Một số vấn đề về kế toán cho vay hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương

LỜI NÓI ĐẦU Qua hơn 50 năm xây dựng trưởng thành và phát triển, ngành Ngân hàng luôn luôn là một ngành quản lý tổng hợp, với chức năng hoạt động là trung tâm tiền tệ, tín dụng và thanh toán, ngành Ngân hàng đã thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước, thực sự trở thành công cụ thúc đẩy nền kinh tế liên tục phát triển, góp phần đẩy lùi lạm phát, thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo và thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thông qua hoạt động của kế toán

doc58 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1339 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về kế toán cho vay hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngân hàng mang tính chất tổng hợp, vì số liệu của kế toán ngân hàng không chỉ phản ánh tổng hợp các mặt hoạt động của ngân hàng mà còn phản ánh đại bộ phận hoạt động của nền kinh tế. Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của công tác kế toán cho vay. Trong những năm qua ngành Ngân hàng đã tập trung cải tiến, đưa công nghệ mới hiện đại như vi tính nối mạng vào công tác kế toán nên đã đem lại kết quả tốt, góp phần vào sự phát triển và hội nhập của ngành Ngân hàng cũng như nền kinh tế đất nước. Hiện nay các Ngân hàng từng bước đổi mới nghiệp vụ tín dụng để hoàn thiện hơn nữa mặt nghiệp vụ này nhằm đem lại hiệu quả cao cho Ngân hàng.Tuy nhiên để thực hiện tốt nghiệp vụ tín dụng thì phải tổ chức tốt nghiệp vụ kế toán cho vay, bởi lẽ kế toán cho vay làm nhiệm vụ ghi chép, phản ánh toàn bộ kế toán cho vay, thu nợ, theo dõi dư nợ thuộc nghiệp vụ tín dụng.Xuất phát từ tầm quan trọng của kế toán cho vay nên trong những năm đổi mới, Nhà nước nói chung cũng như ngành Ngân hàng nói riêng đã tập trung giải quyết, hoàn thiện chế độ kế toán cho vay đối với nền kinh tế nên kế toán cho vay đã thu được những kết quả bước đầu. Tuy nhiên kế toán cho vay nói chung và kế toán cho vay hộ sản xuất nói riêng hiện nay còn một số tồn tại cần phải giải quyết.Qua nghiên cứu thấy rõ được tầm quan trọng của công tác kế toán cho vay, để phản ánh kết quả trong thời gian học tập vừa qua tôi đã lựa chọn đề tài :"Một số vấn đề về kế toán cho vay hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương"để viết bản chuyên đề tốt nghiệp. Chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận còn gồm các phần cơ bản như sau: Chương I: Những lý luận cơ bản về tín dụng Ngân hàng và kế toán cho vay trong hoạt động Ngân hàng. Chương II: Tình hình kế toán cho vay tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Ninh Giang-Hải Dương. Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho vay đối với hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp huyện Ninh Giang- Hải Dương Do điều kiện thời gian thực tập ngắn, kinh nghiệm nghiên cứu của bản thân còn hạn chế, đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý của Thầy, Cô và các cô chú trong ban lãnh đạo Ngân hàng để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn ! CHƯƠNG I NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ KẾ TOÁN CHO VAY TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG I. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN 1. Sự ra đời của tín dụng Ngân hàng Trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, xuất phát từ nhu cầu đi vay và cho vay giữa người thiếu vốn và người thừa vốn trong cùng một thời điểm đã hình thành nên quan hệ vay mượn lẫn nhau trong xã hội và trên cơ sở đó hoạt động tín dụng ra đời. Khái niệm: Tín dụng Ngân hàng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang cho người sử dụng, sau một thời hạn nhất định được quay lại người sở hữu với một giá trị lớn hơn ban đầu gồm cả gốc và lãi. Tín dụng có nghĩa là sự tín nhiệm, tin tưởng, là phạm trù kinh tế có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có hoạt động tín dụng. Tín dụng là quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng và khách hàng có hoàn trả. Tín dụng Ngân hàng là tín dụng bằng tiền được thể hiện một bên là Ngân hàng với một bên là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ gia đình, các thành phần kinh tế. Trong đó, Ngân hàng đóng vai trò trung gian, vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng là đi vay để cho vay. Trong nền kinh tế thị trường vốn bằng tiền của các đơn vị, các tổ chức kinh tế không giống nhau về cả số lượng và thời gian. Trong cùng một thời gian, đơn vị này thiếu vốn sản xuất kinh doanh nhưng đơn vị khác lại thừa vốn không sử dụng hết. Trong khi đó các đơn vị hoạt động lại không phụ thuộc vào nhau. Do vậy sự thiếu vốn của đơn vị này và sự thừa vốn của đơn vị kia cùng một thời gian đều có ảnh hưởng không tốt đến hoạt động sản xuất kinh doanh.Nếu không có sự điều hoà vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu thì nền kinh tế không thể phát triển được. Do vậy cần thiết phải có một tổ chức đứng ra làm nhiệm vụ điều hoà vốn trong nền kinh tế. Đó là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Ngân hàng nói chung và tín dụng Ngân hàng nói riêng. Nền kinh tế xã hội phát triển được từ giai đoạn này sang giai đoạn khác và cho đến ngày nay cũng có phần đóng góp vai trò đáng kể của ngành Ngân hàng nói chung và tín dụng Ngân hàng nói riêng Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng chủ yếu là đi vay để cho vay, huy động mọi khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư với lãi suất quy định của Nhà nước để cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các cá nhân trong xã hội có nhu cầu vay vốn với lãi suất cao hơn lãi suất huy động. Đây là nghiệp vụ cơ bản và quan trọng của Ngân hàng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của hệ thống Ngân hàng. Trong cơ chế thị trường, vốn cho vay là tài sản chiếm tỷ trọng cao nhất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Vì vậy tín dụng Ngân hàng có một vị trí hết sức quan trọng đối với bản thân Ngân hàng. Cùng với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá, vai trò của tín dụng Ngân hàng cũng phát triển và hoàn thiện. Tín dụng Ngân hàng có một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế xã hội. 2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân. Đứng trên góc độ kinh tế học, tín dụng Ngân hàng được hiểu như là quan hệ kinh tế về sử dụng vốn tạm thời giữa Ngân hàng với các tổ chức, cá nhân theo nguyên tắc hoàn trả, dựa trên cơ sở tín nhiệm, làm thoả mãn nhu cầu về vốn của các doanh nghệp và cá nhân trong kinh doanh.Nghĩa là, trong nền kinh tế có nhiều người có nguồn vốn nhàn rỗi, muốn đầu tư cho người khác vay với mục đích vừa có lợi nhuận, vừa đảm bảo an toàn đồng vốn.Bên cạnh đó lại có những người đầu tư trực tiếp vào khâu sản xuất kinh doanh cần có vốn để sản xuất kinh doanh để thu lợi nhuận.Họ rất muốn vay vốn từ những người tiết kiệm với mức chi phí thấp nhất.Từ những yêu cầu đó mà các tổ chức tín dụng đã xuất hiện làm trung gian để tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi, rồi trên cơ sở vốn đó sẽ phân phối lại cho người cần vốn, quan hệ này làm nảy sinh tín dụng ngân hàng.Như vậy, sự xuất hiện của tín dụng ngân hàng là hết sức cần thiết và có vai trò to lớn trong việc phục vụ phát triển kinh tế, nó thể hiện như sau : 2.1 - Tín dụng Ngân hàng góp phần thu hút số tiền nhàn rỗi trong xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng là một hoạt động kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng Thương mại. Để thực hiện quá trình kinh doanh, Ngân hàng phải có nguồn vốn và trên cơ sở nguồn vốn đó để đáp ứng nhu cầu vay vốn ngày càng tăng của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Nói