lời Mở đầu
Tài sản cố định là bộ phận cơ bản tạo nên cơ sở vật chất kĩ thuật của nền kinh tế quốc dân, đồng thời cũng là bộ phận quan trọng của vốn kinh doanh. Tài sản cố định là vốn sống còn đối với sự tồn tại của bất cứ doanh nghiệp nào. Nó không những sản xuất, trình độ trang bị cơ sở vật chất kĩ thuật và ứng dụng khoa học tiến bộ vào sản xuất mà còn phản ánh được bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản cố định, xét về mặt tồn tại nó là điều kiện cần có để doanh nghiệp được thành lập, x
23 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1703 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về khấu hao tài sản cố định trong Doanh nghiệp hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ét về mặt phát triển thì nó là điều kiện cần thiết để tiết kiệm sức lao động và nâng cao năng suất lao động. Do vậy, tài sản cố định giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra hàng hóa và dịch vụ. Mặt khác, vai trò của tài sản cố định không chỉ dừng lại ở việc đánh gía mức độ sử dụng tài sản cố định mà nó đòi hỏi xem xét đến cả tính hiệu quả của quản lý và mức độ sử dụng tài sản cố định. Khấu hao tài sản cố định là một trong các nội dung chính trong việc quản lý và sử dụng tài sản cố định. Việc trích và lập quỹ khấu hao tài sản cố định như thế nào đều có ảnh hưởng lớn đến quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề khấu hao tài sản cố định trong doanh nghiệp, tôi xin nghiên cứu đề án “ Một số vấn đề về khấu hao tài sản cố định trong doanh nghiệp hiện nay “ để từ đó rút ra được những kiến thức cơ bản phục vụ cho quá trình học tập của mình.
Phần i:khái quát chung về tài sản cố định
trong doanh nghiệp
I -khái niệm, đặc điểm và vai trò tài sản cố định:
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải có 3 yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Tài sản cố định là tư liệu lao động, là một trong 3 yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, tuy nhiên không phải tất cả các tư liệu lao động của doanh nghiệp đều là tài sản cố định mà một tư liệu lao động muốn trở thành tài sản cố định phải thỏa mãn 2 yếu tố về thời gian và giá trị đầu tư.
1. Khái niệm về tài sản cố định:
Xét về hình thái vật chất, tài sản cố định ở doanh nghiệp gồm có tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
Theo quyết định số 166/ 1999/QĐ - BTC ngày 30/12/1999 của bộ trưởng bộ tài chính.
Tiêu chuẩn và nhận biết tài sản cố định:
a. Tiêu chuẩn và nhận biết tài sản cố định hữu hình:
Mọi tư liệu lao động là từng tài sản hữu hình có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau để cùng thực hiện một hay một số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong đó thì cả hai hệ thống không thể hoạt động được, nếu thoả mãn đồng thời hai tiêu chuẩn dưới đây thì được coi là tài sản cố định.
- Có thời gian sử dụng từ một năm trở lên.
- Có giá trị từ 5.000.000 đ (năm triệu đồng) trở lên.
Trường hợp một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau, trong đó một bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau và nếu thiếu một bộ phận nào đó mà cả hệ thống vẫn thực hiện được chức năng hoạt động chính của nó mà do yêu cầu quản lý, sử dụng tài sản cố định đòi hỏi phải quản lý riêng từng bộ phận tài sản thì mỗi bộ phận tài sản đó được coi là một tài sản cố định hữu hình độc lập ( ví dụ ghế ngồi, khung và động cơ... trong một máy bay).
Đối với vườn cây lâu năm thì từng mảnh vườn cây được coi là một tài sản cố định hữu hình.
b.Tiêu chuẩn và nhận biết tài sản cố định vô hình:
Mọi chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra thoả mãn đồng thời cả hai điều kiện quy định tại khoản 1 điều này, mà không hình thành tài sản cố định hữu hình thì được coi là tài sản cố định vô hình. Nếu khoản chi phí này không đồng thời thoả mãn cả hai tiêu chuẩn nêu trên thì được hạch toán trực tiếp hoặc được phân bố dần vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
Có thể khẳng định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung, tài sản cố định là cơ sở vật chất có ý nghĩa và vai trò quan trọng, là cơ sở để doanh nghiệp tồn tại và phát triển trên thị trường.
Qua những phân tích trên, chúng ta có thể rút ra định nghĩa về tài sản cố định trong Doanh nghiệp như sau:
"Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu, mà đặc thù của chúng là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, giá trị của tài sản cố định không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử dụng đầu tiên mà nó được chuyển dịch sang chu kỳ sản xuất tiếp theo."
