Lời nói đầu
Sự tồn tại và phát triển của con người do rất nhiều nhân tố quyết định trong đó không thể không kể đến hệ thống an sinh xã hội với nòng cốt là chính sách BHXH. BHXH là chính sách xã hội được nhiều quốc gia coi trọng nhằm đảm bảo về mặt thu nhập cho người lao động khi họ tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động. BHXH ở Việt nam đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm ngay từ khi mới thành lập nước và nó đã đóng góp lớn cho sự phát triển của đất nước.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1687 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về công tác thu- Chi bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội quận Cầu Giấy – Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường với quan hệ lao động phong phú, đa dạng, ngày càng phức tạp. Chính vì vậy, chính sách BHXH luôn cần được nghiên cứu, tìm hiểu và xây dựng cơ sở lý luận nhằm đổi mới hoàn thiện chính sách BHXH cho phù hợp với tình hình mới là yêu cầu cấp thiết.
Quỹ BHXH là một nội dung quan trọng trong chính sách BHXH.Quỹ BHXH vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là cơ sở vật chất quan trọng đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.Liên quan đến quỹ BHXH, công tác thu, chi quỹ BHXH lại đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì công tác thu BHXH là trọng tâm là vấn đề sống còn của BHXH bởi nó liên quan đến việc hình thành và duy trì nguồn quỹ. Còn chi BHXH là uy tín của ngành bởi việc chi trả các chế độ BHXH có tốt hay không ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và đời sống của người lao động. Xuất phát từ những lý do trên nên trong quá trình thực tập em đã chọn đề tài : “Một số vấn đề về công tác thu- chi BHXH ở cơ quan BHXH quận Cầu Giấy – Hà Nội" cho luận văn tốt nghiệp của mình. Mục đích của luận văn là xem xét đánh giá công tác thu- chi quỹ BHXH ở cơ quan BHXH quận Cầu Giấy – Hà Nội từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thu- chi quỹ BHXH cho ngày càng phù hợp hơn.
Mục đích nghiên cứu:
Nhận thức một số vấn đề lý luận về BHXH trong tình hình hiện nay và làm rõ tầm quan trọng của công tác thu chi quỹ BHXH.
-Đánh giá thực trạng công tác thu- chi quỹ BHXH ở quận Cầu Giấy trong giai đoạn 2002-2006.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thu- chi quỹ BHXH cho ngày càng phù hợp hơn.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ sở lý luận và thực tiễn về thu chi quỹ BHXH ở các đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn quận Cầu giấy trong giai đoạn 2002-2006.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung đi sâu vào xem xét, phân tích, đánh giá về hoạt động thu BHXH và chi cho các chế độ BHXH ở BHXH quận Cầu Giấy.
Kết cấu của đề tài:
Để giải quyết các nội dung nêu trên, ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về BHXH và quỹ BHXH.
Chương II: Thực trạng công tác thu-chi BHXH ở quận Cầu Giấy – Hà Nội.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thu-chi quỹ BHXH.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của TS Phạm Thị Định – Giảng viên trường ĐH Kinh tế quốc dân ; chân thành cảm ơn tập thể cán bộ công nhân viên cơ quan BHXH quận Cầu Giấy đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thiện khóa luận này.
Do thời gian có hạn, kiến thức về lý luận và thực tiễn còn hạn chế nên không tránh khỏi những khiếm khuyết kính mong thầy cô và bè góp ý để đề tài được hoàn thiện hơn.
Chương I: Khái quát chung về BHXH
và quỹ bảo hiểm xã hội
1.1. Bản chất và vai trò của BHXH
1.1.1. Sự cần thiết khách quan của BHXH.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, khả năng sáng tạo ra của cải vật chất của người lao động ngày càng cao hơn cho phép đáp ứng ngày càng cao những nhu cầu phong phú về vật chất cũng như tinh thần.Nhưng như vậy cũng có nghĩa là con người ngày càng phải đối mặt vơi những hậu quả tất yếu của nền kinh tế XH phát triển cao.Đặc biệt là từ sự phát triển công nghiệp hóa, một tầng lớp lao động mới ra đời. Đó là tầng lớp lao động làm công ăn lương, lấy tiền lương làm nguồn sống chủ yếu. Nếu tiền lương bị giảm sút hoặc không còn thì rất dễ rơi vào cảnh cùng khốn. Tiền lương bị giảm sút hoặc không còn, trước hết do những trường hợp bị ốm đau, tai nạn lao động, mất việc làm, già yếu hết khả năng lao động…Trước những rủi ro như trên, bản thân từng người phải chống đỡ chật vật, nhất là đối với những người có thu nhập thấp thì càng khó khăn.
Qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề của giới chủ và thợ, cùng với sự đổi mới của quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, cùng với trình độ chuyên môn và nhận biết về BHXH của người lao động ngày càng được nâng cao, cách chủ động khắc phục khi không may xảy ra rủi ro với họ ngày càng được hoàn thiện. Tuy nhiên chỉ khi có sự ra đời của BHXH thì những tranh chấp cũng như những khó khăn mới được giải quyết một cách ổn thỏa và có hiệu quả nhất. Đó cũng chính là cách giải được quyết chung nhất cho xã hội loài người trong quá trình phát triển đất nước.
Với sự ra đời của hệ thống BHXH(được bổ sung dần qua cơ chế đa dạng sau này), trước hết là những người lao động làm công ăn lương, sau đó là những lao động tự do phải cạnh tranh khốc liệt trong cơ chế thị trường, không phân biệt người lành nghề hay lao động phổ thông, người trẻ hay lớn tuổi, nam hay nữ, không phân biệt tình trạng sức khỏe của mỗi người, để được bảo vệ bằng một trong các loại trợ cấp trong các trường hợp gặp rủi ro,bất hạnh trong các trường hợp phải nghỉ việc mà thu nhập bị giảm sút hoặc không có lương.
Như vậy để đảm bảo nền kinh tế xã hội phát triển được bình thường, đời sống của người lao động được ổn định đòi hỏi phải tạo lập quỹ dự trữ bảo hiểm xã hội thích hợp, đủ lớn để đáp ứng các yêu cầu trên. Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết phải tiến hành bảo hiểm cho người lao động.
Những người làm công phải hoàn toàn dựa vào tiền lương làm nguồn sống chủ yếu khi ốm đau tai nạn, sinh đẻ… thì phải nghỉ việc và không có lương, cuộc sống bị đe dọa. Người lao động đã ý thức được sự cần thiết phải có thu nhập đề phòng khi họ gặp phải những rủi ro,tai nạn bất ngờ nên họ đấu tranh đòi giới chủ phải cam kết đảm bảo một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi ốm đau, thai sản… Lúc đầu giới chủ cam kết đảm bảo cho người lao động những khoản thu nhập nhất định đó. Song nhiều khi rủi ro xảy ra liên tục buộc người chủ phải chi ra những khoản tiền lớn mà họ không muốn.Do vậy giới chủ đã chi ít hơn nên xuất hiện mâu thuẫn và tranh chấp giữa chủ và thợ, mâu thuẫn này ngày càng gay gắt.
Trong thực tế không phải lúc nào con người nói chung và người lao động nói riêng cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác.Chẳng hạn,bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm v.v…Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên,thậm chí còn xuất hiện một số nhu cầu mới như : cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau, tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng v.v…Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng ; đi vay hoặc dựa vào sự cứu trợ của nhà nước v.v…Rõ ràng cách đó hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Đứng trước tình cảnh đó Nhà nước là người thứ ba đứng ra giải quyết mâu thuẫn và điều hòa lợi ích giữa chủ và thợ cụ thể: Yêu cầu cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp những khoản tiền nhất định để hình thành quỹ, đồng thời nhà nước hỗ trợ một phần để giúp các bên giải quyết khó khăn.Từ đó, cả giới chủ và thợ đều được đảm bảo và họ thấy có lợi. Các nguồn đóng góp của giới chủ, thợ và sự hỗ trợ của Nhà nước hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung –quỹ BHXH.
Như vậy quỹ này sẽ tạo lập cuộc sống ổn định cho người lao động và gia đình họ. Hạn chế những tệ nạn xã hội xảy ra do nguyên nhân của thất nghiệp nghèo đói ; xây dựng một nền an sinh xã hội bền vững. Mặt khác cũng giúp cho giới chủ có thể ổn định sản xuất , nâng cao hiệu quả kinh doanh do năng suất lao động của người lao động tăng lên. Bởi lẽ khi người lao động được đảm bảo về lợi ích thì họ sẽ trung thành với doanh nghiệp, làm việc có hiệu quả. Như vậy kinh tế sẽ được phát triển nhanh chóng và bền vững bởi được tăng trưởng về chất.
Vì vậy để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển hoàn thiện như mong muốn cần mở rộng đối tượng tham gia và hưởng BHXH. Hiện nay nhà nước đã mở rộng thêm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và tự nguyện.Trong đối tượng tham gia BHXH tự nguyện được hưởng bốn chế độ : hưu trí, tử tuất,thai sản và ốm đau. Điều này cũng có nghĩa cần tạo lập một quỹ dự trữ tập trung rất lớn để đảm bảo cho việc chi trả những chế độ BHXH và để tránh tình trạng mất khả năng thanh toán trong thời gian tới. Mặt khác cũng sẽ đáp ứng được yêu cầu an toàn của cuộc sống người lao động và đảm bảo hiệu quả cho hoạt động sản xuất của người sử dụng lao động nhằm giữ vững an ninh xã hội kinh tế được phát triển bình thường trước những rủi ro luôn xảy ra trong cuộc sống.
