Lời mở đầu
Việt Nam đã và đang trên con đường đổi mới nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Một trong những vấn đề được mọi người quan tâm nhất hiện nay là làm sao để đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của các tổng công ty Nhà nước nhằm có thể cạnh tranh hiệu quả trên thị trường thế giới và giữ được vị trí chủ đạo trong nền kinh tế đất nước.
Việc giải quyết vấn đề trên theo hướng thành lập các tập đoàn kinh tế Nhà nước hiện nay đòi hỏi các tổng công ty phải tự hoàn thiện mình về cơ
96 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1431 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về nghiệp vụ uỷ thác tại Công ty Tài chính dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấu tổ chức dẫn tới sự thành lập các công ty tài chính thuộc Tổng công ty. Vấn đề có thành lập hay không các công ty tài chính này là một vấn đề nhạy cảm nhưng thực tế là các công ty này muốn chứng tỏ sự tồn tại của mình là một sự tất yếu phù hợp các qui luật kinh tế thì phải chứng tỏ chúng thực sự hoạt động có hiệu quả.
Kết quả hoạt động của công ty phụ thuộc vào kết quả hoạt động của các nghiệp vụ chủ yếu mà một trong số đó là nghiệp vụ ủy thác. Đây vốn là một nghiệp vụ chủ yếu của các ngân hàng thương mại nhưng ngày càng được mở rộng cho các tổ chức tài chính trung gian khác và riêng vốn ủy thác được coi là một trong những nguồn tạo vốn cơ bản cho các công ty tài chính thuộc tổng công ty tại Việt Nam. Nghiệp vụ ủy thác bên cạnh việc giải quyết tốt nhiệm vụ làm đầu mối trong quá trình chu chuyển vốn trong ngành còn thể hiện được rõ nét tính trung gian của công ty tài chính, tách quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế đang trong quá trình chuyên môn hóa cao độ.
Vì vậy, trong quá trình thực tập tại công ty tài chính dầu khí em đã rất quan tâm tới nghiệp vụ này và được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Kim Quý và sự giúp đỡ, hướng dẫn của các anh chị tại công ty tài chính dầu khí em đã quyết định chọn vấn đề này làm đề tài tất nghiệpvới mong muốn tìm hiều xem nghiệp vụ này là gì, đóng góp như thế nào cho sự phát triển của công ty tài chính dầu khí nói riêng và cho những mục đích thành lập công ty tài chính thuộc tổng công ty, hy vọng đóng góp được chút gì cho sự phát triển của công ty.
Ngoài lời nói đầu và kết luận, nội dụng luận văn được trình bày theo 3 chương:
Chương I: Công ty tài chính thuộc tập đoàn và nghiệp vụ uỷ thác
Chương II: Thực trạng của nghiệp vụ uỷ thác tại Công ty Tài chính Dầu khí
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động uỷ thác tại công ty Tài chính Dầu khí.
Chương một
Tổng quan về công ty tài chính thuộc tập đoàn và
nghiệp vụ ủy thác
1.1. Khái quát mô hình tổng công ty theo hướng tập đoàn và công ty tài chính trong tập đoàn đó
1.1.1. Mô hình tổng công ty theo hướng tập đoàn
Dựa trên những giác độ nghiên cứu và phân tích khác nhau người ta đưa ra một số định nghĩa khác nhau về tập đoàn kinh doanh. Đó là một thực thể kinh tế thực hiện sự liên kết kinh tế giữa các thành viên là các doanh nghiệp có quan hệ với nhau về công nghệ và lợi ích được gọi bằng các tên khác nhau như: hiệp hội, liên hiệp, tổng công ty theo mô hình tập đoàn, tập đoàn kinh doanh... Theo các tác giả của từ điển thương mại Anh Pháp Việt thì khái niệm “Group” (tức tập đoàn) có thể hiều như sau: Một nhóm là một tập đoàn kinh tế và tài chính gồm một công ty mẹ và các công ty khác mà nó kiểm soát hay trong đó có nó tham gia. Mỗi công ty bản thân cũng có thể kiểm soát các công ty khác hay tham gia các tổ hợp khác. Theo quan niệm này đặc trưng chủ yếu của tập đoàn kinh doanh là cấu trúcvà sự kiểm soát của một công ty lớn nhất (công ty mẹ ) trong tổ hợp các công ty đó.
Dưới giác độ của văn bản pháp luật, theo điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của tổng công ty nhà nước ban hành tại nghị định số 39CP ngày 27-6-1999, điều lệ ghi rõ:
“Tổng công ty nhà nước là doanh nghiệp nhà nước có qui mô lớn bao gồm các đơn vị thành viên có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính, do nhà nước thành lập nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất để thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao; nâng cao khả năng hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn tổng công ty đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế”
Tổng quát các tập đoàn có ba loại hình tổ chức:
Loại hình thứ nhất: Quan hệ giữa các thành viên tương đối lỏng lẻo thông qua các thoả thuận hoặc các cam kết hợp tác, trong hình thức này các công ty thành viên tham gia tập đoàn có tính độc lập cao; thông thường cơ sở tồn tại của loại hình tập đoàn này là các thoả thuận hoặc hợp đồng tạo ra sự liên kết mèm giữa các thành viên để tăng thêm lợi thế cho nhóm các thành viên đó.
Loại hình thứ hai: Mối liên kết giữa các thành viên rất chặt chẽ, mức độ phụ thuộc lẫn nhau cao, các đơn vị thành viên bị hạn chế tính độc lập, cơ sở kinh tế của sự liên kết chặt chẽ trong nội bộ tập đoàn là quyền sở hữu giữa các công ty thành viên có sự nắm giữ cổ phiếu của nhau hoặc có một công ty mạnh nhất chi phối cả tập đoàn.
Loại hình thứ ba: Do sự phát triển cao của thị trường tài chính, hình thành kiểu tập đoàn có hạt nhân liên kết là công ty tài chính. Công ty mẹ (Holding Company) là công ty tài chính nắm giữ cổ phần chi phối của các công ty con. Sự phát triển cao của thị trường tài chính và công nghệ thông tin cho phép một công ty chi phối một hoặc nhiều công ty khác thông qua quyền sở hữu cổ phiếu do vậy các công ty trong tập đoàn không nhất thiết phải có mối liên hệ về sản phẩm hay công nghệ kỹ thuật.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về thành lập các tổng công ty theo quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 7/3 /1994 của thủ tướng chính phủ, cả nước đã có 92 tổng công ty lớn trong đó có 17 tổng công ty 91 là các tổng công ty được thành lập thí điểm xây dựng theo mô hình tập đoàn kinh doanh. Tuy nhiên có thể nhận thấy việc phát triển các tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam còn rất mới mẻ và đang gặp nhiều khó khăn. Các tổng công ty có sức cạnh trạnh quốc tế chưa cao, hàng hoá dịch vụ xuất khẩu rất khó khăn, qui mô và tiềm lực so với các tập đoàn kinh tế tương tự của các nước là quá nhỏ bé. Vì vậy có thể thấy giữa các tổng công ty hướng tập đoàn kinh doanh của ta và các tập đoàn kinh tế còn có một khoảng cách khá xa. Một nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là các tổng công ty không có đủ vốn thích hợp để phát triển, để đổi mới công nghệ và mở rộng sản xuất. Do thị trường vốn của ta còn rất sơ khai và kém phát triển, nguồn vốn từ nhà nước thì lại rất hạn hẹp, nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại thì không đủ qui mô và chủ yếu là ngắn hạn nên không đáp ứng đủ yêu cầu đầu tư và phát triển của các tổng công ty. Công ty tài chính trong các tổng công ty ra đời với nhiệm vụ quan trọng là điều hoà vốn trong tổng công ty và tạo lập, sử dụng nguồn vốn phù hợp, hiệu quả nhất để phát triển tổng công ty.
1.1.2. Mô hình công ty tài chính trong tổng công ty
Tuy các ngân hàng là một tổ chức tài chính quan trọng nhất của các trung gian tài chính nhưng các tổ chức tài chính phi ngân hàng ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn vốn từ những người cho vay - người tiết kiệm tới những người vay- những người cần chi tiêu. Quá trình đổi mới tài chính đã làm cho các tổ chức tài chính phi ngân hàng trở nên quan trọng hơn rất nhiều. Các tổ chức này ngày nay cạnh tranh trực tiếp hơn với các ngân hàng qua các dịch vụ tương tự như hoạt động của ngân hàng.
Những năm đầu của thế kỷ 20 các trung gian tài chính phi ngân hàng, trong đó có công ty tài chính được hình thành trên cơ sở chuyên môn hoá một số hoạt động của ngân hàng nhằm khắc phục, hạn chế các khiếm khuyết của các ngân hàng thương mại và đa dạng hoá các định chế tài chính trong nền kinh tế thị trường. Trong sự phát triển của các tổ chức tài chính phi ngân hàng các công ty tài chính ngày càng khẳng định vị thế và vai trò của mình như một định chế tài chính không thể thiếu trong nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Công ty tài chính là một tổ chức tài chính trung gian mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là:
Thu hút vốn bằng cách phát hành thương phiếu, trái phiếu và cổ phiếu.
Cho vay chủ yếu la trung và dài hạn
Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua
Cầm cố các loại hàng hoá, vật tư, ngoại tệ, các giấy tờ có giá và các vật bảo đảm khác
Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh vàng bạc, đá quý, mua bán chuyển nhượng chứng khoán
Cho đến thập kỷ 70, có 3 loại hình công ty tài chính hoạt động phổ biến là tài trợ tiêu dùng, tài trợ bán lẻ,và tài trợ thương mại.Từ thập niên 80 trở lại đây, các công ty tài chính không ngừng thực hiện đa dạng hoá hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực như thuê mua, đầu tư tài chính, phát hành và kinh doanh chứng khoán,.. đồng thời thực hiện sáp nhập, thôn tính lẫn nhau để tạo thành các công ty tài chính có qui mô hoạt động lớn, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh.
Hoạt động của các công ty tài chính là rất đa dạng và phong phú nhưng nhìn chung có thể phân loại như sau:
Căn cứ vào các hoạt động nghiệp vụ, công ty tài chính được chia thành:
+ Các công ty tài chính bán hàng: cho những người tiêu dùng vay để mua các hàng hoá từ một nhà bán lẻ hoặc một nhà sản xuất khác. Các công ty tài chính bán hàng trực tiếp cạnh tranh với các ngân hàng về cho vay tiêu dùng và được người tiêu dùng sử dụng vì các món vay thường được thực hiện nhanh hơn và tiện lợi hơn tại nơi mua hàng.
+ Các công ty tài chính người tiêu dùng: cho người tiêu dùng vay để mua những món hàng riêng, ví dụ như đồ đạc và các dụng cụ gia đình để cải thiệ nhà cửa hay để giúp thanh toán các món nợ nhỏ.
+ Các công ty tài chính kinh doanh: cung cấp các dạng tín dụng đặc biệt cho các doanh nghiệp bằng cách mua những khoản tiền sẽ thu có chiết khấu; việc cung cấp các tín dụng này được gọi là bao thanh toán. Ngoài ra, các công ty tài chính kinh doanh cũng chuyên môn hoá trong việc cho thuê thiết bị là những thứ công ty mua sau đó cho các nhà kinh doanh thuê một số năm.
Căn cứ vào quan hệ về sở hữu, các công ty tài chính được chia thành:
+ Các công ty tài chính độc lập thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh như: nghiệp vụ tín dụng (cho vay và bảo lãnh cho các khách hàng thương mại và sản xuất công nghiệp ); các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua; nghiệp vụ bao thanh toán; kinh doanh tiền tệ; tư vấn tài chính...
+ Các công ty tài chính trong các tập đoàn kinh doanh tham gia chủ yếu các hoạt động như: tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư để cung ứng cho các thành viên trong tập đoàn; quản lý và đầu tư các khoản vốn chưa sử dụng trong tập đoàn; quản lý các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, điều hoà vốn giữa các thành viên; làm đầu mối và tư vấn cho tập đoàn, các công ty thành viên trong quan hệ với các ngân hàng, các đối tác đầu tư; quản lý rủi ro và áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro tài chính trong tập đoàn; cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính khác...
Sự khác biệt cơ bản giữa các ngân hàng thương mại và các công ty tài chính là các ngân hàng có nhận tiền gửi thường xuyên trong khi các công ty tài chính thì sử dụng vốn tự có để cho vay và đầu tư, không nhận tiền gửi của dân chúng và các tổ chức với thời hạn ngắn và dưới hình thức mở tài khoản, không thực hiện dịch vụ thanh toán và sử dụng vốn vay để làm phương tiện thanh toán trong khi đó quá trình trung gian tài chính của các công ty tài chính được mô tả rằng họ vay những món tiền lớn nhưng lại thường cho vay các món tiền nhỏ, một quá trình hoàn toàn khác với quá trình trung gian của các ngân hàng thương mại. Chính vì vậy quá trình cho vay của các công ty tài chính đặc biệt thích hợp với các nhu cầu của các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Tuy vậy, trong các quốc gia có nền kinh tế phát triển, do yêu cầu mở rộng phạm vi hoạt động nên các công ty tài chính đều muốn mở rộng và đa dạng hoá các nghiệp vụ để phục vụ khách hàng của mình nhiều hơn dẫn đến sự phân chia giữa các tổ chức ngân hàng và các công ty tài chính ngày càng mờ nhạt.
Các công ty tài chính đang ngày càng phát triển và là một định chế tài chính không thể thiếu của mỗi quốc gia. Các công ty tài chính có một lợi thế là họ không gặp phải một hạn chế nào từ phía chính phủ về việc mở chi nhánh, về những tài sản mà họ có và cách thức huy động vốn. Việc không có hạn chế giúp cho các công ty tài chính có thể làm phù hợp một cách tốt hơn các món vay của họ với những nhu cầu của khách hàng hơn là các tổ chức ngân hàng.Thông qua các công ty tài chính các nguồn vốn nhỏ hệp trong dân cư có thể được tập trung lại phục vụ cho nhu cầu về vốn của đất nước cũng như các hoạt động đầu tư dài hạn khác.