2. Đặc điểm của tài sản cố định:
Trong quá trình sản xuất, mặc dù tài sản cố định bị hao mòn, xong chúng vẫn giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu. Chỉ khi nào chúng bị hao mòn, hư hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy không có lợi về mặt kinh tế thì khi đó mới cần được thay thế, đổi mới. Cụ thể:
Về mặt hiện vật: Tài sản cố định tham gia hoàn toàn và nhiều lần trong sản xuất, nhưng giá trị sử dụng giảm dần cho đến khi hư hỏng hoàn toàn loại ra khỏi sản xuất.
Về mặt giá trị: Tài sản cố định được biểu hiện dưới hai hình thái:
- Một bộ phận giá trị tồn tại dưới hình thái ban đầu gắn với hiện vật tài sản cố định.
- Một bộ phận giá trị chuyển vào sản phẩm mà tài sản cố định sản xuất ra và bộ phận này sẽ chuyển hoá thành tiền khi bán được sản phẩm.
Bộ phận thứ nhất ngày càng giảm, bộ phận thứ hai ngày càng tăng cho đến khi bằng gía trị ban đầu của tài sản cố định thì kết thúc quá trình vận động. Như vậy khi tham gia vào quá trình sản xuất, nhìn chung tài sản cố định không bị thay đổi hình thái hiện vật nhưng tính năng công suất bị giảm dần, tức là nó bị hao mòn và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng thì giá trị của nó cũng bị giảm đi. Bộ phận giá trị hao mòn đó đã chuyển vào giá trị sản phẩm mà nó sản xuất ra và được gọi là khấu hao. Một tư liệu lao động chỉ được coi là tài sản cố định khi nó là sản phẩm của lao động. Do đó, tài sản cố định không chỉ có giá trị sử dụng mà còn có vai trò quan trọng trong doanh nghiệp. Nói cách khác, tài sản cố định phải là một hàng hoá như mọi hàng hoá thông thường khác.Thông qua mua bán trao đổi, nó có thể được chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng từ chủ thể này sang chủ thể khác trên thị trường tư liệu sản xuất.
3. vai trò của tài sản cố định.
Vai trò của TSCĐ và tốc độ tăng tài sản cố định trong sự nghiệp phát triển kinh tế quyết định yêu cầu và nhiệm vụ ngày càng cao của công tác quản lý và sử dụng tài sản cố định. Việc tổ chức tốt công tác hạch toán để thường xuyên theo dõi, nắm chắc tình hình tăng giảm TSCĐ về số lượng và giá trị, tình hình sử dụng và hao mòn TSCĐ có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác quản lý và sử dụng đầy đủ hợp lý công suất của TSCĐ, góp phần phát triển sản xuất, thu hồi vốn đầu tư nhanh để tái sản xuất, trang bị thêm và đổi mới không ngừng TSCĐ.
II. Phân loại và đánh giá tài sản cố định:
1. Phân loại tài sản cố định:
Tài sản cố định có nhiều loại, nhiều thứ có đặc điểm và yêu cầu quản lý khác nhau. Để việc tính khấu hao tài sản cố định được thực hiện một cách chính xác thì sự phân loại tài sản cố định là cần thiết. Nhờ vào việc phân loại chúng ta sẽ biết được chất lượng, cơ cấu của từng tài sản cố định hiện có trong doanh nghiệp để từ đó có thể đưa ra các phương pháp quản lý tốt: như đưa ra tỷ lệ khấu hao, giá trị năm sử dụng... để thay đổi, cập nhật công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, khuyến khích tiêu thụ sản xuất.
Căn cứ vào tính chất của tài sản cố định trong doanh nghiệp, doanh nghiệp tiến hành phân loại tài sản cố định theo các chỉ tiêu sau:
* Phân loại tài sản cố định theo hình thái biểu hiện:
- Tài sản cố định hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất ( từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định) có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, thiết bị, bao gồm:
Loại 1: Nhà cửa, vật kiến trúc: là tài sản cố định của doanh nghiệp được hình thành sản quá trình thi công xây dựng như trụ sở làm việc, nhà kho, hàng rào, tháp nước, sân bãi, các công trình trang trí nhà cửa, đường sá, cầu cống, đường sắt, cầu tầu, cầu cảng...
Loại 2: Máy móc, thiết bị: là toàn bộ các máy móc, thiết bị dùng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc chuyên dùng, thiết bị công tác, dây chuyền công nghệ, những máy móc đơn lẻ.
