều khoản và các mức giá được thiết lập thông qua trao đổi giữa người mua và người bán. 3.3 Các chiến lược định giá hướng theo khách hàng Trong những chiến lược này, DNBH sẽ tập trung và việc đưa ra các mức giá mà những người phân phối hoặc những người sở hữu đơn bảo hiểm có thể chấp nhận được. Cụ thể, đối với các nhà phân phối, khi định giá và thiết kế sản phẩm doanh nghiệp sẽ tập trung vào yếu tố thù lao tức là mức giá được thiết kế sao cho sản phẩm của doanh nghiệp có mức hoa hồng cao hơn sản phẩm của các doanh nghiệp khác. Còn đối với những người sở hữu đơn bảo hiểm, chiến lược định giá này sẽ tập trung và yếu tố “giá trị của sản phẩm”. Nhưng cần lưu ý là với những khách hàng khác nhau thì “giá trị sản phẩm” được quan niệm khác nhau. Do vậy, khi sử dụng chiến lược định giá khách hàng, doanh nghiệp phải xác định được các giá trị mà khách hàng mong muốn, và việc định giá sản phẩm của doanh nghiệp phải chỉ ra cho khách hàng thấy rằng các giá trị mà khách hàng mong muốn là có sẵn trong sản phẩm của doanh nghiệp. Trong marketing nói chung, các ví dụ thường thấy của định giá khách hàng là “định giá tâm lý”, “định giá hớt váng” và “định giá khuếch trương”, trong đó: - Định giá tâm lý là chiến lược định giá dựa trên quan niệm cho rằng khách hàng nhận thấy một số loại giá hay khoảng giá nhất định là hấp dẫn hơn các khoản giá khác. Các doanh nghiệp áp dụng chiến lược định giá tâm lý cho rằng nếu giá cả được ấn định ở mức thấp hơn một chút so với mức giá dự kiến (ví dụ thay vì đưa ra mức giá bán là 100.000 đồng doanh nghiệp sẽ định giá bán ở mức 99.000 đồng) thì lượng sản phẩm bán ra sẽ bán được nhiều hơn. Ngoài ra, đối với các sản phẩm nộp phí định kỳ thì định giá tâm lý cũng thường giả định khách hàng muốn mua sản phẩm hơn nếu giá sản phẩm được định trên cơ sở trả theo tháng chứ không phải trả theo năm hay trả một lần. Chiến lược “định giá tâm lý” phù hợp nhất với những thị trường mà ở đó khách hàng cực kỳ nhạy cảm với giá cả của sản phẩm hoặc khi khách hàng có nhận thức cao về giá cả sản phẩm và cũng phù hợp với những sản phẩm được phân phối qua kênh phản hồi trực tiếp. - “Định giá hớt váng” là chiến lược định giá trong đó doanh nghiệp sẽ đưa ra mức giá cao nhất có thể cho bộ phận khách hàng có nhiều mong muốn nhất được sử dụng sản phẩm. Với chiến lược này, doanh nghiệp hy vọng sẽ thu được doanh thu lớn trong thời gian đầu. Doanh thu này không những trang trải tất cả các chi phí (Chi phí nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới, chi phí marketing giới thiệu sản phẩm…) mà còn mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Chiến lược này thường được áp dụng với các sản phẩm được quản cáo là có “công nghệ mới nhất, hiện đại nhất” như máy tính xách tay, điện thoại di động… còn đối với các sản phẩm bảo hiểm nói riêng, các sản phẩm dịch vụ tài chính nói chung thì chiến lược này gần như không được sử dụng. - Với chiến lược “định giá khuếch trương”, doanh nghiệp sẽ đưa ra mức giá thấp hơn mức giá thông thường cho một sản phẩm nhất định nhằm thúc đẩy việc bán sản phẩm của tất cả các sản phẩm khác của doanh nghiệp. 4. Phương pháp tính phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới Khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia bảo hiểm cụ thể, các công ty bảo hiểm thường căn cứ vào những nhân tố sau: - Loại xe: Do mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau nên phí bảo hiểm vật chất xe được tính riêng cho từng loại xe. Thông thường, các công ty bảo hiểm đưa ra những biểu xác định phí bảo hiểm phù hợp cho hầu hết các xe thông dụng thông qua việc phân loại xe thành các nhóm, Việc phân loại này dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ gia tốc, chi phí và mức độ khó khăn khi sửa chữa và sự khan hiếm của phụ tùng trên thị trường. Đ._.ụ tồn đọng cuối năm Vụ 40 52 47 55 46 6 Chi bồi thường Tr.đ 11.074 14.151 29.295 51.571 76.677 7 Doanh thu phí bảo hiểm Tr.đ 19.402 25.370 48.973 85.652 123.693 8 Tỷ lệ bồi thường % 57,08 55,78 59,82 60,21 61,99 9 Số tiền bồi thường bình quân Trđ/vụ 6,62 7,50 9,52 10,70 12,05 Nhìn vào bảng số liệu có thể thấy số vụ tai nạn phát sinh ngày càng tăng qua các năm, nếu như năm 2001 là 1.694 vụ thì năm 2002 là 1.907 vụ tăng 12,57% so với năm 2001, năm 2004 là 4.841 vụ tăng 57,07% so với năm 2003, và 2005 đã là 6.371 vụ tăng 31,16% so với năm 2004 là 4.841 vụ., tuy số vụ tai nạn tăng qua các năm nhưng có tốc độ tăng lại khác nhau qua các năm. Chi bồi thường từ năm 2001 đến 2005 cũng tăng qua các năm, nếu như năm 2001 chi bồi thường là 11.074 tr.