Lời nói đầu
Hiện nay, ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới, bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách vô cùng quan trọng và có ảnh hưởng mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội đất nước. Từ năm 1961, theo Nghị định 218/CP, hệ thống BHXH Việt Nam đã chính thức ra đời. Và đặc biệt sau Nghị định 12/CP (ngày 26/1/1995), hệ thống BHXH Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Sau thời gian hơn 5 năm đổi mới, hệ thống BHXH Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, trong thời gian tới, hệ thốn
34 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1537 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về công tác thu và quản lý thu quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g BHXH vẫn cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện để hoàn thành nhiệm vụ là góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động. Trong các công tác toàn ngành BHXH thì công tác thu và quản lý thu là một chính sách đầu vào quan trọng có ảnh hưởng đến các công tác khác của ngành cũng như đến việc hoàn thiện ngành BHXH. Để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ do Nhà nước giao phó cho ngành BHXH, đồng thời để phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới, công tác thu và quản lý thu quỹ BHXH cần được nhìn nhận, đánh giá lại và đưa ra những định hướng phát triển phù hợp.
Sau một thời gian tìm tòi nghiên cứu và tham khảo ý kiến của thầy cô, bạn bè, em xin lựa chọn trình bày một số vấn đề về công tác thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam.
Nội dung đề án ngoài phần lời nói đầu và phần kết luận được kết cấu thành 3 phần, gồm 5 biểu
Phần 1: Khái quát về quỹ BHXH Việt Nam
Phần 2: Tình hình thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam
Phần 3: Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam.
Phần một: Khái quát về quĩ BHXH Việt Nam.
Nguồn quĩ BHXH và phương thức quản lý quĩ theo ILO
Xuất phát từ nhu cầu của người lao động là bù đắp một phần thu nhập khi họ gặp rủi ro làm mất hoặc giảm thu nhập, BHXH đã ra đời từ rất sớm. Năm 1883, nước Phổ (Cộng hoà liên bang Đức ngày nay) đã ban hành luật bảo hiểm ốm đau đầu tiên trên thế giới, đánh dấu sự ra đời của BHXH. Theo quá trình phát triển của xã hội, cho đến ngày nay, BHXH đã trở thành một trong những quyền cơ bản của con người và được xã hội thừa nhận. Trong Tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 của Liên hợp quốc đã ghi: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người”. Và hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện chế độ BHXH.
Tổ chức lao động quốc tế ILO (International Labor Organization) - một tổ chức quốc tế được thành lập để bảo vệ quyền lợi của người lao động trên toàn thế giới đã định nghĩa về BHXH như sau: “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua việc huy động các nguồn đóng góp để trợ cấp cho họ nhằm khắc phục những khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập gây ra bởi mất sức lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn nhằm góp phần ổn định hoạt động đời sống của gia đình và bản thân”. Như vậy, theo qui định của tổ chức ILO thì mọi người lao động đều có quyền tham gia BHXH, không phân biệt giới tính, độ tuổi, dân tộc, tôn giáo hay tính chất của quá trình lao động. Những người tham gia bảo hiểm xã có nghĩa vụ đóng góp một khoản tiền để hình thành một quĩ gọi là quỹ BHXH. Bên cạnh đó, người sử dụng lao động cũng có trách nhiệm đóng góp vào quĩ BHXH để bảo vệ cho người lao động mà họ đang thuê mướn. Nhà nước cũng đóng góp vào quĩ BHXH. Tuỳ theo qui định của từng quốc gia mà Nhà nước có thể đóng góp theo một tỷ lệ nào đó, đóng góp định kỳ hay đóng bù thiếu cho quĩ. Ngoài chế độ BHXH bắt buộc, ILO còn khuyến khích thực hiện BHXH tự nguyện. Tuy nhiên, hiện nay, ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, chế độ BHXH vẫn chưa được áp dụng cho tất cả mọi người lao động.
Mức đóng góp của người lao động là một tỷ lệ nhất định so với tiền lương hay thu nhập của họ. Tại các nước phát triển, do có chế độ quản lý tiền lương và thu nhập chặt chẽ, nên tiền lương của người lao động cũng xấp xỉ thu nhập thực tế của họ. Điều này sẽ giúp cho việc chi trả BHXH phù hợp với mức sống của người lao động.
Đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước tạo thành một quĩ - quĩ BHXH. Quĩ BHXH là một quĩ tài chính độc lập. Quĩ hoạt động theo nguyên tắc tự cân đối thu chi, nhằm mục đích chia sẻ rủi ro giữa những người lao động. Hầu hết ở các nước, chế độ BHXH đảm bảo cho người lao động về mặt thu nhập và y tế. Tuy nhiên, BHXH Việt Nam vẫn chưa có đủ khả năng thực hiện kết hợp cả hai chức năng này.
Quĩ BHXH sẽ do một cơ quan độc lập do chính phủ chỉ định quản lý. Tuỳ theo cách thức quản lý tài chính của từng nước mà quĩ BHXH được quản lý theo những cách khác nhau.
Hiện nay, Việt Nam chưa ký kết công ước quốc tế về BHXH của ILO, do vậy, những qui định chung về thu và quản lý thu quĩ BHXH không phải là bắt buộc đối với baỏ hiểm xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, những qui định này vẫn là phần cơ sở, phần khung đồng thời là mục tiêu để BHXH Việt Nam hoàn thiện thêm để đáp ứng nhu cầu chính đáng của người lao động.
Quĩ BHXH Việt Nam - phương thức thu và quản lý thu
BHXH Việt Nam chính thức ra đời theo nghị định 218/CP năm 1961. Sau đó để phù hợp với Bộ luật Lao động đã được thông qua tại kỳ họp khoá 5 Quốc hội khoá 9 ngày 23/6/1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995. Nghị định này đã đánh dấu những bước tiến cơ bản của ngành BHXH Việt Nam. Đây cũng là điểm mốc quan trọng về tình hình thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam.
2.1. Quĩ BHXH Việt Nam trước năm 1995 :
Vào khoảng thời gian trước năm 1995, đối tượng tham gia BHXH chỉ giới hạn là cán bộ công nhân viên chức làm việc trong khu vực Nhà nước và lực lượng vũ trang. Việc đóng góp của người lao động là rất nhỏ, nên nguồn quĩ chủ yếu là do ngân sách Nhà nước bao cấp. Quĩ BHXH thực sự là một gánh nặng của ngân sách Nhà nước. Vấn đề cấp bách đặt ra là cải cách phương thức thu và quản lý thu quĩ BHXH cũng như các vấn đề khác liên quan như các chế độ chi trả, qui định mức hưởng trợ cấp của từng chế độ.
2.2. Quỹ BHXH Việt nam sau năm 1995:
Sau Nghị định 12/CP năm 1995, chính sách BHXH mới đã có nhiều cải tiến mang lại tác dụng nhiều mặt trong việc bảo đảm an toàn xã hội. Đối tượng tham gia BHXH mở rộnh hơn thể hiện ở chỗ áp dụng đối với mọi người lao động trong cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế. Quĩ BHXH chủ yếu được hình thành trên cơ sở đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, Nhà nước chỉ hỗ trợ thêm. Chính phủ thành lập cơ quan BHXH Việt Nam có chức năng và nhiệm vụ quản lý quĩ BHXH, thực hiện thu, chi trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH. Như vậy, quĩ BHXH là một quĩ tài chính độc lập, thực hiện tự cân đối thu chi và đang giảm dần sự bao cấp của ngân sách Nhà nước.
Thực hiện cơ chế mới, quĩ BHXH đã dần dần đảm bảo ổn định cuộc sổng của người lao động và gia đình họ, góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Nội dung thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam
Các nguồn thu quĩ BHXH Việt Nam
Quĩ BHXH Việt Nam được hình thành từ các nguồn sau: do người lao động đóng góp, do người sử dụng lao động đóng góp, do Nhà nước bù thiếu và một số nguồn thu khác như: tiền nộp phạt của các doanh nghiệp chậm nộp tiền bảo hiểm, lãi đầu tư, giúp đỡ của các tổ chức từ thiện và quốc tế.
Do người lao động đóng góp
Người lao động - với tư cách là người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm đóng 5% so với tổng tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và tử tuất. Tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH gồm lương theo ngạch bậc, chức vụ, hợp đồng và các khoản phụ cấp khu vực, đắt đỏ, chức vụ, thâm niên, hệ số chênh lệch bảo lưu (nếu có).
Các đối tượng tham gia đóng BHXH bắt buộc như sau:
Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước
Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp; trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam.
Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể.
Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang.
Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện (hiện nay đã mở rộng đến cấp xã, phường).
Công chức viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện.
Các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng đóng BHXH bắt buộc.