cách khác Ngân hàng phải thực sự trở thành người đi vay để cho vay. Điều này là một thực tế khách quan. Mặt khác, trong nền kinh tế thường xuyên xuất hiện những nguồn vốn bằng tiền tạm thời chưa sử dụng thuộc các thành phần kinh tế. Đồng thời, ở các thành phần kinh tế khác lại xuất hiện, hiện tượng thiếu vốn tạm thời cần được giải quyết. Sự tham gia của tín dụng Ngân hàng được coi như một công cụ để giải quyết mâu thuẫn trên đây về cung - cầu vốn tiền tệ như vậy, vốn tiền tệ trong nền kinh tế có điều kiện mang đầy đủ nội dung kinh tế của phạm trù tư bản hoá giá trị thặng dư. Lợi tức đi vay và cho vay của Ngân hàng luôn luôn là công cụ điều chỉnh quan hệ cung - cầu vốn tín dụng. Gắn liền với nền kinh tế thị trường là kinh doanh và lợi nhuận. Hoạt động kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng là đi vay để cho vay và như vậy nếu xảy ra điều rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp, các thành phần kinh tế sẽ dẫn đến rủi ro của Ngân hàng, ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán. Chính vì lẽ đó mà trong nền kinh tế thị trường, mỗi Ngân hàng trong môi trường cạnh tranh phải dựa vào nghệ thuật quản trị kinh doanh vào việc đổi mới công nghệ và nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng, thông qua hoạt động Marketting Ngân hàng và việc nhanh chóng sử dụng thành tựu khoa học kỹ thuật... nhằm thu hút tối đa nguồn vốn tiềm tàng trong nền kinh tế để thực hiện kinh doanh đáp ứng yêu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế, tạo lợi nhuận cho Ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh các chính sách tài chính tiền tệ, sự hoạt động của thị trường tài chính, thị trường vốn, thị trường tiền tệ... tín dụng ngân hàng góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn. Điều đó vừa làm tăng trưởng khả năng tích luỹ tư bản (trong đó phần lợi nhuận) của các ngân hàng, vừa thúc đẩy quá trình tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng kinh tế làm cho hệ thống Ngân hàng ngày càng lớn mạnh. 2.2 - Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng quan hệ lưu thông hàng hoá quốc tế: Ngày nay, trong mối quan hệ kinh tế, sự hợp tác bình đẳng đôi bên cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và khu vực đang được phát triển rất đa dạng cả về nội dung và hình thức, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đó là nhân tố hết sức quan trọng tạo điều kiện cho sự phát triển của mỗi nước, nhất là các nước đang phát triển như Việt Nam. Đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế thông dụng. Thông qua quá trình nhận và cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của các nước. Cấp tín dụng cũng như các tổ chức tín dụng, cùng với sự tham gia trực tiếp vào quan hệ thanh toán quốc tế, tín dụng ngân hàng đã làm tăng mối quan hệ tốt đẹp giữa các nước, đồng thời thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy tín dụng sẽ là trợ thủ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất khẩu hàng hoá. Gần đây với chủ trương nền kinh tế nhiều thành phần, với việc thực hiện hệ thống ngân hàng hai cấp, với môi trường pháp luật ngày càng hoàn thiện và đi vào đời sống kinh tế - xã hội và nhất là từ khi có luật Ngân hàng ra đời, vai trò của tín dụng ngân hàng đang phát triển mạnh mẽ hơn nhằm góp phần tích cực vào mối quan hệ kinh tế giữa nước ta và các nước trên thế giới. 2.3 - Tín dụng Ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi động thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: Trong nền kinh tế hàng hoá, tiền tệ là công cụ kinh tế - xã hội. Trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, mọi chu kỳ đều bắt đầu bằng tiền tệ và kết thúc bằng khối lượng tiền tệ lớn hơn, tạo điều kiện để tái mở rộng hoạt động. Trong chu trình này, tăng nhanh vòng quay vốn tiền tệ là một trong các yếu tố quyết định thành công trong sản xuất kinh doanh. Để rút ngắn thời gian nhằm tăng nhanh vòng quay vốn, mỗi chủ thể kinh doanh phải chủ động tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp như: Ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, hoàn thiện nghệ thuật quản trị kinh doanh, tìm kiếm thị trường mới... những việc làm này đòi hỏi một khối lượng lớn về vốn, tín dụng Ngân hàng sẽ là người đáp ứng nhu cầu đó. Những quan hệ tín dụng nảy sinh việc vay vốn phải được hoàn trả đầy đủ với một khoản lãi kèm theo (theo lãi suất quy định), trong thời hạn thoả thuận đã được cam kết trong hợp đồng tín dụng. Trường hợp nguyên tắc tín dụng trên đây bị vi phạm tổ chức kinh tế phải chịu phạt lãi suất quá hạn cao hơn lãi suất thông thường hoặc bị tước quyền vay vốn hoặc thanh lý tài sản đã thế chấp để trả nợ Ngân hàng. Khi vay vốn các chủ thể kinh doanh phải tìm mọi biện pháp để tăng nhanh vòng quay vốn, kinh doanh có lãi, thu hồi vốn để trả nợ và lãi vay Ngân hàng đúng hạn. 2.4 - Tín dụng Ngân hàng với việc điều chỉnh chiến lược kinh tế, góp phần chống lạm phát tiền tệ: Nền kinh tế hàng hoá luôn luôn chuyển động theo hai chiều hướng: Phát triển theo nhịp độ tăng trưởng hoặc giảm sút theo quy luật lạm phát. Cả hai trường hợp đó đều có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng. Tín dụng ngân hàng tạo nguồn vốn từ huy động các đồng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua lãi suất linh hoạt và phù hợp với chỉ số giá cả đánh giá hàng hoá để thu hút được nguồn vốn đủ lớn cho việc đầu tư vào các công trình trọng điểm mà chiến lược kinh tế đã đề ra. Nếu không dùng công cụ tín dụng ngân hàng để huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội dưới các hình thức thì có lúc Nhà nước phải huy động trái phiếu, kỳ phiếu, thậm trí phải phát hành giấy bạc. Hình thức huy động vốn bằng nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng có ý nghĩa kinh tế to lớn nó không làm tăng thêm khối lượng tiền lưu thông nên không ảnh hưởng đến lưu thông tiền tệ và giá cả. Ngược lại, nếu Nhà nước phát hành tiền giấy cho ngân sách dù có đưa vào đầu tư phát triển các chương trình kinh tế mang tính chiến lược cũng dẫn đến tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông, gây lên lạm phát ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả và đời sống xã hội. Trong thời gian qua trọng tâm của công tác tín dụng là tích cực huy động vốn để cho vay. Theo định hướng của Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là: "Ngân hàng phải đi vay để cho vay". Tập trung vốn vào các công trình trọng điểm, các ngành sản xuất như: Nông nghiệp, sản xuất hàng hoá xuất khẩu... Ngân hàng cũng như Kho bạc Nhà nước tích cực đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, chính vì vậy đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Như vậy tín dụng Ngân hàng không chỉ là đòn bẩy kinh tế mà còn là công cụ để Nhà nước điều tiết sản xuất, điều chỉnh chiến lược kinh tế, phân công lao động xã hội, tiết kiệm phát hành tiền vào lưu thông, sử dụng có hiệu quả vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, góp phần kiềm chế lạm pháp, ổn định sức mua của đồng tiền. Rõ ràng thông qua vai trò tín dụng với hoạt động của các Ngân hàng Thương mại và các tổ chức tín dụng theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, tín dụng ngân hàng đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát. Thông qua tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị, các tổ chức kinh tế, các cá nhân có vốn sản xuất kinh doanh thu được hiệu quả, góp phần phát triển nền kinh tế xã hội. Đối với Ngân hàng tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản quan trọng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nhằm bổ sung vốn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội để sản xuất kinh doanh. Đây