Loại 3: Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải gồm phương tiện vận tải đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường không, đường cống và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống thông tin, hệ thống điện, đường ống nước băng tải...
Loại 4: Thiết bị, dụng cụ quản lý: là những thiết bị dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính phục vụ quản
lý, thiết bị điện tử, thiết bị dụng cụ đo lường, kiểm tra chất lượng, máy hút ẩm, chống mối mọt...
Loại 5: Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc cho sản phẩm. Là các vườn cây lâu năm như vườn cà phê, vườn chè, vườn cao su… súc vật làm việc cho sản phẩm.
Loại 6: Các loại tài sản cố định khác: là toàn bộ các tài sản cố định khác chưa liệt kê vào năm loại trên như tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật.
- Tài sản cố định vô hình: là những tài sản cố định không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như: chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí về đất sử dụng, chi phí về băng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả.
Phương pháp phân loại tài sản cố định theo hình thái vật chất sẽ giúp cho người quản lý có một nhãn quang tổng thể về cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp. Đây là một căn cứ quan trọng để xây dựng các quyết định đầu tư hoặc điều chỉnh phương hướng đầu tư cho phù hợp với tình hình thực tế. Mặt khác, nhà quản lý có thể dùng phương pháp phân loại này để đề ra biện pháp quản lý tài sản, quản lý tài sản, quản lý vốn, tính khấu hao chính xác và hợp lý.
* Phân loại tài sản cố định theo quyền sở hữu:
Theo cách này, tài sản cố định cũng chia thành 2 loại:
Tài sản cố định tự có : là những tài sản được xây dựng, mua sắm hoặc chế tạo bằng nguồn vốn ngân sách cấp hoặc cấp trên cấp, nguồn vốn vay, nguồn vốn liên doanh, các của quý của doanh nghiệp và các tài sản cố định được biếu tặng.
Tài sản cố định thuê ngoài: Do yêu cầu sử dụng mà doanh nghiệp cần tài sản cố định tuy chưa đủ khả năng tài chính hoặc không cần thiết phải mua. Trong trường hợp này, doanh nghiệp sẽ đi thuê tài sản dưới hai hình thức:
+ Tài sản cố định thuê tài chính.
+ Tài sản cố định thuê hoạt động
Cách phân loại này cho ta biết cơ cấu tài sản cố định của doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng tài khoản cấp I và cấp II một cách hợp lý. Cho dù là tài sản cố định tự có hay thuê tài chính thì đều phải tính trích khấu hao.
* Phân loại tài sản cố định theo nguồn hình thành tài sản cố định:
Theo cách phân loại này có thể chia ra:
- Tài sản cố định được mua sắm đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước cấp,
- Tài sản cố định được mua sắm đầu tư bằngnguồn vốn tự bổ sung,
- Tài sản cố định được mua sắm đầu tư bằng nguồn vốn liên doanh,
-Tài sản cố định được mua sắm đầu tư bằng nguồn vốn vay.
Cách phân loại này có ý nghĩa quan trọng giúp chúng ta quyết định sử dụng nguồn vốn khấu hao hợp lý.
* Phân loại tài sản cố định theo công dụng và tình hình sử dụng:
Theo cách phân loại này, tài sản cố định được phân thành các loại sau:
- Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh: là tài sản cố định đang thực tế sử dụng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Những tài sản cố định này bắt buộc phải trích khấu hao tính vào chi phí sản xuất kinh doanh.
-Tài sản cố định hành chính sự nghiệp: Là tài sản cố địnhcủa các đơn vị hành chính sự nghiệp ( như đoàn thể quần chúng, tổ chức y tế...)
- Tài sản cố định phúc lợi: Là những tài sản cố định của các đơn vị dùng cho nhu cầu phúc lợi công cộng: như nhà văn hoá, nhà trẻ, câu lạc bộ...
- Tài sản cố định chờ xử lý: Bao gồm những tài sản cố định không cần dùng, chưa cần dùng vì thừa so với nhu cầu sử dụng hoặc vì không thích hợp với sự đổi mới quy trình công nghệ, bị hư hỏng, chờ thanh lý, tài sản cố định tranh chấp chờ giải quyết. Những tài sản cố định này cần xử lý nhanh chóng để thu hồi vốn sử dụng cho việc đầu tư đổi mới tài sản cố định.
Dựa vào cách phân loại này, để có thể biết được tình hình sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp để có thể đưa ra các mức khấu hao hợp lý, để thay đổi tài sản cố định cho phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của các tiến bộ khoa học kỹ thuật.