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của BHXH
1.1.2.1. Trên thế giới
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ XIV, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hóa đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước Châu Âu. Từ năm 1883, ở nước Phổ (CHLB Đức ngày nay) đã ban hành luật BHYT. Năm 1884, các hiệp hội giới chủ thiết lập và quản lý quỹ rủi ro nghề nghiệp. Năm 1889, mở sang hình thức bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm bệnh tật đồng thời có sự quản lý và tài trợ của chính quyền đặc biệt là có sự đóng góp của giới chủ. Lúc này BHXH có một đặc điểm mới: Việc đóng góp phí là do 3 bên và yêu cầu tham gia bắt buộc đối với người lao động trong doanh nghiệp. Đến đây BHXH đã thực sự hình thành và gần như hoàn thiện như ngày nay.ở Đức BHXH đã thể hiện được tính ưu việt và tác dụng to lớn của mình, chính vì vậy nó nhanh chóng hình thành và phát triển rộng rãi ở các nước Châu âu. Sau chiến tranh thế giới lần II, nhiều nước Châu phi, Châu á và vùng Caribe sau khi giành được độc lập cũng xây dựng cho mình một hệ thống BHXH.
BHXH là một trong những loại hình BHXH ra đời khá sớm và đến nay đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. So với các loại hình BHXH khác, đối tượng, chức năng và tính chất của BHXH có những điểm khác biệt do bản chất của nó chi phối.
a. ở nước Mỹ:
- Đối tượng tham gia:
ở Mỹ tất cả những người trong độ tuổi lao động là công dân Mỹ có thu nhập, kể cả những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc hộ gia đình và lao động tự cung tự cấp có thu nhập trên mức thu nhập tối thiểu (do Nhà Nước quy định mức tối thiểu) đều phải nộp thuế ( một hình thức đóng BHXH ) hay còn gọi là thuế lương cho “quỹ BHXH”.
- Quỹ BHXH:
Nguồn tài trợ cho các chế độ trợ cấp BHXH là từ thuế phúc lợi xã hội mà chính quyền liên bang thu. Trong số tiền lương của người lao động, chính quyền sẽ khấu trừ bớt số tiền thuế cố định. Sau đó đưa các khoản thu này vào các quỹ BHXH. Mức khấu trừ cụ thể:
+ Người sử dụng lao động: 13,65%.
+Người lao động: 7,65%.
Tổng cộng: 21,3%.
Để được hưởng trợ cấp, người đóng BHXH phải nộp đến một mức nào đó. Chính quyền liên bang Mỹ có cách tính thống kê từng người đã nộp đủ tiền thuế hay chưa. Kể từ năm 1993, một người đóng BHXH nếu nộp đủ 590 $ thì được một điểm hưởng thụ. Mỗi người phải có đủ 40 điểm trong 10 năm trước khi nghỉ hưu.
Như vậy, cơ chế thu BHXH ở Mỹ là vừa theo tỷ lệ trích nộp, vừa phải thu đến một “ngưỡng” do chính quyền quy định, cơ chế này có vẻ đơn giản.Mặt khác tỷ lệ đóng góp cũng không quá cao.
- Các chế độ BHXH.
+Trợ cấp hưu trí.
+ Trợ cấp tử tuất.
+ Trợ cấp y tế.
+ Trợ cấp thương tật
b) ở nước Pháp.
- Đối tượng tham gia.
BHXH ở Pháp có mầm móng từ thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của cứu trợ công cộng và tương hỗ. Hiện nay, đối tượng tham gia BHXH là những người lao động có thu nhập trong tất cả các thành phần kinh tế ( Chính phủ quy định mức gọi là có thu nhập)
- Quỹ BHXH.
Nguồn tài trợ quỹ BHXH được xác định theo một cơ chế hết sức phức tạp cụ thể như sau:
+ Quỹ bảo hiểm y tế, thai sản, thương tật, chết: Sự đóng góp vào quỹ này được tách ra từ 2 khoản: Đóng cho rủi ro nghề nghiệp và rủi ro phi nghề nghiệp.
Đối với rủi ro nghề nghiệp, nguồn tài trợ chính là các khoản đóng góp trên lương: Giới chủ đóng 12,8%, người lao động đóng 6,8%.
Đối với rủi ro phi nghề nghiệp khoản này được thu trên lương do giới chủ đóng toàn bộ. Tỷ lệ đóng góp được xác định tùy theo số lượng lao động trong mỗi doanh nghiệp.
+ Quỹ trợ cấp hưu trí, góa bụa, trợ cấp gia đình: Nguồn tài trợ này cũng chủ yếu từ các khoản đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Đối với trợ cấp hưu trí, người sử dụng lao động phải đóng bằng 9,8%, người lao động đóng 6,55% tiền lương, tổng cộng 16,35%.
Đối với trợ cấp gia đình người lao động, người sử dụng lao động phải đóng góp toàn bộ với tỷ lệ 5,4% lương của người lao động.
- Các chế độ BHXH.
ở Pháp phạm vi BHXH bao gồm hầu hết các chế độ BHXH theo quy định của ILO ( 9 chế độ).
c) ở một số nước Đông á.
ở Đông á, đối với những nước có nền kinh tế thị trường phát triển sớm trong khu vực, để tạo lập quỹ BHXH cũng dựa vào 3 nguồn cơ bản: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà Nước. Trước hết là người sử dụng lao động và người lao động phải đóng góp theo tỷ lệ trích vào lương cho từng chế độ trợ cấp.
- ở Thái Lan, trợ cấp BHXH bao gồm: Thương tật, ốm đau, thai sản, mất khả năng lao động, tử tuất, tuổi già và thất nghiệp. Việc đóng BHXH theo cơ chế: người lao động nộp 1/3 trên thu nhập, giới chủ nộp 1/3 và nhà nước nộp 1/3.
ở Nhật Bản: sự đóng góp vào quỹ BHXH cũng tương đối cao. Người lao động phải đóng từ 3,5% đến 4,6% thu nhập hàng tháng, giới chủ đóng từ 25,5% đến 30,5%, còn nhà nước trợ cấp cho quỹ BHXH theo nhu cầu thiếu hụt.
- ở Hàn Quốc: đối tượng tham gia là những người lao động thường xuyên ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp, các viên chức làm việc trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể, văn hóa giáo dục. Tỷ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động tương tự ở Nhật Bản, phần tài trợ của Nhà Nước là đáp ứng chi phí quản lý hành chính và hưu trí dài hạn cho 1/3 số người dân( có thu nhập thấp).
Trải qua hơn 100 năm hình thành và phát triển chính sách BHXH của các nước trên thế giới đã đạt được những thành tựu đáng kể: Góp phần đảm bảo đời sống cho mỗi người lao động và gia đình họ, thực hiện ổn định chính trị và an toàn xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội, chính sách BHXH đã và đang được nghiên cứu đổi mới để hoàn thiện phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại.
Những kinh nghiệm rút ra được từ hoạt động BHXH của các nước trên thế giới.
Qua kinh nghiệm của các nước trên thế giới có hoạt động BHXH, ( bao gồm cả các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển ) có thể học hỏi được một số vấn đề sau:
- Việc xây dựng một mô hình BHXH phải phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội của quốc gia mình. Hoạt động BHXH có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào độ chặt chẽ và tính hiệu quả của các quy chế và chính sách biện pháp thu BHXH. Có thể dễ dàng nhận ra một thực tế đó là trong bất kỳ một thể chế kinh tế, xã hội nào thì hoạt động BHXH vẫn phụ thuộc vào NSNN ở các mức độ khác nhau, vấn đề là phụ thuộc ít hay nhiều, điều này còn phụ thuộc vào hoàn cảnh thực tế ở mỗi giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia.
-Kinh nghiệm của một số nước phát triển cho thấy việc đề ra các chính sách BHXH phai dựa trên nguyên tắc bắt buộc, để có thể thu hút được ngày càng nhiều đối tượng tham gia; vấn đề này ngày càng trở nên quan trọng bởi sự an toàn của quỹ BHXH. Việc chi trả các chế độ BHXHcăn cứ vào mức độ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động và đặc biệt là phụ thuộc vào mức lương của người lao động dùng làm căn cứ đóng BHXH trước khi về hưu.
- Việc sử dụng các nguồn thu thuế từ lương của người lao động và người sử dụng lao động cho mục đích phúc lợi xã hội, đối với tất cả các công dân làm việc trên lãnh thổ nước mình và công dân nước mình làm việc ở nước ngoài nhưng có đóng thuế cho Chính phủ. Với cơ chế này, Chính phủ các nước này cho rằng không cần thiết có một tổ chức riêng biệt để quản lý quỹ BHXH, việc thực hiện chi BHXH mang tính bao cấp với mục đích điều tiết thu nhập các nhân đảm bảo sự công bằng xã hội, vì vậy những người được hưởng các chế độ BHXH đều nhận được các khoản phúc lợi xã hội vượt quá mức đóng góp của mình. Mô hình xây dựng hệ thống BHXH theo kiểu này chỉ phù hợp với điều kiện của nền kinh tế phát triển, những nước có mức phúc lợi xã hội cao. Trước đây, Việt Nam đã xây dựng mô hình BHXHgần tương tự như mô hình này. Tuy vậy, nó đã không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế xã hội Việt Nam bởi sự bao cấp quá lớn của NSNN và bởi mức độ phát triển thấp của nền kinh tế.
Như vậy, việc xây dựng mô hình BHXH phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh kinh tế xã hội của Việt Nam trong từng thời kỳ, ngoài ra trong điều kiện đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường việc tăng cường đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động để có thể giảm nhẹ sự phụ thuộc vào NSNN là một trong những hướng chính trong việc xây dựng và thực hiện các chế độ, chính sách BHXH ở Việt Nam hiện nay.
1.1.2.2. ở Việt Nam
ở Việt Nam, BHXH đã bắt đầu được thực hiện từ những năm 30 của thế kỷ XX. Đó là các chế độ trợ cấp do chính quyền Pháp thực hiện đối với công chức và công nhân Việt Nam được hưởng lương phục vụ trong bộ máy chính quyền và lực lượng vũ trang của Pháp tại Đông Dương.Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công Đảng và Nhà nước ta đã sớm quan tâm và thực hiện chính sách BHXH đối với người lao động. Sắc lệnh số 54 ngày 03/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời quy định những căn cứ, điều kiện để các công chức nhà nước được hưởng chế độ hưu trí. Sắc lệnh số 105 ngày 14/06/1946 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức nhà nước.Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/05/1950 của chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong đó quy định cụ thể về chế độ thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn lao động lao động, trợ cấp hưu trí và tiền tử tuất đối với công chức nhà nước. Sắc lệnh số 29 ngày 13/03/1947 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời và sắc lệnh số 77/SL ngày 22/05/1950 quy định các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn lao động, trợ cấp hưu trí và tiền tử tuất đối với công nhân. Như vậy đến thời kỳ này (1950), đối tượng tham gia và hưởng chế độ BHXH chỉ gồm hai đối tượng là công chức nhà nước và công nhân; và gồm có các chế độ: ốm đau,thai sản, tai nạn lao động, hưu trí và tử tuất. Tuy nhiên đây là những khởi điểm quan trọng trong chính sách BHXH của nước ta.