là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của Ngân hàng thương mại. II. VAI TRÒ, NHIỆM VỤ CỦA KẾ TOÁN CHO VAY. Hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nhằm bổ sung vốn cho các đơn vị, tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và cá nhân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đây là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của Ngân hàng thương mại, nó quyết định sự sống còn của Ngân hàng thương mại nó quyết định việc mở rộng hay thu hẹp chức năng trung gian tín dụng.Từ đó quyết định đến phạm vi, quy mô hoạt động của một ngân hàng thương mại và cũng là nghiệp vụ chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có của ngân hàng. Đối với nền kinh tế nó thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, tăng tốc độ lưu thông tiền tệ. 1.Vai trò của kế toán cho vay - Kế toán cho vay giữ một vị trí quan trọng trong toàn bộ nghiệp vụ kế toán của Ngân hàng, vì thế kế toán cho vay tham gia trực tiếp vào quá trình cho vay vốn, nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. - Thông qua số liệu của kế toán cho vay, Lãnh đạo ngân hàng biết được tình hình sử dụng vốn, sự biến động vốn hàng ngày. Từ đó, làm tham mưu cho lãnh đạo điều hành hoạt động tín dung của Ngân hàng một cách nhịp nhàng, đồng bộ, kịp thời để có chính sách phù hợp cho việc quản trị kinh doanh của Ngân hàng như mục tiêu đề ra: an toàn, lợi nhuận, và lành mạnh trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. - Kế toán cho vay được xác định là một bộ phận kế toán rất quan trọng bởi kế toán cho vay phục vụ và hỗ trợ đắc lực cho nghiệp vụ tín dụng nó quyết định sự tồn tại của các Ngân hàng thương mại. - Đứng ở góc độ kế toán khi thu nợ, thu lãi kế toán cho vay đã giúp cho Ngân hàng thu nợ gốc, lãi đầy đủ, chính xác, kịp thời. - Thông qua kế toán cho vay, Ngân hàng cũng như bạn hàng của doanh nghiệp đánh giá được khả năng hấp thụ của doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả không? Để từ đó đánh giá xu thế vận động của doanh nghiệp trên thị trường, giúp cho ngân hàng và bạn hàng của các doanh nghiệp có chiến lược đầu tư phù hợp, có hiệu quả. - Kế toán cho vay là công cụ để đảm bảo an toàn tài khoản vốn vay của Ngân hàng, đồng thời hạn chế rủi ro, góp phần ổn định nguồn thu nhập của Ngân hàng. Thông qua việc ghi chép quá trình cho vay, thu nợ, theo dõi kỳ hạn nợ hàng ngày, lưu hồ sơ vay vốn... thể hiện kế toán cho vay bảo vệ an toàn một khối lượng tài sản lớn của bản thân Ngân hàng và khách hàng. 2. Nhiệm vụ của kế toán cho vay - Xác lập chứng từ kế toán cho vay một cách hợp lệ, hợp pháp nhằm tạo cơ sở hành lang pháp lý giữa Ngân hàng và khách hàng. - Mở đầy đủ các loại sổ sách (nội ngoại bảng) để hạch toán ghi chép, phản ánh một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác toàn bộ các khoản cho vay, thu nợ, theo dõi kỳ hạn nợ để thu nợ và hỗ trợ thu nợ kịp thời các món vay đến hạn, tính thu lãi đúng lãi suất, đúng thời gian quy định, theo dõi dư nợ thuộc nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng thương mại. Trên cơ sở đó giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng tiền vay và tổ chức quản lý lưu trữ hồ sơ theo qui định đảm bảo an toàn tài sản của Ngân hàng. - Kế toán cho vay phối hợp với bộ phận tín dụng quản lý các khoản cho vay đem lại hiệu quả cao của mỗi món vay cụ thể: kế toán cho vay cung cấp thông tin chính xác, kịp thời về số liệu những món vay đã quá hạn, sắp đến hạn để cán bộ tín dụng có kế hoạch đôn đốc thu nợ kịp thời, đồng thời cung cấp cho Lãnh đạo quản lý, điều hành có hiệu quả. -Như vậy, kế toán cho vay cùng với các nghiệp vụ kế toán Ngân hàng khác thông qua các hoạt động của mình giúp cho Ngân hàng vừa thực hiện được chức năng kinh doanh, vừa cung ứng vốn cho nền kinh tế, với vai trò quan trọng đó, hệ thống kế toán Ngân hàng nói chung và kế toán cho vay nói riêng cần phải được hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của ngành Ngân hàng và nền kinh tế thị trường. III. CÁC PHƯƠNG THỨC CHO VAY, CHỨNG TỪ TÀI KHOẢN KẾ TOÁN CHO VAY, THU NỢ 1.Các phương thức cho vay: Theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: Có 9 phương thức cho vay. Trên cơ sở nhu cầu sử dụng của từng khoản vay của khách hàng và khả năng kiểm tra, giám sát của Ngân hàng, NHNo nơi cho vay thoả thuận với khách hàng vay về việc lựa chọn phương thức cho vay sau đây: 1.1 -Phương thức cho vay theo từng lần (theo món): Áp dụng phương thức tín dụng cho vay từng lần, khách hàng phải lập giấy đề nghị vay vốn theo từng lần, nộp vào Ngân hàng cùng với các thủ tục cần thiết khác để chứng minh cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh của khách hàng, cũng như ước tính hiệu quả kinh tế đối với khoản tín dụng đó. Trong trường hợp Ngân hàng chấp nhận cho vay, Ngân hàng cùng khách hàng ký kết hợp đồng tín dụng, thoả thuận với các điều kiện, yếu tố về số tiền, mục đối tượng, vốn vay, thời hạn trả nợ, lãi suất... Trên cơ sở hợp đồng tín dụng đã được ký kết, kế toán cho vay giải ngân phát tiền vay đồng thời hạch toán: Nợ: TK cho vay khách hàng. Có: TK tiền mặt Có: TK tiền gửi khách hàng Mỗi khoản vay đều được xác định thời hạn trả nợ cụ thể trên hợp đồng tín dụng. Vì vậy để theo dõi thời hạn trả nợ, kế toán cho vay phải sắp xếp hồ sơ, khế ước sao cho khoa học gọn gàng theo kỳ hạn trả nợ của khách hàng. Để tiện lợi cho việc đôn đốc trả nợ, một khoản nợ có thể chia ra nhiều kỳ hạn trả nợ khác nhau về nguyên tắc khi đến hạn khách hàng phải có nhiệm vụ trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn. Khi khách hàng trả nợ hạch toán ghi: Nợ :TK tiền mặt Nợ :TK tiền gửi (nếu trả bằng chuyển khoản). Có :TK cho vay khách hàng. Nếu đến hạn trả gốc và lãi mà khách hàng không trả được cho Ngân hàng thì khách hàng phải làm đơn xin điều chỉnh kỳ hạn hoặc xin gia hạn số tiền gốc và lãi đó. + Nếu được Ngân hàng chấp thuận cho gia hạn hoặc điều chỉnh kỳ hạn nợ thì kế toán cho vay điều chỉnh kỳ hạn nợ trong máy tính và lưu đơn gia hạn hoặc điều chỉnh của khách hàng vào hồ sơ vay vốn. + Nếu không được ngân hàng chấp thuận việc khách hàng xin điều chỉnh kỳ hạn nợ hoặc gia hạn nợ của khách hàng thì kế toán căn cứ vào hồ sơ khế ước của khách hàng chuyển nợ quá hạn (sau 10 ngày) đối với món vay. Kế toán hạch toán ghi: Nợ: TK nợ quá hạn Có: TK cho vay trong hạn. Các hồ sơ chuyển sang nợ quá hạn được lưu ở một cặp riêng để làm căn cứ cho việc đôn đốc thu hồi nợ trong việc phân tích hoạt động tín dụng cũng như phân tích phòng ngừa rủi ro. 1.2 - Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng (Cho vay bổ xung vốn lưu động): Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng là khách hàng cùng với Ngân hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng trong một thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh và nhu cầu về vốn của đơn vị. Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng thường áp dụng cho những doanh nghiệp có khả năng tài chính lành mạnh, sản xuất, kinh doanh ổn định và nhu cầu vốn vay, trả thường xuyên, có uy tín trong quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Ngân hàng cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng, thoả thuận hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định, điều kiện vay trả, mức lãi suất, cách thức trả nợ cũng như quyền hạn, nghĩa vụ của mỗi bên làm căn cứ. Từng lần vay khách hàng không cần phải làm lại các thủ tục mà chỉ cần, lập một giấy nhận nợ cùng với hợp đồng tín dụng đã lập lần đầu. Khi phát tiền vay hạch toán ghi: Nợ: TK cho vay khách hàng. Có: TK tiền mặt Có: TK tiền gửi (nếu cho vay bằng chuyển khoản). Kế toán cho vay phải quản lý chặt chẽ hạn mức tín dụng, đảm bảo không vượt quá hạn mức tín dụng đã ký kết. Thu nợ theo thoả thuận trên hợp đồng tín dụng: áp dụng phương thức này Ngân hàng không xác định được thời hạn trả nợ cụ thể theo từng khoản vay. Mà thoả thuận một kế hoạch nợ dựa trên cơ sở kỳ luân chuyển vốn của doanh nghiệp và việc tính toán quản lý thời hạn trả nợ, có thể thông qua kế hoạch trả nợ từng tháng, từng định kỳ hoặc xác định vòng quay của vốn tín dụng. Việc trả nợ của khách hàng được thực hiện trong suốt thời hạn giá trị của hợp đồng tín dụng, có thể trả trực tiếp bằng tiền từ bán hàng hoặc thoả thuận với Ngân hàng trích từ tài khoản tiền gửi để thu nợ theo định kỳ. Kế toán hạch toán khi thu nợ ghi Nợ TK tiền mặt. Nợ TK tiền gửi (Nếu trả bằng chuyển khoản). Có TK cho vay khách hàng. Thu lãi cho vay thường được áp dụng thông qua việc thoả thuận giữa khách hàng và Ngân hàng để thu theo món, thu theo tích số hàng tháng hoặc theo định kỳ. Việc tính thu lãi phải đảm bảo chính xác và phù hợp với mức lãi suất ghi trên hợp đồng tín dụng và tuỳ theo phương thức cho vay sự thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng để thực hiện việc tính các khoản lãi chưa đến hạn phải thu hoặc thời hạn thoả thuận. Trong quá trình vay vốn, trả nợ: nếu việc sản xuất, kinh doanh có thay đổi và doanh nghiệp có nhu cầu, khách hàng phải làm giấy đề nghị bổ xung hạn mức tín dụng, Ngân hàng xem xét nếu thấy hợp lý thì chấp thuận điều chỉnh hạn mức tín dụng và cùng khách hàng ký bổ sung hợp đồng tín dụng. Việc ký kết hợp đồng tín dụng mới được thực hiện trước 10 ngày hạn mức tín dụng cũ hết hạn khách hàng gửi cho Ngân hàng kế hoạch vay vốn kỳ tiếp theo. Căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng và chu kỳ sản xuất, kinh doanh kế tiếp, Ngân hàng xác định hạn mức tín dụng và thời hạn cho vay mới 1.3. Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng nông nghiệp cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. Ngân hàng nông nghiệp nơi cho vay cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng và thoả thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định các kỳ hạn trả nợ. Ngân hàng thực hiện giải ngân theo tiến độ thực hiện dự án. Mỗi lần rút vốn, khách hàng lập giấy nhận nợ tiền vay trong phạm vi mức vốn đầu tư đã thoả thuận; kèm theo các chứng từ xin vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng. Trường hợp khách hàng đã dùng nguồn vốn huy động tạm thời khác để chi phí cho dự án duyệt trong thời gian chưa vay được vốn 1.4. Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng: trong đó, có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Việc cho vay hợp đồng vốn thực hiện theo quy định của Quy chế này và Quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng ban hành. 1.5. Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. 1.6. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định.Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng. 1.7. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy4/14/2003ha minh quan rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. 1.8. Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. 1.9. Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với quy định tại quy chế này và điều kiện hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng và đặc điểm của khách hàng vay. 2.Chứng từ kế toán cho vay Chứng từ kế toán là những chứng minh bằng giấy tờ về nghiệp vụ kinh tế tài chính đã phát sinh và thực sự hoàn thành. Phân loại chứng từ kế toán được thực hiện theo qui định 127/QĐ-NHNo - 04, ngày 13/03/2001 của NHNo&PTNT Việt Nam. * Phân loại theo tính chất pháp lý chứng từ kế toán bao gồm: + Chứng từ gốc và chứng từ ghi sổ. - Chứng từ gốc là những chứng từ được lập ngay sau khi nghiệp vụ kinh tế phát sinh đã hoàn thành. Chứng từ gốc là căn cứ pháp lý để chứng minh 1 nghiệp vụ kinh tế phát sinh đã hoàn thành. - Chứng từ ghi sổ là chứng từ phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào sổ sách kế toán, chứng từ ghi sổ được lập trên cơ sở chứng từ gốc hoặc kiêm chứng từ ghi sổ. * Phân loại theo nội dung nghiệp vụ kinh tế phát sinh bao gồm: - Chứng từ tiền mặt gồm: Phiếu thu, phiếu chi, séc, giấy gửi tiền, giấy rút tiền, giấy nộp tiền, giấy lĩnh tiền. - Chứng từ chuyển khoản gồm: Phiếu chuyển khoản, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm thu, séc, TTD. - Bảng kê các loại gồm: Bảng kê nộp séc, bảng kê số dư tính lãi, bảng kê quyết toán lãi cho vay, bảng kê thanh toán các loại: Giấy báo chuyển tiền nội, ngoại tỉnh. Lệnh chuyển tiền trong chuyển tiền điện tử. Các chứng từ hạch toán tài sản và chứng từ ngoại bảng (như phiếu xuất tài sản, phiếu nhập tài sản). Về nguyên tắc thì tất cả các chứng từ kế toán Ngân hàng (bao gồm chứng từ do Ngân hàng lập và chứng từ do khách hàng lập) đều phải lập đúng mẫu và ghi đầy đủ các yếu tố theo quy định. Chứng từ có thể lập trên máy tính (danh mục chứng từ được phép lập trên máy tính theo quy trình giao dịch trực tiếp do tổng giám đốc quy định). Các chứng từ có nhiều liên phải được lập một lần trên tất cả các liên bằng máy chữ, máy tính hoặc viết lồng lót giấy than. Phải ghi đầy đủ các yếu tố theo quy định sau: - Các yếu tố trên chứng từ phải viết bằng bút mực hoặc bút bi mầu tím, xanh, đen, không được viết bằng mực đỏ (trừ các chứng từ kế toán lập để điều chỉnh sai sót). Không được viết bằng bút chì trên các loại chứng từ và không được viết bằng hai loại bút hai mâù mực khác nhau trên cùng một chứng từ, chữ viết trên chứng từ phải rõ ràng, trung thực, chính xác không viết tắt, viết mờ hoặc nhoè chữ. Không được tẩy xoá, sửa chữa bằng bất kỳ hình thức nào đối với các yếu tố trên chứng từ. - Số tiền trên chứng từ bắt buộc phải ghi số tiền bằng số (căn cứ mẫu chứng từ). Chữ đầu của số tiền bằng chữ phải viết hoa và sát đầu dòng của dòng đầu tiên, không được viết cách dòng, cách quãng giữa các chữ, không được viết thêm chữ vào giữa hai chữ viết liền kề nhau trên chứng từ. Nội dung nghiệp vụ ghi trên chứng từ phải rõ ràng, rễ hiểu, chữ ký của khách hàng và cán bộ Ngân hàng trên tất cả các loại chứng từ kế toán đều bắt buộc phải ký tay từng tờ bằng bút tím, đen... 3.Tài khoản dùng trong kế toán cho vay Tài khoản phản ánh nghiệp vụ cho vay thuộc tài sản có của Ngân hàng, tài khoản dùng để ghi chép, phản ánh toàn bộ số tiền vay của Ngân hàng đối với người đi vay, đồng thời cũng ghi chép, phản ánh số tiền vay trả nợ Ngân hàng theo kỳ hạn nhất định. Ứng với phương thức cho vay từng lần có tài khoản cho vay thông thường. Ứng với phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng có tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng. 3.1 Tài khoản cho vay từng lần Khi các đơn vị tổ chức cá nhân, các doanh nghiệp tư nhân có đủ điều kiện vay vốn và được Ngân hàng cho vay thì kế toán Ngân hàng sẽ mở cho mỗi người vay một tài khoản cho vay thích hợp. Tài khoản cho vay từng lần kết cấu như sau: Bên nợ: Ghi có số tiền Ngân hàng cho khách hàng vay. Bên có: - Ghi số tiền khách hàng đã trả nợ Ngân hàng. - Ghi số tiền chuyển nợ quá hạn (nếu có). Dư nơ: Phản ánh số tiền người vay còn nơ Ngân hàng đến một thời điểm nào đó. 3.2 Tài khoản cho vay theo hạn mức Tuỳ theo sự thoả thuận giữa khách hàng và Ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho khách hàng vay theo 2 tài khoản (tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng và tài khoản tiền gửi thanh toán). Kết cấu của từng hình thức tài khoản trong cho vay theo hạn mức tín dụng như sau: - Đối với những khách hàng mở 2 tài khoản: tài khoản cho vay theo hạn mức và tiền gửi thanh toán. Quá trình hạch toán cho vay, thu nợ được thực hiện trên tài khoản cho vay theo hạn mức có kết cấu: Bên nợ: G._.hi số tiền cho vay theo hạn mức tín dụng dã ký