Một số vấn đề về hiệu quả kinh doanh ở Công ty Du lịch & Thương mại Than Việt Nam

Lời mở đầu Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay thành phần kinh tế nhà nước có vị trí rất quan trọng, cùng với kinh tế tập thể tạo thành lực lượng chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước quy định tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa và quyết định sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên do nhiều lý do chủ quan và khách quan, các doanh nghiệp nhà nước của chúng ta hiện nay chưa đạt được hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Nhận thức rõ điều

doc48 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1362 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về hiệu quả kinh doanh ở Công ty Du lịch & Thương mại Than Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này Đại hội Đảng IX đã đề ra định hướng kế hoạch 5 năm 2001-2005: “Hoàn thành về cơ bản việc sắp xếp, tổ chức lại và đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh, đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước” Do đó, các doanh nghiệp nhà nước phải trang bị cho mình những xu hướng mới, phương thức mới, cách thức mới để tồn tại và khẳng định mình trên thương trường. Nhưng vấn đề đặt ra trước mắt là hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại, du lịch còn rất thấp. Đây cũng là nhân tố quyết định đến sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và của đất nước nói chung. Để thực hiện được nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó thì các doanh nghiệp phải chú ý nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Nhận thức được tầm quan trọng của hiệu quả sản xuất kinh doanh trong đợt thực tập ngắn tại Công ty Du lịch và Thương mại Than Việt Nam, một Doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc UBND Thành phố Hà Nội, cùng với sự hướng dẫn tận tình của TS Trần Đình Hiền nên em đã chọn đề tài: “Một số vấn đề về hiệu quả kinh doanh ở Công ty Du lịch và Thương mại Than Việt Nam” làm chuyên đề tốt nghiệp. Nội dung bài viết của em gồm những phần sau: - Lời mở đầu - Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước. - Chương 2: Thực trạng kinh doanh ở Công ty Du lịch và Thương mại Than Việt Nam 2000 - 2002. - Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu qủa kinh doanh ở Công ty Du lịch và Thương mại Than Việt Nam các năm 2003 - 2005. - Kết luận. Với khả năng và thời gian có hạn nên bài viết của em còn có nhiều khiếm khuyết và sai sót, em rất mong nhận được sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của thầy giáo để em được học hỏi và rút kinh nghiệm. Chương 1 cơ sở lý luận về hiệu qủa kinh doanh trong Doanh nghiệp Nhà nước 1.1. Doanh nghiệp và những vần đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp 1.1.1. Doanh nghiệp Doanh nghiệp là một đơn vị kinh doanh hàng hoá dịch vụ theo nhu cầu thị trường và xã hội để đạt được lợi nhuận tối đa và đạt hiệu qủa kinh tế xã hội cao nhất. Một doanh nghiệp tiến hành kinh doanh có hiệu quả là doanh nghiệp thoả mãn được tối đa nhu cầu thị trường và xã hội về hàng hoá dịch vụ trong giới hạn cho phép của nguồn nhân lực hiện có và thu được lợi nhuận nhiều nhất, đem lại hiệu qủa kinh tế xã hội cao nhất. * Có thể phân loại doanh nghiệp theo nhiều cách khác nhau: - Theo ngành kinh tế kỹ thuật ta có doanh nghiệp công nghiệp, xây dựng, doanh nghiệp nông nghiệp, ngư nghiệp, doanh nghiệp thương nghiệp, doanh nghiệp vận tải, kinh doanh du lịch, kinh doanh tiền tệ... - Theo cấp quản lý ta có doanh nghiệp do trung ương quản lý và doanh nghiệp do địa phương quản lý. - Theo hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, ta có đa hình thức tổ chức kinh doanh: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp công tư hợp doanh, doanh nghiệp tập thể (hợp tác xã) doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn ... ở nước ta hiện nay doanh nghiệp nhà nước có vị trí nòng cốt trong hệ thống doanh nghiệp. - Theo quy mô sản xuất kinh doanh ta có doanh nghiệp quy mô lớn, quy mô vừa và quy mô nhỏ. - Theo trình độ kỹ thuật có doanh nghiệp ở trình độ thủ công, doanh nghiệp nửa cơ khí, cơ khí hoá và tự động hoá. Các doanh nghiệp có quyền bình đẳng trước pháp luật của nhà nước trong sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ quyền hạn của các doanh nghiệp gắn chặt với nhau, các doanh nghiệp được thành lập, hoạt động và giải thể theo đúng quy định của pháp luật. * Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật, xã hội của từng loại doanh nghiệp, chúng ta có thể khái quát quá trình kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp thương mại - dịch vụ. - Đối với các doanh nghiệp sản xuất của cải vật chất, quá trình kinh doanh được gọi là quá trình sản xuất kinh doanh, đó là quá trình bao gồm từ việc đầu tiên là nghiên cứu, xác định nhu cầu thị trường về hàng hóa dịch vụ đến việc cuối cùng là tổ chức tiêu thụ hàng hóa và thu tiền về cho doanh nghiệp. Quá trình đó bao gồm rất nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn phải thực hiện một số công việc cụ thể theo một công nghệ hợp lý với một thời gian nhất định, tiêu hao một lượng chi phí nhất định về các nguồn lực được sử dụng. Quá trình kinh doanh bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau: + Nghiên cứu nhu cầu thị trường về hàng hoá và dịch vụ để giải quyết xem sản xuất cái gì. + Chuẩn bị đồng bộ các đầu vào theo quyết định sản xuất như: Lao động, đất đai, thiết bị, vật tư, kỹ thuật, công nghệ… + Tổ chức tốt quá trình kết hợp chặt chẽ, khéo léo giữa các yếu tố cơ bản của đầu vào để tạo ra hàng hoá và dịch vụ, trong đó lao động là yếu tố quyết định. + Tổ chức tốt quá trình tiêu thụ hàng hoá dịch vụ thu tiền về. - Đối với doanh nghiệp thương mại, dịch vụ thì quá trình kinh doanh diễn ra chủ yếu là mua và bán hàng hoá. Dịch vụ cho nên quá trình kinh doanh bao gồm các giai đoạn sau: + Nghiên cứu nhu cầu thị trường về hàng hoá và dịch vụ để lựa chọn và quyết định lượng hàng hoá cần mua để bán cho khách hàng theo nhu cầu thị trường. + Tổ chức việc mua các hàng hoá dịch vụ theo nhu cầu thị trường. + Tổ chức việc bao gói hoặc chế biến, bảo quản, chuẩn bị hàng hoá dịch vụ. + Tổ chức việc bán hàng hoá và thu tiền về cho doanh nghiệp và chuẩn bị cho quá trình kinh doanh tiếp theo. Như vậy, nhìn tổng quát quá trình kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng tổng hợp với rất nhiều yếu tố chính trị, kinh tế kỹ thuật, tổ chức, tâm lý và xã hội. Muốn cho quá trình kinh doanh đạt được hiệu quả cao phải giải quyết đồng bộ nhiều biện pháp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Nhân tố kinh tế có vai trò quyết định trong nền kinh tế thị trường nhưng không được coi nhẹ những nhân tố xã hội, đặc biệt là nhân tố đảm bảo tính định hướng XHCN. 1.1.2. Những vấn đề kinh tế cơ bản của một doanh nghiệp Lịch sử phát triển của nền kinh tế đã chứng minh: Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải giải quyết tốt ba vấn đề kinh tế cơ bản là : Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai ? * Quyết định sản xuất cái gì: nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ rất phong phú, đa dạng và ngày càng tăng về số lượng và chất lượng. Các nhà kinh doanh phải tính toán khả năng sản xuất của doanh nghiệp và các chi phí tương ứng để lựa chọn và quyết định sản xuất và cung ứng cái thị trường cần để có thể đạt lợi nhuận tối đa. Việc lựa chọn để quyết định sản xuất cái gì chính là quyết định sản xuất những loại hàng hoá, dịch vụ nào, số lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào, thời điểm nào thì sản xuất và cung ứng. Vấn đề cung, cầu, cạnh tranh trên thị trường tác động qua lại với nhau để có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định