2. Đánh giá tài sản cố định:
a. Việc theo dõi, quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định phải tuân theo nguyên tắc đánh giá theo nguyên giá. Đánh giá tài sản cố định là bước khởi đầu quan trọng và cần thiết để tính và trích khấu hao chính xác, bảo đảm hoàn lại đầy đủ vốn đầu tư và phân tích được hiệu quả sử dụng vốn.
Theo thông lệ kế toán Việt Nam; nguyên giá tài sản cố định theo quy định cụ thể của từng loại tài sản cố định:
+ Nguyên giá tài sản cố định hữu hình.
+ Nguyên giá tài sản cố định loại đầu tư xây dựng.
+ Nguyên giá tài sản cố định loại được cấp,được chuyển đến.
+ Nguyên giá tài sản cố định loại được cho, được biếu, được tặng, nhận vốn góp liên doanh, nhận lại vốn góp do phát hiện thừa.
+ Nguyên giá tài sản cố định loại mua sắm
b. Xác định giá trị hao mòn của tài sản cố định:
- Hao mòn tài sản cố định: là sự giảm dần giá trị và giá trị sử dụng của tài sản cố định do tham gia vào hoạt động kinh doanh, do bào mòn của tự nhiên, do tiến bộ của khoa học kỹ thuật... trong quá trình hoạt động của tài sản cố định.
- Khấu hao tài sản cố định: là việc tính toán và phân bổ có hệ thống nguyến giá của tài sản cố định vào chi phí kinh doanh qua thời gian sử dụng của tài sản cố định.
- Số khấu hao luỹ kế của tài sản cố định: là tổng cộng số khấu hao đã trích vào chi phí kinh doanh qua các thời kỳ kinh doanh của tài sản cố định tính đến thời điểm xác định.
Giá trị hao mòn phản ánh nguồn vốn đầu tư coi đã thu hồi được ở tài sản cố định ở một thời điểm nhất định.
Giá trị hao mòn tài sản cố định là khoản chi phí được trích định kỳ ( hàng tháng, hàng quí ) vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ để hình thành một nguồn vốn nhằm tái đầu tư lại tài sản cố định do quá trình sử dụng nó bị hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình.
Khi xác định được nguyên giá và giá trị hao mòn của tài sản cố định, kế toán sẽ xác định được giá trị còn lại của tài sản cố định.
- Giá trị còn lại của tài sản cố định: là số vốn đầu tư hiện còn trong tài sản ở một thời điểm nhất định. Giá trị còn lại phản ánh trên cơ sở kế toán được xác định bằng hiệu số giữa nguyên giá tài sản cố định và số khấu hao luỹ kế tài sản cố định tính tới thời điểm xác định, nó là căn cứ để lập kế hoạch tăng cường đổi mới tài sản.
Iii. chuẩn mực kế toán quốc tế về tài sản cố định
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế 16 (IAS 16 ), Tài sản được sử dụng trong quá trình sản xuất, cung cấp hàng hoá dịch vụ, hoặc cho các mục đích hành chính và có thời gian sử dụng nhiều hơn một kì kế toán được gọi là tài sản cố định.
IV. Đặc điểm kế toán tài sản cố định ở một số nước.
Chế độ kế toán hiện hành của từng quốc gia thường quy định cụ thể tiêu chuẩn về giá trị của tài sản cố định tuỳ theo điều kiện kinh tế, yêu cầu quản lý và trình độ quản lý kinh tế trong từng thời kỳ nhất định.
Phần II: khấu hao tài sản cố định
và kế toán khấu hao tài sản cố định.
I. hao mòn và khấu hao tài sản cố định.
Vai trò của tài sản cố định là cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời, theo quan điểm kinh tế chính trị, một tài sản cố định chỉ được mua khi nó thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng tức là tài sản cố định đó có giá trị sử dụng hay có một lượng hữu dụng. Nhưng do đặc điểm của tài sản cố định là tham gia vào chu kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nên tài sản cố định sẽ cung cấp một lượng giá trị sử dụng cho hoạt động của doanh nghiệp trong suốt thời gian sử dụng dự kiến của nó. Từ đó có thể nói rằng: khi mua tài sản cố định để sử dụng thì ta cùng đồng nghĩa với việc kinh doanh đã mua một lượng giá trị sử dụng của tài sản cố định đó để cung cấp cho doanh nghiệp trong một thời gian dài ở tương lai. Hoặc nói cách khác doanh nghiệp đã ứng trước một số chi phí thời điểm mua tài sản cố định để hy vọng nhận được một khối lượng dịch vụ trong tương lai khi sử dụng tài sản cố định này. Với kết luận này, giá trị của tài sản cố định được mua là một khoản chi phí ứng trước thì cần phải tính toán phân bổ chi phí tài sản cố định để thu hồi được chi phí đầu tư ban đầu. Quá trình phân bổ chi phí này được gọi là khấu hao tài sản cố định.