kết. Bên có: Ghi số tiền Ngân hàng thu nợ trên cơ sở tiền bán hàng hay các khoản thu nhập khác nộp vào. Dư nợ: Phản ánh số tiền khách hàng còn nợ Ngân hàng. Trường hợp hết số dư mà khách hàng vẫn nộp tiếp các khoản thu của mình cho Ngân hàng thì kế toán sẽ hạch toán vào tiền gửi thanh toán. Trong quan hệ tín dụng giữa người vay và Ngân hàng không phải bao giờ người vay cũng trả nợ Ngân hàng đúng kỳ hạn. Trường hợp đến hạn trả người vay không trả được nợ, cũng không được Ngân hàng cho gia hạn nợ thì số nợ đó được chuyển sang tài khoản “Nợ quá hạn“ để theo dõi thu hồi với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất vay bình thường. Kết cấu tài khoản nợ quá hạn: Bên nợ: Ghi số tiền chuyển sang nợ quá hạn. Bên có: Ghi số tiền thu nợ quá hạn. Dư nợ: Thể hiện số dư nợ quá hạn chưa trả. Các tài khoản cho vay, nợ quá hạn đều được mở theo từng loại nợ và theo từng đơn vị vay để theo dõi. IV. QUI TRÌNH KẾ TOÁN CHO VAY – THU NỢ 1. Qui trình kế toán cho vay từng lần. 1.1. Kế toán giai đoạn cho vay Mỗi lần vay người vay làm giấy đề nghị vay vốn gửi tới Ngân hàng để trình bày lý do xin vay. Đây là căn cứ để Ngân hàng xem xét, tính toán, quyết định cho vay và lập hợp đồng tín dụng.Nếu khoản vay được giám đốc ký duyệt cho vay thì bộ phận kế toán thực hiện việc hạch toán cho vay. Bộ phận kế toán kiểm soát lại và hướng dẫn khách hàng lập các chứng từ kế toán, nhận tiền vay theo qui định và ghi đầy đủ các yếu tố trên chứng từ. Căn cứ vào chứng từ như giấy lĩnh tiền mặt (nếu giải ngân bằng tiền mặt) hoặc uỷ nhiệm chi (nêú giải ngân bằng chuyển khoản) kế toán vào sổ chi tiết hoặc nhập dữ liệu vào máy tính. Nợ: - TK cho vay ngắn hạn của người vay Có: - Tài khoản tiền mặt ( nếu giải ngân bằng tiền mặt ) -Tài khoản tiền gửi của người thụ hưởng (nếu cho vay bằng chuyển khoản) - Liên hàng đi - chuyển tiền điện tử (nếu người thụ huởng có tài khoản ở các Ngân hàng khác). Riêng các món vay có tài khoản thế chấp, cầm cố kế toán phải ghi nhập, xuất vào tài khoản ngoại bảng “ Tài sản thế chấp, cầm cố”. 1.2. Kế toán thu nợ, thu lãi * Kế toán thu nợ Sổ chi tiết của tài khoản cho vay của từng đon vị vay vốn do kế toán viên giữ và theo dõi. Hợp đồng tín dụng sau khi hoàn thành phát tiền vay sẽ được lưu trữ trong hồ sơ vay vốn của người đi vay để theo dõi thu hồi nợ.hợp đồng tín dụng trong hồ sơ vay vốn phải được sắp xếp một cách khoa học nhằm theo dõi một cách chặt chẽ kỳ hạn thu nợ, thu lãi kịp thời khi đến hạn. Một trong những đặc điểm của phương thức cho vay từng lần là mỗi lần cho vay đều phải xác định được thời hạn trả.Đến hạn người vay phải có trách nhiệm trả nợ Ngân hàng.Nếu đến kỳ hạn trả nợ người vay không đủ trả nợ cho Ngân hàng thì kế toán chủ động trích tài khoản tiền gửi của người vay để thu hồi nợ. Nếu tài khoản của người vay đã hết số dư và tài khoản vay đó không được Ngân hàng gia hạn thì kế toán làm thủ tục chuyển nợ quá hạn. - Nếu thu nợ bằng tiền mặt: kế toán căn cứ vào giấy nộp tiền của người vayđể vào sổ chi tiết hoặc nhập dữ liệu vào máy tính, ghi: Nợ: TK tiền mặt Có: Tài khoản cho vay - tiểu khoản của ngưòi vay - Nếu thu nợ bằng chuyển khoản: kế toán căn cứ uỷ nhiệm chi của người vay, hoặc lập phiếu chuyên khoản để vào sổ chi tiết hoặc nhập dữ liệu vào máy tính, ghi: Nợ: TK tiền gửi - của người vay Có: TK cho vay - tiểu khoản người vay Đồng thời với việc hạch toán, kế toán xoá nợ trên hợp đồng tín dụng bằng cách ghi số tiền thu nợ vào cột "số tiền trả nợ", rút số dư.Hợp đồng tín dụng thu hết nợ (số dư bằng 0) được xuất khỏi hồ sơ tín dụng để đóng thành tập riêng, hoặc đóng vào tập nhật ký chứng từ nếu số lượng hợp đồng tín dụng ít. Đối với những khoản vay có thế chấp, kế toán làm thủ tục dể ghi xuất ngoại bảng, trả lại giấy tờ thế chấp tài sản cho người vay. * Kế toán thu lãi Tính thu lãi cho vay từng lần theo phương pháp tính lãi đơn... Tiền lãi tính một lần khi thu nợ gốc. Hàng tháng Ngân hàng vẫn tính lãi để hạch toán vào tài khoản " tiền lãi tính dồn dự thu ", khi người vay trả nợ gốc và lãi sẽ tất toán tài khoản này. Công thức tính lãi: Số tiền lãi = Số tiền vay (gốc) x Lãi suất cho vay x thời gian vay Tính thu lãi theo kỳ hạn tháng hoặc năm thì chỉ tính ngày vay, không tính ngày trả nợ, tức là chỉ tính ngày đầu tiên chứ không tính ngày cuối trả nợ. Hạch toán thu lãi cho vay: hàng tháng kế toán tính và hạch toán dự thu lãi, ghi: Nợ: TK Tiền lãi tính dồn dự thu Có: TK Thu nhập - thu lãi cho vay Khi khách hàng vay trả lãi, Ngân hàng hạch toán: Nợ: -TK Tiền mặt (nếu trả bằng tiền mặt) -TK Tiền gửi (nếu trích từ tài khoản tiền gửi của người vay) Có: TK Tiền lãi tính dồn dự thu. Trường hợp số lãi phải thu đã hạch toán vào tài khoản của "tiền lãi tính dồn dự thu" đối với những khoản cho vay trung hạn nhưng người vay không thanh toán được đúng hạn ghi trong hợp đồng tín dụng thì sau 90 ngày kể từ ngày đến hạn ghi trong hợp đồng; hoặc chưa đến 90 ngày nhưng khoản vay đã chuyển sang nợ quá hạn, nợ khó đòi thì kế toán lập phiếu chuyển khoản để ghi giảm thu toàn bộ số tiền lãi dự thu, ghi: Nợ: TK Thu nhập - thu lãi cho vay Có: TK Tiền lãi cộng dồn dự thu Đồng thời hạch toán ngoại bảng: Ghi nhập: TK lãi cho vay chưa thu được Sau khi hạch toán ngoại bảng kế toán phối hợp với cán bộ tín dụng đôn đốc người vay tiếp tục trả lãi Ngân hàng. Khi người vay trả lãi hạch toán ghi : Nợ: TK Tiền mặt (nếu trả bằng tiền mặt) TK Tiền gửi (nếu tính TK tiền gửi) Có: TK Thu lãi cho vay. Ghi xuất ngoại bảng: Lãi cho vay chưa thu được. Đồng thời tính phạt chậm trả lãi (tối đa bằng 5 % số lãi chậm trả) 1.3. Kế toán chuyển nợ quá hạn Đến hạn trả nợ nếu người vay không trả được Ngân hàng và cũng không được Ngân hàng gia hạn nợ thì kế toán lập phiếu chuyển khoản để chuyển sang tài khoản nợ quá hạn. Hạch toán: Nợ: TK nợ quá hạn thích hợp Có: TK cho vay của người vay. (Áp dụng lãi suất quá hạn bằng 150% lần lãi suất cho vay thông thường). Các hhồ sơ đã được chuyển sang nợ quá hạn được lưu riêng. -Khi người vay trả nợ quá hạn kế toán ghi: Nợ: TK Tiền mặt (nếu trả bằng tiền mặt) TK Tiền gửi của người vay Có: TK Nợ quá hạn thích hợp Trong trường hợp người vay không có khả năng trả nợ do kinh doanh thua lỗ hoặc bị phá sản thì Ngân hàng có thể thanh lý tài sản của người vay để thu nợ. 2. Quy trình kế toán cho vay theo hạn mức tín dụng Cho vay theo hạn mức tín dụng thường được sử dụng dưới hình thức "thấu chi". Thấu chi là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt được thực hiện dựa trên cơ sở hạn mức tín dụng ghi trong hợp đồng tín dụng. Áp dụng cho người vay có nhu cầu vay vốn, trả nợ thường xuyên, có khả năng tài chính mạnh và có uy tín. 2.1. Kế toán cho vay Hợp đồng tín dụng sau khi được ký kết để xác định hạn mức tín dụng và các điều kiện khác được chuyển cho kế toán để kiểm soát lại và theo dõi giải ngân. Mỗi lần giải ngân để đáp ứng yêu cầu chi trả của người vay, người vay lập các chứng từ như séc, uỷ nhiệm chi gửi kế toán giữ tài khoản vãng lai của người vay. Nếu chứng từ giải ngân thoả mãn các điều kiện thì kế toán vào sổ chi tiết hoặc nhập dữ liệu vào máy: Nợ: TK Cho vay – TK vãng lai của người vay Có: TK thích hợp - TK Tiền mặt (nếu chi trả bằng tiền mặt) - Hoặc TK thanh toán của người thụ hưởng (nếu chi trả bằng chuyển khoản). 