Các công ty tài chính trong tập đoàn là sản phẩm tất yếu của thị trường và là bước phát triển cao hơn của các tập đoàn kinh doanh, góp phần làm đa dạng hoá các dịch vụ tài chính và các loại hình tổ chức tín dụng. Sự ra đời của các công ty tài chính làm tăng thêm nguồn vốn huy động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong tập đoàn và nhất là phát huy triệt để sức mạnh của tập đoàn trên thị trường tài chính trong và ngoài nước.
Các công ty tài chính trong tập đoàn được thành lập với mục đích ban đầu là cung cấp các dịch vụ tài chính trợ giúp cho các hoạt động kinh doanh chủ yếu của tập đoàn như tài trợ bán hàng, huy động vốn tập trung, quản lý vốn đầu tư ủy thác, điều hoà vốn nhàn rỗi, tư vấn và làm đại lý phát hành trái phiếu trên thị trường tài chính...; sau đó các công ty tài chính đã từng bước đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, mở rộng đối tượng phục vụ ra bên ngoài tập đoàn như cho khách vay để mua hàng hoá do tập đoàn sản xuất, cho các doanh nghiệp trong cùng ngành kinh tế - kỹ thuật vay vốn, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, tài chính, kinh doanh địa ốc...
Sở hữu vốn của công ty tài chính là sở hữu hỗn hợp nhưng có một chủ đóng vai trò khống chế, chi phối về tài chính. Tập đoàn tiến hành hoạt động và quản lý tập trung một số mặt như huy động, điều hoà, quản lý vốn; nghiên cứu triển khai; đào tạo; xây dựng chiến lược phát triển, chiến lược thị trường, chiến lược sản phẩm, chiến lược đầu tư...
Các công ty tài chính chiếm một vị trí quan trọng thiết yếu trong dây chuyền vốn - tín dụng của các tập đoàn, là trung gian tài chính-cầu nối giữa tập đoàn với thị trường tài chính. Một nguồn vốn kinh doanh quan trọng của các công ty tài chính là nguồn vốn được cấp hoặc đi vay từ tập đoàn và các công ty thành viên; đồng thời doanh thu từ các hoạt động tài trợ để mua hàng hóa do tập đoàn sản xuất, cho các đơn vị thành viên trong tập đoàn vay, chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng doanh thu của các công ty tài chính.
Trong qua trình hoạt động, các công ty tài chính trong tập đoàn thường phát triển theo hai xu hướng:
Một là: phát triển trở thành một tổ hợp các công ty gồm công ty mẹ và các công ty con phần lớn mang họ của công ty mẹ. Công ty mẹ chi phối các công ty con về mặt tài chính và chiến lược thông qua quyền biểu quyết do sở hữu một phần khống chế trong tổng cổ phần đang lưu hành của công ty con.
Hai là: hình thành các công ty tài chính độc lập trực thuộc tập đoàn, có chức năng hoạt động giống nhau nhưng kinh doanh trên trên các vùng địa lý khác nhau; hoặc có chức năng hoạt động khác nhau nhưng cùng hoạt động trên cùng một địa bàn.
Là thành viên trong tập đoàn nên các công ty tài chính có nhiều lợi thế nhờ hiểu được rõ các đặc tính kinh tế -kỹ thuật của tập đoàn, các mối quan hệ trong nội bộ tập đoàn; có khả năng tiếp cận nhiều nguồn thông tin với chi phí thấp để nắm bắt hoạt động ản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên; từ đó rút ngắn thời gian và chi phí thẩm định so với các tổ chức tín dụng khác.
1.2. Nghiệp vụ ủy thác
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ ủy thác
Nghiệp vụ ủy thác có nguồn gốc, xuất xứ từ rất lâu, gần như là cùng với sự hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại.
Trong thời kỳ sơ khai của nền kinh tế thị trường, đã có những nhà buôn, địa chủ hay thợ kim hoàn,.. là những người có tiền và phát sinh nhu cầu được bảo đảm an toàn về những khoản tiền hay tài sản của mình. Từ đó xuất hiện những người giầu hơn hay có khả năng, được kính trọng hơn những người khác đứng ra giữ hộ của cải của người khác và nhận được một khoản tiền phí nhất định của những người gửi,khi đó nghiệp vụ ủy thác nảy sinh. Sau đó những người này nhận thấy có thể lợi dụng tiền của mọi người để cho vay những người có nhu cầu và có lợi hơn nhiều so với nhận phí và do vậy từ việc nhận phí họ đã tiến tới trả cho những người gửi tiền một khoản để thu hút tiền gửi và hình thành những ngân hàng thương mại sơ khai. Vậy có thể thấy nghiệp vụ ủy thác đã xuất hiện từ rất sớm tuy rằng còn sơ khai và khác nhiều so với ngày nay.
Dễ thấy, ban đầu nghiệp vụ ủy thác dựa trên cơ sở sự tin tưởng lẫn nhau giữa những người có quan hệ ủy thác. Vì vậy trong tiếng Anh có thuật ngữ “Trust” (có nghĩa là đúng, tín nhiệm, tin tưởng ) được sử dụng để chỉ tới nghiệp vụ ủy thác và nó đã cho thấy bản chất của nghiệp vụ ủy thác là nghiệp vụ được thực hiện trên cơ sở của sự tin tưởng và sự tín nhiệm lẫn nhau giữa các bên trong xã hội.
Ban đầu, nghiệp vụ ủy thác đa số chỉ xuất hiện trong những quan hệ cá nhân với cá nhân và dựa nhiều vào sự tin tưởng mang tính cá nhân cao giữa hai bên. Cá nhân có tài sản trên cơ sở nhận thấy một người khác có uy tín cao, có khả năng đảm bảo an toàn hay có khả năng làm cho tài sản của mình sinh lợi sẽ giao cho người đó tài sản của mình để quản lý hay kinh doanh hộ mình. Người có tài sản thì có thể an tâm về số tài sản của mình không lo bị cướp hay thất lạc và trong một số trường hợp họ còn có thể nhận được một khoản lợi nhuận nhỏ. Trong khi đó thì người nhận quản lý tài sản vừa có thể nâng cao được uy tín của mình vừa nhận được một khoản phí hay có thể mang tài sản đó ra kinh doanh sinh lời (nếu chủ sở hữu đồng ý ) tuy trong giai đoạn đầu thì loại hình này ít khi xảy ra. trong giai đoạn này thì ủy thác được hiểu là việc bảo đảm, quản lý hộ tài sản của người khác và được tiến hành dựa trên cơ sở sự tin tưởng cá nhân giữa hai bên.
Ngay từ giai đoạn này của nghiệp vụ ủy thác thì đối tượng của các hợp đồng ủy thác đã khá đa dạng bao gồm tiền, nhà đất, vàng bạc, đồ trang sức,... và có đặc điểm rất quan trọng là chưa có sự tham gia của luật pháp mà chỉ là sự thoả thuận miệng giữa hai bên tham gia ủy thác trên cơ sở tin tưởng và hai bên cùng có lợi.
Dần dần cùng với sự phát triển của sản xuất, nghiệp vụ ủy thác có nhiều thay đổi. Lúc này, không chỉ còn là mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau mà còn là mối quan hệ giữa cá nhân với tổ chức hay giữa tổ chức với tổ chức. Trong kinh tế thị trường xuất hiện nhu cầu của các công ty có lượng vốn nhàn rỗi, hay có tài sản chưa sử dụng mong muốn tài sản của mình gặp ít rủi ro nhất hay mong sinh lời một cách hợp lý đã tìm đến những người có khả năng đáp ứng một cách tốt nhất những đòi hỏi đó. Khi đó nghiệp vụ ủy thác phát triển tới một mức độ cao, xuất hiện những tổ chức chuyên nghiệp cung ứng dịch vụ ủy thác cho toàn xã hội và lúc này hoạt động ủy thác không còn đơn thuần là quản lý tài sản để nhận phí mà chuyển sang chủ yếu là lĩnh vực quản lý tài sản nhằm sinh lời và thực hiện các công việc mà khách hàng yêu cầu.
Trong giai đoạn phát triển này, các loại hinh tổ chức tín dụng đã phát triển mạnh mẽ với hàng loạt các công ty mới như công ty bảo hiểm, các quỹ tiết kiệm tín thác dành cho người nghèo... Với đặc điểm khách hàng đến với công ty bảo hiểm luôn e ngại với các rủi ro mà họ có thể gặp phải, các công ty bảo hiểm đã nhanh chân hơn các tổ chức tín dụng khác trong việc phát triển nghiệp vụ ủy thác cho phép khách hàng có thể yên tâm về sự an toàn của các tài sản của họ khi ủy thác chúng cho công ty bảo hiểm. Tuy nhiên, nghiệp vụ ủy thác của công ty bảo hiểm chỉ được phép dừng ở mức độ quản lý tài sản để hưởng phí chứ chưa nghĩ tới việc sử dụng chúng để sinh lợi.
Trong khi đó thì hệ thống các quỹ tín thác dành cho người nghèo đã nghĩ tới việc sinh lợi cho tài sản của khách hàng khi thực hiện thu gom những đồng tiền nhỏ bé của người nghèo tập trung lại và ủy thác cho người quản lý quỹ để gửi ngân hàng lấy lãi hay đầu tư vào chứng khoán để sinh lợi. Lãi thu được sẽ chia theo tỷ lệ tiền gửi của từng người. Quỹ này trao cho những người nghèo một cơ hội sinh lợi từ số tiền nhỏ bé của họ, hình thức này được coi như sự phát triển bậc thấp của dịch vụ ủy thác vốn.
Ngân hàng tuy có chậm hơn trong việc phát triển nghiệp vụ ủy thác nhưng lại là tổ chức thực hiện mạnh nhất và trong những năm 50 của thế kỷ 20 nghiệp vụ ủy thác được coi là chìa khóa mở ra các hướng hoạt động mới của ngân hàng thương mại trong tương lai. Tại ngân hàng, các tài khoản ủy thác thường được chia rõ tài khoản nào được phép mang ra đầu tư, cho vay tài khoản nào chỉ được phép quản lý.
Với sự đa dạng của các tổ chức có thực hiện nghiệp vụ ủy thác thì những người có nhu cầu đã có thêm nhiều phương hướng lựa chọn để họ có thể lựa chọn được người nhận ủy thác phù hợp với yêu cầu của họ nhất.
Khi nền kinh tế thị trường phát triển tới đỉnh cao kéo theo sự phát triển của mọi mặt và sự phân công lao động sản xuất làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới với sự chuyên môn hóa cao Đặc trưng của kinh tế thị trường là tự do cạnh tranh, tự do sản xuất, tự do kinh doanh và tự do mậu dịch. Sự phát triển của nghiệp vụ ủy thác cũng vậy, tự những hình thức sơ khai ban đầu, dần dần các nghiệp vụ đã được hoàn thiện, phát triển thành nhiều loại hình mới như ủy thác công việc, ủy thác hàng hoá xuất nhập khẩu,... mà trong đó ủy thác vốn ngày càng trở nên quan trọng và thu hút được nhiều sự quan tâm của khách hàng. Vốn cũng là một loại hàng hóa và có cung, cầu cùng một mức giá cả cho quyền sử dụng vốn. Vì vậy thị trường vốn đã được tạo lập và ngày càng phát triển các công cụ vốn đa dạng, phức tạp. Kinh tế càng phát triển càng có nhiều luồng vốn dịch chuyển trong nước và quốc tế, từ đó xuất hiện nhu cầu những tổ chức chuyên môn với hiểu biết chuyên sâu và khả năng nắm vững những công cụ vốn để phục vụ cho thị trường này, đó là trung gian tài chính.Hệ thống các tổ chức này càng lành mạnh và hoàn chỉnh thì thị trường vốn càng có hiệu quả, đóng vai trò đòn bẩy kinh tế, tạo chất xúc tác cho các phản ứng dây chuyền phát triển nền kinh tế, theo cách này các trung gian tài chính có thể giúp thúc đẩy nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn.
Theo truyền thống thì các ngân hàng thương mại là trung tâm hội tụ các nguồn cung cầu về vốn và là trung gian tài chính quan trọng nhất. Tuy vậy, càng ngày vai trò này càng được chia sẻ cho các tổ chức tài chính trung gian khác như: Cong ty đầu tư, Công ty tín dụng thuê mua, quỹ đầu tư và phát triển, quỹ đầu tư tương hỗ,... Những trung gian tài chính thu được lợi nhuận bằng việc đặt một lãi xuất cao hơn cho các món cho vay so với món lãi họ thanh toán cho vốn mà họ vay từ người cho vay. Như vậy, do hoạt động trong quá trình tài chính gián tiếp, những trung gian tài chính có thể làm lợi cho phần lớn những người có món tiết kiệm nhỏ bằng việc đem lại cho họ thu nhập tiền lãi cao và có thể giúp cho người vay món nhỏ nay có thể vay được tiền vốn mà họ không có cách nào khác để có được (điển hình là công ty tài chính chuyên vay món tiền lớn để chovay các khoản nhỏ với thời hạn dài). Những người vay các món tiền lớn cũng hưởng lợi bởi vì quá trình trung gian tài chính có nghĩa là có được nhiều vốn hơn cho người vay trong thị trường tài chính. Không có trung gian tài chính thị trường tài chính không thể có lợi ích trọn vẹn.
Khách hàng cung cấp vốn cho các trung gian tài chính này là những người, những tổ chức có số tiền dư thừa, chưa được mang ra sử dụng. Những người này mong muốn số tiền này sinh lời nhưng lại e ngại có thể mắc phải rủi ro. Họ có thể gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng, hay mua trái phiếu, tín phiếu của chính phủ vì đây là cách để đồng tiền của họ có thể sinh lời với mức an toàn cao nhất có thể. Nhưng cũng có những người mong muốn một mức lợi nhuận cao hơn dù phải gánh chịu rủi ro cao hơn bàng cách đầu tư trực tiếp vào các dự án hay thị trường chứng khoán. Tuy nhiên nếu theo phương pháp này thì nhà đầu tư phải tự mình gánh chịu hoàn toàn rủi ro, phải tự đi thu nhận các thông tin cần thiết. Và đôi lúc lợi nhuận các nhà đầu tư nhận được không đủ cho các chi phí mà họ đã phải bỏ ra.