giá cả và số lượng hàng hoá cần cung cấp. Giá cả thị trường là thông tin có ý nghĩa quyết định đối với việc lựa chọn sản xuất và cung ứng những hàng hoá nào có lợi nhất. * Quyết định sản xuất như thế nào: Sau khi lựa chọn được cái gì cần sản xuất, các nhà kinh doanh phải xem xét và lựa chọn việc sản xuất những hàng hoá và dịch vụ đó như thế nào để sản xuất nhanh và nhiều theo nhu cầu thị trường với chi phí ít nhất. Do vậy phải quyết định giao cho ai sản xuất hàng hoá dịch vụ này, bằng nguyên liệu gì, thiết bị dụng cụ nào, công nghệ sản xuất ra sao. Để đứng vững và cạnh tranh thắng lợi trên thị trường, các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới kỹ thuật và công nghệ, nâng cao trình độ sản xuất nhằm làm cho hàng hoá dịch vụ lưu thông trên thị trường có chất lượng cao và được người tiêu dùng ưa thích. Chất lượng hàng hoá dịch vụ là vấn đề quyết định sống còn đến uy tín của doanh nghiệp. * Quyết định sản xuất cho ai: Phải xác định rõ ai sẽ được thụ hưởng và được lợi từ hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp. Hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp sẽ được phân phối cho tập thể và cho cá nhân như thế nào để tạo động lực kích thích cho sự phát triển kinh tế- xã hội và đáp ứng các nhu cầu xã hội khác. Như vậy, ba vấn đề kinh tế cơ bản nói trên đều cần được giải quyết trong mọi xã hội, dù là Nhà nước xã hội chủ nghĩa hay Nhà nước Tư sản, một địa phương, một ngành, một doanh nghiệp... Các vần đề này là nền tảng cho một doanh nghiệp khi bắt đầu tham gia vào hoạt động muốn mở rộng quy mô hoạt động, sản xuất và kinh doanh thêm một hay nhiều chủng loại hàng hoá nữa. Đây cũng là những vấn đề cần giải quyết một khi doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. 1.2. Doanh nghiệp nhà nước. Điều 1 Luật doanh nghiệp nhà nước do Quốc hội thông qua ngày 20/4/1995 viết: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam ”. Do có những đặc trưng khác biệt với các doanh nghiệp khác nên chia doanh nghiệp nhà nước như sau: * Dựa vào quy mô và hình thức tổ chức của doanh nghiệp có thể chia doanh nghiệp nhà nước thành Tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước độc lập và doanh nghiệp nhà nước thành viên. - Tổng công ty nhà nước là doanh nghiệp có quy mô lớn, được thành lập và hoạt động trên cơ sở liên kết nhiều đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, cung ứng, tiêu thụ... Tổng công ty nhà nước có thể có các đơn vị thành viên như: đơn vị hạch toán độc lập, đơn vị hạch toán phụ thuộc, đơn vị sự nghiệp. Tổng công ty nhà nước được phân biệt thành Tổng công ty 91 và Tổng công ty 90. - Doanh nghiệp nhà nước độc lập là doanh nghiệp nhà nước không nằm trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp nhà nước độc lập còn được phân biệt thành doanh nghiệp có quy mô lớn, quy mô vừa, quy mô nhỏ. - Doanh nghiệp nhà nước thành viên là doanh nghiệp nằm trong cơ cấu của Tổng công ty nhà nước. * Dựa vào mục đích hoạt động của doanh nghiệp thì có thể phân biệt doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. - Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh là doanh nghiệp nhà nước hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận. Đối với loại doanh nghiệp này thì đưa hàng hoá và dịch vụ của mình phục vụ một cách tối đa nhu cầu của khách hàng là mục tiêu được như vậy mức lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ được nâng cao , từ đó doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô kinh doanh, làm tốt nghĩa vụ đối với nhà nước. Mục tiêu lợi nhuận chính là cốt lõi của sự tồn tại lâu dài đối với doanh nghiệp. * Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích là doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích hoạt động trong một số lĩnh vực như: dược phẩm, cấp thoát nước, môi trường đô thị, in ấn, phục vụ quốc phòng, an ninh… Đối với các doanh nghiệp