Khấu hao tài sản cố định còn là hình thức thu hồi vốn cố định ở tài sản cố định tương ứng với giá trị đã bị hao mòn trong kinh doanh nhằm tạo nguồn vốn tái đầu tư tài sản cố định. Phần giá trị hao mòn của tài sản cố định được chuyển dịch vào gía trị sản phẩm mới sản xuất ra, tính vào chi phí kinh doanh , theo tỷ lệ khấu hao nhất định đối với từng loại tài sản khác nhau và được thu hồi dưới hình thức tiền khấu hao. Tiền khấu hao là một bộ phận cấu thành chi phí sản xuất, nó được trích ra từ khấu hao khoản thu nhập bán hàng của xí nghiệp. Số tiền khấu hao này được tích lại hình thành quỹ khấu hao, nhằm mục đích tái sản xuất tài sản cố định.
Như ta đã biết có hai hình thức tái sản xuất tài sản cố định : là tái sản xuất toàn phần tài sản cố định và tái sản xuất từng phần.Phần quỹ khấu hao là nguồn vốn quan trọng để xí nghiệp có thể tự đầu tư xây dựng cơ bản, trang bị lại kỹ thuật cho sản xuất, trả chi phí thay thế tài sản cố định đã bị hao mòn, nó giúp cho xí nghiệp thực hiện được trách nhiệm bảo toàn vốn.
* Bảo toàn vốn
Hiểu đơn giản là vốn không bị tụt hậu trong quá trình sản xuất. Việc bảo toàn vốn thông qua cơ chế khấu hao, vì vậy việc tính khấu hao của doanh nghiệp không những phải tính đủ giá trị hao mòn tài sản cố định mà còn phải tính toán đủ để bồi hoàn hao mòn về hiện vật, có nghĩa là đủ để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định. Hơn thế, ở giác độ phát triển vốn cho xí nghiệp, tiền trích khấu hao phải đáp ứng yêu cầu tái sản xuất mở rộng giúp xí nghiệp có khả năng dùng vốn khấu hao để mua công nghệ tiên tiến nâng cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy trích khấu hao không chỉ tính đến hao mòn hữu hình mà còn tính đến cả hao mòn vô hình nữa.
II. Các phương pháp tính khấu hao tscđ:
Việc tính khấu hao có thể được tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau, việc lựa chọn phương pháp khấu hao nào là tuỳ thuộc vào quy định của nhà nước về chế độ quản lý tài chính đối với doanh nghiệp và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Phương pháp khấu hao được lựa chọn phải đảm bảo thu hồi vốn nhanh, đầy đủ và phù hợp với khả năng trang trải chi phí của doanh nghiệp .
Có nhiều phương pháp tính khấu hao tài sản cố định được áp dụng rộng rãi, phổ biến trên toàn thế giới, đặc biệt là nước có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ yếu chỉ áp dụng một phương pháp khấu hao là phương pháp khấu hao bình quân ( còn gọi là khấu hao đều hay khấu hao đường thẳng). Phương pháp này bắt buộc với các doanh nghiệp nhà nước theo quyết định 166/1999/ QĐ - BTC ngày 30/12/1999 của Bộ trưởng tài chính.
Sau đây là nội dung phương pháp khấu hao bình quân và các phương pháp phổ biến khác.
1. Phương pháp khấu hao đường thẳng.
* Tài sản cố định trong doanh nghiệp được trích khấu hao theo phương pháp khấu hao đường thẳng, nội dung như sau:
Căn cứ các quy định trong chế độ này, doanh nghiệp xác định thời gian sử dụng của tài sản cố định .
Xác định mức tính khấu hao trung bình hàng năm cho tài sản cố định theo công thức sau đây:
Mức tính khấu hao Nguyên giá của tài sản cố định
Trung bình hàng năm =
Của tài sản cố định Thời gian sử dụng
Nếu doanh nghiệp trích khấu hao cho từng tháng thì lấy số khấu hao phải trích cả năm chia cho 12 tháng.
* Trường hợp thời gian sử dụng hay nguyên giá tài sản cố định thay đổi, doanh nghiệp phải xác định lại mức trích khấu hao trung bình của tài sản cố định bằng cách lấy giá trị còn lại trên sổ kế toán chia ( : ) cho thời gian sử dụng xác định lại hoặc thời gian sử dụng còn lại ( được xác định là chênh lệch giữa thời gian sử dụng đã đăng ký trừ (-) thời gian đã sử dụng ) của tài sản cố định .