Như vậy, những đối tượng được tham gia BHXH theo Nghị định 12/CP năm 1995 bao gồm người lao động trong mọi thành phần kinh tế và người lao động trong hầu hết các ngành. Tuy nhiên, cũng theo Nghị định này, đời sống của một lực lượng lao động đông đảo là nông dân nông thôn vẫn chưa được bảo đảm bởi hệ thống BHXH. Ngoài ra, còn có thợ thủ công, tiểu thương, người lao động trong các doanh nghiệp sử dụng ít hơn 10 lao động vẫn chưa được tham gia BHXH. Vì vậy, vấn đề mở rộng đối tượng tham gia BHXH là cấp thiết đối với hệ thống BHXH Việt Nam. Giải quyết được vấn đề này không những nhằm đảm bảo ổn định đời sống của toàn bộ xã hội mà còn là biện pháp để tăng nguồn thu quĩ BHXH.
Do người sử dụng lao động đóng góp
Khi thuê mướn người lao động, người sử dụng lao động cũng có nghĩa vụ đóng góp BHXH cho người lao động. Cụ thể là người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quĩ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Người sử dụng lao động có thể là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Nhà nước cũng tham gia đóng góp vào quĩ BHXH với tư cách là người sử dụng lao động tại các cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể, các tổ chức thuộc lực lượng vũ trang. Như vậy, tỷ lệ đóng góp của người sử dụng lao động gấp 3 lần tỷ lệ đóng góp của người lao động. Thông thường, ở các nước thì người sử dụng lao động đóng góp xấp xỉ gấp hai lần so với tỷ lệ đóng góp của người lao động.
Nhà nước bù thiếu
Ngoài việc tham gia đóng góp vào quĩ BHXH với tư cách người sử dụng lao động, ngân sách Nhà nước còn bù thiếu cho quĩ BHXH để giúp cho việc chi trả các chế độ hưu trí, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp mất sức lao động, bảo hiểm y tế, tử tuất đối với người đang hưởng BHXH trước Nghị định 43/CP năm 1993 và hỗ trợ để chi trợ cấp cho công nhân, viên chức nghỉ hưu sau Nghị định 43/CP. Như vậy, quĩ BHXH hạch toán độc lập nhưng vẫn chịu sự bao cấp một phần từ ngân sách Nhà nước, được sự bảo hộ của Nhà nước. Qui định này góp phần ổn định thu chi quĩ BHXH cũng như ổn định tình hình kinh tế xã hội. Tuy nhiên, xu hướng của quĩ BHXH Việt Nam là giảm dần bao cấp của ngân sách Nhà nước và tiến tới tự cân đối thu chi.
Bên cạnh các nguồn thu cơ bản từ người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước, quĩ BHXH còn được bổ sung bằng các nguồn khác tuy không ổn định nhưng cũng chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng thu quĩ BHXH.
Các nguồn khác
Do tham gia BHXH là bắt buộc nên cũng như nộp tiền bảo hiểm y tế, các loại thuế ..., tiền BHXH của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế do Nhà nước qui định tài khoản nộp, thời hạn nộp. Vì vậy, Nhà nước cũng có chế tài phạt doanh nghiệp nào chậm nộp tiền BHXH. Những doanh nghiệp chậm nộp tiền BHXH, ngoài tiền BHXH truy thu còn phải nộp thêm tiền lãi và tiền nộp phạt theo qui định của Nhà nước. Nguồn thu này ngoài tác dụng tăng thu cho quĩ BHXH còn là điều kiện thúc đẩy các doanh nghiệp nộp tiền BHXH đúng hạn để đảm bảo thu chi của quĩ BHXH.
Một nguồn thu không thường xuyên khác của quĩ BHXH là viện trợ không hoàn lại, viện trợ nhân đạo của các tổ chức trong nước và quốc tế. Tuy là nguồn thu không thường xuyên, nhưng nguồn thu này cũng góp phần bổ sung đáng kể cho quĩ BHXH, giúp quĩ thực hiện chức năng đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ.