này phải sản xuất hay cung ứng dịch vụ theo chỉ tiêu pháp lệnh, giá cả sản phẩm do nhà nước ấn định, có những hàng hoá dịch vụ giá bán thấp hơn giá thành. Trong thời kỳ bao cấp, doanh nghiệp nhà nước có vai trò quyết định ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, là nơi sản xuất và cung ứng đại bộ phận hàng hoá dịch vụ là bộ phận đóng góp chủ yều cho ngân sách nhà nước. Hiện nay, số lượng đã giảm đi khá nhiều so với thời kỳ bao cấp, song những các doanh nghiệp nhà nước vẫn phát huy được vai trò của mình trong những ngành quan trọng, đặc biệt là trong nền kinh tế doanh nghiệp nhà nước vẫn là bộ phận quan trọng đóng góp chủ yếu cho nguồn thu ngân sách. 1.3. Khái niệm, bản chất của hiệu quả kinh doanh. Do điều kiện lịch sử và góc độ nghiên cứu khác nhau nên có rất nhiều định nghĩa về hiệu quả kinh doanh. - Quan điểm thứ nhất: hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự so sánh giữa đầu vào và đầu ra, giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu được. Do đó, thước đo hiệu quả là sự tiết kiệm chi phí lao động xã hội và tiêu chuẩn của hiệu quả là việc tối đa hóa kết quả hoặc tối thiểu hóa chi phí dựa trên điều kiện nguồn lực sẵn có. - Quan điểm thứ hai: hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu so sánh biểu hiện mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng khối lượng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội của nền kinh tế quốc dân. - Quan điểm thứ ba: Hiệu qủa kinh doanh phản ánh mối quan hệ tương phản giữa khối lượng các kết qủa kinh doanh đạt được với khối lượng các yếu tố đầu vào đã tiêu tốn để đạt được các kết quả đó. Như vậy, hiệu quả kinh doanh thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo mục đích nhất định. Hiệu qủa kinh doanh không những là thước đo phản ánh trình độ tổ chức quản lý kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại phải kinh doanh có hiệu quả, hiệu quả kinh doanh càng cao doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng phát triển kinh tế, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trình độ công nghệ mới, cải thiện và nâng cao đời sống người lao động. - Hiệu quả kinh doanh được xem xét dưới hai góc độ: Hiệu quả tài chính và hiệu qủa kinh tế - xã hội. + Hiệu quả tài chính: là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực của doanh nghiệp để đạt được kết qủa cao nhất trong quá trình kinh doanh với chi phí bỏ ra ít nhất. + Hiệu quả kinh tế - xã hội: là một phạm trù kinh tế phản ánh sự tham gia đóng góp của doanh nghiệp vào việc thực hiện các mục tiêu xã hội của nền kinh tế quốc dân. Việc đánh giá hiệu quả về mặt tài chính hay kinh tế - xã hội chỉ mang tính chất tương đối vì ngày nay một chỉ tiêu cũng có hai mặt của hiệu quả. Hiệu qủa tài chính mà tăng lên sẽ kéo theo mức tăng của hiệu quả kinh tế - xã hội và ngược lại. Tuy nhiên phải đạt được hiệu quả tài chính thì mới có thể nâng cao được hiệu quả kinh tế - xã hội, sau đó hiệu quả kinh tế - xã hội lại đáp ứng những thành quả và kích thích làm tăng hiệu quả tài chính. Một doanh nghiệp đạt được hiệu quả tài chính cao sẽ thực hiện tốt nghĩa vụ với Nhà nước, góp phần nâng cao cơ sở vật chất hạ tầng. Khi hạ tầng cơ sở tốt sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh để đạt hiệu quả tài chính cao. Hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh được phản ánh chủ yếu qua giá mua vào và giá bán ra còn hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất phải quan tâm đến giá cả giữa đầu vào của nguyên vật liệu với việc nâng cao hiệu quả trong quá trình sản xuất sản phẩm. Nhưng nhìn chung khi xét đến hiệu quả kinh tế thì bất kể là doanh nghiệp sản xuất hay doanh nghiệp thương nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân đều quan tâm đến một mục tiêu: Lợi nhuận và nâng cao hiệu quả kinh doanh. 1.4. Một số chỉ tiêu và tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp 1.4.