* Mức trích khấu hao cho năm cuối cùng của thời gian sử dụng tài sản cố định là hiệu số giữa nguyên gía tài sản cố định và số khấu hao luỹ kế đã thực hiện của tài sản cố định đó.
Phương pháp này cố định mức khấu hao theo thời gian nên có tác dụng thúc đây doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, tăng số lượng sản phẩm làm ra để hạ giá thành, tăng lợi nhuận. Đồng thời số tiền khấu hao được phân bố đều đặn vào giá thành sản phẩm hàng năm trong suốt quá trình sử dụng tài sản cố định nên nó đảm bảo cho doanh nghiệp có mức giá thành và lợi nhuận ổn định. Song nhược điểm của phương pháp này là thu hồi vốn chậm không theo kịp mức hao mòn thực tế, nhất là hao mòn vô hình ( do tiến bộ khoa học kỹ thuật ) nên doanh nghiệp không có điều kiện để đầu tư, trang bị tài sản cố định mới.
2. Phương pháp tính khấu hao theo sản lượng.
Mục đích của việc kế toán chi phí khấu hao là tính nốt phần chi phí hợp lý của tài sản cố định cho mộtkỳ kế toán sử dụng tài sản cố định đó. Phương pháp trung bình tính một phần như nhau cho các kỳ kế toán. Nếu tài sản cố định được sử dụng hầu như một lượng như nhau trong mỗi kỳ kế toán thì phương pháp này phân bổ rất công bằng tổng chi phí khấu hao. Nhưng trong một số ngành kinh doanh , việc sử dụng tài sản cố định thay đổi rất nhiều từ kỳ kế toán này sang kỳ kế toán khác. Thí dụ, một công ty xây dựngcó thể sử dụng một máy móc thiết bị xây dựng chuyên dùng trong tháng này rồi sau đó không sử dụng nó trong rất nhiều tháng. Đối với các loại tài sản cố định như vậy, vì việc sử dụng dao động từ kỳ này sang kỳ khác nên phương pháp khấu hao theo sản lượng cung cấp một cách tính hợp lý hơn. Khi phương pháp sản lượng được sử dụng để tính khâú hao tài sản cố định , chi phí của tài sản cố định sau khi trừ đi giá trị tận dụng ước tính được đem chia cho sản lượng ước tính sẽ được sản xuất ra trong suốt thời gian hữu dụng.
Mức khấu hao Sản lượng ´ Mức khấu hao bình quân
Phải trích trong tháng = trong tháng trên một đơn vị sản lượng
Trong đó:
Mức khấu hao Tổng khấu hao phải trích trong thời gian sử dụng
Bình quân trên =
Một đơn vị sản Sản lượng tính theo công suất thực tế
Phẩm
Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, xu hướng các doanh nghiệp là thu hồi vốn nhanh vừa tránh được hao mòn vô hình là sự lạc hậu của kỹ thuật, vừa có nguồn vốn để đầu tư công nghệ mới. Cho nên các doanh nghiệp thường áp dụng phương pháp khấu hao nhanh.
3. Phương pháp khấu hao nhanh:
* Phương pháp khấu hao theo giá trị còn lại:
Phương pháp này còn gọi là phương pháp khấu hao kép trên giá trị còn lại.
Công thức tính như sau:
Mức khấu hao 2 ´ giá trị còn lại
Trích hàng năm Số năm khấu hao
Về ưu điểm là phương pháp này hơn hẳn 2 phương pháp trên, phương pháp này giúp cho doanh nghiệp có thể thu hồi vốn nhanh và do đó có khả năng phòng ngừa được hiện tượng mất giá do hao mòn vô hình. Nhưng nó có nhược điểm là tỷ lệ khấu hao theo phương pháp khấu hao bình quân và số trích khấu hao luỹ kế hàng năm cuối cùng sẽ không đủ bù đắp giá trị ban đầu của tài sản cố định .