Một nguồn thu khác cũng hết sức quan trọng, đó là lãi thu được từ hoạt động đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi của quĩ BHXH. Do quĩ BHXH hoạt động theo nguyên tắc thu trước, chi sau nên quĩ cần phải được bảo toàn và phát triển. Theo qui định của Nhà nước thì một lượng vốn nhàn rỗi nhất định của quĩ BHXH có thể được đem đầu tư để thu lãi nhưng phải bảo đảm nguyên tắc an toàn, có lãi và đảm bảo lợi ích kinh tế xã hội. Hiện nay, quĩ BHXH nhàn rỗi được phép cho vay để thu lợi nhuận theo chỉ định của Nhà nước, cụ thể là do Bộ Tài Chính chỉ định. Như vậy, việc quản lý đầu tư quĩ BHXH chưa được tập trung, thống nhất. Tổ chức BHXH Việt Nam quản lý hoạt động sự nghiệp của hoạt động BHXH, chịu trách nhiệm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quĩ nhưng lại không được phép quyết định hoạt động đầu tư quĩ. Một điểm hạn chế nữa, danh mục đầu tư quĩ BHXH Việt Nam rất nghèo nàn và đều là các lĩnh vực có lãi suất thấp:
Đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế xã hội đất nước
Đầu tư mua trái phiếu, công trái
Gửi vào ngân hàng Nhà nước
3.2. Tổ chức thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam
Theo Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ, hệ thống BHXH Việt Nam được thành lập đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, sự quản lý Nhà nước của bộ Lao động - thương binh và xã hội và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan, sự giám sát của các tổ chức công đoàn. Theo Nghị định này, cơ quan BHXH Việt Nam là đơn vị tổ chức thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam. Về mặt tổ chức, BHXH Việt Nam hình thành một hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương và được chia thành 3 cấp: cấp Trung ương ; cấp tỉnh, thành phố ; cấp quận, huyện. Vì vậy thu và quản lý thu quĩ BHXH cũng được phân cấp cho phù hợp với cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Nhiệm vụ của từng cấp quản lý như sau:
* BHXH cấp huyện có nhiệm vụ :
Tổ chức thu BHXH của các đơn vị có trụ sở và tài khoản tại địa bàn huyện gồm:
- Các đơn vị do huyện trực tiếp quản lý
- Các đơn vị ngoài quốc doanh sử dụng 10 lao động trở lên
- Các xã, phường, thị trấn
- Các đơn vị khác do BHXH tỉnh giao nhiệm vụ thu
Lập kế hoạch thu BHXH trên địa bàn huyện cho năm sau và gửi cho BHXH tỉnh
Chuyển tiền thu BHXH về tài khoản chuyên thu của BHXH tỉnh
Lập báo cáo tình hình thực hiện thu BHXH trên địa bàn huyện hàng tháng, quí, năm và gửi cho BHXH tỉnh
Kiểm tra, thẩm định số liệu thu của các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn huyện
* BHXH cấp tỉnh
Tổ chức thu BHXH của các đơn vị sử dụng lao động đóng trên địa bàn tỉnh gồm:
- Các đơn vị do Trung ương quản lý
- Các đơn vị do tỉnh trực tiếp quản lý
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
- Các đơn vị, tổ chức quốc tế
- Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng lao động lớn
- Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
- Các đơn vị sử dụng lao động mà BHXH huyện không đủ điều kiện thu
Lập kế hoạch tổng hợp thu BHXH trên địa bàn tỉnh cho năm sau
Chuyển tiền thu BHXH về tài khoản chuyên thu của BHXH Việt Nam
Lập báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện thu BHXH trên địa bàn tỉnh hàng tháng, quí, năm và gửi cho BHXH Việt Nam
Kiểm tra thẩm định số liệu thu của các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn tỉnh và của BHXH huyện cấp dưới
* BHXH Việt Nam
Thu BHXH của BHXH bộ Quốc phòng, bộ Công an, ban cơ yếu Chính phủ
Lập kế hoạch thu BHXH trong toàn bộ hệ thống BHXH, giao kết kế hoạch thu BHXH cấp dưới
Kiểm tra thẩm định số liệu thu của BHXH cấp dưới
Báo cáo tình hình hoạt động của hệ thống BHXH lên Chính phủ, bộ Lao động - thương binh và xã hội và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan
Các đơn vị, doanh nghiệp có người lao động tham gia BHXH phải có trách nhiệm báo cáo cho BHXH cấp tương ứng về số lao động tham gia BHXH và quỹ tiền lương của doanh nghiệp; trích và nộp tiền BHXH vào tài khoản thu BHXH tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc tại Kho bạc Nhà nước theo đúng thời hạn quy định .
Theo cơ cấu thu trên, các cấp quản lý thu BHXH được phân công, phân nhiệm rõ ràng, không có sự trùng lắp ở các cấp. Ngoài ra, hệ thống quản lý thu theo chiều dọc giúp cho việc kiểm tra, thẩm định hoạt động của các cấp được dễ dàng.
Hiện nay, mô hình quản lý thu như trên đang được áp dụng trong hệ thống BHXH Việt Nam. Do nhiều nguyên nhân mà tình hình thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại cần giải quyết. Sau đây chúng ta hãy xem xét tình hình thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam.