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh Các chỉ tiêu hiệu quả thường được tính bằng tỷ số giữa các kết qủa kinh doanh và các yếu tố nguồn lực kinh doanh hiện có hoặc thực tế đã huy động vào các hoạt động kinh doanh trong mỗi giai đoạn. Dưới đây là một số chỉ tiêu tính bình quân cơ bản để đánh giá hiệu quả kinh doanh. Trước hết là các chỉ tiêu tổng hợp: Hiệu quả sản xuất kinh doanh = Đầu ra - đầu vào. Đầu ra Đầu vào Hiệu quả sản xuất kinh doanh = ´ 100% 1. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động: Doanh thu - Năng suất lao động = Số lao động Mức năng suất lao động bình quân phản ánh khả năng doanh thu trung bình của một người lao động. Lợi nhuận - Doanh lợi lao động = Số lao động Chỉ tiêu này cho biết khả năng thu lợi trung bình của một người lao động. 2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn: - Năng suất vốn = Doanh thu Vốn kinh doanh Phản ánh khả năng tạo ra doanh thu của 1 đồng vốn bỏ ra - Hiệu suất sử dụng vốn lưu động Hiệu suất sử dụng vốn lưu động = Lợi nhuận Tổng vốn lưu động ý nghĩa chỉ tiêu: cứ một đồng vốn lưu động tạo ra n đồng lợi nhuận. - Hiệu suất sử dụng vốn cố định Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Lợi nhuận Tổng vốn cố định ý nghĩa chỉ tiêu: cứ một đồng vốn cố định tạo ra n đồng lợi nhuận. Lợi nhuận - Doanh lợi vốn = Vốn kinh doanh Đây là chỉ tiêu quan trọng, nó là chỉ tiêu thực phản ánh khả năng sinh lợi của 1 đồng vốn bỏ ra. Chỉ tiêu này là chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. 3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả các yếu tố đưa vào sử dụng. Doanh thu - Năng suất chi phí = Chi phí Phản ánh mức thu về của một đồng chi phí Lợi nhuận - Doanh lợi chi phí = Chi phí Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lợi của 1 đồng chi phí. 1.4.2. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh doanh Khi sử dụng các chỉ tiêu đánh giá chung về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chúng ta vẫn thực hiện việc so sánh để xác định tăng giảm, cao thấp. Đó là cách đánh giá hiệu quả ở trạng thái động. Chúng ta còn có thể xem xét cách đánh giá ở trạng thái tĩnh. Để đẩy mạnh đổi mới và quản lý có hiệu quả đối với các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là với các doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ đã đưa ra 6 tiêu chí để đánh giá các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hay không, các tiêu chí được đăng trên tạp chí thời báo kinh tế số 31 quy định một doanh nghiệp được coi là hoạt động có hiệu quả khi hội đủ các tiêu chuẩn sau: - Bảo toàn và phát triển được vốn kinh doanh, trích khấu hao tài sản cố định theo đúng quy định của chế độ hiện hành. - Kinh doanh có lãi, nộp đủ tiền thu sử dụng vốn và lập đủ các quỹ doanh nghiệp. Dự phòng tài chính, trợ cấp mất việc cho người lao động, đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng, phúc lợi... - Nộp đủ các khoản nợ đến hạn (tức không có nợ quá hạn). - Nộp đủ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động theo luật định. - Trả lương cho người lao động tối thiếu phải bằng mức bình quân của các doanh nghiệp trên cùng địa bàn. Chỉ khi nào đạt được 6 tiêu chuẩn trên thì một chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp có vai trò nổi bật là mức doanh lợi chung mới là chỉ tiêu thực, không có tình trạng giả. Các doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả khi kinh doanh thua lỗ từ 2 năm liên tục trở lên mà tổng số nợ luỹ kế khó đòi, các khoản giảm giá tài sản đã chiếm trên 3/4 vốn sản xuất kinh doanh và không có thị trường tiêu thụ ổn định. 1.