Nhằm trung hoà hai thái cực này, thoả mãn những người mong muốn có lợi nhuận không quá thấp và rủi ro phải chịu không quá lớn thì ngiệp vụ ủy thác có thể được coi là một giải pháp tốt. Từng chứng minh được lợi ích của mình khi thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ ủy thác với các loại hàng hoá thông thường hay các công việc mà khách hàng tin cậy giao phó, chuyển sang thực hiện ủy thác vốn của các khách hàng nghiệp vụ này của các trung gian tài chính tỏ ra có sức thuyết phục lớn. Những người có tiền hay tài sản nhàn rỗi hay tạm thời nhàn rỗi thì họ có thể sử dụng phương pháp ủy thác đầu tư chứng khoán thông qua các tổ chức trung gian hay ủy thác tài sản bằng tiền để đầu tư vào các công trình, dự án của một công ty cụ thể hoặc cho tổ chức tín dụng đầu tư hộ mình. Với phương pháp ủy thác thông qua tổ chức tín dụng, những cá nhân hay tổ chức có vốn dư thừa chưa sử dụng có thể an tâm vì với những món tiền ủy thác này, các tổ chức tín dụng có thể tập hợp lại thành một món tiền lớn và dung nó đầu tư, kinh doanh sinh lời vì họ là những người am hiều đối với việc cho ai vay hay mua loại chứng khoán nào hay đầu tư vào dự án nào là có lợi nhất và lợi thế tiết kiệm chi phí nhờ qui mô.Như vậy nghiệp vụ ủy thác đã tiến tới quản lý vốn và tài sản để sinh lời cho khách hàng và bản thân tổ chức nhận ủy thác.
Tuy ngày nay trên thế giới các ngân hàng thương mại luôn là tổ chức thực hiện nghiệp vụ ủy thác với qui mô lớn và dành cho nó sự quan tâm nhiều nhất nhưng càng ngày càng có nhièu tổ chức trung gian tài chính khác quan tâm nhiều hơn tới nghiệp vụ này trong đó phải kể tới các công ty tài chính độc lập và các công ty tài chính trong các tập đoàn lớn. Các tập đoàn lớn sản xuất kinh doanh nay đã quan tâm nhiều hơn tới việc thực hiện nghiệp vụ ủy thác, các tập đoàn thường đóng vai trò người ủy thác và giao vốn cho công ty tài chính thuộc tập đoàn mình hoặc cho một tổ chức tín dụng thực hiện việc đầu tư kinh doanh hộ. Các công ty, tập đoàn lớn cũng có thể lựa chọn phương pháp ủy thác vốn trực tiếp vào các cơ sở. Tuy nhiên hình thức này không nhiều vì không phải công ty hay tập đoàn nào cũng có đủ thông tin cần thiết hay có khả năng quản lý bao quát hết mọi việc, cũng như không phải bất cứ thành phần kinh tế nào cũng được pháp luật cho phép nhận ủy thác.
Và hiện nay ở nước ta, nghiệp vụ ủy thác đang được hy vọng nhiều vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như giúp cac doanh nghiệp cần vốn có nhiều cơ hội hơn trong việc thu hút nguồn vốn. Nghiệp vụ ủy thác không chỉ mang lại lợi ích cho hai bên ủy thác và nhận ủy thác mà cả Nhà nước cũng được hưởng lợi trong nghiệp vụ này. Với các khoản ủy thác từ nước ngoài đầu tư vào các doanh nghiệp trong nước, Nhà nước thu được thuế như đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước chứ không phải cho phép hưởng ưu đãi như với các công trình có vốn đầu tư nước ngoài.
Vậy thế nào là nghiệp vụ ủy thác ?
1.2.2. Khái niệm về ủy thác ?
Hiện nay, có khá nhiều định nghĩa về ủy thác. Theo từ điển “Kinh tế hiện đại” thì nghiệp vụ ủy thác là việc tài sản của một người được giao cho người khác kinh doanh và quản lý. Người được nhận trách nhiệm quản lý tài sản không được thụ hưởng lợi nhuận được sinh ra của tài sản, còn người giao tài sản không có quyền nắm giữ tài sản của mình. Ngoài ra, người giao quyền quản lý còn phải trả cho người quản lý một khoản phí.
Theo định nghĩa trong cuốn “Ngân hàng thương mại” của Eward W.Reed và Eward K.Gill, thì mối quan hệ ủy thác xuất hiện khi nảy sinh một thoả thuận ủy thác giữa người ủy thác và người nhận ủy thác. Nó xuất hiện khi có một bên cung ứng dịch vụ ủy thác và một bên có nhu cầu ủy thác gặp nhau tạo ra một hợp đồng ủy thác trong đó có xảy ra việc chuyển nhượng tài sản từ người ủy thác sang người nhận ủy thác (hay người cung ứng dịch vụ ủy thác ) để người này quản lý, điều hành vì lợi ích của người ủy thác hay của người thụ hưởng. Còn đối với bên nhận ủy thác thì việc cung cấp một dịch vụ ủy thác làm nảy sinh mối quan hệ ủy thác, nghĩa là một bên hoạt động vì lợi ích của bên kia trong phạm vi mối quan hệ của họ và trong hầu hết các trường hợp bao gồm việc nắm giữ tài sản được điều hành bởi người nhận ủy thác vì lợi ích của một bên hoặc bên thứ ba.
Như vậy, hoạt động ủy thác là một hoạt động thể hiện rõ tính trung gian của các tổ chức cung cấp dịch vụ ủy thác. Nó cho phép những người không có khả năng kinh doanh, quản lý tài sản hay công việc của mình tìm tới một đội ngũ những nhà chuyên môn có khả năng hoàn thành những mục tiêu mà họ mong muốn đối với tài sản hay công việc của mình. Việc này là có lợi không chỉ xét từ góc độ người ủy thác và người nhận ủy thác mà còn cho cả xã hội vì nó làm giảm chi phí chung cho toàn xã hội và hiệu quả hơn cho nền kinh tế nói chung.
Vậy, ta có thể rút ra: Nghiệp vụ ủy thác là một hành vi theo đó bên nhận ủy thác (hay được ủy thác ) thực hiện việc quản lý tài sản theo cách đã thỏa thuận với bên ủy thác, thoả thuận này được qui định chi tiết bằng văn bản trong hợp đồng ủy thác, nhằm đem lại lợi ích cho bên ủy thác hay bên thứ ba-gọi là bên thụ hưởng. “Tài sản” ở đây được hiểu theo một ý chung, đó là một công việc,ý muốn hay là bất động sản, trái phiếu, chứng khoán, tiền mặt,... của một người hay một số người. Những người, có thể là một người, có tài sản đem giao cho người khác quản lý hộ được gọi chung là bên ủy thác. Bên tiếp nhận quản lý số tài sản này gọi là bên nhận ủy thác.Trong hoạt động này, bên ủy thác sẽ trả cho bên nhận ủy thác một khoản tiền để quản lý tài sản của mình gọi là phí.Mức phí này tuỳ thuộc vào tính chất cũng như khả năng sinh lời của tài sản. Các dịch vụ ủy thác phức tạp, mang tính kỹ thuật và pháp lý cao, do vậy thông thường khi phát sinh nghiệp vụ ủy thác cụ thể sẽ có một văn bản qui định rõ quyền hạn và trách nhiệm của hai bên ủy thác và nhận ủy thác, cũng như qui định rõ về đối tượng hưởng lợi ích từ tài sản trong nghiệp vụ ủy thác, gọi là bên thụ hưởng, đó có thể là bên ủy thác mà cũng có thể là bên thứ ba.
1.2.3. Mối quan hệ giữa các bên tham gia trong một hợp đồng ủy thác.
Như trên đã nêu, nghiệp vụ ủy thác là một nghiệp vụ mang tính kỹ thuật và tính pháp lý cao và vô cùng phức tạp. Nó có liên quan tới nhiều thành phần, tổ chức trong xã hội, nền kinh tế nên không thể đơn thuần dựa trên sự tin cậy lẫn nhau giữa hai bên mà nó cần có một sự đảm bảo về mặt pháp lý. Do vậy, mỗi khi xuất hiện một quan hệ ủy thác thì sẽ có một hợp đồng giữa các bên tham gia, nó cho phép bên ủy thác có thể an tâm hơn rằng mong muốn của mình sẽ được thực hiện còn bên nh._.ận ủy thác sẽ ý thức đầy đủ về quyền lợi và trách nhiệm của họ trong mối quan hệ ủy thác đó.
Trong một hợp đồng ủy thác có xuất hiện ít nhất là hai bên: bên ủy thác và ben nhận ủy thác. Các bên này có thể là các cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng, các tổ chức từ thiện,... Ngoài ra thì các cơ quan nhà nước cũng có thể là thành viên trong quan hệ ủy thác.
Bên ủy thác (trustor) là bên có tài sản nhưng không tự kinh doanh, quản lý mà ủy thác cho người khác thực hiện việc này giúp họ, họ cũng có thể là người lập ra các quỹ chuyên dành cho một mục đích nào đó hay một lớp người nào đó thụ hưởng và giao quỹ này cho người được ủy thác để phân phối cho người thụ hưởng.
Bên thụ hưởng (benefitciary) là bên thứ ba, bên nhận lợi ích, lợi nhuận được sinh ra từ tài sản.
Bên nhận ủy thác (trustee) là bên nhận ủy thác, bên thụ thác, bên được ủy thác, ủy trị. Đây là thể nhân hoặc pháp nhân được tạm thời giao quyền sở hữu những tài sản hoặc quyền lợi của người ủy thác, có trách nhiệm hành động vì lợi ích của người ủy thác hoặc người thụ hưởng khác nhằm đạt được mục đích hai bên đã thoả thuận.
Các dịch vụ ủy thác có thể được thực hiện bởi các cá nhân hoặc các tổ chức, bao gồm các phòng ủy thác của ngân hàng thương mại hay công ty tài chính. Nhưng vì những thuận lợi mà các tổ chức nhận ủy thác có được so với các cá nhân nên hầu hết dịch vụ ủy thác đều được phòng ủy thác của các tổ chức tài chính trung gian thực hiện. Những thuận lợi này có được là nhờ kinh nghiệm, thâm niên, trách nhiệm tài chính, khả năng đáp ứng các khoản nợ, chuyên môn hoá, xét duyệt tập thể, tính công bằng và tính thích ứng.Hầu hết những thuận lợi này phát sinh từ đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp làm việc ở phòng ủy thác. Bởi vì các tổ chức nói chung tồn tại lâu dài, nhân sự có khả năng và kinh nghiệm có thể được thuê để thực hiện các hợp dồng ủy thác và các dịch vụ ủy thác khác mà công ty đã cam kết.
Hợp đồng ủy thác và dịch vụ ủy thác bao gồm số tiền và tài sản lớn. Người lập ra hợp đồng ủy thác hoặc có các dịch vụ ủy thác khác có quan tâm đến khả năng tài chính của người nhận ủy thác. Có rất ít cá nhân nào có đủ vốn để đảm bảo với người ủy thác rằng họ có đủ khả năng tài chính để đáp ứng tiêu chuẩn này. (Các dịch vụ ủy thác phải được thực hiện đúng hẹn, khẩn trương, tạo ra các phòng ủy thác của các tổ chức nhạy bén với các cam kết hơn là các cá nhân có quá nhiều trách nhiệm)
Trong một công trình nghiên cứu nổi bật về dịch vụ ủy thác đã cho thấy “trách nhiệm cơ bản của một người nhận ủy thác là trung thành, tuân theo chỉ thị, có khả năng và siêng năng”. Việc tiến hành dịch vụ ủy thác, lòng trung thành nói lên rất nhiều điều. Người nhận ủy thác phải trung thành với người ủy thác và người thụ hưởng và không bao giờ bị thúc đẩy bởi tư lợi. Các lệ phí thích hợp đối với việc thực hiện các dịch vụ đưa ra được chấp nhận nhưng việc sử dụng vốn ủy thác cho các lợi ích riêng thì hoàn toàn bị nghiêm cấm. Khi một bên nhận ủy thác thì có nghĩa là đã có một thoả thuận trong đó bao gồm sự tin tưởng và ủy thác và người nhận ủy thác bị ràng buộc phải tuân theo hợp đồng về mặt pháp lý, phải có các tiêu chuẩn cao về sự thành thực, sự ứng xử kinh doanh và có trách nhiệm bảo vệ hợp đồng.
Bộ phận ủy thác phải tuân theo các chỉ thị và các điều khoản của hợp đồng ủy thác, di chúc, lệnh của toà án, hoặc hợp đồng đại diện. Nó không thể nhận một trách nhiệm rồi sau đó quyết định rằng, các hành động khác sẽ tốt hơn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là trong trường hợp có một số biến cố bất thường, những thay đổi vẫn không được thực hiện. Các cá nhân và doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ ủy thác có quyền đưa ra các yêu sách và có thẩm quyền lớn trong lĩnh vực này và các bộ phận ủy thác không thể đổ lỗi cho sự thiếu hiểu biết hoặc bỏ quên mà phải thường xuyên siêng năng hoàn thành mục tiêu của hợp đồng. Trách nhiệm này là lớn lao nhưng không có nghĩa là người nhận ủy thác là người bảo đảm do khi họ nhận ủy thác họ chỉ được thực hiện những gì trong hợp đồng đã thỏa thuận và chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi hoạt động cụ thể, người ủy thác không thể buộc họ phải làm những gì quá trách nhiệm của họ và không thể yêu cầu họ đảm bảo rằng không có bất kỳ rủi ro nào xảy ra với các vấn đề được ủy thác.Tuy nhiên họ là những người bảo đảm nếu các thiệt hại xảy ra do lỗi của chính họ.