2.2. Kế toán thu nợ, thu lãi Trong phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng việc trả nợ của khách hàng dựa trên cơ sở vòng quay vốn tín dụng hoặc khách hàng trả nợ theo từng tháng như thoả thuận trong hợp đòng tín dụng. Đơn vị vay phải nộp tiền bán hàng cũng như các khoản thu khác vào bên có của tài khoản cho vay để trả nợ Ngân hàng. Nếu hết tháng đơn vị không hoàn thành kế hoạch trả nợ Ngân hàng và cũng không được xem xét để chuyển sang thu tiếp ở tháng kế tiếp thì kế toán chuyển số tiền còn nợ đó sang tài khoản nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn. *Thu nợ gốc: Hạch toán thu nợ gốc theo số tiền bán hàng của đơn vị nộp vào Ngân hàng hằng ngày: Nếu thu bằng tiền mặt hạch toán: Nợ: TK Tiền mặt tại quỹ Có: TK Cho vay theo hạn mức tín dụng Nếu nộp bằng chuyển khoản hạch toán: Nợ: -TK Tiền gửi của người chi trả (nếu thanh toán cùng NH) -TK Thanh toán qua lại giữa các Ngân hàng (nếu thanh toán các NH) Có: TK Cho vay theo hạn mức. Về nguyên tắc Ngân hàng chỉ thu nợ trong phạm vi số tiền Ngân hàng đã cho vay. Nên đối với đơn vị vay theo hai tài khoản thì Ngân hàng chỉ thu nợ trong phạm vi dư nợ của tài khoản cho vay này..Nếu đơn vị trả hết nợ rồi thì số tiền bán hàng của đơn vị sẽ ghi vào bên tiền gửi thanh toán của đơn vị. Khi tài khoản vốn lưu động dư có tức là đơn vị kinh tế gửi vốn lưu động vào Ngân hàng, lúc này Ngân hàng sẽ tính trả lãi cho dơn vị theo lãi suất phù hợp. * Kế toán thu lãi: Do tài khoản vãng lai có thể dư Nợ cũng có thể dư Có nên việc tính lãi của tài khoản này cũng phải xử lý một cách phù hợp: - Nếu tài khoản vãng lai dư Nợ, Ngân hàng thu lãi theo lãi suất thấu chi. Việc thu lãi tiến hành hàng tháng theo phương pháp tích số. - Việc tính lãi được dựa trên bảng số dư tính lãi. Bảng kê tính lãi được dùng làm chứng từ để hạch toán thu lãi, ghi: Nợ: TK Cho vay - TK vãng lai của người vay. Có: TK Thu nhập - Thu lãi cho vay. - Nếu tài khoản vãng lai dư Có thì có thể ngân hàng không trả lãi hoặc trả với mức lãi suất thấp. Nếu trả lãi kế toán lập bảng kê tính lãi, hạch toán: Nợ: TK Chi phí - chi trả lãi. Có: TK Cho vay - TK vãng lai của người vay. 2.3. Kế toán chuyển nợ quá hạn Đến kỳ hạn, đơn vị vay không hoàn thành kế hoạch trả nợ ngân hàng và cũng không được xem xét để chuyển sang thu tiếp theo ở tháng kê tiếp, kế toán lập phiếu chuyển khoản số tiền đơn vị còn nợ Ngân hàng sang tài khoản nợ quá hạn. Nợ: Tk nợ quá hạn Có: TK cho vay theo hạn mức Số tiền đơn vị còn nợ Ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn từ thời điểm nào thì kế toán tính lãi suất nợ quá hạn từ thời điểm đó. CHƯƠNG II TÌNH HÌNH KẾ TOÁN CHO VAY TẠI NHNO HUYỆN NINH GIANG – HẢI DƯƠNG I . KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHNO NINH GIANG 1. Đặc điểm kinh tế - xã hội Ninh Giang là huyện cửa ngõ phía Nam của thành phố Hải Dương. Trung tâm huyện lỵ cách thành phố Hải Dương 30 km; phía bắc giáp huyện Gia Lộc; phía đông giáp huyện Tứ Kỳ; phía nam giáp huyện Quỳnh Phụ (Tỉnh Thái Bình), phía tây giáp huyện Thanh Miện. Chiều dài của huyện là 15 km, chiều ngang ở phía Bắc rộng 12 km. Diện tích tự nhiên toàn huyện là 13.543,7 ha, dân số 143.794 người, sống trong 36.624 hộ gia đình. Năm 2001, năm đầu của thiên niên kỷ mới, trên cơ sở quán triệt nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết tỉnh Đảng bộ lần thứ XIII và Nghị quyết huyện Đảng bộ lần thứ XXII. Dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ngành, sự phấn đấu nỗ lực vượt qua khó khăn của nhận dân trong huyện, tình hình kinh tế - xã hội - an ninh quốc phòng huyện Ninh Giang tiếp tục phát triển, đạt vượt mức chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Cơ cấu kinh tế nông thôn tiếp tục chuyển đổi theo hướng tích cực, giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỉ trọng ngành tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản và dịch vụ (nông nghiệp từ 67,3% giảm còn 62,5%; tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản từ 13,5% lên 17%; dịch vụ từ 17,4% lên 20,5%. Giá trị sản xuất bình quân đầu người đạt 5,46 triệu đồng, tăng 6,6% so với năm 2000). Kết quả trên đã tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ về phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật, giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc đặc biệt là vấn đề giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của các tầng lớp dân cư, đảm bảo ổn định chính trị xã hội, tạo đà phát triển cho những năm sau. Bên cạnh những kết quả đạt được huyện Ninh Giang còn một số tồn tại: + Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặc biệt là chuyển dịch đất trũng sang trồng cây ăn quả và nuôi thả cá, hình thành các vùng chuyên canh còn chậm. + Sản xuất tiểu thủ công nghiệp còn nhỏ bé, tốc độ vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương, nhiều mặt hàng chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường; việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào sản xuất tiểu thủ công nghiệp còn chem. + Hoạt động dịch vụ chưa phát triển, chưa tìm được thị trường ổn định cho việc tiêu thụ hàng hoá, sản phẩm từ nông nghiệp có giá trị cao. Đến nay huyện Ninh Giang có 1 doanh nghiệp nhà nước, 32 hợp tác xã và trên 4 doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động. Với vị trí địa lý tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội của huyện đã tạo thuận lợi cho việc phát triển kinh tế xã hội của huyện Ninh Giang nói chung, đồng thời cũng tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT huyện Ninh giang nói riêng. 2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT huyện Ninh Giang 2.1- Mô hình tổ chức: Căn cứ quyết định số 198/1998/QĐ-NHNN5 Ngày 02/06/1998 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt nam về việc thành lập các đơn vị trực thuộc của NHNo & PTNT Việt nam, ngày 17/06/1998 Chi nhánh NHNo Tỉnh Hải Dương chính thức được lấy tên là NHNo & PTNT Tỉnh Hải Dương, NHNo Huyện Ninh Giang và 11 Huyện thị trực thuộc Tỉnh Hải dương cùng thời gian đó được chính thức lấy tên là NHNo &PTNT Huyện Ninh Giang- Trụ sở giao dịch được đặt tại Thị trấn Ninh Giang, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Hiện nay NHNo&PTNT huyện Ninh Giang có trụ sở làm việc đóng trên địa bàn thị trấn Ninh Giang với chức năng, nhiệm vụ huy động vốn, cho vay các thành phần kinh tế, làm dịch vụ thanh toán và có xu hướng mở rộng tới tất cả các dịch vụ Tài chính - Ngân hàng hiện đại. Về lao động: Tính đến 31/12/2002, tổng số có 35 người trong đó số người có trình độ đại học, cao đẳng là 15 người chiếm 42,8%, trình độ trung học là 20 người chiếm 57,2%, 1 người lái xe và được bố trí theo mô hình như sau: BAN GIÁM ĐỐC PHÒNG KINH DOANH PHÒNG KẾ TOÁN NGÂN QUỸ TỔ HÀNH CHÍNH NGÂN HÀNG CẤP III Quan hệ chỉ đạo; Quan hệ tác nghiệp + Ban giám đốc có 4 người. Giám đốc phụ trách chung, tổ chức. Một phó giám đốc phụ trách tín dụng. Một phó giám đốc phụ trách kế toán - ngân quỹ. Một phó giám đốc kiêm giám đốc Ngân hàng người nghèo. + Phòng tín dụng kinh doanh gồm 13 người có nhiệm vụ điều tra, thẩm định và cho vay đối với khách hàng, tiếp thị khách hàng về công tác huy động vốn. + Phòng kế toán - ngân quỹ Ngân hàng huyện gồm 13 người có nhiệm vụ ghi chép, theo dõi các nghiệp vụ về huy động vốn, cho vay, thu nợ đối với các thành phần kinh tế, quản lý hồ sơ vay vốn theo qui định, thu chi tiền... + Ngân hàng cấp 3 gồm 9 người có nhiệm vụ huy động vốn, cho vay, thu nợ trên địa bàn 9 xã. Có được đội ngũ cán bộ có khả năng thích ứng với mọi hoạt động trong nền kinh tế thị trường như hôm nay là nhờ sự phấn đấu lỗ lực vươn lên trong nhiều lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng như đào tạo, đào tạo lại...để phù hợp với nhiều nghiệp vụ khác nhau như: Kế toán, tín dụng, kho quỹ, hành chính, kiểm soát... Do đó đội ngũ cán bộ cũng được bố trí theo từng nghiệp vụ cụ thể. Riêng đối với cán bộ trực tiếp làm công tác tín dụng chiếm 54%, cán bộ làm công tác kế toán chiếm 31%, số còn lại làm các công tác khác. Với sự quan tâm giúp đỡ của ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt nam, Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh, các cấp các ngành cùng sự chỉ đạo chặt chẽ của ban lãnh đạo và sự cố gắng của toàn thể cán bộ công nhân viên năm 2002 Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT huyện Ninh Giang đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. 