đ với tỷ lệ bồi thường là 57,08% thì đến năm 2002 số tiền bồi thường là 14.151 tr.đ tăng 27,79% so với năm 2001 và tỷ lệ bồi thường là 55,78%. Năm 2003 có số tiền bồi thường là 29.295 tr.đ tăng 107,01% so với năm 2002 mặc dù số tiền bồi thường trong năm 2003 có tăng lên cao nhưng tỷ lệ bồi thường cũng không tăng hơn nhiều so với năm 2001 và 2002 do trong năm 2003 số xe tham gia ở PJICO tăng lên và tỷ lệ bồi thường trong năm 2003 là 59,82%. Đến năm 2004 và 2005 tỷ lệ bồi thường đã lên 60,21% và 61,99% đây là tỷ lệ bồi thường khá cao, chi bồi thường năm 2004 là 51.571 tr.đ tăng 76,04%, năm 2005 có chi bồi thường là 76.677tr.đ tăng 48,68% so với năm 2004 và có tỷ lệ bồi thường là 61,99% và đây là tỷ lệ phí cao nhất trong những năm gần đây và cũng là mức cao trên thị trường bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Mặc dù trong những năm gần đây PJICO đã nâng cao chất lượng trong công tác giải quyết bồi thường cho khách hàng tuy nhiên số vụ tồn đọng qua các năm vẫn còn cao. Một lý do thuộc về những hạn chế trong bộ máy tổ chức và những thủ tục hành chính hi xem xét giải quyết bồi thường của Công ty nhưng mặt khác khi xảy ra rủi ro gây tổn thất thì khách hàng còn chậm trễ khi khai báo cho nhà bảo hiểm vì vậy số vụ tồn đọng cuả PJICO còn khá cao. Trong những năm qua một vấn đề tồn tại đang ngày càng trở nên nóng bỏng đó là hiện tượng trục lợi của người tham gia bảo hiểm, ở PJICO nếu như năm 2001 có 6 vụ Công ty từ chối bồi thường do gian lận thì đến năm 2002 là 8 vụ tăng 33,33% và năm 2003 là 10 vụ tăng 25% so với năm 2002 và đến năm 2004 là 13 vụ tăng 30% so với năm 2003. Năm 2005 có 17 vụ tăng 30,08% so với năm 2004. Theo Báo cáo tổng kết kinh doanh năm 2005 thì bảo hiểm ôtô và bảo hiểm bảo hiểm xe máy đang là hai nghiệp vụ bảo hiểm mũi nhọn của PJICO về doanh số. Đây là hai nghiệp vụ giúp PJICO giữ vững thị phần ngay cả trong sức ép hội nhập. Tuy nhiên vấn đề thời sự nóng bỏng của hai nghiệp vụ này là tỷ lệ bồi thường cao, trục lợi bảo hiểm ngày càng gia tăng ở bảo hiểm ôtô và chi phí bán hàng cao đến mức phi lý khoảng 47-50%. Vì vậy lợi nhuận từ kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô ở PJICO đang có lợi nhuận thấp chưa tương xứng với một thị trường tiềm năng như hiện nay. Xuất phát từ thực tế đó PJICO hiện nay đang đặt ra cho mình một nhiện vụ quan trong đó là xác định mức phí hợp lý, vừa có sức cạnh tranh vừa có lợi nhuận bên cạnh việc nâng cao chất lượng phục vụ cũng như có những biện pháp hiệu quả để phát hiện hiệu quả hiện tượng trục lợi. Để nghiệp vụ bảo hiểm vật chất ôtô là một nghiệp vụ kinh doanh mũi nhọn của PJICO. CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TRONG CÔNG TÁC XÁC ĐỊNH PHÍ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PETROLIMEX . I. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN 1. Những thuận lợi: Trước hết là thuận lợi chung đối với tất cả các công ty bảo hiểm, đó là thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng phát triển, tính đến qúy I năm 2006 thì có 15 công ty bảo hiểm phi nhân thọ đang tham gia hoạt động tại Việt Nam với nhiều hình thức sở hữu khác nhau: Như sở hữu nhà nước, cổ phần liên doanh, 100% vốn nước ngoài, tư nhân. Với số dân như hiện nay khoảng 82 triệu dân cùng sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, trong tương lai Việt Nam sẽ là một thị trường bảo hiểm đầy tiềm năng, thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh của PJICO cũng như tất cả các công ty bảo hiểm khác. Nhà nước đã có những quan tâm đến sự phát triển của ngành bảo hiểm, thể hiện là sự ra đời của hàng loạt các văn bản pháp lý quan trọng nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của ngành, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh của các công ty bảo hiểm trên thị trường. Sau khi luật kinh doanh bảo hiểm được ban hành và có hiệu lực năm 2001, còn có các văn bản hướng dẫn thi hành luật kinh doanh bảo hiểm cùng một số nghị định, thông tư hướng dẫn hoạt động kinh doanh bảo hiểm như Nghị định số 42/ 2001/ NĐ-CP, Nghị định số 43/ 2001/ NĐ-CP, thông tư 71/ 2001/ TT-BTC và Thông tư 72/ 2001/ TT-BTC. Ngoài ra, Chính phủ còn xây dựng: “Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010” Thể