Văn bản pháp lý đầu tiên về Bảo Hiểm Xã Hội là: “Điều lệ tạm thời về Bảo Hiểm Xã Hội đối với công nhân viên chức Nhà nước “ ban hành kèm theo nghị định 218/CP ra ngày 27/12/1961.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì hệ thống Bảo hiểm xã hội cũ cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Vì vậy ngày 18/09/1985 Nghị định 236/HĐBT ra đời quy định việc bổ sung sửa đổi các chính sách và chế độ BHXH. Xét về bản chất, hệ thống BHXH vẫn giữ nguyên cũ nhưng đó là bước đổi mới đáng ghi nhận về mặt đường lối, là tiền đề cho những đổi mới sau này . Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI, nền kinh tế ta đã chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Do vậy cùng với việc đổi mới chính sách BHXH thì cơ chế quản lý BHXH cũng cần phải được đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp với cơ chế quản lý hiện hành.
Ngày15/11/1982, Liên hiệp trung ương đã có quyết định số 292/BCN_LĐ ban hành Điều tạm thời về các chế độ BHXH đối với xã viên hợp tác xã và các tổ chức sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Về tương tự các chế độ BHXH quy định trong điều lệ này cũng được mô phỏng tương tự như chế độ BHXH đối với công nhân, viên chức nhà nước.
Ngày 18/09/01985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành nghị định số 236/ HĐBT cho phép quy đổi một năm công tác thành 1 năm 2 tháng, 1 năm 4 tháng và 1 năm 6 tháng tùy theo điều kiện lao động và chiến đấu.
Ngày 22/06/1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP quy định tạm thời chế độ BHXH cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế. Nghị định 43/CP đã mở rộng đối tượng tham gia và hưởng BHXH, đổi mới cơ cấu đóng góp quỹ, tỷ lệ hưởng, mức hưởng BHXH. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế nhất là tỷ lệ hưởng và cơ chế quản lý. Chỉ đến khi điều lệ bảo hiểm ban hành kèm theo nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 thì cơ cấu về tổ chức và quản lý hoạt động của hệ thống BHXH mới dần dần hoàn thiện và đi vào ổn định. Cũng trong năm 1995 Nhà nước còn ban hành Nghị định 19/CP ngày 16/02/01995 về tổ chức sự nghiệp BHXH Việt Nam. Đây là móc quan trọng nhất trong sự nghiệp bảo hiểm xã hội của nước ta. Vì sau Nghị định này BHXH Việt Nam được chính thức thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức Bảo hiểm xã hội ở TW và các địa phương thuộc hệ thống lao động thương binh xã hội và tổng liên đoàn lao động Việt Nam giúp thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý quỹ Bảo hiểm Xã hội và thực hiện 5 chế độ BHXH theo pháp luật của Nhà nước.
Ngày 9/01/2003 chính phủ ban hành Nghị định 1-CP nhằm mở rộng đối tượng tham gia, hưởng chế độ BHXH và nâng cao hiệu quả hoạt của BHXH.
1.1.3. Bản chất của BHXH.
Ngày nay, Bảo Hiểm xã hội phát triển mạnh và là một bộ phận quan trọng nhất của hệ thống đảm bảo xã hội (hay còn gọi là an sinh xã hội) và ở nhiều quốc gia có xu hướng hòa nhập giữa Bảo hiểm xã hội và bảo đảm xã hội.Tuy nhiên sự hòa nhập này không có nghĩa là hai thuật ngữ này là một. Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu : Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm vì những “rủi ro xã hội”, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia Bảo Hiểm xã hội, góp phần đảm bảo an toàn cuộc sống của người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Bảo hiểm xã hội là một loại hình bảo hiểm đặc biệt. Nó khác với những loại hình bảo hiểm khác bởi tính xã hội và tính chất phi lợi nhuận. Người tham gia bảo hiểm chỉ đóng một khoản trích từ tiền công, nhưng lại được hưởng đến 6 chế độ :hưu trí, tử tuất,thai sản, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, ốm đau và nghỉ dưỡng sức. Tiền bảo hiểm không được tính toán dựa trên sự tương quan giữa phí bảo hiểm, lượng khách hàng thực tế và khách hàng tiềm năng như trong bảo hiểm thương mại mà số tiền Bảo hiểm xã hội được căn cứ theo thu nhập của người lao động trước khi gặp rủi ro hoặc mức lương tối thiểu theo quy định hiện hành của Nhà nước.
Đặc trưng của hệ thống bảo hiểm xã hội là có nguồn tài chính được hình thành từ sự đóng góp bắt buộc của người sử dụng lao động, người lao động, tài trợ của Nhà nước và các loại trợ cấp đều được chi dùng từ nguồn tài chính riêng.
Nguồn tài chính này được sử dụng để đảm bảo đời sống cho người lao động từ đó đảm bảo hoạt động sản xuất của người sử dụng lao động có hiệu quả, tăng năng suất, chất lượng.Và chính từ những điều đó sẽ xây dựng được một nền an ninh cho xã hội, giúp Nhà nước ổn định chính trị, xây dựng đất nước.
Toàn bộ những hoạt động đối với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là Bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Như vậy, BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Với cách hiểu như trên, bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây:
BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.
Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và phát sinh giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH, và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH)thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện cần thiết.
Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp … Hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản … Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro, sẽ được bù đắp hoặc thay thế bằng một quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ của Nhà nước.
Mục tiêu của BHXH là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế (ILO)cụ thể hóa như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con người và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 rằng : “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thỏa mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người”
Tại nước ta, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách bảo đảm BHXH. Ngoài BHXH, chính sách bảo đảm xã hội còn có cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội.
Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của nhà nước và xã hội về các thu nhập và các điều kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên của xã hội, trong những trường tối thiểu bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình. Sự giúp đỡ này được thực hiện từ các nguồn quỹ dự phòng của Nhà nước, bằng tiền hoặc bằng hiện vật đóng góp của các tổ chức xã hội và những người hảo tâm. Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt cả về vật chất và tinh thần của Nhà nước của xã hội nhằm đền đáp công lao đối với những người hay một bộ phận xã hội có nhiều cống hiến cho xã hội. Chẳng hạn những người có công với nước, liệt sĩ hoặc thân nhân liệt sĩ, thương binh, bệnh binh v.v.v … Đều là những đối tượng được hưởng sự đãi ngộ của Nhà nước, của xã hội, ưu đãi xã hội tuyệt nhiên không phải là sự bố thí,ban ơn, mà nó là một chính sách xã hội có mục tiêu chính trị – kinh tế – xã hội, góp phần củng cố thể chế chính trị của Nhà nước trước mắt và lâu dài, đảm bảo sự công bằng xã hội.
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về đối tượng và phạm vi, song BHXH, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội là những chính xã hội không thể thiếu được của một quốc gia. Những chính sách này luôn bổ sung cho nhau và tất cả đều góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước do nhà nước thống nhất và quản lý.Từ khi BHXH xuất hiện đến nay, hoạt động này vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính cộng đồng, nhân văn lớn, điều này cũng có nghĩa là dù kinh tế có phát triển đến mức độ nào, dù có biến động như thế nào về thể chế chính trị, xã hội thì bản chất BHXHvẫn không thay đổi, vẫn là một trong những chính sách quan trọng của một quốc gia.
1.1.4. Vai trò của BHXH
Hoạt động của BHXH là hoạt động sự nghiệp vì lợi ích chung của toàn xã hội, phục vụ cho mọi thành viên trong xã hội, lợi nhuận không phải mục tiêu của hoạt động BHXH .Do đó, BHXH có vai trò to lớn trong đời sống kinh tế –xã hội của con người, được thể hiện trên các mặt sau:
Đối với người lao động:
Bảo hiểm xã hội là một biện pháp kinh tế để tạo lập nguồn tài chính bảo đảm một phần tài chính nào đó cho người lao động khi nguồn thu nhập thông thường bị cắt giảm hoặc bị mất, nhằm ổn định đời sống của người lao động và gia đình họ khi gặp những rủi ro trong cuộc sống.
Đối với người sử dụng lao động:
Để có được sản phẩm phục cho cuộc sống con người, phục vụ cho sự phát triển của xã hội thì cần phải có người tạo ra sản phẩm cần thiết cho con người, cho xã hội. Những người sử dụng sức lao động để sản xuất ra sản phẩm, đó chính là những người chủ sử dụng lao động. Muốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh được đảm bảo thì người chủ phải có vốn, có công nghệ nhưng bên cạnh đó cần thiết hơn là phải tạo được mối quan hệ tốt với người lao động, giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của mình đối với người lao động thật tốt để họ yên tâm lao động sản xuất và có niềm tin vào cuộc sống từ đó họ lao động sản xuất hăng hái hơn tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của người chủ sử dụng hoạt động đạt kết quả cao, thu nhiều lợi nhuận. Muốn vậy người chủ sử dụng lao động phải tham gia BHXH cho những người lao động của mình để có thể đảm bảo những khoản chi trả cần thiết, kịp thời đến người lao động khi họ gặp những rủi ro bất trắc. Việc tham gia đóng góp BHXH cho người lao động của người chủ sử dụng lao động là góp vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn, nâng cao năng suất, hiệu quả lao động sản xuất của doanh nghiệp như nâng cao thu nhập cho người lao động và góp vào việc phát triển nền kinh tế của đất nước. Nói cách khác, ngoài tiền công thì BHXH là động lực thúc đẩy hoạt động của người lao động chính vì vậy người sử dụng lao động nộp BHXH không chỉ cho lợi ích của người lao động mà còn lợi ích của chính bản thân họ.