1.2.4. Phân loại ủy thác:
Trên thực tế ở Việt Nam hiện nay chưa có sự qui định cụ thể về các loại hình ủy thác được phép thực hiện nên sự phân loại này chủ yếu dựa trên các loại dịch vụ ủy thác đã được tiến hành và được cấp phép ở nước ngoài.
a) Các dịch vụ ủy thác được thực hiện đối với cá nhân:
Trên thực tế, hầu hết các dịch vụ ủy thác với cá nhân đều được thực hiện bởi các ngân hàng thương mại và vì ứng với nhu cầu đa dạng của các cá nhân nên các dịch vụ ủy thác tương ứng của ngân hàng thương mại cũng là rất lớn. Do vậy ở đây chỉ nhắc đến những chức năng chủ yếu gồm thanh lý tài sản, điều hành ủy thác, phục vụ như người bảo vệ và bảo quản tài sản, thực hiện các dịch vụ đại diện.
+ Thanh lý tài sản: Trong di chúc của mình, người chết thường chỉ định người thực hiện di chúc để thực hiện các ý muốn của họ - thường là các phòng ủy thác của ngân hàng thương mại. Người phân chia tài sản không có di chúc để lại được gọi là người quản lý tài sản và được toà án chỉ định, trách nhiệm này có thể giao cho phòng ủy thác. Ngoài việc phục vụ như người thực hiện di chúc hay người quản lý tài sản, các bộ phận tín thác có thể phục vụ hai khả năng khác nhau: một là, như nhà quản lý tài sản bằng di chúc hoặc hai là, như nhà quản lý thanh lý tài sản.Bổn phận cơ bản của một người quản lý tài sản hay thực hiện di chúc là xin phép toà án để hành động, thu thập và bảo vệ các tài sản, chi trả các chi phí điều hành và các khoản nợ, thuế, phân phát tài sản ròng và cung cấp các dịch vụ cá nhân cho các thành viên trong gia đình.
+ Việc điều hành các ủy thác cá nhân: đây là ủy thác nảy sinh từ một thoả thuận giữa người ủy thác và người nhận ủy thác bao gồm việc chuyển nhượng tài sản từ người khởi xướng hay người ủy thác sang cho người nhận ủy thác để người này nắm giữ và điều hành tài sản vì lợi ích của người ủy thác hay của người thụ hưởng.
+ Đóng vai trò là người giám hộ và người bảo quản tài sản: Khi một người đang trong độ tuổi vị thành niên, được xem là không có năng lực pháp lý về quản lý và nắm giữ tài sản, thừa kế tài sản, một người giám hộ được chỉ định để nắm giữ tài sản đó, thông thường trách nhiệm này được giao cho bộ phận ủy thác.
+Dịch vụ đại diện: dịch vụ này khác đáng kể so với dịch vụ ủy thác thuần tuý, trên nhiều phương diện. Trong ủy thác, quyền hành động với các tích sản ủy thác được chuyển sang cho người nhận ủy thác nhưng trong dịch vụ đại diện quyền hành đối với tài sản không được chuyển sang cho người đại diện mà vẫn ở trong tay người sở hữu. Một dịch vụ đại diện xảy ra khi một người, thường được gọi là người ủy nhiệm, cho phép người khác làm đại diện và hành động thay cho người ủy nhiệm.Một dịch vụ đại diện tiêu biểu là một sự dàn xếp về hợp đồng. Các dịch vụ đại diện thường ít liên kết chặt chẽ hơn so với tín thác và có thể chấm dứt ít phức tạp hơn.
b ) Dịch vụ ủy thác đối với các doanh nghiệp
Hầu hết các nghiệp vụ ủy thác được thiết lập bởi các doanh nghiệp nhằm phục vụ cho các mục đích trợ cấp hưu trí, phân chia lợi nhuận và chia tiền thưởng cổ phần, cho phát hành trái phiếu; cho mua lại các quỹ và giữ lại các quỹ để thanh toán cho việc phát hành trái phiếu ủy thác thế chấp hoặc các giấy chứng nhận.
Ngoài việc cung cấp các kế hoạch khác nhau nhằm đảm bảo lợi ích của công nhân mà thông thường là các kế hoạch tự cấp vốn, tín thác đầu tư vốn, lưu sổ mức tiền mà mỗi công nhân nhận được, chi trả cho họ phù hợp với thoả thuận ủy thác thì các phòng ủy thác còn thực hiện “người nhận ủy thác theo khế ước”. Khi các công ty vay nợ dài hạn, các trái phiếu, tín phiếu hay giấy vay nợ thường được phát hành. Nếu các chứng khoán này được bảo đảm, người nhận ủy thác theo khế ước thường có quyền hợp pháp với các tài sản được lưu giữ đại diện cho người nắm giữ trái phiếu và có quyền tịch thu tài sản thế chấp nếu người ký khế ước không hoàn trả vốn gốc và lãi.Nhiều hoạt động được thực hiện với hình thức này bao gồm việc chuyển nhượng quyền sở hữu các chứng khoán, thực hiện chi trả lãi và vốn gốc, giải chấp cho các tài sản được thế chấp, xử lý các quỹ được tạo ra nhằm chuộc lại các trái phiếu; bảo quản sổ sách và thực hiện các báo cáo cho những người nắm giữ trái phiếu, công ty phát hành, các cơ quan điều hành và sở giao dịch chứng khoán. Trong một vài trường hợp, người nhận ủy thác có thể phát hành các giấy chứng nhận ủy thác trang thiết bị như công cụ tín dụng được bảo đảm bởi trang thiết bị.(Trang thiết bị được chuyển cho bộ phận ủy thác và đơn vị thuê các thiết bị đó có trách nhiệm trả tiền thuê đối với việc sử dụng những thiết bị đó cho người nhận ủy thác và sau đó chi trả cho người nắm giữ các giấy chứng nhận.)
Các bộ phận ủy thác thực hiện một số chức năng đại lý cho doanh nghiệp, nó đóng vai trò là người đại lý chuyển nhượng, liên quan tới việc chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phiếu của một công ty. Thêm vào đó là vai trò người đại lý trao đổi cũng rất giống như là một đại lý chuyển nhượng. Khi thực hiện dịch vụ này, người nhận ủy thác nhận một loại chứng khoán và giao lại một loại chứng khoán khác phù hợp với các kế hoạch định trước.
Các công ty cổ phần có nhiều cổ đông thường không quan tâm đến việc chi trả lãi đối với các cổ phiếu nên họ nhờ tới phòng ủy thác để phục vụ như một đại diện chia lãi cổ phần, phòng ủy thác nhận chi trả cho công ty khi đến hạn trả lãi cổ phần.
Hiện nay, cùng sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường thì nhiều bộ phận ủy thác lớn trong các tổ chức tín dụng đã cạnh tranh mãnh liệt trong việc đưa ra các dịch vụ quản lý đầu tư, tách rời khỏi các dịch vụ ủy thác khác mà nghiệp vụ quan trọng nhất là cung cấp các dịch vụ quản lý cho các doanh nghiệp. Mục đích của các dịch vụ này là làm cho vốn lưu động tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp được sinh lợi, càng cao càng tốt, phù hợp với sự an toàn và thanh khoản hàng ngày. Điều này được thực hiện qua việc đầu tư vào các công cụ thị trường tiền tệ chất lượng cao, các thoả thuận mua lại, quỹ thị trường tiền tệ.
c) Dịch vụ ủy thác được thực hiện cho các tổ chức từ thiện và những tổ chức khác:
Họ có thể đóng vai người nhận ủy thác cho các tổ chức xã hội dưới hình thức quà biếu để đẩy mạnh việc nghiên cứu, trợ giúp các trường học, các tổ chức từ thiện và các tổ chức nhân đạo. Họ có thể đóng vai người đại diện quản lý đầu tư đối với quỹ quyên góp.
Sự phân loại như trên thực chất là dựa nhiều theo mô hình của các ngân hàng thương mại nhưng cũng có thể áp dụng chung cho các tổ chức tín dụng khác như công ty tài chính, bảo hiểm,... Cách phân loại này dựa theo tiêu chí các khách hàng của dịch vụ ủy thác hay là các đối tượng ủy thác, số nghiệp vụ ủy thác loại này là rất nhiều do có nhiều thành phần kinh tế tham gia vào quan hệ ủy thác. Sự phân chia trên giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát về các loại hình ủy thác thường thấy với mỗi đối tượng tham gia ủy thác. Nếu xét trên giác độ các loại hình ủy thác thì chúng ta có thể phân ra làm ba loại chính là:
+ ủy thác quản lý tài sản
+ủy thác quản lý vốn
+ủy thác thực hiện công việc
Nghiệp vụ ủy thác quản lý tài sản thực chất là việc bên ủy thác giao quyền sử dụng các tài sản cuả họ cho bên nhận ủy thác nhưng trên thực tế ở Việt Nam thì nghiệp vụ này còn rất khó triển khai do có vướng mắc về luật pháp trong vấn đề quyền sở hữu.
Nghiệp vụ ủy thác thực hiện công việc do mang tính cá nhân cao nên hầu hết do các ngân hàng thương mại vốn có quan hệ rộng khắp trong xã hội và có nhiều điều kiện hơn các tổ chức tín dụng khác thực hiện.
Do các lý do trên và khuôn khổ bài viết là về ủy thác tại công ty tài chính nên ta sẽ đi sâu vào loại hình ủy thác quản lý vốn.
1.3. ủy thác quản lý vốn
1.3.1. Khái niệm
Trong xã hội luôn tồn tại những người có vốn nhưng vì một số lý do nào đấy như sợ rủi ro hay không có trình độ quản lý, thiếu thông tin,.... Đó chính là những khách hàng tiềm năng của phòng ủy thác mà cụ thể là với nghiệp vụ ủy thác quản lý vốn của phòng ủy thác. Tuy hai loại hình ủy thác là ủy thác quản lý tài sản và ủy thác công việc cũng phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây nhưng ủy thác quản lý vốn với đặc thù quản lý những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội đang trở thành vấn đề cấp bách với các tổ chức tín dụng. Xã hội càng phát triển thì sự phân công lao động và chuyên môn hoá càng phát triển, xuất hiện ngày càng nhiều người có vốn nhàn rỗi dưới nhiều hình thức nhưng không phải ai trong số họ cũng có khả năng nắm bắt được các cơ hội đầu tư và có khả năng kinh doanh, quản lý có hiệu quả lượng vốn của mình. Nhằm giải quyết vấn đề này và để vốn luân chuyển có hiệu quả trên thị trường những người này có thể sử dụng dịch vụ ủy thác quản lý vốn của các tổ chức tín dụng.Chỉ có các tổ chức tín dụng mới là những người quản lý vốn tốt nhất do họ có đầy đủ thông tin, có kiến thức và quan trọng nhất là họ có thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng. Chúng ta đã biết tổ chức tín dụng đóng vai trò là trung gian tài chính trong nền kinh tế thị trường, tiếp nhận và cung cấp vốn vào các kênh phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế. Do đó, tại các tổ chức tín dụng thì nghiệp vụ ủy thác quản lý vốn rất phát triển. Các tổ chức tín dụng có thể đóng cả hai vai trò người nhận ủy thác lẫn người ủy thác. Các tổ chức tín dụng nếu là người ủy thác sẽ phải cùng với các cơ quan nhận ủy thác khác thực hiện việc đầu tư số vốn đó vào các dự án, công trình theo thoả thuận đã ký kết giữa hai bên. Các cá nhân, công ty, doanh nghiệp cũng thực hiện nghiệp vụ ủy thác vốn nhưng kém phát triển hơn và theo luật thì không phải doanh nghiệp nào cũng được thực hiện nghiệp vụ ủy thác vốn.
Vậy nghiệp vụ ủy thác quản lý vốn là hành vi theo đó bên được ủy thác tiến hành nhận quyền quản lý và sử dụng vốn ủy thác từ bên ủy thác và sử dụng vốn này như là vốn kinh doanh của mình để sinh lời.Việc kinh doanh này có thể là đầu tư hoặc cho vay lại.
1.3.2. Phân loại ủy thác vốn
Có nhiều hình thức để phân loại nguồn vốn ủy thác dựa trên tính chất, đặc điểm của nguồn vốn đó. Do đặc điểm nghiên cứu trong công ty tài chính nên ta sẽ đứng ở vị trí bên nhận ủy thác để phân loại vốn.
A. Phân loại vốn ủy thác theo nguồn giao vốn
Trong quan hệ ủy thác có nhiều bên tham gia nhưng phải kể đến đầu tiên là bên ủy thác do đó ta có thể phân loại vốn theo đặc điểm của đơn vị ủy thác.
A.1. Nguồn vốn ủy thác từ cá nhân
Các cá nhân cũng có thể tham gia nghiệp vụ ủy thác vốn tuy số tài sản của họ ủy thác thường là không lớn. Các cá nhân thực hiện công việc này nhằm mục đích giao tài sản cho những người có khả năng và kinh nghiệm để chia sẻ rủi ro, giảm thuế và đầu tư sinh lời.
A.2. Nguồn vốn ủy thác từ Chính phủ
Số vốn này được chính phủ ủy thác cho tổ chức tín dụng nhằm mục đích qua các tổ chức này có thể đưa vốn đến các đơn vị kinh doanh theo yêu cầu của mình. Lý do của việc chính phủ ủy thác vốn là nhằm mục đích cung cấp thêm vốn cho những công ty làm ăn không có hiệu quả nhưng lại có thị trường rộng lớn, có tính xã hội cao hoặc nằm tại các địa bàn chiến lược. Do đó, chính phủ sẽ vẫn để duy trì các công ty này bằng cách giao thêm vốn cho nó. Các loại hình tổ chức tín dụng hiện nay đang rất phát triển nên chính phủ sẽ thông qua đơn vị trung gian là tổ chức tín dụng để giao vốn cho các công ty đang gặp khó khăn. Các tổ chức tín dụng sẽ là bên nhận ủy thác, họ sẽ mang vốn đó để đầu tư vào các công ty đó hay cho các công ty này vay. Như vậy, các tổ chức tín dụng sẽ thay mặt chính phủ thu tiền lãi từ số vốn đầu tư hoặc cho vay đồng thời họ sẽ được chia phần trăm hoa hồng tuỳ theo thoả thuận được ký kết giữa hai bên.