hiện qua Quyết định số 175/ 2003/ QĐ-TTG ngày 29 tháng 8 năm 2003. Đầu năm 2004, luật thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực thi hành, Thông tư 35/ TT/ BTC hướng dẫn thi hành nghị định 118/ CP xử phạt hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Thông tư 98,99 TT/BTC ngày 19/10/2004 thay thế thông tư 71,72 hướng dẫn thi hành Nghị định 42, 42 của Chính Phủ hướng dẫn thi hành luật kinh doanh bảo hiểm, và một số luật được thông qua như luật cạnh tranh, luật giao thông thủy nội địa…Đây là môi trường pháp lý nhằm phát triển một thị trường bảo hiểm Việt Nam toàn diện, an toàn, lành mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cơ bản của mọi người dân trong nền kinh tế phát triển, đảm bảo cho các tổ chức, cá nhân được thụ hưởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế, thu hút mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, nhằm đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Với việc quảng bá thương hiệu, giới thiệu về sản phẩm bảo hiểm cũng như tuyên truyền tác dụng to lớn của bảo hiểm của các công ty bảo hiểm, nhận thức của người dân về tầm quan trọng của bảo hiểm được nâng lên. Nền kinh tế phát triển cùng với thói quen tiêu dùng về sản phẩm bảo hiểm của người dân Việt Nam được nâng cao là một điều kiện thuận lợi cho các công ty bảo hiểm trong kinh doanh. Khác với các công ty bảo hiểm phi nhân thọ khác, PJICO là một công ty cổ phần bảo hiểm mà cổ đông sáng lập đều là những tập đoàn kinh tế lớn, đảm bảo về uy tín trong kinh doanh cũng như về vốn và đồng thời là những khách hàng lớn và quan trọng của công ty, chính điều đó làm tình hình kinh doanh của công ty luôn ổn định trước sự biến động của thị trường. PJICO là công ty ra đời sau so với một số công ty bảo hiểm khác nên có thể học hỏi được kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tiếp thu những mặt đã làm được của các công đi trước để làm giàu thêm kinh nghiệm kinh doanh của mình. Đồng thời sàng lọc và chỉnh sửa hợp lý những thiếu sót còn tồn tại mà các công ty đó mắc phải. Mặc dù là công ty trẻ nhưng PJICO lại rất tự hào vì có đội ngũ cán bộ trẻ, có trình độ, thông minh, năng động, sáng tạo và rất nhiệt tình với công việc,có mạng lưới văn phòng chi nhánh trên toàn quốc. Không ngừng nâng cao cơ sở vật chất để công ty hoạt động tốt hơn, đầu tháng 4/ 2005 PJICO đã chuyển trụ sở chính của công ty đến 532 - Đường Láng, phường Láng Hạ- TP Hà Nội. Bên cạnh đó Công ty luôn tăng cường sáng tạo trong việc quảng cáo, giới thiệu thương hiệu và sản phẩm làm cho người dân biết đến PJICO là “Bảo hiểm và đầu tư tài chính” hay “PJICO – nhà bảo hiểm xe cơ giới chuyên nghiệp”. Đây chính là những nhân tố cơ bản tạo nên sự thành công của công ty. So với các nghiệp vụ khác bảo hiểm vật chất xe cơ giới là nghiệp vụ được PJICO triển khai ngay từ những ngày đầu thành lập. Sau 10 năm hoạt động Công ty đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm qúy báu trong quá trình triển khai hoạt động kinh doanh nghiệp vụ này của mình. Chất lượng của tất cả các khâu công việc từ khâu khai thác, giám định, bồi thường … ngày càng được nâng cao, đưa nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là nghiệp vụ mũi nhọn của công ty. 2. Khó khăn Sự quản lý của nhà nước đã có những cải tiến tuy nhiên chưa theo kịp sự phát triển của thị trường, các văn bản pháp luật còn thiếu, và chưa đồng bộ. Hệ thống các chỉ tiêu, giám sát, đánh giá rủi ro về vốn về hoạt động tài chính…. của doanh nghiệp còn thiếu. Biểu tỷ lệ phí của Bộ tài chính về hoạt động kinh doanh bảo hiểm vật chất xe cơ giới còn mang tính chung chung, tạo nhiều khe hở cho các doanh nghiệp hạ phí gây khó khăn cho PJICO nói riêng và thị trường nói chung trong hoạt động kinh doanh. Thị trường bảo hiểm cạnh tranh ngày càng gay gắt với sự tham gia của ngày càng nhiều các công ty bảo hiểm. Đặc biệt sức ép khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ có nhiều doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường, thị trường sẽ cạnh tranh gay gắt hơn. Đây là một điều kiện thuận lợi để mở rộng thị trường bảo hiểm, nhưng nó cũng tạo sức ép cạnh tranh đối với các công ty, để chiếm và giữ khách hàng đôi khi các thủ đoạn trong cạnh tranh làm cho thị trường thiếu lành mạnh. Biểu hiện của cạnh tranh không lành mạnh vẫn tồn tại mà tập trung vẫn là việc hạ phí bảo hiểm, tăng chi hoa hồng bảo hiểm, lôi kéo