Đối với xã hội:
Thứ nhất, với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của nhà nước, BHXH sẽ “ bảo hiểm” cho người lao động, hoạt động BHXH sẽ giải quyết những “ trục trặc”, “rủi ro” xảy ra đối với những người lao động, góp phần tích cực của mình vào việc phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của sức lao động. Sự góp phần này tác độn._.g trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động xã hội. Với sự trợ giúp của BHXH đối với người lao động khi gặp phải rủi ro bằng cách tạo ra thu nhập thay thế thì BHXH đã gián tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng quốc gia làm tăng sự tiêu dùng cho xã hội.
Thứ hai, với tư cách là một quỷ tiền tệ tập trung, BHXH tác động mạnh mẽ tới hệ thống tài chính ngân sách nhà nước, tới hệ thống tín dụng tiền tệ ngân hàng. Chính vì vậy, đặt ra một yêu cầu cho quỷ BHXH phải tự bảo tồn và phát triển quỹ bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình thức đầu tư phát triển phần “nhàn rỗi” của quỹ. Phần này có tác động không nhỏ tới sự phát triển của đất nước, góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc làm mới góp phần quan trọng trong việc tạo ra việc làm cho người lao động. Từ đó góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp của đất nước, góp phần tăng thu nhập cá nhân cho người lao động nói riêng và tăng tổng sản phẩm quốc nội cũng như tổng sản phẩm quốc dân nói chung.
Thứ ba, BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Sự phân phối lại thu nhập này được tiến hành thông qua hai cách: Phân phối lại theo chiều ngang giữa người khỏe và người già, người đang làm việc với người đã nghĩ hưu, người trẻ tuổi với người lớn tuổi, giữa nam với nữ, người đang hưởng trợ cấp với người chưa hưởng trợ cấp; phân phối lại theo chiều ngang là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế xã hội, giữa những người có thu nhập cao với những người có thu nhập thấp. BHXH không bao hàm ý phân phối bình quân, cũng không hàm ý lấy của người giàu chia cho người nghèo một cách võ đoán. ý nghĩa của BHXH là nhiễu điều phủ lấy giá gương, là đoàn kết tương trợ, phát huy tính tự thân, sống hòa nhập có tình có nghĩa giữa các nhóm, các giới bạn trong cùng một cộng đồng với nhau mà vốn là tiềm lực của dân tộc ta đã được lịch sử chứng minh. Khi chính sách BHXH được áp dụng đối với mọi người lao động sẽ được tạo ra sự phân công lao động xã hội hợp lý, có hiệu quả, tạo ra được một thị trường lao động năng động. Bởi vì người lao động có thể làm việc ở bất cứ đơn vị nào, thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình sở hữu thì họ vẫn được quyền tham gia và hưởng thụ tất cả mọi chế độ về BHXH. Chính điều đó tạo điều kiện cho người lao động và người sử dụng lao động được tự do thỏa thuận về điều kiện làm việc phù hợp với nhu cầu, trình độ, nghề nghiệp, tay nghề, thu nhập với từng người lao động. Đó là những yếu tố quan trọng vừa để khai thác, sử dụng triệt để nguồn lao động; vừa để nâng cao hiệu suất công tác, năng suất lao động, tiết kiệm chi phí xã hội ( về đào tạo, các nguồn lực khác…), làm tăng của cải vật chất và tăng tích lũy cho nền kinh tế.
Thứ tư: Với hình thức “ số đông bù số ít”, dàn trải rủi ro thiệt hại của người lao động theo cả thời gian và không gian, BHXH đã giúp giảm thiểu thiệt hại cho số đông người trong xã hội, đồng thời làm tăng khả năng giải quyết rủi ro. Có thể nói BHXH là phương pháp hiệu quả nhất để giải quyết những khó khăn về đời sống của người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định và an toàn.BHXH đã phát huy tiềm năng của số đông người và ưu điểm của nhiều phương thức hoạt động trong nền kinh tế thị trường để đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động cũng như xã hội.
1.2. Quỹ bảo hiểm xã hội
1.2.1.Khái niệm và đặc điểm:
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân NSNN. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của BHXH chính là những người tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm cả: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
Quỹ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau :
- Quỹ BHXH được hình thành,tồn tại và phát triển gắn với mục đích đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp các biến cố, rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động. Hoạt động của quỹ không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời . Vì vậy, nguyên tắc quản lý quỹ BHXH là cân bằng thu-chi.
-Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính chất hoàn trả, vừa mang tính chất không hoàn trả. Tính chất hoàn trả thể hiện ở chỗ, người lao động là đối tượng tham gia và đóng góp BHXH đồng thời họ cũng là đối tượng được nhận trợ cấp được chi trả từ quỹ theo các chế độ. Thời gian hưởng và mức hưởng của mỗi người sẽ khác nhau phụ thuộc vào những biến cố hoặc rủi ro mà họ gặp phải, phụ thuộc vào mức đóng góp và thời gian đóng góp BHXH của họ. Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ cùng tham gia và đóng góp BHXH, có người lao động được hưởng trợ cấp nhiều lần theo nhiều chế độ khác nhau, nhưng có người được hưởng ít lần, thậm chí không được hưởng.Chính từ đặc điểm này nên có trường hợp đối tượng hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH lớn hơn nhiều so với mức đóng góp và ngược lại.
-Quá trình tích lũy để bảo tồn giá trị và đảm bảo an toàn về tài chính đối với quỹ BHXH là một vấn đề mang tính nguyên tắc.Đặc điểm này xuất phát chức năng cơ bản nhất của BHXH là đảm bảo an toàn về thu nhập cho người lao động.Vì vậy, đến lượt mình, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Nhiều nhà kinh tế cho rằng : Quỹ BHXH là:”của để dành”của người lao động phòng khi ốm đau, tai nạn hoặc tuổi già v.v. Nguồn quỹ này được đóng góp và tích lũy lại trong suốt quá trình lao động. Nếu xem xét tại một thời điểm cụ thể nào đó, quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi để chi trả trong tương lai. Lượng tiền này có thể biến động tăng và cũng có thể biến động giảm do mất an toàn, giảm giá trị do yếu tố lạm phát. Do đó, bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH đã trở thành yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH.
-Quỹ BHXH là hạt nhân, là nội dung vật chất của tài chính BHXH. Nó là khâu tài chính trung gian cùng với ngân sách Nhà nước và tài chính doanh nghiệp hình thành nên hệ thống tài chính quốc gia. Tuy nhiên,mỗi khâu tài chính được tạo lập, sử dụng cho một mục đích riêng và gắn với chủ thể nhất định. Vì vậy, chúng luôn độc lập với nhau trong quản lý và sử dụng. Thế nhưng tài chính BHXH, Ngân sách Nhà nước và tài chính doanh nghiệp lại có quan hệ chặt chẽ với nhau và đều chịu sự chi phối của pháp luật Nhà nước.
-Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội của từng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước. Kinh tế –xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH, nhu cầu thỏa mãn về BHXH đối với người lao động càng được nâng cao. Đồng thời khi kinh tế – xã hội phát triển , người lao động và người sử dụng lao động sẽ có thu nhập cao hơn, do đó họ càng có điều kiện tham gia và đóng BHXH.
1.2.2. Nguồn hình thành và mục đích sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội:
Quỹ BHXH được hình thành từ những nguồn sau:
-Người tham gia BHXH.
-Nhà nước hỗ trợ thêm.
- Lãi đầu tư.
- Các nguồn khác (như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư quỹ nhàn rỗi v.v.).
Trong đó người tham gia BHXH bao gồm:
+Người sử dụng lao động.
+ Người lao động.
Tùy điều kiện của mỗi nước mà người sử dụng lao động và người lao động đóng góp theo những tỷ lệ khác nhau nhưng thông thường người sử dụng lao động phải đóng góp phần nhiều hơn. ở Việt Nam hiện nay theo quy định người sử dụng đóng góp là 15% tổng quỹ lương còn người lao động đóng góp 5% tiền lương tháng.
Trong nền kinh tế hàng hóa, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê mướn. Đồng thời nó còn giảm bớt tình trạng tranh chấp và thiết lập được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ và thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp một phần để bảo hiểm xã hội cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu sự rủi ro chính họ, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ- thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết các bộ luật của Nhà nước về BHXH là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động và người sử dụng lao động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ – thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sở pháp lý để giải quyết. Ngoài ra, bằng nhiều hình thức, biện pháp và mức độ can thiệp khác nhau, Nhà nước không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn trở thành chỗ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định.
Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ BHXH phải được tính toán một cách khoa học. Trong thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các phương pháp toán học để xác định. Khi tính phí BHXH, có thể dựa trên những căn cứ tính toán khác nhau:
-Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó làm cơ sở xác định mức đóng bảo hiểm xã hội.
-Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng sau.
-Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định mức phí BHXH.
Khi xác định mức phí BHXH vẫn phải đảm bảo nguyên tắc :cân bằng thu chi, lấy số đông bù số ít và có dự phòng.
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho các mục đích sau:
- Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH.
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH.
- Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
Trong 3 nội dung nêu trên thì chi trả trợ cấp BHXH theo các chế độ là lớn nhất và quan trọng nhất. Khoản chi này được thực hiện theo luật định và phụ thuộc vào phạm vi trợ cấp của từng hệ thống BHXH. Về nguyên tắc, có thu mới có chi, thu trước chi sau. Vì vậy, quỹ BHXH chỉ chi cho các chế độ trong phạm vi có nguồn thu, thu của chế độ nào thì chi ở chế độ đó.
Tuy nhiên, quá trình sử dụng quỹ BHXH mà phần sử dụng nhiều nhất là để chi trả cho các chế độ còn phụ thuộc vào việc thành lập quỹ BHXH theo phương pháp nào?