A.3. Nguồn vốn ủy thác từ nước ngoài
Vốn ủy thác từ nước ngoài ủy thác vào một nước xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau. Lý do là do sự khác nhau về chế độ chính trị hoặc không có đủ thông tin để có thể đầu tư trực tiếp, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ ủy thác vốn cho các tổ chức tín dụng, đơn vị kinh doanh để họ thực hiện việc kinh doanh, sinh lợi hộ mình. Ta có thể phân ra thành các loại hình chính.
A.3.1) Bên ủy thác là chính phủ nước ngoài: Việc ủy thác thực chất là hình thức chuyển giao vốn có sự đồng ý của chính phủ hai nước. Chính phủ nước nhận ủy thác sẽ chỉ định một tổ chức tín dụng nào đó có uy tín và khả năng thích hợp với yêu cầu đứng ra làm bên nhận ủy thác. Khoản vốn này sẽ dược mang đầu tư hoặc cho vay lại. Tuy nhiên với hình thức này, các tổ chức tín dụng sẽ phải chịu toàn bộ trách nhiệm với kết quả kinh doanh của mình. Do đó, các tổ chức tín dụng phải xem xét đến các hình thức phòng ngừa rủi ro.
A.3.2) Vốn ủy thác từ công ty, doanh nghiệp kinh doanh, tổ chức tín dụng nước ngoài
Các công ty, doanh nghiệp nước ngoài vì các lý do khác nhau đã chọn hình thức ủy thác vốn. Các công ty, doanh nghiệp này thường lựa chọn trước các mục tiêu mà mình sẽ cho vay hoặc dầu tư rồi mới ủy thác vốn cho các tổ chức tín dụng thực hiện. Trong hình thức này các ngân hàng thường được lựa chọn vì lợi thế có các mạng lưới chi nhánh rộng khắp cả nước. Tuy vậy cũng có một số công ty tài chính cũng được chọn làm bên nhận ủy thác vì các công ty tài chính có khả năng và tầm nhìn xa, trông rộng hoặc do các công ty nước ngoài muốn đưa vốn vào các tập đoàn mạnh, nắm giữ những ngành trọng điểm thì điều tất yếu là sẽ đưa vốn ủy thác vào các công ty tài chính của các tập đoàn này.
A.3.3) Vốn từ các tổ chức tiền tệ thế giới
Mục đích ủy thác vốn của các tổ chức tiền tệ quốc tế cũng giống mục đích của các chính phủ nước ngoài. Tuy nhiên, ben nhận ủy thác cũng có thể không phải là các ngân hàng mà có thể là các công ty tài chính. Việc ủy thác từ các tổ chức tiền tệ thế giới không chỉ nhằm mục đích sinh lợi riêng mà còn nhằm mục đích sinh lợi riêng mà còn nhằm mục đích phát triển sản xuất, tiêu dùng.
A.4. Nguồn vốn ủy thác từ các công ty, tập đoàn, tổ chức tín dụng trong nước:
Nguồn này xuất phát từ các tập đoàn đã có công ty tài chính là công ty con của nó, thường ủy thác cho công ty tài chính làm đầu mối để từ công ty này vốn sẽ được điều phối tới các công ty con trong tập đoàn, tổng công ty. Đây cũng là hình thức hữu hiệu để các tổng công ty có thể đầu tư cho các công ty thành viên qua đầu mối công ty tài chính.
Các công ty trong nước thực hiện ủy thác vốn với mục đích sinh lời từ các tài sản hay nguồn vốn nhàn rỗi chưa cần sử dụng. Trong trường hợp chọn công ty tài chính thì các công ty sẽ có nhiều lợi nhuận hơn so với đem gửi ngân hàng.
Các tổ chức tín dụng cũng có thể là người ủy thác nhưng thường chỉ có ngân hàng hay thực hiện nghiệp vụ này. Các ngân hàng thu được một số tiền lớn từ các tài khoản tiền gửi và dùng nó để ủy thác đầu tư hoặc cho vay với đơn vị khác để sinh lời.
B. Phân loại vốn theo tính lỏng của tài sản
Về thực chất đây là cách phân loại theo tính thanh khoản của loại tài sản ủy thác.
B.1. Vốn ủy thác bằng tiền mặt
Số vốn này được ủy thác cho tổ chức tín dụng bằng hình thức tiền mặt để tổ chức tín dụng có thể ngay lập tức có thể đưa vốn vào đầu tư kinh doanh hoặc cho vay.
B.2. Vốn ủy thác không dùng tiền mặt
Đó là các loại chứng khoán công ty, thương phiếu, trái phiếu chính phủ, công trái, tín phiếu kho bạc... Vốn ở hình thức này là kém lỏng hơn tiền mặt. Tuy nhiên, vẫn có khả năng chuyển đổi thành tiền. Thực chất của việc giao vốn này là để cho tổ chức tín dụng có thể dùng nó để kinh doanh, sinh lời trực tiếp trên thị trường chứng khoán.
C. Phân loại vốn theo hình thức sử dụng vốn
Với nhiều hợp đồng ủy thác thì mục đích sử dụng vốn sẽ được hai bên ủy thác và bên nhận ủy thác thoả thuận, quyết định.
C.1. Vốn ủy thác đầu tư
Số vốn này được bên nhận ủy thác sử dụng để đầu tư vào các kế hoạch phát triển cụ thể nhằm mục tiêu lợi nhuận dưới sự cho phép của bên ủy thác.
C.2. Vốn ủy thác cho vay
Trong hình thức này, người nhận ủy thác có thể mang số vốn này cho các tổ chức, doanh nghiệp khác vay lại với hai hình thức.
C.2.1) Vốn ủy thác cho vay
Vốn ủy thác cho vay theo chương trình lớn (thường là của các chính phủ, nước ngoài, các tổ chức quốc tế ). Với hình thức vốn này, bên nhận ủy thác phải chịu toàn bộ rủi ro và trách nhiệm do đó phải thực hiện đầy đủ các giới hạn vay, các quy định về an toàn vay..
C.2.2) Vốn ủy thác cho vay với một khách hàng cụ thể (thường là nhỏ). Đối với trường hợp này, bên ủy thác cho vay sẽ chịu toàn bộ rủi ro đối với khách hàng được chỉ định cho vay vốn bên nhận ủy thác không chịu trách nhiệm vè các rủi ro cho vay với khách hàng và chỉ hưởng phí quản lý theo hợp đồng.
D. Phân loại theo quyền quyết định mục đích sử dụng vốn
Với phương pháp này, chúng ta sẽ phân loại vốn theo quyền chỉ định sử dụng vốn vào mục đích nào sẽ phụ thuộc bên ủy thác hay bên nhận ủy thác.
D.1. Quyền quyết định thuộc bên ủy thác
Quyền quyết định mục đích sử dụng vốn thuộc bên ủy thác trong một số trường hợp, các nhà ủy thác đều xem xét mục đích của mình sẽ làm gì và làm như thế nào rồi mới giao vốn cho bên thụ thác thực hiện hộ mình.
D.2. Trong một số trường hợp khác
Trong một số trường hợp khác quyền quyết định thuộc bên nhận ủy thác. Trong trường hợp này, bên ủy thác sẽ giao,mọi trách nhiệm cho bên nhận ủy thác, bên nhận ủy thác sẽ quyết định toàn bộ việc sử dụng vốn như thế nào cho hợp lý.
D.3. Các trường hợp còn lại:
Trong phần lớn các hợp đồng ủy thác, hai bên ủy thác và nhận ủy thác sẽ cùng hợp tác quyết định sử dụng vốn vào mục đích nào là hợp lý nhất.
1.3.3. Cơ sở luật pháp với nghiệp vụ ủy thác quản lý vốn:
Mối quan hệ ủy thác là dành cho tất cả mọi thành phần kinh tế không phân biệt thành phần nào; một cá nhân, một tổ chức có thể là doanh nghiệp hay chính phủ. Có những tổ chức chỉ có thể là bên ủy thác hoặc nhận ủy thác nhưng cũng có những tổ chức có thể đóng cả hai vai trò ủy thác và nhận ủy thác, đó là các tổ chức tín dụng.
Trong quan hệ ủy thác vốn, các tổ chức tín dụng cũng có thể là một bên tham gia. Họ có thể là bên ủy thác hoặc cũng có thể là bên nhận ủy thác. Các tổ chức tín dụng đứng ở vị trí người ủy thác khi họ muốn đầu tư vào một dự án, công trình mà họ hy vọng là sẽ có lợi nhưng họ không có điều kiện tham gia vào dự án đó một cách trực tiếp. Tổ chức tín dụng đóng vai ttrò là bên ủy thác lúc này sẽ ủy thác tài sản cho một tổ chức tín dụng khác hay một doanh nghiệp nào đó để đầu tư hoặc cho vay dự án. Thường chỉ có tổ chức tín dụng có qui mô lớn, lĩnh vực hoạt động đa dạng, phong phú như ngân hàng thương mại mới có thể đóng cả hai vai trò là bên ủy thác và bên nhận ủy thác. Hầu hết các trường hợp ngân hàng ủy thác lại cho các tổ chức tín dụng khác là trường hợp tái ủy thác tức là ngân hàng cam kết với bên ủy thác vốn cho ngân hàng (thường là chính phủ hay các tổ chức tài chính quốc tế) sẽ ủy thác lại khoản vốn đó cho các tổ chức tín dụng hay doanh nghiệp theo các thoả thuận đã có sẵn.Phần lớn các tổ chức tín dụng còn lại thường xuyên đóng vai trò là người nhận ủy thác. Đối với công ty tài chính thuộc các tập đoàn cũng vậy, chúng thường thực hiện nghiệp vụ ủy thác trong vai trò là người nhận ủy thác, tiếp nhận vốn ủy thác của các tập đoàn và các công ty, tổ chức khác chủ yếu để phát triển đầu tư vào các công ty con trong tập đoàn của mình. Các tổ chức tài chính khác thường là Ngân hàng, các công ty tài chính độc lập hay các công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư,... cũng có thể ủy thác vốn cho công ty tài chính trong tập đoàn. Trong mối quan hệ này, dễ dàng nhận thấy một tổ chức đóng vai trò là người nhận ủy thác và một tổ chức tín dụng khác đóng vai trò là người ủy thác.
A. Các cơ sở pháp lý đối với bên ủy thác
Bên ủy thác không chịu nhiều sự ràng buộc của pháp luật, điều kiện để họ có thể tham gia ủy thác là họ phải có tài sản và chứng minh được nguồn gốc minh bạch của tài sản đó, chứng minh được quyền sở hữu hợp pháp của họ với số tài sản đó đồng thời phải chấp thuận việc chuyển quyền sở hữu tài sản đó cho người nhận ủy thác. Ngoài ra họ còn có những trách nhiệm pháp lý trong hợp đồng ủy thác khi họ đồng ý ký vào hợp đồng ủy thác. Như vậy có thể thấy bất cứ thành phần kinh tế nào cũng có thể tham gia vào hoạt động ủy thác với tư cách là người ủy thác.
B. Đối với bên nhận ủy thác
Tất cả các thành phần kinh tế đều có thể là người ủy tác nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể trở thành người nhận ủy thác.
Ví dụ như luật của Thái Lan qui định chỉ có những công ty thực hiện nghiệp vụ tài chính, chứng khoán hoặc những công ty tài chính không kinh doanh trên thị trường tài chính nhưng được cấp giấy phép thực hiện nghiệp vụ tài trợ phát triển thì mới đồng thời được phép tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư cho các đơn vị công nghiệp, nông nghiệp, thương mại hoặc dàn xếp và quản lý những công việc có liên quan tới việc cho vay hoặc đầu tư vào các đơn vị nói trên.
Tại Hàn Quốc thì luật pháp qui định cho phép các ngân hàng đầu tư được thực hiện nghiệp vụ ủy thác đầu tư chứng khoán, ủy thác tài sản nhưng không được phép thực hiện ủy thác bằng tiền mặt nếu không đựoc sự cho phép của Ngân hàng Trung Ương và bộ Tài chính.
Vậy, để có thể trở thành người nhận ủy thác thì các tổ chức hay cá nhân phải có đủ tư cách pháp nhân, đủ khả năng chịu trách nhiệm trước pháp luật. Đồng thời để có thể trở thành người nhận ủy thác, các tổ chức, cá nhân này phải có được sự đồng ý từ các cơ quan pháp luật hoặc các ban ngành quản lý có liên quan. Ngoài ra bên nhận ủy thác phải có chức năng hoạt động nghiệp vụ thuộc lĩnh vực được ủy thác được qui định của pháp luật, có mạng lưới tổ chức để trực tiếp cho vay, thu nợ đến tận các đối tượng khách hàng theo yêu cầu của bên ủy thác, có đội nhũ cán bộ có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm trong việc thực hiện nghiệp vụ ủy thác.
C. Hợp đồng ủy thác
Điều quan trọng nhất để nghiệp vụ ủy thác được công nhận và thực hiện, tiến hành là hai bên phải có được một hợp đồng ủy thác, nó thể hiện được ý chí, nguyện vọng cùng trách nhiệm, quyền lợi của mỗi bên tham gia với sự bảo hộ của luật pháp.
Trước đây khi nền kinh tế thị trường chưa phát triển, hai bên tham gia ủy thác chỉ dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau và khi đó nghiệp vụ còn ở dạng sơ khai, chưa phát triển, nó đơn thuần chỉ là sự giữ hộ, trông nom hộ và rủi ro xảy ra đối với tài sản đó không quá lớn.Vì vậy, họ không cần tới sự tham gia của luật pháp, họ có thể tự giải quyết với nhau.