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của công ty. Hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, nó có liên quan tới tất cả các mặt trong hoạt động kinh doanh, do đó nó chịu tác động bởi nhiều nhân tố chủ quan và khách quan: 1.5.1. Nhân tố chủ quan. * Nhân tố về lực lượng lao động Trong doanh nghiệp, lực lượng lao động Tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bằng lao động sáng tạo của con người có thể tạo ra công nghệ mới, thiết bị máy móc mới, nguyên vật liệu mới... có hiệu quả hơn hoặc cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất hiệu quả kinh tế so với trước. Trong thực tế máy móc hiện đại đến đâu nếu không có con người sử dụng thì cũng không thể phát huy được tác dụng. Ngược lại nếu có máy móc thiết bị hiện đại mà con người không có trình độ kỹ thuật và trình độ tổ chức quản lý thì không những không tăng được hiệu quả mà còn tốn kém chi phí bảo dưỡng sửa chữa vì sai lầm, hỏng hóc do không biết sử dụng gây ra. * Nhân tố về vận dụng đòn bẩy kinh tế Nhân tố này cho phép doanh nghiệp khai thác tới mức tối đa tiềm năng về lao động, tạo điều kiện cho mọi người, mọi khâu và các bộ phận trong doanh nghiệp phát huy được đầy đủ quyền chủ động sáng tạo trong quá trình sản xuất kinh * Nhân tố kỹ thuật và công nghệ Nhân tố này cho phép các doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, nhờ đó mà tăng khả năng cạnh tranh, tăng vòng quay của vốn lưu động, tăng lợi nhuận, bảo đảm thực hiện yêu cầu quy luật tái sản xuất mở rộng. * Nhân tố về tổ chức Quá trình sản xuất trong doanh nghiệp nhân tố này bảo đảm cho dây chuyền sản xuất cân đối, cho phép doanh nghiệp khai thác tới mức tối đa các yếu tố vật chất trong sản xuất nhờ đó mà góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. * Nhân tố về quản lý Nhân tố này tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng hợp lý và tiết kiệm các yếu tố vật chất trong quá trình kinh doanh, giúp lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra những quyết định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp chính xác, kịp thời tạo ra những động lực to lớn để khuyến khích sản xuất phát triển. 1.5.2. Nhóm nhân tố khách quan. Là những nhân tố tác động từ bên ngoài có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực tới hiệu quả sản xuất kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp cần nỗ lực ứng phó cùng với sự trợ giúp của Chính phủ hoặc các bộ ngành có liên quan. Chúng ta có thể khái quát thành hai nhóm: + Môi trường vĩ mô: Bao gồm các yếu tố về điều kiện tự nhiên; điều kiện về dân số và lao động; các điều kiện chính trị, chính sách của Nhà nước; xu hướng phát triển kinh tế xã hội; tình hình ngoại thương, ngoại hối; các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các điều kiện văn hóa xã hội có liên quan... + Môi trường vi mô: Bao gồm các yếu tố gắn liền với từng loại doanh nghiệp như thị trường đầu vào, thị trường đầu ra... Thị trường đầu vào: là thị trường cung ứng nguyên vật liệu, ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng sản xuất của doanh nghiệp nên đòi hỏi có sự cung cấp kịp thời và đảm bảo cả về số lượng, chất lượng và giá cả. Thị trường đầu ra: là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Nó quyết định sản lượng tiêu thụ, do đó quyết định năng lực sản xuất và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao thì mỗi doanh nghiệp cần thực hiện nghiên cứu, phân tích, dự đoán chính xác nhu cầu thị trường để từ đó có biện pháp xử lý đúng đắn, kịp thời. Chương 2 Thực trạng kinh doanh của Công ty Du lịch và thương mại Than Việt Nam 2000 - 2002 2.1. Khái quát về công ty 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Hoà nhập với sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là từ thang 10 năm 1995, khi chính phủ quyết định thành lập Tổng công ty Than Việt Nam, nghành thna đã thu hút được những kết quả bước đầu đáng khích lệ và đang trên đường tạo ra cho mình những tiền đề để trở thành một tập đoàn kinh tế lớn mạnh của nước nhà. Bên cạnh đó, Đảng và nhà nước ta đã khẳng định, du lịch là một ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chính