đại lý của nhau…Hiện nay sự thâm nhập thị trường của các công ty cổ phần bảo hiểm như Viễn Đông, AAA với cơ chế khai thác mang tính phá giá trên thị trường nhằm nhanh chóng dành giật khác hàng đã tạo sức ép gia tăng chi phí quản lý giao dịch khai thác và giảm hiệu quả kinh doanh trên toàn hệ thống PJICO. Chính những điều này đã gây khó khăn rất nhiều cho doanh nghiệp trong kinh doanh. Trong công ty PJICO đã có một vài cá nhân làm ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp bằng việc chiếm hữu tài sản công thành tài sản tư. Hay tình trạng nợ đọng phí bảo hiểm còn rất cao, mặc dù Công ty đã ra những văn bản chỉ đạo sát sao về vấn đề thu nợ phí, theo đó không cho nợ phí bảo hiểm ôtô, xe máy nhưng các đơn vị vẫn để nợ đọng phí bảo hiểm ôtô xe máy là rất cao. Một số địa phương có công nợ cao đó là: Đồng Nai, Hải Phòng, Bình Dương, Sài Gòn…Tình trạng các đại lý bán bảo hiểm nộp tiền cho cán bộ nhưng cán bộ không nộp ngay vào tài khỏan của công ty gây khó khăn cho Công ty trong việc tính toán, lên kế hoạch kinh doanh. Trong kinh doanh bảo hiểm thống kê là một họat động quan trọng, nhưng tại PJICO vẫn chưa được chú trọng, chưa có bộ phận chuyên nghiệp về vấn đề này. do đó khi có những biến động về tình hình tai nạn giao thông, tình hình bồi thường tổn thất… PJICO không cập nhật kịp thời làm cho công tác tính phí giảm hiệu qủa. Một tồn tại của PJICO cũng như các công ty khác trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam đó là các công ty chưa có bộ phận định phí bảo hiểm chuyên nghiệp với những chuyên gia định phí có chuyên môn và trình độ trong định phí, cũng như Công ty chưa có đủ cơ sở vật chất, điều kiện kỹ thuật để có thể xem xét các yếu tố như lọai xe, hãng xe, trình độ kinh nghiệm của người lái xe trong biểu phí của mình. Chính những điều đó đã làm cho phí được tính ra giảm tính chính xác cũng như hiệu quả. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã triển khai lâu năm, nhưng nhiều chủ xe vẫn chưa tham gia và tỷ trọng tham gia bảo hiểm còn thấp so với tiềm năng. Cạnh đó tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ còn cao cũng như tình hình trục lợi diễn biến phức tạp, chính vì vậy dẫn đến phí bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất thân xe ôtô còn khá cao Khâu giám định và giải quyết bồi thường của bảo hiểm vật chất xe cơ giới còn tồn tại nhiều hạn chế do Công ty thực hiện chế độ phân cấp bồi thường. Theo đó giấy chứng nhận bảo hiểm được văn phòng cấp, hồ sơ cũng được tiếp nhận tại phòng nhưng tại đây không giải quyết mà chuyển lên cấp trên để giải quyết. Do vậy gây những khó khăn nhất định cho người tham gia bảo hiểm khi yêu cầu bồi thường, làm cho khách hàng không thực sự thoải mái và tin tưởng khi tham gia bảo hiểm. Hay trong việc quy định tỷ lệ phí bảo hiểm mà công ty đang áp dụng vẫn chưa cụ thể để các cán bộ áp dụng mà đôi khi còn tạo kẽ hở cho các văn phòng, chi nhánh hạ phí để tăng doanh thu cho đơn vị mình. Một hiện tượng khá phổ biến ở PJICO cũng như ở các Công ty khác, để bán sản phẩm của Công ty mình cho khách hàng đại lý đã chia một phần hoa hồng nhận được theo quy định của công ty cho khách hàng, điều này là trái với quy định của công ty, đây là hiện tượng cạnh tranh thiếu lành mạnh, là nguyên nhân gây rủi ro cho qũy của Công ty. Đây là hiện tượng tồn tại khá phổ biến tuy nhiên vẫn chưa có những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn hiện tượng này. Trong đội ngũ cán bộ của PJICO nhìn chung là có trình độ cao tuy nhiên còn tình trạng có một số cán bộ không được đào tạo đúng chuyên ngành, lĩnh vực bảo hiểm, hoặc nếu được đào tạo thì chưa bài bản, chính quy. Điều này cũng là một nguyên nhân gây nên những hiện tượng vi phạm trong kinh doanh làm giảm hiệu quả kin doanh của công ty. Do số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm chưa nhiều bên cạnh đó còn tồn tại việc khách hàng e ngại đối với một Công ty cổ phần bảo hiểm. Điều đó làm tỷ trọng khai thác của nhiều nghiệp vụ bảo hiểm cũng như nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới của Công ty chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ so với thị trường. Tình hình tai nạn giao thông liên tục gia tăng, số lượng các vụ trục lợi bảo hiểm ngày càng gia tăng làm cho hoạt động kinh doanh nghiệp cụ bảo hiểm xe cơ giới trong đó có bảo hiểm vật chất xe cơ giới của PJICO gặp nhiều khó