2.2 - Hoạt động huy động vốn: Nhờ có đổi mới phong cách làm việc, thái độ phục vụ khách hàng, thực hiện đúng khẩu hiệu “Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, đã thu hút được nhiều khách hàng đến gửi tiền, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn. NHNo & PTNT Ninh Giang nhận thức được vai trò của nguồn vốn kinh doanh, nguồn vốn chính là tiền đề cho hoạt động kinh doanh, là động lực chính, là cơ sở để mở rộng hoạt động kinh doanh. Chính vì thế mà NHNo & PTNT Ninh Giang đã tập trung khai thác mọi nguồn, coi công tác huy động vốn là của mọi người, mọi thành viên. Đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu vay vốn của các hộ sản xuất, hộ nghèo, hộ kinh doanh, các công ty thuộc các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. NHNo & PTNT Ninh Giang đã huy động vốn bằng các hình thức sau: Tiền gửi của các đơn vị tổ chức kinh tế. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 6 tháng. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 9 tháng. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 12 tháng. Tiền gửi tiết kiệm bậc thang. Kỳ phiếu 13 tháng. Ngân hàng Nông nghiệp Ninh Giang là đơn vị đóng tại Trung tâm huyện nên công tác huy động vốn có nhiều thuận lợi so với các tổ chức tín dụng khác ở huyện. Vì vậy kết quả huy động hàng năm luôn đáp ứng kịp thời cho các mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế của địa phương. Khuyến khích khách hàng truyền thống, duy trì và nâng cao số dư tiền gửi, Ngân hàng Nông nghiệp Ninh Giang đã từng bước tìm kiếm thêm khách hàng mới, để khơi tăng nguồn vốn tại địa phương. Biểu số 1: Tình hình huy động vốn Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2000 2001 2002 So sánh 2002/2001 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền ±(%) I/Tổng nguồn vốn huy động 25.951 100 41.951 100 46.302 100 +4.351 +10,37 1. Tiền gửi các tổ chức KTế 7.007 27,0 17.074 40,7 17.269 37,3 +195 +1,14 2. Tiền gửi tiết kiệm 17.821 68,67 24.877 59,3 26.504 57,24 +1.627 +6,54 - Tiền gửi không kỳ hạn 1.105 4,26 1.257 3,0 1.096 2,37 -161 -12,8 -Tiền gửi có kỳ hạn 16.716 64,5 23.620 56,3 25.408 54,87 +1.788 +7,57 3.T/gửi kỳ phiếu, trái phiếu 1.123 4,33 2.529 5,46 2.529 (Nguồn: theo bảng cân đối tài khoản tổng hợp năm 2000, 2001, 2002 của NHNo & PTNT huyện Ninh Giang) * Nhận xét: Qua biểu số liệu trên, cho thấy kết quả huy động vốn tăng lên rõ rệt. Kết quả huy động vốn năm 2002 đạt 46.302 triệu đồng, tăng 10,37% so với năm 2001, tăng 78,42% so với năm 2000. Xét về cơ cấu nguồn vốn qua các kỳ ta thấy: - Vốn huy động từ dân cư năm 2002 (gồm tiền gửi tiết kiệm và kỳ phiếu, trái phiếu) đạt 29.033 triệu đồng, tăng 16,7% so với năm 2001; tăng 53,26% so với năm 2000. - Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế năm 2002 là 17.269 triệu đồng, tăng 1,14% so với năm 2001; tăng 146,45% so với năm 2000. Vốn huy động từ dân cư chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn, chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn dài hạn tạo điều kiện thuận lợi để Ngân hàng cho vay trung và dài hạn. Nguồn vốn huy động từ các tầng lớp dân cư là một trong những yếu tố quyết định mở rộng hay thu hẹp đầu tư của Ngân hàng. Do vậy Ngân hàng đã huy động bằng nhiều hình thức phù hợp với từng thời kỳ. 2.3. Về hoạt động sử dụng vốn: Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn thì việc sử dụng vốn đầu tư tín dụng là yếu tố quyết định mở rộng hay thu hẹp đầu tư, là công việc nghiệp vụ có tính chất sống còn của ngân hàng, vì phần lợi nhuận mà ngân hàng thu được đều dựa trên việc đầu tư cho vay. Nếu sử dụng vốn có hiệu quả sẽ bù đắp được chi phí cho huy động vốn và thu được lợi nhuận. Nếu không sẽ gây ra nguy hại tới vốn tự có của ngân hàng. Vì thế Ngân hàng Nông nghiệp Ninh Giang đã và đang thực hiện tốt công tác tín dụng đồng thời chú trọng đến công tác huy động vốn theo hướng " Đi vay để cho vay " đến mọi thành phần kinh tế. Để đảm bảo công tác tăng trưởng tín dụng về chất lượng tín dụng thì ngân hàng cũng được đặc biệt quan tâm. Tăng trưởng tín dụng phải đảm bảo an toàn hiệu quả. - Làm tốt việc phân loại khách hàng thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, để có hướng đầu tư phù hợp. - Bên cạnh đó ngân hàng còn mở rộng cho vay thông qua việc ký kết văn bản thoả thuận với các ban ngành, một mặt vừa tuyên truyền nghiệp vụ ngân hàng, mặt khác thông qua việc ký kết văn bản thoả thuận đôi bên nhằm gắn trách nhiệm của các ban ngành như Hội liên hiệp phụ nữ huyện, Hội nông dân huyện thành lập các tổ vay vốn ở các xã, giúp cho các hộ ở xa trung tâm có cơ hội tiếp cận được với ngân hàng nông nghiệp. Trong việc bảo toàn vốn cho vay. - Căn cứ vào các chương trình kinh tế của huyện, các dự án về chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi để có cơ sở đầu tư đúng hướng. - Ngân hàng đã xử lý kịp thời các món vay quá hạn bị rủi ro bất khả kháng, giúp cho hộ vay ổn định sản xuất, khắc phục dần trong việc trả nợ tiền vay. Trong công tác tín dụng, đầu tư vốn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt hoạt động ngân hàng. Có đẩy mạnh được công tác đầu tư vốn, ngân hàng mới phát huy được vai trò của mình trong cơ chế thị trường, đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn tín dụng cho phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá đến tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời với việc mở rộng tín dụng, ngân hàng rất quan tâm đến việc thu nợ. Đây là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả của quá trình đầu tư. Ngân hàng thường xuyên giám sát quá trình sử dụng vốn vay, đôn đốc thu nợ kịp thời khi đến hạn đựợc thể hiện qua biểu số 2. BIỂU SỐ 2: TÌNH HÌNH CHO VAY - THU NỢ - DƯ NỢ Đơn vị: Triệu đồng. Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 So sánh 2002/2001 Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % Số tiền % (+,-) I. Doanh số cho vay 45.367 100 53.799 100 67.627 100 13.828 25,7 1. Cho vay ngắn hạn 20.151 244,4 21.253 39,5 27.375 40,48 6.122 28,8 2. Cho vay trung hạn 25.216 55,6 32.546 60,5 40.252 59,52 7.706 23,68 III. Doanh số thu nợ 37.502 100 40.906 100 45.625 100 4.719 11,53 1. Thu nợ ngắn hạn 18.636 49,7 20.442 50 21.156 46,37 714 3,49 2. Thu nợ trung hạn 18.866 50,3 20.464 50 24.469 53,63 4.005 19,57 III. Dư nợ 35.361 100 48.254 100 70.256 100 22.002 45,6 1. Ngắn hạn 13.120 37,1 13.931 28,9 20.150 28,68 6.219 44,64 2. Trung hạn 22.241 62,9 34.323 71,1 50.106 71,32 15.783 45,98 * Về doanh số cho vay: - Doanh số cho vay năm 2000 là 45.367 triệu đồng. - Doanh số cho vay năm 2001 đạt 53.799 triệu đồng, tăng so với năm 2000 là 8.432 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 18,58%. - Doanh số cho vay năm 2002 đạt 67,627 triệu đồng, tăng so với năm 2001 là 13.828 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 25,7%. Trong đó: - Cho vay ngắn hạn năm 2002 là 27.375 triệu đồng, chiếm 40,48% trên tổng doanh số cho vay. - Cho vay trung, dài hạn là 40,252 triệu đồng, chiếm 59,52% trên tổng doanh số cho vay. Từ kết quả trên đạt được đã chứng tỏ Ngân hàng Ninh Giang đã tập trung vào việc mở rộng đầu tư tín dụng. * Về doanh số thu nợ qua các năm: - Năm 2000 là 37.502 triệu đồng. - Năm 2001 là 40.906 triệu đồng, tăng so với năm 2000 là 3.404 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 9,07%. - Năm 2002 đạt 45.625 tăng so với năm 2001 là 4.719 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 11,53%. * Dư nợ qua các năm: Biểu số liệu