sách mở cửa đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam du lịch và tìm kiếm cơ hội làm ăn, đầu tư. Một yếu tố quan trọng là mọi ngành phải cùng nhau góp sức đưa du lịch sang giai đoạn phát triển mới. Nghị định số 27/CP, ngày 06/05/1996 là văn bản pháp lý xác định và ủng hộ chiến lược kinh doanh đa dạng, tổng hợp của ngành than trên nền công nghiệp than. Văn bản đã qui định chức năng, nhiệm vụ và ngành nghề kinh doanh của Tổng Công Ty Than Việt Nam, trong đó đã cho phép Tổng Công Ty Than Việt Nam được hành nghề kinh doanh du lịch bằng một Công Ty Du Lịch Than Việt Nam. Cùng với quyết định số 1381 QĐ- HĐQT ngày 13/12/01 của HĐQT Tổng công ty Than Việt Nam về việc đổi tên Công ty Du lịch Than Việt Nam thành Công ty Du lịch và thương mại Than Việt Nam. Việc thành lập công ty, một doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập, đơn vị thành viên của Than Việt nam vừa là điều kiện thực tế thuận lợi, vừa là nhiệm vụ được giao cần thực hiện. Công ty Du lịch và thương mại Than Việt Nam là doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty Than Việt Nam vừa là doanh nghiệp Nhà nước Công ty có tư cách pháp nhân đầy đủ, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng phù hợp với phương thức hach toán của mình. - Tên cơ quan: Công ty Du lịch và thương mại Than Việt Nam VTTC thuộc Tổng công ty Than Việt Nam. - Địa chỉ: 226 Lê Duẩn. - Điện thoại: 5180079. - Fax: 84- 48510413. - Tài khoản số: 0011000381367. - Mã số thuế: 0100101298 - Tổng số đầu tư ban đầu: 2.200.000.000 VNĐ + Vốn cố định: 2.000.000.000 VNĐ + Vốn lưu động: 200.000.000 VNĐ 2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ chính của công ty - Kinh doanh lữ hành Nội địa và Quốc tế: Ký hợp đồng với các đơn vị du lịch trong nước và quốc tế, với các doanh nghiệp, tổ chức và các địa phương để khai thác khách du lịch, tổ chức các Tour du lịch trọn gói cho khách trong nước và khách quốc tế. - Tổ chức kinh doanh khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê, nhà hàng, vũ trường, karaoke, khu vui chơi giải trí và các dịch vụ kèm theo: thông tin liên lạc, các dịch vụ thể thao, văn hoá, vật lý trị liệu, phục hồi chức năng và sức khoẻ... - Vận chuyển du lịch và các dịch vụ liên quan, sản xuất gia công và chế biến các loại hàng hoá khác phục vụ du lịch, kể cả đồ ăn thức uống, kem và mọi sản phẩm khác cho xuất khảu và phục vụ du lịch tại chỗ. - Kinh doanh các dịch vụ thương mại, tư vấn, dịch thuật, hướng dẫn du lịch, phục vụ hội nghị, tuyên truyền quảng cáo. Tổ chức các cửa hàng kinh doanh phục vụ du khách. - Dịch vụ kiều hối, đổi tiền và các cửa hàng mỹ nghệ lưu niệm. - Làm thủ tục xuất nhập cảnh cho du khách từ nước ngoài vào Việt Nam và doanh nhân, du khách Việt Nam đi ra nước ngoài. - Trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa phục vụ du lịch. - Dịch vụ đầu tư và phát triển du lịch. - Ngoài ra, Công ty du lịch Than Việt Nam là nhiệm vụ là cầu nối, tạo lập và phát triển các mối quan hệ hữu nghị thương mại giữa tổ chức công đoàn Than Việt Nam với các tổ chức công đoàn Than các nước khác trên thế giới; các Hiệp hội và Tổ chức du lịch công đoàn quốc tế khác để phục vụ cho sự mở rộng giao lưu quốc tế và góp phần đắc lực vào sự phát triển nói chung. 2.1.3. Tổ chức bộ máy của công ty * Qui mô của doanh nghiệp Công ty gồm có: Bộ máy quản lý điều hành toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ của toàn Công ty (gọi là cơ quan Công ty) và hệ thống các đơn vị thành viên trực thuộc Công ty, là các đơn vị trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh và dịch vụ, hạch toán phụ thuộc Công ty đồng thời có tư cách pháp nhân không đầy đủ, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng phù hợp với phương thức hạch toán được phân cấp của Công ty tại địa phương, hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ theo đề án