khăn. II. PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA PJICO TRONG THỜI GIAN TỚI - Nâng cao khả năng cạnh tranh để tiếp tục phát triển để tăng thị phần thông qua những hoạt động nâng cao chất lượng và hiệu quả khai thác, giám định, bồi thường… - Tập trung mọi nguồn lực cho phát triển kinh doanh, phát triển khách hàng, công ty sẽ xúc tiến mạnh mẽ các chương trình cụ thể phát triển doanh thu từng nghiệp vụ bảo hiểm đặc biệt là tập trung cho phát triển cho nhóm khách hàng, khai thác các đầu mỗi xuất nhập khẩu và các Công ty có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn, tăng cường khai thác bảo hiểm cháy đối với khu vực, doanh nghiệp vừa và nhỏ, tập trung khai thác các dự án của các ngành giao thông, điện lực, dệt may, xi măng, giấy, thép… - Hoàn thiện, nâng cao tính ưu việt của các sản phẩm kiện công ty đang triển khai, đồng thời tìm kiếm, phát triển các sảng phẩm bảo hiểm mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đa dạng của người dân và các doanh nghiệp trong nền kinh tế. - Định hướng phát triển của công ty vẫn chú trọng vào bốn nghiệp vụ bảo hiểm chính là: Bảo hiểm kỹ thuật và tài sản, Bảo hiểm xe cơ giới, Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển, Bảo hiểm hàng hải. - Tiếp tục mở rộng quy mô hoàn thành việc phát triển mạng lưới kinh doanh trong toàn quốc để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường trong nước, chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập mở cửa thị trường bảo hiểm, giữ vững các khách hàng lớn, khách hàng truyền thống, tiếp tục mở rộng hệ thống đại lý và các kênh bán hàng khác. - Tiếp tục tăng cường công tác đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên trong các chi nhánh, nâng cao khả năng nắm bắt và xử lý thông tin, đáp ứng được đòi hỏi của thị trường. - Giữ vững tốc độ tăng doanh thu phí bảo hiểm gốc, phí nhận tái bảo hiểm, doanh thu hoạt động tài chính và các doanh thu hoạt động khác. Đảm bảo thu nhập tạo ra lợi nhuận cho các cổ đông, nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống cho các cán bộ công nhân viên trong công ty, và xây dựng PJICO thực sự trở thành một công ty bảo hểm quốc gia đa ngành, “Một PJICO vững mạnh về kinh doanh bảo hiểm và đầu tư tài chính”. Trong năm 2006 Công ty có những định hướng lớn như sau: - Duy trì thị phần và tập trung vào việc nâng cao chất lượng tăng trưởng. - Tập trung xây dựng tính chuyên nghiệp và nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý trong mọi khâu hoạt động của công ty tới tất cả các đơn vị. Trước hết tập trung vào 2 công việc lớn là: + Hoàn thành mục tiêu xây dựng hệ thống ISO: 9000 và triển khai áp dụng tại Khu vực Hà Nội ( tháng 6/2006 ), tiến tới triển khai tại các đơn vị lớn ( tháng 9/2006 )và các đơn vị trong toàn hệ thống (Quý I/2007). + Đầu tư hệ thống giải pháp ứng dụng CNTT tổng thể để quản trị hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc, tái bảo hiểm, giám định bồi thường và tài chính - kế toán. - Triển khai cơ chế khoán lương kết hợp theo doanh thu và hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng khai thác, giảm tỷ lệ bồi thường và tăng hiệu quả kinh doanh bảo hiểm. Mặc dù HĐQT yêu cầu cơ chế khoán 50/50 nhưng trong khi chờ quyết định chính thức của HĐQT, Công ty tạm giao theo cơ cấu daonh thu 70% hiệu qủa 30% và sẽ cố gắng thuyết trình HĐQT và BKS chấp thuận phương án này. - Thực hiện việc tái tổ chức lại các phòng ban Công ty theo hướng chuyên môn hoá và tách quản lý ra khỏi kinh doanh. Thành lập Phòng CNTT và thành lập Phòng bảo hiểm con người trên cơ sở phát triển từ các bộ phận có sẵn của Công ty. - Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác thanh tra kiểm tra tài chính, giám định bồi thường. Tổ chức nhân sự tại tất cả các chi nhánh. - Tiếp tục đầu tư mạnh mẽ và thực hiện quyết liệt kế hoạch đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. - Hoàn thiện lại danh mục đầu tư hợp lý và quản lý sát sao các dòng tiền để tối đa hoá lợi nhuận đầu tư. Tiến tới thành lập trung tâm đầu tư để đảm bảo phát triển bền vững, đa dạng hoá nguồn thu … - Thực hiện phương án tăng vốn điều lệ từ 70 tỷ lên 140 tỷ đồng vào Quý I/2006 để đảm bảo biên khả năng thanh toán và đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển. - Điều chỉnh chiến lược phát triển thương hiệu cho phù hợp với tình hình hiện nay. * Các mục tiêu kinh doanh cơ bản năm 2006: - Tổng thu