Phần hai: Tình hình thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam những năm gần đây (1995 - 2000)
Tình hình số người tham gia BHXH tại Việt Nam (1995 - 2000)
Theo Nghị định 12/CP năm 1995, ngoài những người lao động được tham gia BHXH đã nêu ở trên, còn một lượng lớn lao động trong lực lượng lao động ở nước ta chưa tham gia BHXH như lao động nông nghiệp ở nông thôn, những người lao động làm việc tự do, không ổn định (thợ thủ công, tiểu thương, lao động làm việc theo mùa vụ ngắn hạn ...). Số lao động chưa tham gia BHXH này không phải là nhỏ, chiếm khoảng 40% lực lượng lao động ở nước ta. Tuy nhiên, số lao động thuộc diện tham gia BHXH thuộc các thành phần kinh tế cũng vẫn chưa tham gia BHXH đầy đủ. Tình hình thực tế như sau:
Bảng 1: Số lao động tham gia BHXH tại Việt Nam giai đoạn (1995-2000)
Năm
Tổng số
(người)
Tốc độ tăng liên hoàn (%)
KV tư nhân - ngoài quốc doanh (người)
Tốc độ tăng (%)
DN vốn nước ngoài
(người)
Tốc độ tăng(%)
1995
1996
1997
1998
1999
2275998
2961444
3162352
3355589
3579427
-
30,1
6,78
6,1
6,7
30063
56280
84058
122685
125279
-
87,2
49,4
46
37
78791
125889
214596
242108
361522
-
59,8
70,5
12,8
49,3
(Nguồn : Tạp chí BHXH 5/2000)
Xét về số lao động tham gia BHXH tại Việt Nam, theo bảng trên ta thấy, sau khi đổi mới hệ thống BHXH Việt Nam, số lao động tham gia BHXH liên tục tăng lên với tốc độ cao. Năm 1995, số người lao động tham gia BHXH là 2,2 triệu, đến năm 1999, con số này đã tăng đến 3,6 triệu, như vậy là tăng khoảng 60%. Chưa kể hàng năm có khoảng 15 vạn lao động về hưu không được liệt kê vào bảng số liệu trên.
Năm 1995 là năm gốc của đổi mới, số lao động tham gia BHXH mới chỉ đạt 2.275.998 người. Sang năm 1996, sau khi có đầy đủ số liệu về số lao động thuộc diện tham gia BHXH, quĩ lương... một số lượng lớn lao động ở các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng 10 lao động trở lên đã tham gia BHXH. Số người tham gia BHXH năm 1996 tăng lên 685.446 nghĩa là tăng 30,1% so với năm 1995. Các năm sau 1997, 1998, 1999, số người lao động tham gia BHXH liên tục tăng tốc độ hơn 6%/năm.
Tuy nhiên, khi so sánh lượng tăng tuyệt đối trung bình của giai đoạn 1995 - 2000 là khoảng 300.000 người với 1.200.000 lực lượng tăng tự nhiên hàng năm của Việt Nam thì số người tham gia bảo hiểm tăng thêm chiếm 1/4 số người lao động tăng thêm. Tất nhiên, trong 1,2 triệu lao động tăng thêm hằng năm còn bao gồm cả thất nghiệp, người làm việc ở khu vực tư nhân, tiểu thương, thợ thủ công... Mặt khác, Việt nam hiện nay có khoảng 38 triệu lao động ,nhưng chỉ 14% trong số đó tham gia BHXH. Vậy trong những năm tới, Nhà nước cũng như ngành bảo hiểm xã cần có những giải pháp tích cực để tăng số người tham gia BHXH .
Như vậy, nhìn chung là số người tham gia BHXH tăng liên tục với tốc độ cao qua các năm. Tuy nhiên tỉ lệ số người tham gia BHXH so với tổng số lao động còn thấp, đặc biệt là khi so sánh với các nước trên thế giới: tỉ lệ này là xấp xỉ 95% ở các nước kinh tế phát triển .