riêng và theo kế hoạch của Công ty giao. Như vậy, trong hoạt động của mình, Công ty sẽ có hình tổ chức và quản lý được phân thành hai cấp: - Cấp Công ty (cơ quan Công ty) bao gồm: Ban giám đốc, các phòng ban tham mưu, giúp việc. - Cấp các đơn vị trực thuộc, trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh và dịch vụ, hoạt động theo ngành nghề được phân công và pháp luật cho phép. * Bộ máy điều hành công ty Gồm có Giám đốc, 2 đến 3 Phó Giám đốc, các phòng ban tham mưu giúp việc và văn phòng Công ty, cụ thể: - Giám đốc: nắm quyền điều hành cao nhất, được xem là chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm trước Tổng Công ty, Nhà nước và pháp luật về mọi hoạt động của Công ty theo chức năng và nhiệm vụ được Tổng Công ty giao. - Phó giám đốc phụ trách du lịch: chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty, cấp trên và pháp luật về mọi hoạt động về du lịch lữ hành, các dịch vụ du lịch kèm theo như; khách sạn, nhà hàng, vận chuyển du lịch... - Phó giám đốc phụ trách thương mại, xuất nhập khẩu, hợp tác lao động quốc tế, sản xuất gia công chế biến hàng hoá, dịch vụ kiầu hối, vàng bạc, nghiệp vụ kinh tế chung... - Phó giám đốc phụ trách đầu tư, tư vấn phát triển, thị trường, đầu tư xây dựng cơ bản, kinh doanh bất động sản và dịch vụ tổng hợp khác. - Kế toán trưởng: Công ty phụ trách công tác kế toán thống kê theo qui định của Điều lệ kế toán trưởngvà pháp lệnh kế toán thống kê. - Các phòng (ban) chức năng gồm: Tổ chức hành chính, Quản lý du lịch, kế hoạch + Đầu tư + xuất nhập khẩu, kế toán thống kê, có sơ đồ cụ thể. Các phòng ban chịu sự điều hành trực tiếp của các Phó giám đốc phụ trách các lĩnh vực và sự chỉ đạo chung của Giám đốc. * Các đơn vị trực thuộc, trực tiếp sản xuất kinh doanh và dịch vụ - Trung tâm điều hành Du lịch (lĩnh vực hoạt động bao gồm du lịch lữ hành, các hình thái du lịch khác và các dịch vụ du lịch kèm theo). Trong hoạt động kinh doanh của mình, Trung tâm điều hành du lịch có trách nhiệm phối hợp hoạt động của tất cả các khách sạn, nhà hàng, vũ trường, khu du lịch và dịch vụ tổng hợp thuộc ngành Than, nằm ở mọi miền và khu vực thành một mạng lưới lưu trú, vui chơi cho khachs du lịch và nghỉ ngơi theo tour chọn gói. - Các khách sạn hoạt động theo chức năng, ngành nghề đã được nhà nước qui định cho hoạt động khách sạn. - Trung tâm xuất nhập khẩu hàng hoá phục vụ du lịch và kinh doanh phục vụ khách - Xí nghiệp sản xuất, chế biến và kinh doanh hàng hoá dịch vụ du lịch. - Nhà hàng: Kinh doanh ăn uống tổng hợp (Quần thể dịch vụ du lịch) - Công ty chịu trách nhiệm điều hành: Khách sạn Thanh Lịch Hạ Long - 297 Kim Mã - Quận Ba Đình - TP. Hà Nội. Khách sạn Biển Đông - Khu Vườn Đào - Bãi Cháy - TP. Hạ Long - Tỉnh Quảng Ninh. Khách sạn Vân Long - Cẩm Phả - Quảng Ninh. sơ đồ tổ chức Giám đốc công ty Phó Giám đốc phụ trách du lịch Phó Giám đốc phụ trách thương mại xuất nhập khẩu và hợp tác lao động quốc tế Phó Giám đốc phụ trách dịch vụ đầu tư tư vấn và phát triển Kế toán trưởng Phòng Tổ chức Hành chính Phòng Quản lý Du lịch Phòng Kế hoạch Đầu tư xuất nhập khẩu Phòng Kế toán Thống kê Trung tâm điều hành Du lịch Khách sạn (*) Nhà hàng Xí nghiệp sản xuất chế biến hànG hóa Trung tâm XNK hàng hóa phục vụ Du lịch Khu Du lịch và Dịch vụ tổng hợp Ghi chú: (*) Khách sạn trong sơ đồ này là những khách sạn sẽ được xây mới. Các khách sạn hiện có thuộc các Công ty như hiện nay không nằm trong cơ cấu tổ chức của Công ty Du lịch Than Việt Nam * Chức năng, nhiệm vụ cụ thể của bộ máy giúp việc + Phòng tổ chức lao động: Tham mưu và giúp cho Giám đốc trong lĩnh vực công tác tổ chức nhân sự, cán bộ, công tác lao động, tiền lương, công tác thanh tra kiểm toán nội bộ, các công việc liên quan đến chế độ cho người lao động theo Bộ luật lao động và các vấn đề xã hội khác. Phòng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0236.doc
Tài liệu liên quan