trên nói lên công tác mở rộng đầu tư tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp Ninh Giang rất tích cực, liên tục qua các thời điểm đều tăng mạnh. - Dư nợ năm 2000 là 35.361 triệu đồng - Dư nợ năm 2001 là 48.254 triệu đồng, tăng 36,46% so với năm 2000, ứng với số tiền là 12.893 triệu đồng. - Dư nợ 2002 đạt 70.256 triệu đồng, tăng là 45,6% so với năm 2001, ứng với số tiền là 22.002 triệu đồng. Trong đó: - Dư nợ cho vay ngắn hạn năm 2002 là 20.150 triệu đồng, chiếm 28,68% trên tổng dư nợ. - Dư nợ cho vay trung và dài hạn năm 2002 là 50.106 triệu đồng, chiếm 71,32% trên tổng dư nợ. Xét về cơ cấu theo thành phần kinh tế cho thấy dư nợ của Doanh nghiệp nhà nước và Hợp tác xã đã bắt đầu đi vào làm ăn có lãi so với những năm trước đây. Dư nợ năm 2001 tăng 300 triệu đồng so với năm 2000 (dư nợ của DN nhà nước và HTX năm 2000 là 500 triệu đồng), tỷ lệ tăng 60%. Năm 2002 tăng 200 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 25% so với năm 2001. Dư nợ của kinh tế ngoài quốc doanh, chiếm tỷ trọng lớn và tăng trưởng qua các năm cả về số tuyệt đối và tỉ trọng, dư nợ năm 2002 so với năm 2001 tăng 21.802 triệu đồng, tỉ lệ tăng 45,94%. Chứng tỏ Ngân hàng Nông nghiệp Ninh Giang đã đầu tư đúng hướng, phù hợp với mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của huyện nhà. * Đánh giá kết quả chất lượng tín dụng qua biểu dư nợ quá hạn của NHNo huyện Ninh Giang: BIỂU SỐ 3: TÌNH HÌNH NỢ QUÁ HẠN CỦA HUYỆN Đơn vị: Triệu đồng CHỈ TIÊU 2000 2001 2002 So sánh 2001/2000 So sánh 2002/2001 Số tiền ±% Số tiền ±% I/Tổng số nợ quá hạn 70 59 55 -11 -15,7 -4 -6,78 1. Phân loại NQH theo loại - Nợ quá hạn ngắn hạn 36 50 25 +14 +38,88 -25 -50 -Nợ quá hạn trung, dài hạn 34 9 30 -25 -73,5 +21 +233,3 2. Phân loại NQH theo thời gian - NQH đến 180 ngày 46 54 48 +8 +17,4 -6 -11,1 - NQH từ 181-360 ngày -NQH trên 360 ngày 24 5 7 -19 -79,2 +2 +40 II/ Tỷ lệ NQH /Tổng dư nợ 0,2 0,12 0,08 (Số liệu theo bảng cân đối tài khoản tổng hợp năm 2000, 2001,2002 của NHNo & PTNT huyệnNinh Giang ) NHNo & PTNT Ninh Giang coi nhiệm vụ thu nợ là nhiệm vụ trọng tâm, NH đã phối hợp với các ban ngành, uỷ ban nhân dân các cấp tăng cường thu hồi nợ quá hạn, cụ thể qua biểu số liệu trên đã nói lên chất lượng tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp Ninh Giang chuyển biến rất tích cực, nợ quá hạn ở các thời điểm đều giảm. So sánh 2001 với 2000 số nợ quá hạn giảm một cách đột biến, với số tuyệt đối giảm 11 triệu đồng, tỷ lệ giảm 15,7%. Năm 2002 so với năm 2001 đã giảm 4 triệu đồng, tỷ lệ giảm là 6,78%. Nguyên nhân do năm 2001, 2002, Ngân hàng Nông nghiệp Ninh Giang đã tăng trưởng dư nợ rất mạnh và tích cực đôn đốc, thu hồi nợ quá hạn. Mặt khác, công tác thanh tra, kiểm tra trên địa bàn đã chấn chỉnh kịp thời các sai sót trong việc thực hiện các quy trình nghiệp vụ, thủ tục cho vay của Ngân hàng huyện. Vì vậy công tác thẩm định, xét duyệt cho vay trong những năm gần đây chặt chẽ và hiệu quả hơn, không có phát sinh nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan từ Ngân hàng. Tóm lại: Với tốc độ tăng trưởng dư nợ, kết quả công tác cho vay - thu nợ, số dư nợ quá hạn giảm thấp dưới 1%, theo các biểu phân tích như trên, có thể kết luận chất lượng tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp Ninh Giang rất tốt. Đồng thời cũng có thể kết luận việc thực hiện phát triển kinh tế của các hộ có kết quả và chất lượng cao. Đó chính là môi trường kinh doanh tiềm tàng cho Ngân hàng nông nghiệp Ninh Giang đầu tư và khai thác. 2.3. Hoạt động khác: BIỂU SỐ 4: TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG NINH GIANG Đơn vị: triệu đồng CHỈ TIÊU 2000 2001 2002 so sánh năm 2002/2001 Số tiền Tỷ trọng Tổng thu nhập 3.919 4.860 6.519 1.659 34,1 Tổng chi phí 27.88 2.735 3.569 834 30,5 Chênh lệch thu – chi 1,131 2.125 2.950 825 38,8 Hệ số lương 1,4 1,65 1,237 (Số liệu theo bảng tính toán quỹ thu nhập năm 2000, 2001, 2002 của NHNo & PTNT huyện Ninh Giang ) Trong quá trình kinh doanh, Ngân hàng nông nghiệp Ninh Giang đã luôn cố gắng tiết kệm các khoản chi phí không cần thiết và tích cực đôn đốc thu. Vì vậy kết quả kinh doanh hàng năm luôn có lãi và đạt được hệ số lương tối đa do Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam quy định (hệ số lương tối đa năm 2000 là 1,4, 2001là 1,65và 2002 là 1,273). 2.4. Công tác thanh toán: Công tác thanh toán trong mấy năm gần đây đã có nhiều chuyển biến, đáp ứng yêu cầu thanh toán chi trả cho khách hàng đầy đủ, nhanh gọn, công tác thanh toán không ngừng được cải tiến. Gần đây NHNo & PTNT huyện Ninh Giang đã được trang bị lại hệ thống máy vi tính nối mạng, đẩy mạnh ứng dụng tin học vào hệ thống thanh toán, ngày càng có nhiều khách hàng đến với NHNo & PTNT huyệnNinh Giang. Thực hiện chế độ nghiệp vụ kế toán cho vay, kế toán thanh toán, kế toán tài sản... số liệu đảm bảo chính xác, cập nhật đầy đủ, đúng chế độ quy định, các nghiệp vụ kế toán khác như thanh toán liên hàng, chuyển tiền điện tử được thực hiện thường xuyên, đảm bảo nhanh chóng, chính xác theo yêu cầu của khách hàng và đúng chế độ quy định, thái độ và tác phong giao dịch của cán bộ tận tình, chu đáo. * Công tác ngân quỹ Tổng thu tiền mặt trong năm 2002 : 265.781 triệu Tổng chi tiền mặt năm 2002 : 265.515 triệu Trong năm đã trả lại tiền thừa cho khách hàng 147 món, số tiền 46.150.000đ, phát hiện và thu hồi tiền giả 425 tờ tiền giả với số tiền 10.150.000đ Nhìn chung công tác ngân quỹ của Ngân hàng Nông nghiệp Ninh Giang đã chấp hành tốt các quy định về an toàn kho quỹ, các sổ quỹ, sổ ra vào kho, sổ bàn giao chìa khoá kho... đều được lập và ghi chép đúng chế độ quy định, không để xảy ra mất mát, thiếu hụt quỹ. Ngoài việc thực hiện tốt công tác chuyên môn, nghiệp vụ, NH còn làm tốt các mặt công tác khác như thiết lập tốt mối quan hệ với các cơ quan pháp luật trên địa bàn cùng kết hợp thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, đặc biệt trong công tác thu nợ. Bên cạnh đó, Ngân hàng Ninh Giang còn luôn tổ chức và tham gia các phong trào văn hoá - thể thao, hội thi tìm hiểu pháp luật, nghiệp vụ kiểm ngân, tin học, cán bộ tín dụng giỏi... tạo ra phong trào thi đua sôi nổi trong cơ quan, động viên cán bộ hăng say trong công việc. II. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ TOÁN CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP HUYỆN NINH GIANG 1. Tình hình kế toán cho vay nói chung. Kế toán cho vay hộ sản xuất trong năm 2002 dư nợ là 70.256 triệu đồng: doanh số cho vay là 67.627 triệu đồng, doanh số thu nợ là 45.625 triệu đồng, như vậy công tác kế toán cho vay tại Ngân hàng Ninh Giang chủ yếu là cho vay hộ sản xuất đây là hình thức cho vay đựoc khách hàng chuyên dùng và phù hợp hình thức cho vay này dùng cho chi phí sản xuất, thời hạn cho vay gắn với chu kỳ sản xuất và lưu thông, áp dụng thời gian cho vay lưu vụ xong thời hạn kéo dài không quá 12 tháng đối với cho vay nhắn hạn, vốn cho vay trung hạn và dài hạn thời gian từ trên 12 tháng đến dưới 5 năm, còn vốn cho vay dài hạn từ năm 5 trở lên.Kế toán cho vay phải thực hiện những công việc sau : -Phải xác lập các hồ sơ, chứng từ cho vay một cách hợp lệ, một cách đầy đủ kiểm soát chứng từ khi phát tiền vay. -Hạch toán kịp thời chính xác các khoản vay trong suốt quá trình sử dụng tiền vay cho đến khi khoản vay đã được trả hết cả gốc và lãi tiền vay. -Quản lý hồ sơ, chứng từ chặt chẽ khoa học, để đảm bảo thu hồi nợ kịp thời nhằm bảo vệ an toàn tài sản cuối tháng sao kê toàn bộ hồ sơ hợp đồng tín dụng đối chiếu giữa sao kê với sổ phụ khớp nhau.Và tổng hợp tín dụng của từng loại vay. -Làm tham mưu cho hoạt động tín dụng để nâng cao hiệu quả và ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24135.doc
Tài liệu liên quan