Tình hình chung là như vậy, nhưng để tìm ra nguyên nhân của thực trạng và giải pháp thích hợp để tăng số người tham gia BHXH, chúng ta cần xem xét tình hình người lao động tham gia BHXH ở từng khối - loại hình kinh tế. Đối với khối hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang, do lương của người lao động được ngân sách Nhà nước cấp nên số lao động tham gia hoạt động trong khu vực này đảm bảo tham gia BHXH đầy đủ. Cũng như vậy, trong khối doanh nghiệp Nhà nước - những doanh nghiệp do Nhà nước cấp vốn thành lập và quản lý - do hệ thống quản lý lao động, tiền lương chặt chẽ nên người lao động tại các doanh nghiệp này tham gia BHXH cũng đầy đủ. Cụ thể là, năm 1999, số người lao động tham gia BHXH khối hành chính sự nghiệp là 1.367.341 người; khối doanh nghiệp Nhà nước là 1.521.256 người. Số người lao động tham gia BHXH ở hai khối ngành này chiếm hơn 3/4 số người lao động tham gia BHXH cả nước. Trong những năm tới, ở hai khối ngành này, do hầu hết lao động đều tham gia BHXH đầy đủ nên số người lao động tham gia bảo hiểm sẽ tăng không mạnh.
Ngược với xu hướng của 2 khối ngành trên, số người lao động tham gia BHXH trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số người lao động tham gia BHXH cả nước cũng như so với số người tham gia lao động trong lĩnh vực này.
Trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bảng 1 cho chúng ta thấy, số người tham gia BHXH liên tục tăng mạnh trong các năm từ 1995 đến 1999. Số lao động tham gia BHXH năm 1999 so với năm 1995 tăng từ 30.063 đến 125.279 người, nghĩa là tăng gấp 4 lần. Đây cũng là khu vực có số lao động tham gia BHXH tăng mạnh nhất so với các loại hình kinh tế khác với tốc độ tăng bình quân 60%/năm. Tuy nhiên, khi so sánh với số lao động tham gia hoạt động trong khu vực thì số lao động tham gia BHXH chỉ chiếm hơn 10%. Hơn thế nữa, số lao động tham gia BHXH này chỉ tập trung ở một số tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài lý do là đối tượng tham gia BHXH chỉ giới hạn là lao động ở các doanh nghiệp sử dụng từ 10 lao động trở lên, thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều phía: Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động:
Về phía Nhà nước: Nhà nước, chính quyền địa phương còn chưa quan tâm đúng mức đến khu vực lao động này, chưa có chế độ kiểm tra, quản lý, xử lý cũng như chế tài thoả đáng để đảm bảo nghĩa vụ cũng như quyền lợi của người lao động. Ngoài ra, còn do sức ép về việc làm của khu vực này mà các cơ quan chức năng nhiều khi lúng túng trong việc thực hiện các biện pháp chế tài của pháp luật.
Về phía người sử dụng lao động: Do đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu là các đơn vị kinh tế nhỏ, hoạt động sản xuất kinh doanh còn chưa ổn định, số đầu doanh nghiệp nhiều nhưng các yếu tố như lao động, địa bàn, hoạt động... lại thường xuyên thay đổi dẫn đến quan hệ lao động lỏng lẻo. Đây chính là yếu tố gây tâm lý né tránh nghĩa vụ nộp BHXH của người chủ sử dụng lao động ở khu vực này. Mặt khác, một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, lãi ít, thu nhập người lao động thấp nên đóng BHXH cũng gây khó khăn cho cuộc sống người lao động.
Về phía người lao động: Người lao động ít hiểu biết về pháp luật, chưa có khái niệm về BHXH hoặc ít quan tâm đến BHXH nên cũng không yêu cầu chủ thực hiện BHXH cho mình.
Hiện nay, các khu vực ngoài quốc doanh còn 86% lao động chưa tham gia BHXH. Thực trạng này đòi hỏi Nhà nước và cơ quan BHXH Việt Nam có các biện pháp giải quyết để hoàn thiện hệ thống BHXH và đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động.
Khu vực có số người tham gia BHXH tăng nhanh kế tiếp là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm: doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Số lao động tham gia BHXH ở khu vực này tăng rất nhanh từ 78.791 người năm 1995 lên đến 361.522 người năm 1999. Tốc độ tăng bình quân cao khoảng 40%/năm. Duy chỉ có năm 1998, do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á, mức độ vốn đầu tư vào Việt Nam giảm hẳn, ngoài ra còn do khó khăn về tài chính, nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải giảm bớt số lượng công nhân, nên mức độ tăng tuyệt đối của số người tham gia BHXH đột ngột giảm, mức độ tăng tuyệt đối là 27.512 người so với mức độ tăng tuyệt đối các năm là hơn 100.000 người. Sang năm 2000, nền kinh tế châu á đã hồi phục, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục tăng vì vậy số nhân công được thuê mướn sẽ tăng lên. Trong những năm tới, số người lao động tham gia trong lĩnh vực này sẽ có tốc độ tăng cao. Đây sẽ là nguồn thu lớn cho quĩ BHXH do số lượng lao động tham gia hoạt động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khá đông và tiền lương thu nhập của lao động trong khu vực này thường cao hơn hẳn các khu vực khác.