kinh doanh: 971 tỷ đồng, trong đó: +Phí bảo hiểm gốc 850 tỷ đồng, tăng trưởng 18% so với 2005 (bằng mức tăng chung dự kiến của thị trường ). +Thu nhận tái :44.6 tỷ đồng, tăng 12%. +Thu đầu tư: 25 tỷ đồng, tăng 47%. Lợi nhuận trước thuế: 30 tỷ đồng, tăng 100% (chi vừa đủ mức cổ tức tối thiểu 12% cho các cổ đông ). Với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới thì với mục tiêu tốc độ tăng doanh thu phí là: 20%. Có thể nói rằng năm 2006 là năm PJICO tiếp tục phải khắc phục các khó khăn dư âm của năm 2005. Mục tiêu ỔN ĐỊNH, AN TOÀN, HIỆU QUẢ sẽ là mục tiêu xuyên suốt trong mọi hoạt động. III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Dù đã trải qua 10 năm mở cửa thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, cũng như 10 năm PJICO xây dựng và trưởng thành. Bên cạnh những thành công đáng ghi nhận thì vẫn còn có những điểm hạn chế. Để thúc đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm vật chất xe cơ giới, một nghiệp vụ bảo hiểm đầy tiềm năng thì cần có những chiến lược, giải pháp mang tính đồng bộ cả trên phương tiện vĩ mô à vi mô. Sau đây em xin trình bày một số kiến nghị. 1. Đối với nhà nước Thứ nhất: Hoàn thiện môi trường pháp lý. Nhà nước cần hoàn thiện các quy định nhằm tạo khung pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ nói chung và bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng, tạo ra sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp, bảo vệ lợi ich hợp pháp của người tham gia cũng như các DNBH. Năng cao hiệu lực quản lý của nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bh vật chất xe cơ giới. Việc hoàn thiện môi trường pháp lý trước hết là hoàn thiện bổ xung các quy định phù hợp với tập quán kinh doanh, điều kiện thực tiễn Việt Nam và mục tiêu phát triển của thị trường. Đối với biểu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới để không tạo kẽ hở để các doanh nghiệp hạ phí tràn lan, làm thị trường bảo hiểm vật chất xe cơ giới mất tính ổn địnhvà thiếu lành mạnh. thì nhà nước cần có quy đinh cụ thể hơn, chi tiết hơn không nên để nó ở mức chung chung, sơ lược mà cần cụ thể hơn đối với từng trường hợp: + Nhà nước cần có văn bản quy định biểu phí cụ thể, chi tiết kể cả các trường hợp giảm phí hoàn phí để các doanh nghiệp dễ dàng khi áp dụng. + Nhà nước cần có văn bản quy định xử phạt nghiêm khắc với những công ty, đại lý bảo hiểm vi phạm luật kinh doanh bảo hiểm. Đặc biệt là tình trạnh giảm phí một cách tùy tiện, bất chấp khung phí đã được Bộ tài chính quy định, về nguyên tắc thì công ty bảo hiểm chỉ được giảm phí trong trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm với số lượng đầu xe lớn, trong quá trình tham gia bảo hiểm tại công ty không có khiếu nại phải bồi thường. Song một thực tế cho thấy, khi tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới với số lượng lớn thì ngoài phần giảm phí, chủ xe vẫn nhận được tiên hoa hồng mà hoa hồng chi được phép chi cho các đại lý. Lam như vậy để lôi kéo khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty mình. Theo em nghĩ thì Bộ Tài Chính nên thành lập một ban thanh tra không để phát hiện và xử lý nghiêm những vi phạm này và những thành viên của ban thanh tra không được có mối quan hệ với các công ty bảo hiểm. Có như vậy, mới đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh giữa các công ty bảo hiểm. Thứ hai: Nhà nước cần có chiến lược định hướng phù hợp. Việt Nam một đất nước đang trên đà phát triển với nhu cầu về xe cơ giới không ngừng tăng lên, mà trong tương lai người dân Việt Nam sẽ sử dụng ôtô có giá trị lớn thay thế cho xe máy như hiện nay. Đặc biệt đến ngày 1/ 5 /2006 Chính phủ cho phép nhập khẩu ôtô cũ vào Việt Nam, người dân sẽ có nhiều cơ hội dùng xe ôtô hơn, các DNHB trong đó có PJICO sẽ có nhiều cơ hội để kinh doanh hơn. Tuy nhiên để tiềm năng trở thành hiện thực thì nhà nước phải có những chiến lược cụ thể để có thể kinh doanh tốt trong tương lai. Phải có chế tài cụ thể trong việc nhập những chiếc xe cũ này về tiêu chuẩn về chất lượng cũng như số lượng nhập khẩu vì nếu quá ồ ạt thì cơ sở vật chất trong giao thông nước ta chưa đáp ứng được. Còn nếu nhập khẩu nhữn chiếc xe có chất lượng kém thì người tiêu dùng sẽ bị thiệt và các Công ty bảo hiểm sẽ phải bảo hiểm cho những chiếc xe có độ rủi ro cao. Vì vậy việc quản lý của nhà nước về vấn đề này là cần thiết. Nhà nước cần phải có những hoạch định những biểu phí trong tương lai để các DNBH có thể nhận định tình hình để chủ động hơn trong kinh doanh. Để giảm thiểu tai nạn gây tổn thất thì Đường giao thông phải được xây dựng sửa chữa đáp ứng với nhu cầu phát triển của xã họi cũng như sự gia tăng của xe cơ giới tham gia giao thông. Cần xây dựng nhiều hơn nữa các tuyến đường tránh nạn, tăng cường hơn các biển báo nơi hay xảy ra tai nạn, các băng dôn khẩu hiệu về an toàn giao thông để người dân có ý thức cao hơn khi tham gia giao thông. 