* Phương pháp khấu hao theo tổng số các năm:
Theo phương pháp tổng số các năm, các số năm của thời gian hữu dụng của tài sản cố định được cộng lại với nhau. Tổng của chúng trở thành mẫu số của dãy các tỷ số, được dùng để phân bổ tổng mức khấu hao cho các năm trong thời gian hữu dụng của tài sản cố định
Mức khấu hao M (n + 1 – i ) 2M (n+ 1 –i )
Trích ở năm thứ i m [(n+ i): 2] n (n+ 1)
Trong đó:
M: tổng số khấu hao phải trích trong suốt thời gian sử dụng
M = ( Ngân quỹ – giá trị thu hồi )
n: số năm sử dụng của tài sản cố định
i: Năm sử dụng thứ i ( i = 1, n )
Phương pháp khấu hao này có những ưu nhược điểm của phương pháp khấu hao nhanh song nó hơn phương pháp khấu hao theo giá trị còn lại là số khấu hao được trích luỹ kế đến năm cuối cùng sẽ đảm bảo bù đắp đủ giá trị ban đầu của tài sản cố định .
* ảnh hưởng của khấu hao nhanh với thuế lợi tức: khấu hao nhanh làm cho chi phí khấu hao của một tài sản trong những nămđầu sử dụng tài sản với chi phí khấu hao của một tài sản trong những năm đầu sử dụng tài sản với chi phí khấu hao cao hơn và do vậy lợi tức chịu thuế cũng giảm, kết quả là số tiền thuế lợi tức trong những năm đầu sử dụng tài sản là ít hơn so với các phương pháp khấu hao thông thường và vì thế nếu luật thuế lợi tức cho phép các công ty sử dụng phương pháp khấu hao nhanh sẽ có lợi. Mặc dù vào những năm cuối sử dụng tài sản cho chi phí khấu hao thấp hơn ( nhưng tổng chi phí khâú hao trong toàn bộ tồn tại của tài sản là bằng nhau giữa các phương pháp), lợi tức lại tăng tương ứng, nhưng công ty phải nộp thuế lợi tức tăng trong những năm sau của tài sản, điều đó theo khái niệm thời gian của tiền tệ thì công ty sẽ có lợi hơn.
4. Đối với tài sản cố định đã khấu hao hết:
Theo thông lệ quốc tế một tài sản đã khấu hao hết là một tài sản mà chúng ta đã đạt được đến thời gian hữu ích dự tính từ đó trở về sau sẽ không có một khoản khấu hao nào được ghi chép cho tài sản đó nữa. Bởi lẽ tổng số chi phí khấu hao chỉ cao nhất là bằng tổng trị giá phải khấu hao, tức là bằng giá thành của tài sản trừ đi giá trị phế thải ước tính. Một tài sản đã khấu hao hết có nghĩa tổng số khấu hao luỹ kế đã bằng với giá trị phải khấu hao. Do vậy, không cần phải có bút toán khấu hao nữa. Tuy vậy, vì tài sản vẫn tồn tại và sử dụng, nên nó được lên bảng cân đối tài sản như bình thường. Lúc đó khấu hao luỹ kế có thể bằng nguyên gía tài sản cố định nếu không tính đến giá trị phế thải.
III. Chuẩn mực kế toán quốc tế về khấu hao tscđ.
Để đảm bảo lợi ích hợp pháp, đáp ứng yêu cầu chính đáng của doanh nghiệp , Bộ trưởng bộ tài chính đã ký quyết định số 166/1999/QĐ - BTC ngày 30/12/1999 ban hành chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định áp dụng cho mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Chế độ này được xây dựng theo hướng tăng cường công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định , khuyến khích các doanh nghiệp tính đúng, trích đủ số hao mòn tài sản cố định vào chi phí kinh doanh để có điều kiện thay thế, đổi mới máy móc thiết bị theo hướng áp dụng công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại phù hợp với yêu cầu kinh doanh của doanh nghiệp và đòi hỏi của nền kinh tế.
IV. đặc điểm khấu hao tài sản cố định ở một số nước.
Trong quá trình sử dụng TSCĐ bị hao mòn dần về giá trị và hiện vật, phần giá trị hao mòn được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm làm ra dưới hình thức trích khấu hao.
ở một số nước, ví dụ như Pháp TSCĐ (gọi là bất động sản) là những tài sản có giá trị và có thời gian hữu ích lâu dài. Những tài sản này được xây dựng, mua sắm để làm công cụ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh chứ không phải là đối tượng khai thác ngắn hạn.
Bất động sản được phân loại theo 2 hình thái biểu hiện:
+BĐS hữu hình
+ BĐS vô hình.
Phương pháp tính khấu hao BĐS có 2 loại:
+ Phương pháp khấu hao cố định(phương pháp khấu hao đều): là phương pháp căn cứ vào số năm sử dụng BĐS để tiến hành chia đều giá trị BĐS cho số năm sử dụng.
+ Phương pháp khấu hao giảm dần (phương pháp khấu hao lùi).