+ Nếu chỉ thành lập một quỹ BHXH tập trung thống nhất thì việc chi trả cũng phải phải đảm bảo tính thống nhất theo các nội dung chi. Điều đó có nghĩa là, tất cả các nguồn thu BHXH đều được tập trung để hình thành một quỹ, sau đó quỹ được sử dụng để chi trả theo các chế độ, chi quản lý và đầu tư. Phương thức này rất đơn giản và tác dụng chủ yếu là quản lý quỹ được tập trung, cho nên dễ dàng điều tiết giữa các chế độ BHXH trong quá trình chi trả.
+ Nếu quỹ BHXH được hình thành theo 2 loại : Quỹ BHXH ngắn hạn và quỹ BHXH dài hạn thì việc chi trả và quản lý chi sẽ cụ thể hơn. Quỹ BHXH ngắn hạn được chi cho các chế độ ngắn hạn như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Nguôn quỹ này sẽ được cân đối từng năm, thậm chí có thể được hình thành ngay trong từng doanh nghiệp để chi trả trực tiếp. Quỹ BHXH dài hạn được sử dụng để chi trả cho các chế độ dài hạn như: Hưu trí, tử tuất. Nguồn quỹ này phải được cân đối trong nhiều năm và dùng tài khoản cá nhân trong quá trình chi trả là có hiệu quả nhất. Phương thức này đảm bảo cho công tác chi trả sát thực tế và đúng mục đích hơn. Đồng thời, còn tạo điều kiện cho người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia các chế độ BHXH dài hạn.
+ Nếu quỹ được thành lập theo từng chế độ : quỹ ốm đau, quỹ thai sản, quỹ hưu trí v.v thì việc chi trả gắn với từng chế độ hoặc từng nhóm chế độ. Chẳng hạn:
Đối với chế độ hưu trí và tử tuất :
Việc chi trả bắt nguồn từ việc bảo hiểm thu nhập cho người lao động khi già yếu hết tuổi lao động và qua đời. Muốn được chi trả người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia đóng góp. Quyền lợi được hưởng tương ứng với mức đóng góp phí BHXH của từng người lao động. Phí BHXH nộp cho các chế độ hưu trí và tử tuất được cơ cấu vào tiền lương, tiền công và được hạch toán vào giá thành sản phẩm để tạo nguồn tài chính cho người lao động và người sử dụng lao động đóng góp.
Đối với các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Đây là những chế độ BHXH ngắn hạn, nội dung chi trả bắt nguồn từ việc ổn định sản xuất kinh doanh, ổn định kinh tế cho người sử dụng lao động và ổn định cuộc sống cho người lao động khi họ bị ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN. Để có quỹ chi trả, cả người lao động và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đóng phí. Số phí này cũng được hạch toán đầy đủ vào giá thành sản phẩm để tạo nguồn tài chính nộp phí bảo hiểm.Trợ cấp cho các chế độ này mang tính trực tiếp và ngắn hạn, thường diễn ra trong một không gian và thời gian nhất định. Chính vì vậy, mỗi chế độ có thể hình thành một quỹ được hạch toán độc lập. Phương thức này có ưu điểm là dễ dàng cân đối thu- chi, từ đó góp phần xác định mức đóng và mức hưởng của từng chế độ một cách chính xác.
Chương II
Thực trạng công tác thu- chi bảo hiểm xã hội
ở quận cầu giấy –hà nội
2.1 Giới thiệu chung về bhxh quận cầu giấy.
2.1.1 Đặc điểm tổ chức bộ máy.
Cùng với sự ra đời của BHXH Việt Nam, BHXH thành phố Hà Nội là sự hình thành BHXH các quận huyện. Ngày 1/9/1997 BHXH quận Cầu Giấy được thành lập trên cơ sở tách ra từ huyện Từ Liêm với 8 phường hiện đang quản lý là:Dịch Vọng, Trung Hòa, Yên Hòa, Quan Hoa, Mai Dịch, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân, Dịch Vọng Hậu.
Cùng với sự lớn mạnh của quận đang được đô thị hóa nhanh BHXH quận Cầu Giấy không ngừng thay đổi về mọi mặt, được BHXH thành phố đầu tư xây dựng trụ sở với diện tích sử dụng 1000m2 tại số 6 Trần Đăng Ninh quận Cầu Giấy. Là đơn vị trực thuộc BHXH thành phố Hà Nội, BHXH quận Cầu Giấy có tư cách pháp nhân, có tài khoản có con dấu và trụ sở riêng.
Với 20 cán bộ, BHXH quận Cầu Giấy chia thành bốn bộ phận có chức năng, nhiệm vụ riêng biệt: bộ phận thu và cấp sổ, bộ phận chính sách hồ sơ lưu trữ, bộ phận giám định chi và bộ phận kế toán tài vụ. Cả bốn bộ phận này đều được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Giám đốc và Phó giám đốc. Sự phân chia về công việc được thể hiện ở sơ đồ sau:
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của BHXH quận Cầu Giấy
Giỏm Đốc
P. Giỏm Đốc
Bộ phận thu và cấp sổ
Bộ phận chớnh sỏch, hồ sơ lưu trữ
Bộ phận giỏm định chi
Bộ phận kế toỏn tài vụ
P. Giỏm Đốc
* Bộ phận quản lý thu và cấp sổ (bao gồm 9 người)
Để thực hiện chỉ tiêu thu năm sau cao hơn năm trước, giải quyết tình trạng nợ đọng BHXH và đốc thu theo đúng kế hoạch, thu đủ chính xấc, cơ quan BHXH quận Cầu Giấy chủ trương phân chia mỗi cán bộ được giao quản lý công tác đốc thu ở một vài phường nhất định. Mỗi cán bộ trực tiếp làm việc với các đơn vị sử dụng lao động, gặp gỡ cán bộ phụ trách công tác BHXH ở đơn vị đó, hướng dẫn đôn đốc theo dõi ghi chép kết quả đóng BHXH, đồng thời xác nhận để thanh toán 2 chế độ ốm đau, thai sản và hướng dẫn đơn vị viết tờ khai cấp sổ bảo hiểm, đối chiếu tờ khai cấp sổ với hồ sơ gốc để thực hiện việc cấp sổ BHXH. Kể từ tháng 09 năm 1996 thì cơ quan đã thực hiện việc cấp sổ cho 97%-98% số tham gia đóng BH từ tháng 01 năm 1995 trở về trước.
* Bộ phận chính sách
Để thực hiện được chính sách BHXH cho người lao động một cách kịp thời nhanh chóng, cơ quan BHXH quận giao cho 2 cán bộ phụ trách làm nhiệm vụ:
+ Tiếp nhận chuyển đến, chuyển di các cán bộ hưu trí, mất sức lao động
+Thanh toán chế độ mai táng phí và giải quyết chế độ tuất.
* Bộ phận kế toán tài vụ
Vào sáng thứ 2, thứ 4, và thứ 6 hàng tuần, bộ phận kế toán tài vụ làm nhiệm vụ trực tiếp chi trả tiền lương và chính sách xã hội của đối tượng chưa lĩnh, thanh toán mai táng phí, lập chứng từ chi trả trực tiếp chế độ ốm đau tai nạn lao động. Ngoài ra bộ phận còn xây dựng nhiệm vụ kế hoạch với cấp trên và với kho bạc Nhà nước, cuối cùng thực hiện thanh quyết toán với BHXH cấp trên.
* Bộ phận lưu trữ hồ sơ
Việc bảo quản và lưu trữ hồ sơ cho người lao động là công việc hết sức quan trọng trong công tác quản lý của ngành, do đó ở bộ phận này, cơ quan BHXH quận giao cho công tác quản lý về:
+ Quản lý về mặt hồ sơ của cán bộ hưu trí, mất sức lao động, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, thực hiện cập nhật theo danh sách chi trả của công tác chi trả.
+ Quản lý về mặt chứng từ chi trả
+Quản lý về hồ sơ đóng BHXH của cán bộ công nhân viên chức.
+Tổ chức khai thác hồ sơ để phục vụ cho các nhiệm vụ khi có yêu cầu như: cần xét khen thưởng huân chương phải có xác nhận năm công tác từ hồ sơ hoặc xác nhận năm công tác của Nhà Nước, giải quyết quyền lợi của các bộ lão thành cách mạng khi họ bị mất hồ sơ.
Vậy mỗi bộ phận ở cơ quan BHXH quận Cầu Giấy đều thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao theo chức năng của bộ phận mình nhưng giữa các bộ phận luôn luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Quyền và lợi ích của người lao động được đảm bảo về các chính sách BHXH được đảm bảo kịp thời nhanh chóng. Trong thời gian qua BHXH quận Cầu Giấy thực thi hoàn thành các chỉ tiêu đề ra, đây là một cố gắng lớn của toàn bộ các cán bộ trong cơ quan BHXH quận.
2.1.2 Nhiệm vụ và quyền hạn của BHXH quận Cầu Giấy
Nhiệm vụ và quyền hạn của BHXH quận Cầu Giấy như sau:
-Xây dựng chương trình, kế hoạch công tác nhằm trình giám đốc BHXH thành phố Hà Nội.
- Hướng dẫn đơn vị sử dụng lao động lập danh sách tham gia BHXH, đốc chiếu thu, đôn đốc thu BHXH các đơn vị đóng trên địa bàn quận hoặc trực tiếp thu BHXH theo phân cấp của BHXH Việt Nam và BHXH thành phố Hà Nội.
- Tiếp nhận kinh phí, danh sách và tổ chức chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH do BHXH thành phố Hà Nội chuyển đến.
- Theo dõi kết quả đóng BHXH của từng đơn vị, từng người lao động trong từng tháng trên cơ sở đó để giải quyết thực hiện chi trả 2 chế độ ngắn hạn ốm đau, thai sản cho người lao động kịp thời đúng điều lệ quy định.
- Tổ chức chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH.
- Theo dõi đối tượng tham gia đóng và hưởng BHXH theo từng tháng.
- Đảm bảo và quản lý hồ sơ các đối tượng tham gia đóng và hưởng BHXH, khai thác hồ sơ đăng ký quản lý, phục vụ các đối tượng khi có nhu cầu như xác định năm công tác để miễn giảm tiền nhà tiền đất, khen thưởng chống Mỹ.
- Tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo về chế độ, các chính sách BHXH để giải quyết theo thẩm quyền hoặc báo cáo với BHXH thành phố xem xét, giải quyết.
- Tổ chức ký kết hợp đồng trách nhiệm và quản lý mạng lưới chi trả BHXH phường.
- Quản lý các loại đối tượng khám chữa bệnh bắt buộc và tự nguyện theo quy định của BHXH thành phố trên địa bàn phụ trách, hướng dẫn đôn đốc các đơn vị thực hiện các thủ tục phục vụ cho việc khai thác phát hành hoặc gia hạn thẻ khám chữa bệnh theo phân cấp của BHXH Thành phố.
- Thực hiện công tác giám định chi khám chữa bệnh của người có sổ, thẻ BHXH tại các cơ sở khám chữa bệnh. Tiếp nhận và hướng dẫn người bệnh, giải quyết những vướng mắc và đảm bảo quyền lợi cho bệnh nhân có sổ, thẻ BHXH.
- Quản lý cong nhân viên chức, tài chính và tài sản thuộc BHXH quận theo phân cấp của BHXH Việt Nam và BHXH Thành phố.
- Lập dự toán và quyết toán thu chi về BHXH và các chi phí quản lý Nhà Nước.
- Giải quyết các chế độ tử tuất cho đối tượng đang hưởng BHXH.
- Thực hiện chế độ báo cáo với BHXH thành phố và UBND quận theo quy định.
2.2. Thực trạng công tác thu – chi BHXh tại BHXH quận cầu giấy – hà nội
2.2. 1. Thực trạng công tác thu.
2.2.1.1. Cơ sở, chế định thực hiện công tác thu BHXH.
Căn cứ vào nghị định số 12/CP ngày 26/1/995 của Chính phủ về việc ban hành điều lệ BHXH và căn cứ vào số đơn vị do BHXH thành phố giao. BHXH quận Cầu Giấy thực hiện thu BHXH của:
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
- Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất,khu công nghiệp, trong các cơ quan tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tại Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định khác.
- Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang.
- Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện.
- Các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện BHXH bắt buộc.
BHXH thành phố Hà Nội căn cứ vào điều 37 của điều lệ BHXH( Ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/995của CP) quy định: Hàng tháng, người sử dụng có trách nhiệm đóng BHXH theo quy định tại khoản 1 Điều 36(đóng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị) và trích từ tiền lương của những người lao động theo quy định tại khoản 2 Điều 36 của Điều lệ BHXH( 5% tiền lương tháng ) để đóng cùng một lúc vào quỹ BHXH.
Ngoài ra, cơ quan BHXH còn căn cứ vào các văn bản liên quan như sau:
- Thông tư số 58/TT/HCSN ngày 24/07/1995 của Bộ tài chính hướng dẫn tạm thời phương thức thu- nộp BHXH.
- Công văn số 562/TC ngày 23/12/1995 của Cục tài chính – Bộ quốc phòng, hướng dẫn tạm thời về quản lý thu, chi BHXH tại các đơn vị trong quân đội.
- Quyết định số 20/1998/ QĐ- TTg ngày 26/01/1998 của Thủ tướng chính phủ việc ban hành quy chế quản lý đối với BHXH Việt Nam, Quyết định số 10/2001/QĐ- TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam ban hành theo quyết định số 20/1998/ QĐ- TTg.
- Thông tư số 85/1998/ TT/ - BTC ngày 25/06/1998 của Bộ tài chính hướng dẫn quy chế quản lý TC đối với BHXH Việt Nam; Thông tư số 66/2001/ TT BTC ngày 22/08/2001 hướng dẫn sửa đổi một số điều của thông tư số 85/1998/TT- BTC hướng dẫn quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam.; Thông tư số 104/2001/TT-BTC ngày 26/12/1998 của Bộ tài chính về hướng dẫn quy chế quản lý tài chính BHXH Việt Nam. Thông tư số 55/1999/TT- BTC hướng dẫn sửa đổi thông tư số 85/TT/BTC.
- Quyết định số 2902/1999/QĐ- BHXH ngày 24/11/1999 của Tổng Giám Đốc BHXH Việt Nam về việc ban hành quy định quản lý thu BHXH thuộc hệ thống BHXH Việt Nam.
- Quyết định số 211/BHXH năm 1995 quy định tạm thời về thu chi BHXH.
- Quyết định số 177/QĐ -BHXH năm 1996 quy định về quản lý thu chi BHXH.
-Bên cạnh các văn bản nói trên còn có những văn bản khác liên quan và hỗ trợ đến công tác thu BHXH.
2.2.1.2. Kết quả thu BHXH
Ngay từ khi mới thành lập tập thể cán bộ công nhân viên chức cơ quan BHXH quận Cầu Giấy- Hà Nội đã tập trung, chú trọng công tác thu BHXH. Chính vì vậy mà chỉ tiêu thu theo kế hoạch của BHXH quận Cầu Giấy luôn được hoàn thành xuất sắc thể hiện qua số thu BHXH ở bảng 2.1.
Bảng 2.1.Tình hình thu BHXH tại BHXH quận Cầu Giấy – Hà Nội
(2002-2006)
Năm
Số đơn vị đóng BHXH
(đơn vị)
Số lao động đóng BHXH (người)
Tổng số tiền thu BHXH (trđ)
Tốc độ tăng trưởng
Số tiền
(trđ)
Tỷ lệ (%)
2002
269
21.118
27.442
_
_
2003
303
22.343
45.759
18.317
66,7
2004
337
24.722
51.839
6.080
13,3
2005
536
28.557
74.045
22.206
42,8
2006
780
32.286
96.592
22.547
30,5
Nguồn: BHXH quận Cầu Giấy
Nhìn lại 5 năm thực hiện công tác thu BHXH nhằm tạo lập một quỹ BHXH độc lập tại BHXH quận Cầu Giấy ta nhận thấy BHXH quận trong 5 năm qua luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thu của mình, luôn tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Đây là con số rất có ý nghĩa đối với sự phát triển của ngành BHXHnói chung và của BHXH quận Cầu Giấy nói riêng.Nó phản ánh được những cố gắng và nỗ lực tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công nhân viên chức và ban lãnh đạo cơ quan BHXH quận Cầu Giấy. Chính những cố gắng nỗ lực đố làm cho số thu BHXH không ngừng tăng lên qua các năm cụ thể:
Năm 2003 so với năm 2002 số thu BHXH tăng 66,7%.
Năm 2004 so với năm 2003 số thu BHXH tăng 13,3%.
Năm 2005 so với năm 2004 số thu BHXH tăng 42,8%.
Năm 2006 so với năm 2004 số thu BHXH tăng 30,5%.
Đặc biệt là năm 2003 so với năm 2002 BHXH quận Cầu Giấy đạt được số thu tương đối lớn : 45.759 (triệu đồng) tăng 66,7%.
Để đạt được kết quả như trên, ngoài sự cố gắng nỗ lực của cơ quan BHXH quận Cầu Giấy còn có một số yếu tố sau:
Mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH : Đối với khối doanh nghiệp nhà nước và khối hành chính sự nghiệp thì lao động càng làm việc lâu thì mức lương càng tăng dần dẫn đến hệ số lương để tính nộp BHXH tăng. Mặt khác do sự phát triển của nền kinh tế nước ta, đời sống của người dân không ngừng được cải thiện ; nhu cầu cho cuộc sống ngày càng lớn, đòi hỏi thu nhập ngày càng lớn. Ngoài ra sự điều chỉnh mức lương tối thiểu của Nhà Nước qua các năm nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của người dân cũng có ảnh hưởng không nhỏ. Mức lương tối thiểu từ 210.000 vào năm 2002 tăng lên 290.000 năm 2003 tăng tiếp lên 350.000 vào năm 2005 và bây giờ là 450.000 vào năm 2006. Mà lương hưu của khu vực này lại tính theo hệ số. Do đó mức lương được tăng lên làm cho số phải nộp quỹ BHXH cũng tăng lên. Đồng thời ngày 06 tháng 12 năm 2002 Chính phủ ban hành nghị định số 100/2002/ NĐ- CP về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Khiến cho cơ cấu tổ chức của toàn nghành có sự liên kết chặt chẽ và hoạt động có hiệu quả hơn trước. BHXH được chủ động đưa ra những kế hoạch, chiến lược lâu dài nhằm phát triển bền vững. Quỹ BHXH được quản lý theo nguyên tắc tập trung thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước và hạch toán độc lập được Nhà nước bảo hộ, nên có sự lãnh đạo thường xuyên, trực tiếp từ các cơ quan BHXH cấp trên xuống cấp dưới; tạo nên hiệu quả trong công tác thu BHXH và còn có xu hướng tăng nhanh hơn nữa trong những năm tới.
Ngoài ra qua mỗi năm đối tượng ngày càng được mở rộng và số tham gia BHXH cũng gia tăng rõ rệt thể hiện qua bảng 2.2.
Bảng 2.2: Lượng tăng (giảm) số lao động và số đơn vị tham gia BHXH
tại BHXH quận Cầu Giấy (2002- 2006)
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
Số đơn vị tham gia BHXH(đơn vị)
269
303
337
536
780
Lượng tăng (giảm) liên hoàn số đơn vị tham gia BHXH.
-
34
34
199
244
Số người lao động được tham gia BHXH( người)
21.118
22.343
24.722
28.557
32.286
Lượng tăng (giảm) liên hoàn số lao động được tham gia BHXH.
1.225
2.379
3.835
3.729
Nguồn :BHXH quận Cầu Giấy.