2. Đối với Công ty PJICO Về việc kinh doanh bảo hiểm vật chất xe cơ giới PJICO cần thực hiện nghiêm túc biểu phí mà Bộ Tài Chính quy định, tuân thủ các nguyên tắc trong kinh doanh bảo hiểm và đặc biệt là luôn phải đảm bảo đầy đủ các qũy dự phòng nghiệp vụ để có thể thanh toán cho khách hàng một các thuận lợi, nhanh chóng chính xác nhất. Quán triệt về biểu phí và phương pháp áp dụng trên toàn PJICO đến từng cán bộ, từng đại lý kinh doanh nghiệp vụ để tránh tình trạng thông tin không đầy đủ cũng như những khe hở trong việc áp dụng đảm bảo việc thu đúng thu đủ phí cho Công ty. Để khuyến khích khách hàng tham gia bảo hiểm thì khi xây dựng biểu phí ngoài việc quy định riêng tỷ lệ phí theo mục đích sử dụng xe như đã trình bày ở biểu phí thì PJICO cần có những quy định cụ thể hơn nữa về phí bảo hiểm trong mục đích sử dụng xe. Có thể chia tỷ lệ phí khác nhau đối với các xe hoạt động ở các ngành, lĩnh vực khác nhau ví dụ như, xe họat động ở khối hành chính sự nghiệp, khối ngành an ninh quốc phòng, hay khối hoạt động kinh doanh, khối xe dân dụng.. Bởi mỗi ngành nghề, lĩnh vực hoạt động thì đều có những nét đặc trưng riêng về loại xe sử dụng, phạm vi xe hoạt động...nên cần quy định tỷ lệ phí cụ thể hơn nhằm đảm bảo quyền lợi của khách hàng cũng như mang lại lợi thế cạnh tranh cho sản của doanh nghiệp trên thị trường. Loại xe hoạt động trên thị trường Việt Nam hiện rất đa dạng và nó càng trở nên đa dạng hơn khi Việt Nam nhập những chiếc xe cũ vào thị trường, điều này gây khó khăn không chỉ cho PJICO mà còn cho các Công ty khác khi xác định phí khi có tính đến yếu tố chủng loại xe. Tuy nhiên PJICO có thể dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ gia tốc, chi phí và mức độ khan hiếm của phụ tùng... để có thể tính phí, nhằm đưa ra mức phí hợp lý nhất tránh tình trạng phí các loại xe được cào bằng thiếu sự phân biệt, giúp PJICO nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ. Cũng như mục đích sử dụng xe, PJICO cần phân chia địa bàn hoạt động của xe ôtô theo cùng lãng thổ như vùng núi, đồng bằng, hay xe có tuyến chạy đăng ký cố định, nội tỉnh, nội thành... để có thể quy định những mức phí cao đối với xe hoạt động trên địa bàn rộng, vùng núi và mức phí thấp hơn đối với xe hoạt động có tuyến đường cố định và an toàn hơn. Những quy định cụ thể chi tiết như vậy sẽ tạo điều kiện thu hút nhiều chủ xe tham gia và đảm bảo tính công bằng đối với khách hàng khi tham gia bảo hiểm tại Công ty. Cần có một bộ phận chuyên định phí bảo hiểm chuyên nghiệp phục vụ cho công tác tính phí, để phí bảo hiểm luôn được tính chính xác kịp thời. Xây dựng một bộ phận thống kê chuyên nghiệp để cập nhật các tài liệu có liên quan về tình hình tai nạn gây tổn thất thuộc trách nhiệm của đơn vị mình, các số liệu về số tiền bồi thường trung bình mỗi vụ tai nạn, cũng như dự báo tình hình mọi hoạt động của doanh nghiệp trong thời gian tới… để có thể kịp thời điều chỉnh mức phí cho phù hợp và có kế hoạch cụ thể trong kinh doanh. Đối với các Công ty bảo hiểm Phi nhân thọ, một trong những nguyên nhân chính làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thất bại đó là do phí bảo hiểm thu không đầy đủ dẫn đến lập các qũy dự phòng không được lập đầy đủ. Tại PJICO nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới có tỷ lệ bồi thường cao là 62,99% đây là tỷ lệ cao thứ hai trên thị trường trong khi đó Bảo Việt là 52,22% và Bảo Minh là 43%. Do đó nếu có sai sót trong công tác tính phí thì khả năng thua lỗ của nghiệp vụ là khá cao. Vì vậy việc quy định cụ thể biểu phí đối với nghiệp vụ bảo hiểm này là cần thiết, bên cạnh tuân thủ biểu phí của nhà nước PJICO cần xây dựng biểu phí đối với từng trường hợp cụ thể để các văn phòng khu vực cũng như các chi nhánh của công ty trên toàn quốc có thể dễ dàng áp dụng. Cần tăng cường các hoạt động tuyên truyền quảng cáo để khách hàng hiểu rõ hơn về nghiệp vụ Công