Tuy nhiên, khi thị trường phát triển cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thì nghiệp cụ ủy thác cũng có những bước phát triển mới. Sự đa dạng hoá trong các công cụ của thị trường tài chính, nền kinh tế phát triển phụ thuộc vào ngày càng nhiều các yếu tố khác nhau, việc dự đoán thị trường và các cơ hội đầu tư ngày càng khó khăn hơn dẫn tới xảy ra nhiều rủi ro hơn với các khoản vốn ủy thác của mọi người trong xã hội. Những xung đột, tranh chấp có thể xảy ra giữa hai bên trong quá trình phân chia quyền lợi hay phân chia trách nhiệm. Để có được một mối quan hệ an toàn và vững chắc, đảm bảo được vấn đề tin tưởng của sự ủy thác hai bên sẽ ký với nhau một hợp đồng ủy thác. Đây là cơ sở pháp luật để hai bên ghi rõ các bên có liên quan và những quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên. Những thoả thuận hình thành tín thác phải được trình bày rõ ràng và cụ thể bằng văn bản, những loại tín chấp bằng miệng sẽ không có giá trị. Thông thường các hợp đồng ủy thác là loại hợp đồng không được hủy ngang dưới bất kỳ hình thức nào ngoại trừ những trường hợp đã được thoả thuận một cách rõ ràng từ trước trong các văn bản tín chấp đồng thời hợp đồng ủy thác được thiết lập dưới bất kỳ một hình thức nào cũng không được vi phạm đạo đức, luật hay các chuẩn mực chính của xã hội.
Hợp đồng ủy thác cần ghi rõ các tiêu chí sau đây:
Điều khoản chung:
Các căn cứ luật pháp để hợp đồng có thể thực hiện
Tên của các ben tham gia ký kết bao gồm bên ủy thác và bên nhận ủy thác
Địa điểm và thời gian tiến hành ủy thác
Điều khoản chi tiết
Giá trị của số vốn ủy thác. Giá trị này được xác định căn cứ vào khả năng nguồn vốn của bên ủy thác, nhu cầu vay vốn của các đối tượng khách hàng để thực hiện dự án đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống và xoá đói giảm nghèo, qui mô hoạt động quản lý, tổng dư nợ của một khách hàng vay thuộc đối tượng ủy thác không được vượt quá 15% vốn tự có của bên ủy thác là tổ chức tín dụng.
Cách thức thanh toán lãi và gốc
Phương thức bảo đảm vốn
Quyền và nghĩa vụ của người nhận ủy thác:
+ Bên nhận ủy thác có quyền từ chối các yêu cầu của bên ủy thác không đúng trong hợp đồng ủy thác
+ Có quyền khởi kiện bên ủy thác vi phạm hợp đồng ủy thác cho vay theo qui định của pháp luật
+ Có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ trung thực các thông tin tài liệu liên quan đến việc vay vốn và chịu trách nhiệm về tính xác thực của các thông tin, tài liệu đã cung cấp.
+ Sử dụng tiền vay đúng mục đích, đúng nội dung đã cam kết trong hợp đồng.
+ Có trách nhiệm hoàn trả vốn ủy thác và lãi thu được đúng hạn.
Những hạn chế và cấm đoán đối với người nhận ủy thác trong quá trình thực hiện tín chấp
Quyền hạn và nghĩa vụ của người ủy thác
+ Có quyền yêu cầu bên nhận ủy thác cung cấp tài liệu về khả năng tài chính của khách hàng, về tình hình giải ngân, khả năng trả nợ và một số tài liệu khác.
+ Từ chối yêu cầu của bên nhận ủy thác nếu thấy không đủ điều kiện nhận vốn ủy thác.Kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn vay và trả nợ của bên nhận ủy thác
+ Chấm dứt hợp đồng ủy thác cho vay và thu hồi nợ trước khi hết hạn khi bên nhận ủy thác vi phạm cam kết trong hợp đồng ủy thác cho vay.
+ Có quyền khởi kiện bên nhận ủy thác vi phạm hợp đồng ủy thác cho vay.
+ Có nghĩa vụ thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng ủy thác cho vay
+ Chuyển vốn ủy thác đúng tiến độ, lưu giữ hồ sơ ủy thác cho vay phù hợp với qui định của pháp luật.
+ Chi trả phí ủy thác kịp thời đúng hạn.
+ Phối hợp với bên nhận ủy thác để xử lý rủi ro theo thoả thuận ghi trong hợp đồng ủy thác cho vay.
Những quy tắc về tích luỹ gộp, phân phối hoặc chuyển nhượng vốn, thu nhập và lợi nhuận của hai bên trong mối quan hệ ủy thác
Chữ ký rõ ràng và đầy đủ của các bên tham gia ký kết h._.g ty con chứ một mình công ty mẹ sẽ không thể bao quát được toàn bộ hoạt động của các ngành. Nhất là đối với các tập đoàn mà công ty tài chính cũng chỉ là một công ty con thì nó không thể giao vốn đầu tư vào các công ty khác trực tiếp cho công ty tài chính được do vậy nó có thể sử dụng hình thức ủy thác vốn cho công ty tài chính mà từ đó vốn có thể luân chuyển tới các công ty con nhanh và hiệu quả. Hình thức này là rất phù hợp với các Tổng công ty Nhà nước có xu hướng phát triển trở thành các tập đoàn kinh tế và đã thành lập các công ty tài chính thuộc Tổng công ty.
Công ty Tài chính Dầu khí có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển thành tập đoàn của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đồng thời luật pháp Việt Nam cũng không ngăn cản việc Tổng công ty ủy thác vốn đầu tư cho các công ty con của mình. Trong phương hướng hoạt động, điều lệ của công ty cũng rất chú trọng đến nguồn ủy thác từ Tổng công ty nhưng trên thực tế thì công ty Tài chính Dầu khí vẫn chưa nhận được vốn ủy thác từ Tổng công ty qua một năm hoạt động.
Vậy nên chăng Tổng công ty Dầu khí xem xét nhanh chóng thực hiện việc ủy thác vốn cùng các loại tài sản, đặc biệt là các tài sản tài chính, cho công ty tài chính quản lý vừa để tăng lượng vốn kinh doanh cho công ty vừa để các nguồn vốn, tài sản này của Tổng công ty được đầu tư, quản lý hiệu quả, an toàn nhất và thể hiện được tính chuyên môn hóa, tính hiệu quả trong hoạt động của Tổng công ty tronglĩnh vực tài chính, một yếu tố quan trọng để phát triển thành tập đoàn kinh tế mạnh trên thế giới.
3.2.2. Tổng công ty xem xét giao cho công ty tài chính quản lý tài khoản trung tâm của Tổng công ty
Các công ty thành viên của Tổng công ty Dầu khí gồm nhiều loại hình liên doanh, công ty hạch toán phụ thuộc, công ty hạch toán độc lập nhưng đa số đều có đặc điểm là luôn có những luồng tiền lớn phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh do đặc thù của ngành nên doanh thu và chi phí thường lớn. Những luồng tiền này được tập trung tại tài khoản của Tổng công ty mở tại ngân hàng ngoại thương gọi là tài khoản trung tâm. Với một Tổng công ty lớn như Tổng công ty Dầu khí và đặc điểm sản phẩm chính là các sản phẩm từ dầu nên doanh thu là rất lớn nếu so với nền kinh tế Việt Nam nên lượng tiền trong tài khoản trung tâm này là rất lớn.
Theo qui định của Tổng công ty Dầu khí, các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc chỉ lập các báo cáo tài chính còn các luồng tiền phát sinh sẽ được đưa về Tài khoản trung tâm để Tổng công ty quản lý; các đơn vị hạch toán độc lập thì hạch toán doanh thu, chi phí phát sinh của đơn vị rồi nộp lại Tổng công ty theo một tỷ lệ nhất định theo từng quí.
Hiện nay, tài khoản trung tâm này đơn thuần là một loại tài khoản tiền gửi tại ngân hàng ngoại thương và do phòng Tài chính của Tổng công ty quản lý. Như vậy xét trên bình diện của ngành dầu khí thì đó là một sự lãng phí trong khi các công ty thành viên thiếu vốn lưu động vẫn phải đi vay ngân hàng với lãi suất thương mại vừa cao vừa chịu những sức ép hoặc phải đi vay vốn ủy thác từ các tổ chức tín dụng của công ty Tài chính Dầu khí nên gây lãng phí cho ngành dầu khí. Ngoài ra với việc đã thành lập công ty Tài chính thì việc quản lý tài khoản này nên giao về cho công ty Tài chính sẽ phù hợp hơn vì đây vừa là một đơn vị kinh doanh vừa có nhiệm vụ quan trọng là quản lý tài chính của ngành, đảm bảo nhu cầu vốn đầu tư của ngành và sử dụng vốn của ngành có hiệu quả nhất.
Trong khi đó nếu giao cho công ty tài chính quản lý tài khoản trung tâm của Tổng công ty thì do công ty tài chính, một đơn vị có chức năng kinh doanh, nên sẽ biết cách và có thể làm số tiền trong tài khoản trung tâm đem lại lợi nhuận cao nhất cho Tổng công ty mà vẫn giữ được sự an toàn cần thiết chứ không như ban tài chính của Tổng công ty không thể làm các công việc như đầu tư vốn và nhiều hoạt động liên quan tới việc kinh doanh trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn một cách hiệu quả. Khi được giao tài khoản trung tâm thì công ty Tài chính Dầu khí có nhiều cơ hội hơn để tiếp xúc với các dự án lớn trong ngành dầu khí và cả ngoài ngành dầu khí, công ty cũng có thuận lợi hơn trong việc thực hiện chức năng đảm bảo toàn bộ các nguồn vốn tín dụng cho tất cả các dự án của Tổng công ty và các công ty thành viên, vốn là việc rất khó khăn vì hầu hết các dự án của ngành dầu khí đều có mức đầu tư lớn so với mức vốn tự có của công ty tài chính là 100 tỷ VND và do các dự án của ngành dầu khí thường triển khai chậm so với dự án. Với việc được quản lý tài khoản trung tâm, công ty tài chính có khả năng đầu tư vào nhiều dự án ở trong cũng như ngoài ngành hơn do số lượng vốn trong tài khoản trung tâm là rất lớn so với mặt bằng các dự án ở Việt Nam do vậy có thể đem lại lợi nhuận cao cho Tổng công ty. Tất nhiên do đây là tài khoản trung tâm của một Tổng công ty mạnh của nền kinh tế đất nước nên việc đảm bảo tính an toàn của nó là rất quan trọng nhưng một lượng vốn lớn nếu được một đội ngũ những người có chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm quản lý sẽ tạo được rất nhiều lợi thế với việc đa dạng hóa danh mục đầu tư với tỷ lệ thích hợp giữa tính thanh khoản và tính sinh lời.
Với một công ty tài chính hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ mà chỉ có số vốn tự có là 100 tỷ VND như công ty dầu khí thì việc được quản lý tài khoản trung tâm của Tổng công ty với số tiền gấp rất nhiều lần số vốn tự có sẽ đem lại cho công ty những lợi thế nhất định trong việc cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác. Khi công ty tài chính đã có đủ kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tài chính thì việc giao cho công ty tài khoản trung tâm là có đủ độ tin cậy, khi đây là một công ty thành viên của Tổng công ty, và là một điều hợp lý do chỉ có công ty tài chính mới có đủ điều kiện để quản lý tất nhất tài khoản trung tâm này, có kinh nghiệm và công cụ cùng đội ngũ nhân viên đảm bảo quản lý có hiệu quả nhất nguồn vốn này. Thêm vào đó, do công ty tài chính có chức năng là hoạt động đáp ứng nhu cầu vốn của các dự án của Tổng công ty và các công ty thành viên nên việc quản lý tài khoản trung tâm sẽ cho phép công ty có thể nắm bắt, đánh giá tình hình tài chính của các công ty thành viên và các dự án để từ đó có thể đánh giá chính xác tính hiệu quả của các dự án, tốn ít chi phí cho việc thẩm định dự án, nhất là với các công ty thành viên hạch toán phụ thuộc khi mà các khoản lãi lỗ đều được hạch toán về Tổng công ty sau đó Tổng công ty phân bổ sau thì rất khó thẩm định tình hình tài chính của công ty đó. Việc giao tài khoản trung tâm cho công ty tài chính quản lý dưới hình thức ủy thác quản lý vốn cho phép công ty tài chính có thể đầu tư các dự án từ nguồn vốn này mà không cần e ngại hạn mức tín dụng 15% vốn tự có với mỗi khách hàng.
Tóm lại, việc Tổng công ty giao cho công ty tài chính quản lý tài khoản trung tâm dưới hình thức ủy thác quản lý vốn khi công ty tài chính có đủ kinh nghiệm và chuyên mô cần thiết là hợp lý về mặt kinh tế cho Tổng công ty và do vậy Tổng công ty nên nghiên cứu, đánh giá tình hình để giao cho công ty Tài chính Dầu khí được quản lý tài khoản trung tâm sớm nhất có thể.
3.2.3. Hỗ trợ công ty một cách tối đa trong công tác đào tạo đội ngũ chuyên gia cả trong lĩnh vực chuyên môn và quản lý
Là một công ty còn non trẻ, công ty Tài chính Dầu khí đang rất cần những chuyên gia trong lĩnh vực tài chính và cả dầu khí để có thể thực hiện tốt các nhiệm vụ của Tổng công ty giao và có thể tự mình hoạt động một cách hiệu quả.