V. Kế toán khấu hao tài sản cố định theo chế độ
hiện hành:
1. Tài khoản sử dụng:
Tài khoản 214. Hao mòn tài sản cố định
Tài khoản 009 . Nguồn vốn khấu hao cơ bản
2. Trình tự hạch toán:
- Định kỳ tính trích khấu hao tài sản cố định vào chi phí sản xuất kinh doanh, đồng thời phải tính hao mòn tài sản cố định , kế toán ghi:
Nợ TK 627 ( 6274): chi phí khấu hao tài sản cố định
Nợ TK 641 (6414): chi phí khấu hao tài sản cố định
Nợ TK 642 ( 6424): chi phí khấu hao tài sản cố định
Nợ TK 811 chi phí hoạt động tài chính
Có TK 214 Hao mòn tài sản cố định
Đồng thời ghi bên nợ tài khoản 009.
+ Trường hợp phải nộp vốn khấu hao cho đơn vị cấp trên hoặc điều chuyển cho đơn vị khác:
+ Trường hợp được hoàn trả lại, khi nộp vốn khấu hao ghi:
Nợ TK 136 (1368): Phải thu nội bộkhác
Có TK 111,112: TM, TGNH
Đồng thời ghi có tài khoản 009
Khi nhận lại số vốn khấu hao hoàn trả, ghi bút toán ngược lại.
+ Trường hợp không được hoàn trả.
Nợ TK 411: NVKD
Có TK 111, 112, 338 (3388)
Đồng thời ghi có tài khoản 009
+ Trường hợp cho các đơn vị khác vay vốn khấu hao ghi:
Nợ TK 128: Đầu tư ngắn hạn khác
Nợ TK 228: Đầu tư dài hạn khác
Có TK 111,112: TM, TGNH
- Tài sản cố định đã sử dụng nhận được do điều chuyển trong nội bộ:
Nợ TK 211: Tài sản cố định hữu hình
Có TK 411: Nguồn vốn kinh doanh
Có TK 214: Hao mòn tài sản cố định
- Tài sản cố định đánh giálại theo quyết định của nhà nước:
+Trường hợp đánh giá tăng nguyên giá tài sản cố định ghi:
Nợ TK 211: Tài sản cố định hữu hình
Có TK 412: Chênh lệch đánh giá lại tài sản
Có TK 214: Hao mòn tài sản cố định
+ Trường hợp điều chỉnh tăng giá trị hao mòn:
Nợ TK 412: Chất lượng đánh giá lại tài sản
Có TK 214: Hao mòn tài sản cố định
+ Trường hợp điều chỉnh giảm giá trị hao mòn:
Nợ TK 214: Hao mòn tài sản cố định
Có TK 412: Chất lượng đánh giá lại tài sản.
+ Trường hợp đánh giá giảm nguyên giá tài sản cố định
Nợ TK 412: Chất lượng đánh giá lạitài sản
Nợ TK 214: Hao mòn tài sản cố định
Có TK 211: Tài sản cố định hữu hình
- Trường hợp chưa khấu hao hết mà tài sản cố định phải nhượng bán, thanh lý phần giá trị còn lại chưa thu hồi phải được tính vào chi phí bất thường
Nợ TK 214: Hao mòn tài sản cố định
Nợ TK 821: Chi phí bất thường
Có TK 211,213: Tài sản cố định hữu hình, vô hình.
- Trường hợp trả lạivốn góp liên doanh.
Nợ TK 411: Nguồn vốn kinh doanh Nợ TK 214: Hao mòn tài sản cố định
Có TK 211: Tài sản cố định hữu hình
- Khi sử dụng nguồn vốn khấu hao tài sản cố định để đầu tư xây dựng cơ bản và mua sắm tài sản cố định ghi:
Nợ TK 211, 213: Tài sản cố định hữu hình, vô hình
Có TK 111, 112, 331, 241
Đồng thời ghi có tài khoản 009- Nguồn vốn khấu hao cơ bản
Phần III:
nhận xét và kiến nghị về khấu hao và
kế toán khấu hao tài sản cố định trong
doanh nghiệp.
Ngày 30/12/1999, Bộ trưởng Bộ Tài Chính có quyết định số 166/1999/QĐ - BTC ban hành chế độ quản lý sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định . Quyết định mới này ra đời có nhiều thay đổi so với quyết định số 1062 TC/QĐ/CSTS ban hành vào ngày 14/11/1996. Những thay đổi này đã giúp cho doanh nghiệp thuận lợihơn trong việc quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Nhà nước đã giao cho giám đốc doanh nghiệp quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm trong việc quản lý sử dụng tài sản cố định như: chủ động trong v._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35264.doc