Qua bảng số liệu ta nhận thấy sau 5 năm hoạt động số người tham gia đóng BHXH tại BHXH quận Cầu Giấy tăng lên 11.168 người (Năm 2006 so với năm 2002 tăng 1,53 lần) và số đơn vị tính đến hết năm 2006 tăng 511 đơn vị. Nhìn chung mức tăng qua các năm không đều nhau, năm tăng mạnh nhất là năm 2005 so với năm 2004 tăng 5.835 người(15,5%) và năm 2006 so với năm 2005 tăng 32.286 người (13%). Đạt được điều này cố thể do đầu năm 2003 có chủ trương mở rộng đối tượng tham gia BHXH theo Nghị định số 01/2003/ NĐ- CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều lệ của BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ, tất cả mọi người lao động có quan hệ tiền lương tiền công đều thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc kể cả các doanh nghiệp các hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác sử dụng từ 10 lao động trở lên và có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên đến không thời hạn. Chính vì sự mở rộng đối tượng tham gia như vậy nên số đơn vị và số lao động tham gia BHXH tăng lên nhanh qua các năm đóng góp không nhỏ vào nguồn thu BHXH.
Thực hiện quyết định 20/CP ngày 24/01/2002 của Chính phủ về việc chuyển BHYT sang BHXH Việt Nam và Nghị định 100/CP ngày 6/12/ 2002 của Chính phủ quy định chức năng, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Theo chủ trương của BHXH Thành phố Hà Nội từ ngày 26/12/2002 chi nhánh BHYT quận Cầu Giấy đã chính thức chuyển sang BHXH quận Cầu Giấy, đưa tổng số cán bộ BHXH quận lên là 20 người. Thời gian đầu một số cán bộ mới chuyển sang chưa thực sự yên tâm công tác, qua sự sắp xếp cán bộ theo yêu cầu công việc và khả năng của từng người nên số cán bộ này đã yên tâm công tác tích cực học tập để nắm bắt chuyên môn nghiệp vụ. Đến nay các cán bộ của BHXH quận đều nỗ lực cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của BHXH thành phố giao cho vì BHXH thành phố Hà Nội thực hiện thu BHXH tập trung vào một tài khoản thu nên kết quả thu được đến đâu chuyển ngay lên quỹ BHXH Việt Nam đảm bảo tuyệt đối an toàn nguồn thu BHXH. Vì thế BHXH quận phải làm nhiệm vụ đôn đốc, đối chiếu kết quả thu và hướng dẫn việc ghi sổ BHXH làm cơ sở thực hiện các chế độ BHXH theo luật định.
Tuy nhiên, với tốc độ phát triển nguồn thu BHXH như hiện nay vẫn chưa thể đáp ứng chi trả các chế độ trong hiện tại và bảo toàn nguồn quỹ trong tương lai ước tính đến năm 2022 thì bắt đầu thu không đủ chi, và đến năm 2035 thì quỹ BHXH hết khả năng chi trả. Trước tình hình này, ngoài việc yêu cầu phải có sự thay đổi trong chính sách còn cần có sự nỗ lực của toàn nghành BHXH nói chung và từng đơn vị trong hệ thống BHXH nói riêng. Trong những năm gần đây BHXH quận Cầu Giấy cũng đã luôn cố gắng hoàn thành chỉ tiêu thu BHXH do BHXH thành phố giao.
Khối đơn vị luôn đi đầu trong việc hoàn thành nghĩa vụ đóng góp BHXH trên địa bàn quận Cầu Giấy chính là khối hành chính sự nghiệp.
2.2.1.3 Công tác thu BHXH ở khối hành chính sự nghiệp.
Khối HCSN có nhiều thuận lợi do đặc thù 100% người lao động đều hưởng lương từ NSNN. Tiền lương dùng để đóng BHXH luôn luôn được kê khai chính xác. Mặt khác, cán bộ giao nhiệm vụ làm công tác BHXH đều có trình độ và nghiệp vụ kế toán, tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc giao nộp và quản lý số tiền đóng BHXH.
Việc lập danh sách đăng ký lao động và quỹ tiền lương đăng ký tham gia BHXH đến việc lập danh sách tăng, giảm lao động đối chiếu trích nộp hàng tháng đầy, kịp thời chính xác đúng quy định của Nhà Nước.
Hiện nay BHXH quận Cầu Giấy quản lý thu, 186 cơ quan HCSN với tổng số 17.722 lao động tham gia đăng ký trích nộp BHXH. Bảng 2.3 cho thấy:
Bảng 2.3: Tình hình thu BHXH ở khối HCSN trên địa bàn quận Cầu Giấy – Hà Nội (2002-2006)
1. Chỉ tiêu
Đơn vị
2002
2003
2004
2005
2006
2. Số đơn vị tham gia BHXH
đơn vị
166
174
184
184
186
3. Tốc độ tăng liên hoàn số đơn vị tham gia BHXH
%
-
4,8
5,7
0
1,1
4. Số lao động
Người
14.227
14.762
16.240
17.046
17.722
5. Tốc độ tăng liên hoàn số lao động t._.uy định đóng BHXH, y tế nếu như khám lấy giấy nghỉ ốm hoặc điều trị bệnh khác là một trở ngại. Có người thời gian đóng BHXH dưới 5 năm lại hưởng lại hưởng trợ cấp ốm dài ngày nhiều năm, có mức lương cao hơn so với người có thời gian đóng BHXH từ 10-15 năm hết tuổi lao động được hưởng trợ cấp hưu 45-55% tiền lương bình quân 5 năm cuối thấp hơn trợ cấp dài ngày.
+Chế độ TNLĐ-BNN: Chế độ này có quy định trợ cấp cho người lao động khi họ tai nạn trên tuyến đường đi về từ nơi ở đến nơi làm việc. Như vậy trong trường hợp này rất khó xác định đâu là tuyến đường mà người lao động đi từ nhà đến cơ quan và ngược lại bởi vì trên thực tế có rất ít người đi một tuyến đường duy nhất từ nhà đến cơ quan.
- Với một địa bàn rộng lớn số đơn vị đặt trên địa bàn lại rất đông trong khi đó số cán bộ làm việc tại BHXH quận Cầu Giấy lại thiếu, nhất là bộ phận chi trả do đó gây nên môi trường làm việc căng thẳng dễ dẫn đến sự thiếu chính xác trong công việc.
- Nhiều đối tượng già cả, ốm đau không lĩnh tiền được, yêu cầu phải có giấy uỷ quyền song uỷ ban nhân dân phường lại không có quyền xác nhận, gây rất nhiều khó khăn cho đối tượng.
- Một số đối tượng hưu trí hưởng trợ cấp BHXH do chưa nhận thức đầy đủ quy định, vài tháng mới đi lĩnh một lần gây khó khăn cho công tác quản lý, BHXH quận vẫn chưa có chế tài khắc phục.
- Các đơn vị có đông công nhân lao động, sản xuất kinh doanh càng khó khăn thì ngày công nghỉ ốm càng nhiều( tiền thanh toán BHXH cao hơn tiền công đi làm) BHXH không kiểm soát được do người lao động không nghỉ quá quy định.
- Nhiều đơn vị ngoài quốc doanh tìm mọi cách lách luật như tuyển người có thai vào làm được ít tháng đã làm thủ tục trợ cấp thai sản, nâng lương cao hơn trước khi thanh toán trợ cấp BHXH.
- ở BHXH quận Cầu Giấy chủ yếu áp dụng phương thức chi trả gián tiếp qua đại diện chi trả ở các phường nên còn tồn tại những tình trạng cán bộ chi trả ký nhận thay cho người vắng mặt nên có thể dẫn tới việc chiếm dụng tiền mà đối tượng chưa nhận, khi cán bộ bảo hiểm biết thì quá muộn.
- Công tác thanh quyết toán, báo cáo tăng giảm đối tượng thường hay chậm bởi đa số cán bộ chi trả làm công tác kiêm nhiệm, họ còn thực hiện nhiệm vụ chuyên môn khác.
- Những người làm công tác chi trả ở các ban chính sách xã, phường còn yếu về nghiệp vụ kế toán do vậy công tác ghi chép, cập nhật chứng từ, các bảo biểu kế toán còn nhiều bất cập, thời gian lập bảo biểu thanh quyết toán thường chậm so với quy định. Công tác bảo quản, đảm bảo an toàn về tiền mặt trước, trong khi trả chưa được tốt, tình trạng mất an toàn luôn có nguy cơ xảy ra.
- Hiện tại rất nhiều đối tượng ở thành phố lĩnh lương khi không còn ở nơi ban đầu mà vì lý do nào đó mà chưa nhập được hộ khẩu do vậy công tác quản lý và chi trả còn nhiều khó khăn nhất là đối tượng người cao tuổi hưởng chế độ tuất.
- Việc chi dưỡng sức được thực hiện trong năm đối với những đơn vị sử dụng ít lao động muốn thực hiện cho người lao động còn gặp nhiều khó khăn.
Trên đây là một số vấn đề về công tác thu chi quỹ BHXH tại BHXH quận Cầu Giấy trong 5 năm trở lại đây. Công tác thu chi quỹ BHXH, cân đối giữa BHXH luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu của nghành BHXH. Công tác thu BHXH nhằm xây dựng, tạo lập nên nguồn quỹ BHXH độc lập, là vấn đề sống còn của quỹ BHXH. Bên cạnh đó công tác chi cũng góp phần không nhỏ vào sự ổn định và vững mạnh của quỹ BHXH, nó thể hiện vai trò và uy tín của nghành BHXH. Ngoài hai nhiệm vụ trọng tâm trên, BHXH quận Cầu Giấy còn thực hiện một số nhiệm vụ khác góp phần hỗ trợ tích cực vào sự nghiệp chung của toàn nghành:
- Công tác quản lý đối tượng: kiểm tra xét duyệt thẻ BHXH vào hồ sơ của những đối tượng đang hưởng BHXH tại quận. Quản lý theo dõi tình hình tăng giảm đối tượng trong quận.
- Thực hiện điều chỉnh lương hưu và trợ cấp thời gian công tác, tỷ lệ hưởng.
-Thực hiện quản lý đối tượng mất sức lao động: Số người được hưởng lại, hưởng tiếp và số người ngừng trợ cấp mất sức lao động.
- Thực hiện mở sổ quản lý đối tượng, lưu trữ và quản lý hồ sơ, sắp xếp, phân loại hồ sơ hưởng BHXH theo đơn vị hành chính, xã phường, doanh nghiệp theo đúng quy định của nghành.