Hiện nay nhu cầu về vốn trong ngành Dầu khí là rất lớn, công ty Tài chính Dầu khí được thành lập cũng nhằm mục đích thu xếp, kinh doanh có hiệu quả nguồn vốn trong ngành Dầu khí. Điều này đòi hỏi công ty phải có một đội ngũ chuyên gia có trình độ cao và năng động và phải có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tài chính, điều này là một điều rất cần thiết để có thể hoạt động hiệu quả trong lĩnh vực tài chính. Mới thành lập nên công ty Tài chính Dầu khí không thể có đầy đủ đội ngũ chuyên viên đủ trình độ hoạt động hiệu quả và cũng cần xét trong bối cảnh công ty mới hoạt động không có nhiều điều kiện về tài chính cũng như kinh nghiệm để tự đào tạo cán bộ của mình. Do vậy Tổng công ty Dầu khí nên hỗ trợ công ty Tài chính trong vấn đề này bằng nhiều cách khác nhau như điều chuyển một số cán bộ có kinh nghiệm hoạt động trong các lĩnh vực mà công ty Tài chính đang cần sang công ty hoạt động một thời gian, liên hệ tổ chức các khoá đào tạo cho cán bộ công ty dựa theo những mối quan hệ về giáo dục đào tạo mà Tổng công ty sẵn có, cung cấp hay hỗ trợ một phần chi phí cho những khóa đào tạo do công ty Tài chính tự liên hệ tổ chức.
Công ty Tài chính Dầu khí có đặc thù là một doanh nghiệp hoạt động trong ngành Dầu khí, những bạn hàng lớn nhất và quan trọng nhất của công ty đều là các đơn vị trong ngành nên công ty rất cần những chuyên gia trong lĩnh vực Dầu khí. Trong những công việc có liên quan đến chuyên môn thuộc ngành dầu khí công ty có thể thuê chuyên gia trong ngành tư vấn nhưng để thực hiện nhiệm vụ của công ty là cầu nối giữa Tổng công ty và thị trường tài chính và luân chuyển vốn trong nội bộ ngành có hiệu quả thì công ty cần có cho riêng mình một đội ngũ chuyên gia vừa có kiến thức về tài chính vừa có kiến thức chuyên môn của ngành Dầu khí. Những chuyên gia này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc theo dõi tình hình thực hiện các dự án của ngành Dầu khí, việc thẩm định hiệu quả dự án Dầu khí làm tăng độ tin cậy của các khách hàng với năng lực của công ty và đây là một nhân tố quan trọng để có thể phát triển nghiệp vụ ủy thác của công ty, một nghiệp vụ dựa rất nhiều vào lòng tin của khách hàng.
Tổng công ty đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra đội ngũ chuyên gia này cho công ty Tài chính vì Tổng công ty là đơn vị chủ quản của công ty và có trách nhiệm về việc đào tạo cán bộ cho công ty tài chính. Điều này cũng phù hợp với mô hình tập đoàn kinh tế trên thế giới khi tập đoàn tiến hành hoạt động và quản lý tập trung một số mặt như nghiên cứu triển khai, đào tạo, xây dựng chiến lược phát triển,...
3.2.4. Xem xét việc tăng vốn pháp định cho công ty
Việc tăng vốn pháp định cho công ty Tài chính chủ yếu nhằm mục đích đảm bảo khả năng đáp ứng đầy đủ hơn mức cấp tín dụng và đầu tư của công ty cho các dự án và các đơn vị của Tổng công ty.
Thoạt đầu điều này làm cho ta có cảm giác làm cho công ty bớt phụ thuộc vào nguồn ủy thác và có thể dẫn đến công ty không quan tâm nhiều đến nghiệp vụ ủy thác nhưng xét về lâu dài thì những kết quả khả quan trong các nghiệp vụ tín dụng và đầu tư mà công ty có được do việc sử dụng nguồn vốn tăng thêm này làm cho mức tín nhiệm của khách hàng với công ty tăng thêm và nghiệp vụ ủy thác có nhiều cơ hội hơn để phát triển. Nguồn vốn pháp định tăng lên cũng đồng nghĩa với trách nhiệm tài chính của công ty với những khách hàng ủy thác vốn cho công ty tăng giúp công ty có thể thu hút nhiều hơn nguồn vốn ủy thác và thu hút được các khách hàng ủy thác với mức lớn hơn trước.
3.3. Giải pháp đối với công ty Tài chính Dầu khí
So với những kiến nghị với các cơ quan quản lý công ty Tài chính Dầu khí thì những giải pháp ở đây mang tính chủ động hơn nhiều do với các cơ quan kia thì họ không có trách nhiệm trực tiếp kinh doanh và cũng còn mất nhiều thời gian để đưa ra các quyết định thì với một công ty kinh doanh như công ty Tài chính Dầu khí việc đưa ra các quyết định phải nhanh nhậy và quyết đoán nếu thấy đúng là phải thực hiện ngay và họ cũng có quyền làm việc đó, nó hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của họ. Là một công ty kinh doanh nên thu hút khách hàng và hoạt động thỏa mãn nhu cầu khách hàng là mục tiêu sống còn của công ty và tất cả các hoạt động của công ty như marketing, đa dạng hoá dịch vụ, nâng cao trình độ nhân viên,... cũng là để phục vụ mục tiêu này.
3.3.1. Đẩy mạnh hoạt động marketing
Công tác marketing luôn được coi là khâu quan trọng nhất đối với mọi công ty, tập đoàn trên thế giới. Các công ty, tập đoàn này chi phí cho hoạt động marketing tại các cơ sở này thường chiếm tới 30% tổng chi phí, có những doanh nghiệp đã chi đến 50% tổng chi phí cho hoạt động marketing. Marketinh không chỉ bao gồm công việc quảng cáo, khuyếch trương, tiếp thị mà đó còn xuất phát từ các chính sách của công ty, năng lực quản lý và năng lực, trình độ của nhân viên... Công tác marketing là công tác chứng tỏ khả năng đáp ứng nhu cầu của công ty cùng với việc thể hiện là làm tăng thêm uy tín và danh tiếng của công ty.
Tại Việt Nam trong xu thế phát triển của kinh tế thị trường, các doanh nghiệp ngày càng thấy rõ tác dụng của marketing đối với công việc kinh doanh của doanh nghiệp mình. Các doanh nghiệp đã luôn luôn phải đổi mới sản phẩm, truyền bá và quảng cáo cho các sản phẩm của mình đồng thời nâng cao không ngừng năng lực của đội ngũ nhân viên và cán bộ quản lý. Công ty Tài chính Dầu khí mới ra đời được một năm nên về mặt danh tiếng còn rất hạn chế thêm vào đó khả năng tài chính so với các đối thủ cạnh tranh chủ yếu còn rất hạn chế nhưng đây lại là hai mặt quan trọng nhất của sự phát triển của mỗi công ty trong nền kinh tế. Thực tế công ty còn rất nhiều khó khăn trong việc khẳng định mình khi mà ngay cả các công ty thành viên trong Tổng công ty cũng chưa biết nhiều đến công ty và còn một số công ty thành viên quen quan hệ với các ngân hàng thương mại vốn là một đối tượng bạn hàng quen thuộc và trong các dự án lớn của ngành dầu khí khi có sự tham gia đầu tư của nước ngoài thì công ty tài chính hầu như chưa thể tìm được vị thế của mình và thường bỏ lỡ cơ hội do vốn quá nhỏ, kinh nghiệm còn thiếu và chưa gây dựng được tiếng tăm lớn. So với các ngân hàng thương mại thì rõ ràng các công ty tài chính kém lợi thế hơn rất nhiều do các ngân hàng còn có các dịch vụ bổ trợ kèm theo khi mà họ được phép thực hiện nhiều nghiệp vụ ngân hàng hơn. Tuy vậy các công ty tài chính và công ty Tài chính Dầu khí vẫn có những lợi thế riêng. Họ có thế mạnh khi thị trường khách hàng tập trung hơn, họ chuyên môn hơn trong lĩnh vực kinh doanh của họ, có lợi thế hơn khi cung cấp các dịch vụ tới các khách hàng kinh doanh nhỏ, họ không chịu những ràng buộc chặt chẽ của ngân hàng nhà nước, họ có thể chấp nhận những rủi ro ở mức cao hơn các ngân hàng khi cung cấp các dịch vụ vì họ chuyên sâu hơn các ngân hàng và họ cũng có chi phí quản lý thấp hơn các ngân hàng. Tuy thế để có thể duy trì được lượng khách hàng tiềm năng, liên tục phát triển thì các công ty tài chính nói chung và công ty Tài chính Dầu khí nói riêng rất cần những người quản lý vốn và tài sản cũng như sự tiếp xúc với các đơn vị cùng lĩnh vực để dễ dàng tiếp thu được kinh nghiệm mới. Do đó công ty Tài chính Dầu khí cần có những chính sách tiếp thị, quảng cáo, khuyếch trương danh tiếng của mình để các khách hàng trong và ngoài ngành dầu khí biết tới những lợi thế của mình khi trở thành khách hàng của công ty Tài chính Dầu khí và thu hút được những người giỏi từ khắp nơi về làm việc cho công ty.
Công tác marketing ủy thác ở công ty Tài chính Dầu khí cần lưu ý hai chiến lược về thị trường và tăng lượng vốn ủy thác.
+ Chiến lược về thị trường mục tiêu: Trong thời điểm hiện nay, dù được phép hoạt động với thị trường rộng lớn gồm các cá nhân và tổ chức trong và ngoài ngành dầu khí nhưng với khả năng còn hạn chế về vốn và khả năng nghiệp vụ cùng kinh nghiệm thì ban đầu công ty Tài chính Dầu khí nên tập trung vào các khách hàng trong ngành mà chủ yếu là các doanh nghiệp thành viên với nghiệp vụ ủy thác quản lý vốn và tài sản, bên cạnh đó công ty cũng nên tập trung vào các khách hàng là công nhân viên trong ngành, nhất là những người có thu nhập cao. Hiện nay lãi suất gửi tiền tiết kiệm của các ngân hàng là thấp thì cơ hội để công ty thu hút nguồn vốn ủy thác từ các đối tượng này là không quá khó khăn. Công ty nên có biện pháp tuyên truyền, quảng cáo với các khách hàng này, nhấn mạnh đến những lợi ích của họ trong việc sử dụng dịch vụ này của công ty. Sau thời gian tích lũy thêm kinh nghiệm, nâng cao khả năng của nhân viên cũng như của cán bộ quản lý thì có thể mở rộng nghiệp vụ ủy thác quản lý vốn này ra cho toàn bộ nền dân cư và nhất là các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Nếu công ty có thể thực hiên tốt việc nhận ủy thác từ các doanh nghiệp trong nền kinh tế thì sẽ rất có lợi cho công ty khi từ đó có thể mở rộng được khách hàng với các dịch vụ khác của công ty và giúp cho công ty có thể đánh giá được phần nào tình hình tài chính của các doanh nghiệp đó để từ đó có được lợi thế trong việc thẩm định khách hàng và có thêm thông tin toàn diện cho các nghiệp vụ khác của công ty.
Công ty Tài chính Dầu khí cũng có thể tiến hành thực hiện việc tăng vốn ủy thác và marketing cho nghiệp vụ ủy thác của công ty mình bằng việc mở ra hình thức nhận ủy thác từ dân cư và các công ty để đầu tư vào thị trường chứng khoán, đã hoạt động được một thời gian tại Việt Nam, như các quỹ đầu tư tín thác. Đây là một loại hình ủy thác đầu tư rất phổ biến tại nước ngoài nhưng ở Việt Nam còn rất mới mẻ do thị trường chứng khoán còn mới phát triển và cũng chưa có đủ khung pháp lý để các quỹ tín thác hoạt động do khả năng nảy sinh rủi ro đạo đức của người đại lý-ủy thác là rất lớn nên cần sự điều chỉnh chặt chẽ của luật pháp để bảo về quyền lợi của người ủy thác vốn. Do các quỹ chưa có tại Việt Nam nên sự cạnh tranh với loại hình này tại Việt Nam là không quá lớn nên công ty cũng nên phát triển hoạt động này, triển khai các biện pháp marketing thông qua các điều tra về thu nhập, tìm hiểu mong muốn tiết kiệm của dân cư, đẩy mạnh hình thành công ty đầu tư chứng khoán dầu khí góp phần tuyên truyền về sản phẩm trên của công ty.
3.3.2. Phát triển thêm các nguồn ủy thác mới:
Hiện nay, công ty Tài chính Dầu khí mới chỉ thực hiện hoạt động ủy thác với bên ủy thác đa số là các tổ chức tín dụng, cụ thể là các ngân hàng thương mại, và được một vài công ty thành viên trong Tổng công ty. Trong khi đó thì nguồn vốn trong nước tuy là cơ sở cho sự phát triển của các công ty, doanh nghiệp tại Việt Nam nhưng để thực sự có bước nhảy vọt trong việc tăng tốc phát triển đi lên tầm cao mới thì các công ty, doanh nghiệp này cần có được sự hỗ trợ vốn từ nước ngoài nhất là đối với các công ty trong ngành dầu khí, là ngành mà luôn cần những khoản vốn rất lớn để đầu tư vào các thiết bị kỹ thuật hiện đại nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao.Tổng công ty Dầu khí, với tư cách là doanh nghiệp có tạo ra lợi nhuận cao, có tích luỹ nội bộ và được coi là mũi nhọn của đất nước, rất coi trọng đa dạng hóa các phương thức huy động vốn trung và dài hạn tại công ty tài chính của Tổng công ty. Việc nhận ủy thác vốn từ nước ngoài của công ty Tài chính Dầu khí là khá thuận lợi do đặc điểm của ngành dầu khí luôn cần vốn lớn và Tổng công ty cũng có được danh tiếng trên quốc tế và ngành dầu khí là một trong những ngành thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài nhiều nhất. Do vậy, công ty nên chủ động đẩy nhanh các hoạt động chuẩn bị, sẵn sàng các nghiệp vụ để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài ủy thác vốn đầu tư vào ngành dầu khí rồi từ đó tạo được danh tiếng và sự tin tưởng để họ ủy thác vốn vào các ngành kinh tế khác của đất nước. Ngoài ra công ty còn nên mở rộng thêm việc tiếp nhận các nguồn vốn ủy thác của Chính phủ để tham gia vào các doanh nghiệp nhà nước thuộc diện cổ phần hóa.