Như vậy, nhìn chung, số người lao động tham gia BHXH có xu hướng tăng mạnh, liên tục qua các năm, trong cả nước cũng như trong tất cả các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, khi so sánh số người đã tham gia BHXH với số người thuộc diện tham gia BHXH thì tỷ lệ này còn rất nhỏ, đặc biệt là tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đóng góp của những người lao động tham gia BHXH và chủ của họ sẽ là nguồn hình thành chủ yếu của quĩ BHXH. Tình hình thu quĩ BHXH như sau:
Tình hình thu quĩ BHXH Việt Nam (1995 - 2000)
Biểu 1: Thực tế số thu của BHXH Việt Nam (1995 - 1999)
Đơn vị: triệu đồng
(Nguồn : Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 3 năm 2000)
Số liệu bảng trên cho ta thấy số thu BHXH tăng lên liên tục qua các năm. Tổng thu BHXH qua năm năm đạt gần 15.000 tỷ đồng. Như đã nêu ở phần trước, năm 1996, số người lao động tham gia BHXH tăng mạnh so với năm 1995. Chính vì thế, số thu BHXH năm 1996 là 2.569.733 triệu người tăng gấp 3 lần số thu năm 1995 (778.486 triệu người). Các năm 1997, 1998, 1999, số thu BHXH tăng lên liên tục với tốc độ cao. Hai quý đầu năm 2000, số thu BHXH đạt khoảng 2.500 tỷ đồng.
Chúng ta sẽ nhận thấy những thành tựu vượt bậc của BHXH Việt Nam nếu so sánh số thu BHXH giai đoạn 1995 - 2000 với số thu BHXH những năm trước khi đổi mới hệ thống BHXH Việt Nam. Lấy năm 1994 làm mốc, số thu BHXH năm 1994 là 420 tỷ đồng. Như vậy, năm 1995, số thu BHXH là 778 tỷ đồng, tăng gần gấp đôi so với năm 1994. Năm 1999, số thu BHXH là 4.188 tỷ đồng, tăng gấp 10 lần năm 1994. Như vậy, chỉ qua năm năm đổi mới hệ thống thu và quản lý thu, BHXH Việt Nam đã tăng gấp 10 lần.
Số thu BHXH tăng nhanh, liên tục qua các năm chứng tỏ cơ chế thu và quản lý quỹ BHXH Việt Nam đã đi đúng hướng, đảm bảo hiệu quả. Tuy nhiên, số thu BHXH Việt Nam vẫn còn thấp, chưa xứng đáng với tiềm năng lao động lớn ở nước ta. Nguyên nhân của tình trạng này như sau:
Thứ nhất, số thu BHXH thấp do tỷ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động là 20% so với tổng quỹ lương. Tỷ lệ này còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tại các nước kinh tế phát triển như Bỉ, tỷ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động là 30% đến 40% so với tổng quỹ lương. Mặt khác, không những tỷ lệ đóng góp thấp mà mức lương để trích nộp BHXH cũng thấp và không đồng đều giữa các thành phần kinh tế. Người tham gia BHXH có mức lương trích nộp thấp nhất là người lao động tại các doanh nghiệp làm ăn không có hiêụ quả hoặc đang lỗ, hoạt động sản xuất cầm chừng. Mà số doanh nghiệp này hiện nay không phải là nhỏ. Người tham gia BHXH có mức lương trích nộp cao thường là người lao động có vốn đầu tư nước ngoài. Người tham gia BHXH trong khối hành chính sự nghiệp có mức lương trích nộp bằng mức lương tối thiểu nhân hệ số cấp bậc, chức vụ cộng các khoản phụ cấp. Từ 1/1/2000, mức lương tối thiểu bằng 180.000 đồng. Trước đó, tiền lương tối thiểu bằng 144.000 đồng. So với Indonesia - một nước nằm trong khu vực Đông Nam á, mức đóng góp tối thiểu bằng 1000Rp một ngày (quy đổi )
Thứ hai: số thu BHXH thấp nhưng tỷ lệ nợ đọng tiền đóng BHXH còn cao. Nhìn chung, tiền BHXH nợ bình quân 500 tỷ đồng, chiếm từ 11 đến 12% diện thu đã quản lý được. Nếu gọi tổng mức phải nộp BHXH là 100% trong một năm 12 tháng thì mức nợ một tháng chiếm 8,33% (tương ứng với 30 ngày). Số nợ tiền BHXH qa các năm như sau:
Bảng 2: Số nợ tiền BHXH các năm 1995 – 1999
Tính đến ngày
Số nợ/số phải nộp (%)
Số ngày nợ tương ứng(ngày)
31/12/1995
31/12/1996
31/12/1997
31/12/1998
31/12/1999
11,3
8,3
11,2
10,0
9,0
40
30
40
36
32
Nguồn: Tạp chí BHXH tháng 5/2000
Qua số liệu trên, ta thấy, hệ thống thu BHXH đã có nhiều phấn đấu, điều chỉnh thích hợp để rút ngắn số ngày chiếm dụng tiền BHXH từ 40 ngày xuống32 ngày. Như vậy là giảm được 8 ngày. Mục tiêu của các năm tới là tiếp tục giảm số ngày chiếm dụng xuống mức phù hợp có thể chấp nhận được.