ty đang triển khai, cũng như nâng cao chất lượng phục vụ trong khâu giám định và bồi thường đảm bảo giải quyết nhanh chóng, chính xác nhất khi khách hàng gặp rủi ro tổn thất để có thể thu hút nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm tại Công ty, tăng doanh thu phí và có điều kiện để giảm phí bảo hiểm. Không ngừng đào tạo cán bộ về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng kinh doanh và đặc biệt là đạo đức nghề nghiệp để bộ máy của PJICO luôn vận hành hiệu quả mang lại lợi ích cho Công ty và khách hàng tham gia. Cần kiên quyết xử lý nghiêm các đơn vị không chấp hành những quy định của công ty về phí bảo hiểm như: tự tiện giảm phí cho khách hàng, hay biển thủ phí, và chậm nộp phí cho Công ty theo quy định…. Truy thu các đối tượng nợ đọng phí bảo hiểm vì hiện nay đây đang là vấn đề nổi cộm của toàn công ty. Bên cạnh đó cần có những chế độ khen thưởng kịp thời cho những đơn vị, cá nhân hoàn thành việc thu đúng, thu đủ và nộp kịp thời phí bảo hiểm cho công ty. Tăng cường hoạt động đầu tư để tăng doanh thu cho doanh nghiệp bảo hiểm, để có thể giảm phí cho khách hàng mà không ảnh hưởng đến khả năng tài chính của công ty. KÕt luËn Với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, cũng như đời sống của dân cư, nhu cầu bảo hiểm cho bản thân và tài sản của họa ngày càng tăng, trong đó không thể thiếu được bảo hiểm vật chất xe ôtô, các chủ xe đã xem bảo hiểm như là một phương thức xử lý thiệt hại khi tai nạn xảy ra. Do đó để giành được sự thu hút cũng như sự tín nhiệm lâu dài của khách hàng mỗi Công ty bảo hiểm đều cần phải có những chính sách hợp lý, an toàn về khai thác, định phí, bồi thường, đề phòng hạn chế tổn thất. Phí bảo hiểm luôn là mối quan tâm hàng đầu của khách hàng khi ký kết hợp đồng. Vì phí nó phản ánh chất lượng phục vụ, cũng như sự chuyên nghiệp của và là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh của Công ty. Do vậy, để tồn tại và phát triển PJICO đã, đang và sẽ phải học hỏi kinh nghiệm, nghiên cứu và đề ra các biện pháp khả thi để hoàn thiện hơn nữa trong công tác định phí bảo hiểm nhằm đưa ra thị trường sản phẩm bảo hiểm với mức phí hợp lý và đạt hiệu quả cao nhất trong kinh doanh. Qua 10 năm hoạt động và phát triển, các mục tiêu tăng trưởng và hiệu quả trên bình diện Công ty đã thực hiện khá tốt, các đơn vị đã có nhiều sáng kiến trong việc triển khai các nghiệp vụ đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô, thách thức đang còn nhiều ở phía trước vì vậy PJICO trong thời gian tới cần phải tích cực hoạt động, sáng tạo nhiều hơn nữa để nghiệp vụ bảo hiểm vật chất ôtô của Công ty là người bạn đường cần thiết và không thể thiếu được đối với mỗi chủ xe. Do hạn chế về thời gian cũng như kiến thức nên báo cáo thực tập tốt nghiệp này chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu nhỏ là một số vấn đề về phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO và không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự góp ý của cô giáo cùng toàn thể cán bộ bảo hiểm ở Phòng bảo hiểm khu vực VII thuộc Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex. Một lần nữa em xin trân trọng cảm ơn cô giáo, Thạc sĩ – Tô Thị Thiên Hương và các cán bộ của phòng khu vực VII thuộc Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex đã hướng dẫn tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài báo cáo này. tµi liÖu tham kh¶o Giáo trình kinh tế bảo hiểm, chủ biên: PGS. TS Nguyễn Văn Định – Bộ môn bảo hiểm trường ĐH KTQD Hà Nội năm 2004. Giáo trình bảo hiểm, chủ biên PGS. TS Hồ Xuân Phương, Võ Thị Pha – Trường ĐH Tài chính kế toán Hà Nội. Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm, chủ biên: PGS.TS Nguyễn Văn Định, Bộ môn Bảo hiểm ĐH KTQD Hà Nội năm 2004. Bài giảng Kinh tế bảo hiểm của PGS. TS Nguyễn văn Định. Bảo hiểm – Nguyên tắc và thực hành, David – E.Bland, Học viện bảo hiểm Hoàng gia Anh, năm 1993. Bản tin số 2,3,4 – Năm 2005 của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam. Báo cáo tổng kết kinh doanh năm 2005, Báo cáo tổng hợp thu chi kinh doanh của Công ty PJICO giai đoạn 2000-2005. Biếu phí Bảo hiểm vật chất xe cơ giới của PJICO năm 2006. Thời báo kinh tế Việt Nam. Luật Kinh doanh bảo hiểm. Tạp chí Bảo hiểm. Tạp chí Giao thông vận tải Tạp chí bạn đường. Quy tắc bảo hiểm xe cơ giới, năm 2005 của PJICO. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29361.doc