3.3.3. Nhanh chóng thực hiện vai trò người ủy thác
Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam cho phép các tổ chức tín dụng được thực hiện cả việc nhận ủy thác lẫn việc ủy thác. Các công ty tài chính cổ phần tại Việt Nam là những đơn vị tích cực thực hiện cả hai vai trò ủy thác và nhận ủy thác vì nghiệp vụ này không chỉ mang lại hiệu quả tránh hạn mức tín dụng mà còn thể hiện rõ vai trò trung gian của công ty tài chính trên thị trường tài chính. Còn tại các ngân hàng quốc doanh, hoạt động ủy thác rất ít phát triển ngoại trừ ngân hàng đầu tư phát triển và ngân hàng nông nghiệp do nhận vốn ủy thác từ các tổ chức quốc tế cho các dự án phát xoá đói giảm nghèo và đầu tư cơ bản.
Đối với công ty Tài chính Dầu khí, trong giai đoạn tới có thể có một số vốn lớn khi phát hành thành công trái phiếu hay khi nhận tiền gửi trên 12 tháng hoặc quản lý tài khoản trung tâm thì ngoài việc quan tâm đầu tư cho các dự án trong ngành công ty nên lợi dụng thế mạnh đầu tư cho các ngành khác khi có cơ hội đem lại lợi nhuận hợp lý và cũng là để tăng tính linh hoạt trong hoạt động kinh doanh của công ty. Nhưng do công ty mới hình thành nên không thể đầu tư cho tất cả các hướng có hiệu quả nên khi có thông tin về các dự án không phù hợp hoàn toàn với chuyên môn để có thể thực hiện thì công ty nên có được mối liên hệ với các tổ chức tài chính khác có chuyên môn hơn trong lĩnh vực đó để tiến hành ủy thác hoặc ủy thác lại cho tổ chức đó thực hiện dự án đó, khi đó công ty Tài chính Dầu khí trở thành người ủy thác. Điều này là cần thiết trong nền kinh tế thị trường và công ty Tài chính Dầu khí nên chuẩn bị để có thể thực hiện được nghiệp vụ này một cách tốt nhất, tránh bị bất ngờ trước các diễn biến của hoạt động kinh tế.
3.3.4. Đa dạng hóa các dịch vụ ủy thác
Trên thế giới, hoạt động ủy thác của các tổ chức tín dụng là rất đa dạng, phát triển phong phú đến mức gần như bất cứ hoạt động nào mà tự mình không làm được là có thể ủy thác cho người khác làm; không chỉ thực hiện nghiệp vụ nhận ủy thác và ủy thác vốn mà cả các công việc như quản lý tài sản, các loại giấy tờ có giá, phân chia lãi cổ phần, làm đại lý phát hành chứng khoán và đại lý thanh toán cho các công ty cổ phần... Điều này là do các nước này có nền kinh tế thị trường phát triển ở bậc cao và mọi công việc đều được chuyên môn hóa, xã hội hóa ở mức cao. Với các nghiệp vụ mới như trên, các tổ chức tín dụng không đơn thuần sử lý vốn ủy thác ở hoạt động tín dụng mà ngày càng đi sâu vào các hoạt động khác trong nền kinh tế như quản lý và kinh doanh trên thị trường chứng khoán.
Một là: Công ty Tài chính Dầu khí cần nắm bắt các cơ hội khi mà thị trường chứng khoán của Việt Nam đang ngày càng phát triển và đi vào hoạt động ổn định để có thể thu hút vốn ủy thác của các nhà đầu tư muốn tham gia vào thị trường chứng khoán. Công ty có thể có nghiệp vụ mới hoạt động như hình thức một quỹ tương hỗ khi tập trung huy động từ những khoản vốn ủy thác nhỏ bé của các tầng lớp dân cư để tập trung lại và mang đầu tư vào chứng khoán hay mang đi đầu tư. Thông thường thì chỉ cho mục đích đầu tư vào chứng khoán trên thị trường chứng khoán để cho những người có vốn ít nhưng vẫn có cơ hội tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán hay có cơ hội tìm kiếm khoản lãi dù là rất ít ỏi từ khoản tiền để dành nhỏ bé của họ. Thực tế là nghiệp vụ này có rất nhiều triển vọng. Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế đang rất cần vốn nhưng hầu hết người dân thu nhập còn thấp, việc mở ra thị trường chứng khoán thực chất cũng chưa thu hút được nhiều người dân tham gia vì đa số người dân không có điều kiện tham gia trực tiếp vào thị trường và với số vốn nhỏ thì rủi ro xảy đến với họ là rất lớn nên việc một tổ chức tài chính có chuyên môn đứng ra thu hút vốn- dù là những khoản nhỏ- để đầu tư vào thị trường chứng khoán sẽ được đông đảo ngưòi có thu nhập thấp quan tâm. Công ty Tài chính đang có sẵn hệ thống các quỹ tiết kiệm của nghiệp vụ Tiết kiệm Dầu khí và có thể sử dụng hệ thống các quỹ này cho việc huy động trên. Vấn đề là công ty Tài chính mới đang triển khai hoạt động kinh doanh chứng khoán nên cũng phải một thời gian nữa khi hoạt động có kinh nghiệm và uy tín trên thị trường chứng khoán thì nghiệp vụ này mới có cơ sở hoàn chỉnh để triển khai thành công.
Hai là: Công ty Tài chính Dầu khí cần phát triển, tìm kiếm thêm các dịch vụ mới như dịch vụ quản lý tài sản bằng tiền, bằng hiện vật, các dịch vụ về xử lý công nợ,...trong đó dịch vụ về xử lý công nợ có tính hiệu khả thi cao khi công ty có lợi thế khi có nhiều thông tin về các công ty thành viên nên dễ dàng hơn trong việc đáp ứng dịch vụ này từ phía các công ty ngoài ngành và do đặc thù là một trung gian tài chính có mối quan hệ rộng rãi và có chuyên môn trong lĩnh vực tài chính nên dễ thực hiện công việc này hơn là các công ty kinh doanh tự làm nhưng bản thân dịch vụ này của công ty sẽ phải chịu sự cạnh tranh lớn từ phía nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu của các ngân hàng thương mại.
Ba là: Trong bối cảnh các công ty nhà nước đang được cổ phần hóa mạnh mẽ thì công ty Tài chính Dầu khí cần đẩy nhanh dịch vụ nhận tư vấn về cổ phần hóa các doanh nghiệp trong và ngoài ngành đồng thời nhận làm đại lý phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp này. Công ty cần xây dựng được các bước công việc cụ thể, khả thi để tạo sự tin tưởng cho các công ty thành viên và cả các công ty ngoài ngành. Hoạt động này có nhiều triển vọng trong bối cảnh cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước tuy là một công việc cấp bách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước nhưng tốc độ triển khai còn chậm và gặp nhiều khó khăn. Công ty Tài chính Dầu khí cần nắm bắt cơ hội, dựa vào nhiều mối quan hệ có những bước tiếp cận các doanh nghiệp đang cần cổ phần hóa tham gia tư vấn phương án cổ phần hóa cho các công ty này tiến tới nhận được sự ủy thác toàn diện từ phía các doanh nghiệp đang tiến hành cổ phần hóa từ việc quyết định phương án cổ phần hóa đến làm đại lý ủy thác của doanh nghiệp trong việc tiêu thụ cổ phần.
Bốn là: Công ty Tài chính Dầu khí cũng cần nghiên cứu, phát triển dịch vụ ủy thác cho các doanh nghiệp trong cũng như ngoài ngành nhằm mục đích trợ cấp hưu trí, phân chia lợi nhuận, chia tiền thưởng cổ phần cho phát hành trái phiếu, cho mua lại các quỹ và trả lại các quỹ để thanh toán cho việc phát hành trái phiếu ủy thác thế chấp hoặc các giấy chứng nhận. Công ty cũng cần cung ứng các dịch vụ ủy thác liên quan tới việc phát hành chứng khoán như chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phiếu chi trả lãi cổ phần cho các cổ đông của công ty, chuyển nhượng trái phiếu, chi trả lãi cổ phần và vốn gốc bảo quản sổ sách.
Năm là: Một dịch vụ ủy thác rất phù hợp với vai trò và nhiệm vụ hoạt động tài chính trong Tổng công ty của công ty Tài chính Dầu khí là thực hiện dịch vụ ủy thác quản lý quĩ hưu trí của các công ty trong các công ty thành viên. Thực hiện việc kiểm soát tính toán đầu tư vào chứng khoán và thu nhập từ đầu tư vào chứng khoán. Thông thường các ngân hàng đầu tư khoảng 60% vốn của quĩ hưu trí vào cổ phiếu hoặc trái phiếu của các công ty, phần còn lại đầu tư vào tín phiếu Chính phủ, có lãi suất thấp hơn nhưng có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt nhanh hơn.
Việc thực hiện các nghiệp vụ mới như trên sẽ gây ra nhiều khó khăn cho công ty do với một số lượng công việc lớn như vậy thì ngay cả những bộ phận ủy thác rất lớn cũng gặp khó khăn để hoạt động có lợi nhuận cao và thỏa mãn nhu cầu của khách hàng vì khó có thể hệ thống hóa cách điều hành ủy thác do mỗi tài khoản đều có những đặc điểm riêng và yêu cầu của mỗi khách hàng với bộ phận ủy thác là rất khác nhau. Tuy nhiên không phải vì như vậy mà chúng ta không thực hiện việc mở rộng các hoạt động ủy thác. Ngay cả khi lợi nhuận đem lại cho công ty rất ít khi nhận những ủy thác mang tính cá nhân, không hợp nhất được với các tài khoản ủy thác khác- do vậy khiến chi phí tăng thêm- thì công ty cũng nên chấp nhận và phục vụ tốt vì đây có thể coi là một hoạt động marketing cho công ty.
Mục lục
Trang
Chương I:
Công ty tài chính thuộc tập đoàn và nghiệp vụ uỷ thác
1.1. Khái quát mô hình tổng công ty theo hướng tập đoàn và công ty tài chính trong tập đoàn đó.
1
1.1.1. Mô hình tổng công ty theo hướng tập đoàn
1
1.1.2. Mô hình công ty tài chính trong tổng công ty
3
1.2. Nghiệp vụ uỷ thác
7
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ uỷ thác
7
1.2.2. Khái niệm về uỷ thác
12
1.2.3. Mối quan hệ giữa các bên tham gia trong một hợp đồng uỷ thác
13
1.2.4. Phân loại uỷ thác
16
1.3. Uỷ thác quản lý vốn
19
1.3.1. Khái niệm
19
1.3.2. Phân loại uỷ thác vốn
20
1.3.3. Cơ sở luật pháp đối với nghiệp vụ uỷ thác quản lý vốn
24
Chương II: Thực trạng của nghiệp vụ uỷ thác tại
công ty Tài chính Dầu khí
2.1. Khái quát một số nét về Tổng công ty Dầu khí và công ty Tài chính Dầu khí
30
2.1.1. Một số nét về Tổng công ty Dầu khí
30
2.1.2. Công ty Tài chính Dầu khí
32
2.2. Thực trạng hoạt động của công ty Tài chính Dầu khí qua hơn 1 năm hoạt động
37
2.2.1. Kết quả kinh doanh năm 2001
37
2.2.2. Tình hình thực hiện các chỉ tiêu
40
2.2.3. Đánh giá các hoạt động năm 2001
41
2.3. Nghiệp vụ uỷ thác tại công ty Tài chính Dầu khí
43
2.3.1. Quá trình hình thành nghiệp vụ uỷ thác ở Việt Nam
43
2.3.2. Thực trạng nghiệp vụ uỷ thác tại công ty Tài chính Dầu khí
46
2.3.3. Đánh giá những thuận lợi, khó khăn và triển vọng của nghiệp vụ uỷ thác tại công ty Tài chính Dầu khí
68
Chương III: Một số kiến nghị và giảt pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động uỷ thác tại công ty Tài chính Dầu khí
3.1. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước Việt Nam
76
3.1.1. Nhanh chóng ban hành và hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan
76
3.1.2. Cho phép công ty tài chính Dầu khí thực hiện các nghiệp vụ mới
77
3.2. Kiến nghị với Tổng công ty Dầu khí Việt Nam
3.2.1. Tổng công ty xem xét nhanh chóng thực hiện ủy thác vốn của tổng công ty cho công ty tài chính
77
78
3.2.2. Tổng công ty xem xét, tin tưởng giao cho công ty tài chính quản lý tài khoản trung tâm của tổng công ty
3.2.3. Hỗ trợ công ty một cách tối đa trong công tác đào tạo đội ngũ chuyên gia
3.2.4. Xem xét tăng vốn pháp định cho công ty
3.3. Giải pháp đối với công ty Tài chính Dầu khí
79
82
83
83
3.3.1. Đẩy mạnh hoạt động Marketing
84
3.3.2. Phát triển thêm các nguồn uỷ thác mới
3.3.3. Nhanh chóng thực hiện vai trò người uỷ thác
86
87
3.3.4. Đa dạng hoá các dịch vụ uỷ thác
Kết luận
88
Tài liệu tham khảo
Chứng nhận của cơ quan thực tập
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Sách “ Ngân hàng, thị trường tài chính và tiền tệ”, F.Minskin.
2. Sách “Nghiệp vụ ngân hàng thương mại”, Eward W. Reed và Eward K. Gill.
3. Từ điển Kinh tế học hiện đại, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1999.
4. Báo “Tài chính doanh nghiệp”
5. Tạp chí “Ngân hàng”.
6. Tạp chí “ Thị trường tài chính”.
7. Tạp chí “Thông tin tài chính”.
8. Tạp chí “Nghiên cứu kinh tế”.
9. Tạp chí “Chứng khoán Việt Nam”.
10. Sách “ Quản trị ngân hàng thương mại”, Peter Rose.
11. Báo “Thời báo Kinh tế”.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29887.doc