Tình hình nợ đọng ở từng khối loại hình như sau:
- Khối hành chính sự nghiệp: Do có nguồn tiền lương và tiền đóng BHXH ổn định, được ngân sách Nhà nước cấp nên mức chiếm dụng chỉ trong 7 ngày (ứng với chu kỳ phát lương)
- Khối doanh nghiệp Nhà nước là khối có mức độ chiếm dụng lớn nhất trong các khối với mức độ trên 2 tháng do có khó khăn về việc làm, thu nhập, phương thức tính và trả lương.
- Các khối khác nói chung duy trì mức chiếm dụng trong vòng một tháng.
Như vậy là trong công tác quản lý thu nợ đọng phải tập trung sự chú ý vào khối doanh nghiệp Nhà nước nhiều hơn các khối khác.
Số nợ đọng ở các tỉnh thành phố cũng có mức độ nợ đọng khác nhau. Tình hình nợ đọng ở một số tỉnh, thành phố năm 1999 như sau:
Bảng 3: Số tiền chiếm dụng BHXH ở một số tỉnh, thành phố:
Tên tỉnh
Số nợ/số phải nộp
Số ngày chiếm dụng
Số thực tế(tỷ đồng)
Tỷ lệ (%)
tương ứng (ngày)
Phú Thọ
18/73
24
90
Hoà Bình
13/120
20
73
Thái Bình
7,7/38
15
54
Thanh Hoá
6,6/44
16
58
Gia Lai
16,6/102
16
58
Nguồn: Tạp chí BHXH, số 5/2000
Các tỉnh khác có mức nợ khoảng hơn một tháng
Trong mỗi tỉnh, số nợ của các đơn vị sử dụng lao động cũng có mức chiếm dụng ít nhiều khác nhau . Nguyên nhân của tình trạng tiền BHXH nợ đọng như đã trình bày ở trên xuất phát từ hai phía: Nhà nước và các doanh nghiệp đóng BHXH:
Về phía Nhà nước:
- Hành lang pháp lý và những chế tài pháp luật Nhà nước cho việc thu nộp BHXH chưa cụ thể và chưa đủ mạnh để buộc các chủ sử dụng lao động nộp BHXH đúng thời hạn, đủ số lượng. Chính vì vậy mà còn có nhiều doanh nghiệp cố tình chiếm dụng quỹ BHXH một cách trái pháp luật mà vẫn không bị xử lý. Theo Nghị định 38/CP của Chính phủ quy định: “Xử phạt hành vi trốn tránh trách nhiệm nộp BHXH hoặc chậm nộp BHXH” song thẩm quyền xử phạt thuộc về Thanh tra Nhà nước về lao động và UBND các cấp. Như vậy là không có sự đồng bộ trong việc thu BHXH và xử phạt dẫn đến những khó khăn trong việc kết hợp thu BHXH và xử phạt để đạt hiệu qủa thu BHXH cao nhất.
- ở nhiều địa phương, các cơ quan quản lý Nhà nước, đoàn thể, quần chúng, cơ quan bảo vệ pháp luật chưa tích cực phối hợp cùng các cơ quan BHXH thực hiện các biện pháp cưỡng chế các chủ sử dụng lao động đóng BHXH theo quy định.
- Do quy định quy trình tính lương và phát lương của hầu hết các đơn vị lĩnh lương tháng đều hoàn thành vào tháng sau. Dẫn đến việc nộp BHXH của tháng trước, tháng sau mới nộp được.
Về ph._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34984.doc