- Giải quyết những vướng mắc mà đối tượng hưởng BHXH gặp phải
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của quận uỷ, UBND quận, sự chỉ đạo sát sao về nghiệp vụ của BHXH thành phố Hà Nội, sự cố gắng của từng cán bộ trong cơ quan và sự đoàn kết tập thể cán bộ của BHXH quận Cầu Giấy. BHXH quận đã đạt được những kết quả đáng mừng trên mọi mặt. Tuy nhiên vì một số lý do khách quan cũng như chủ quan mà vẫn còn những tồn tại hạn chế trong công tác thu chi quỹ BHXH như đã nêu ở trên. Điều này đòi hỏi phải được sửa đổi, điều chỉnh kịp thời để đảm bảo cho hoạt động BHXH quận Cầu Giấy được thực hiện tốt hơn nữa và đạt được những mục tiêu đã đề ra đồng thời để đảm bảo quyền lợi cho hàng vạn lao động trong các doanh nghiệp, cơ quan hành chính sự nghiệp, cán bộ xã (phường) đang đóng tại quận.
Chương III
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
công tác thu chi BHXH tại cơ quan
BHXH quận cầu giấy- hà nội
BHXH là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội của Đảng và Nhà Nước ta, BHXH có ý nghĩa quan trọng và liên quan trực tiếp đến việc ổn định đời sống của mỗi cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang và người lao động cũng như sự ổn định phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Chính vì vậy mọi sự thay đổi bổ sung hay đổi mới các chế độ, chính sách BHXH đều có ảnh hưởng đến những ổn định nói trên. Nói cách khác đây là vấn đề hết sức nhạy cảm liên quan đến cuộc sống của mọi người và thu hút sự quan tâm của xã hội. Vì thế, quá trình nghiên cứu xây dựng các chế độ, chính sách BHXH và luật BHXH, tuân theo những nguyên tắc cơ bản của BHXH đã được nêu ra từ thực tiễn và các công trình nghiên cứu khoa học về lĩnh vực này. Hoạt động BHXH được thống nhất tổ chức theo nghành dọc từ trung ương đến địa phương, BHXH cấp quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh là cấp trực thuộc nhỏ nhất của hệ thống BHXH Việt Nam, hoạt động dưới sự chỉ đạo và hưỡng dẫn trực tiếp của BHXH tỉnh, BHXH cấp quận huyện không có thẩm quyền trong việc ban hành sửa đổi các chính sách BHXH cũng như các văn bản pháp luật về BHXH mà phải do sự chỉ đạo từ cơ quan BHXH cấp trên. Do vậy muốn hoàn thiện công tác thu chi quỹ BHXH quận Cầu Giấy nói riêng và các quận huyện khác nói chung thì phải có sự thay đổi đồng bộ từ phía cơ quan chức năng.
3.1. Kiến nghị chung về chính sách BHXH.
3.1.1.Đối với nghành BHXH Việt Nam:
3.1.1.1. Hoàn thiện chính sách BHXH, BHYT trong trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Việt Nam gia nhập WTO tạo nên những thời cơ, vận hội phát triển sự nghiệp BHXH. Sự tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập và đời sống của người dân được cải thiện, làn sóng đầu tư mạnh mẽ, các doanh nghiệp có cơ hội phát triển, những yêu cầu uy tín, chất lượng, hiệu quả hoạt động, đơn giản hoá thủ tục, cải cách hành chính đối với mọi nghành mọi cấp là những yếu tố quan trọng tác động tích cực đến hoạt động BHXH, BHYT.
Gia nhập WTO, những thách thức đối với BHXH cũng rất lớn, đó là sự biến động của đối tượng tham gia trong khu vực doanh nghiệp khi phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệp hơn. Chế độ chính sách đối với người lao động phải được cập nhật bổ sung sửa đổi cho phù hợp thực tiễn. Hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế đặt ra yêu cầu cấp bách, phải chuẩn bị tốt nguồn nhân lực có đủ sức đủ tầm được trang bị đầy đủ kiến thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học,… để đáp ứng trong tình hình mới. Vấn đề BHXH thất nghiệp, BHXH tự nguyện, BHYT người nghèo thực hiện như thế nào trong bối cảnh sôi động của hội nhập kinh tế quốc tế là những vấn đề cần có sự đầu tư nghiên cứu, chuẩn bị bước đi cách làm cho phù hợp hiệu quả.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng tiếp tục nêu định hướng tiến tới thực hiện BHYT toàn dân, yêu cầu xây dựng và thực hiện tốt lộ trình trên tới BHYT toàn dân vào năm 20010, đã đặt ra những thách thức rất lớn trong tổ chức thực hiện. Để thực hiện tốt định hướng này thì việc xây dựng và ban hành luật BHYT trở thành yêu cầu cấp bách.
Triển khai thực hiện luật BHXH, nghị định và các thông tư hướng dẫn thực hiện luật trong đó cần chú trọng mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Tập trung khai thác đối tượng tham gia BHYT theo Nghị định 63 của Chính phủ, đồng thời tích cực tham gia xây dựng luật BHYT. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý các mặt hoạt động của nghành, trong đó tập trung vào xây dựng chương trình quản lý thu và giám định y tế. Tăng cường công tác kiểm tra duy trì hoạt động của chính phủ, của nghành và thực hiện chống tham nhũng. Thực hiện tiết kiệm chống lãng phí. Tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế quản lý tài chính mới của nghành.
3.1.1.2. Phải tạo sự thông thoáng trong việc triển khai các loại hình BHXH
BHXH Việt Nam đang thực hiện BHXH cho công chức, viên chức và người lao động trong các thành phần kinh tế theo nghị định 12/CP và nghị định 45/CP của Chính Phủ, BHXH cho cán bộ xã phường theo nghị định 09/CP. BHXH ngoài công lập cho đối tượng hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao. Mỗi loại hình được điều chỉnh mức đóng và cách tính thời gian hưởng BHXH khác nhau nên khi thực hiện nảy sinh nhiều vướng mắc. Vì lý do nào đó người lao động không tiếp tục làm việc trong các cơ quan Nhà Nước, doanh nghiệp chuyển về làm ở địa phương xã, phường thì thời gian nay không được cộng nối với thời gian ở xã phường và ngược lại. Đây cũng là quá trình cản trở cho việc tham gia BHXH của người lao động vì trong thời gian từ 20-30 năm một người có thể thay đổi công việc do môi trường hay điều kiện xã hội, điều kiện sinh hoạt. Mặt khác theo đề án xây dựng luật BHXH còn thêm BHXH tự nguyện để thực hiện công bằng trong chính sách BHXH, mỗi người lao động đều có quyền tham gia và hưởng thụ BHXH. Vậy kết quả tham gia BHXH phải được bảo lưu để tính hưởng BHXH tuổi già sau nay.
Các nhà làm luật phải cân nhắc, điều chỉnh phù hợp tạo thành hành lang pháp lý thông thoáng cho việc đóng và hưởng BHXH.
3.1.1.3. Nâng cao việc đào tạo và sử dụng cán bộ
Hiện nay, hầu hết cán bộ của ngành BHXH được chuyển từ Liên đoàn lao động và phòng lao động thương binh xã hội sang một số cán bộ trong quá trình làm việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính, tiếp cận các văn bản Nhà Nước một cách thụ động, thiếu tính sáng tạo, phong cách làm việc còn mang tính chất quan hành chính quan liêu. Do vậy việc đổi mới xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ ngành BHXH là một vấn đề cấp thiết mang tính khách quan. Gần đây, ở một số cơ quan BHXH đã giải quyết cho cán bộ vừa học vừa đi làm để nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như quản lý. Đây chính là giải pháp trước mắt nên khó tránh khỏi tình trạng chắp vá cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy cần phải có một chương trình đào tạo mang tính đồng bộ cho đội ngũ cán bộ của toàn ngành BHXH.
Hình thành trung tâm đào tạo về nghiệp vụ tài chính kế toán, quản lý kinh tế, tin học riêng cho ngành BHXH ở cấp tỉnh. Phải xây dựng kế hoạch đào tạo đáp ứng được nhu cầu hiện tại và tương lai. Thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ BHXH các quận huyện.
Việc tuyển dụng cán bộ phải chú ý đến số lượng và chất lượng đặc biệt là đối với các chức vụ giám đốc và kế toán trưởng cần lựa chọn các cá nhân tiêu biểu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có quan điển lập trường đúng đắn, có tình thương yêu đồng chí, đồng nghiệp, gắn bó với người lao động.
Đặc biệt là đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ. Để thu hút nhân tài nên tuyển trực tiếp sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành bảo hiểm, hỗ trợ cho các sinh viên xuất sắc để khi tốt nghiệp sẽ về công tác cho cơ quan BHXH.
Muốn xây dựng hệ thống BHXH của Việt Nam vững mạnh thì Đảng và Nhà Nước phải tăng cường đầu tư cho ngành này để có một chương trình đào tạo sử dụng hợp lý và khoa học. Bên cạnh đó ngành BHXH cũng phải nỗ lực triển khai các chương trình đào tạo đó.
3.1.1.4. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền
Công tác thông tin tuyên truyền về BHXH trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa quan trọng. Mục đích nâng cao nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, trách nhiệm và quyền lợi của mọi người lao động và chủ sử dụng lao động về chính sách chế độ BHXH. Cần coi thông tin tuyên truyền là nhiệm vụ quan trọng hiện nay và lâu dài. Để thực hiện tốt công tác tuyên truyền cần phải làm tốt những nhiệm vụ sau:
- Ngoài tuyên truyền chính sách, pháp luật và các chế độ BHXH, giải đáp hướng dẫn việc thực hiện các chế độ, kết quả các mặt hoạt động của ngành… Cần đặc biệt quan tâm đến nội dung mà lâu nay ít được đề cập đến đó là tuyên truyền về mục đích, bản chất nhân đạo nhân văn của BHXH. Việc làm này sẽ làm thay đổi tâm lý nặng nề hiện nay là bắt buộc phải đóng BHXH. Từ đó họ sẽ tự giác, tự nguyện tham gia BHXH và có trách nhiệm nộp BHXH.
- Tạp chí BHXH Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc lịch sử trong công tác tuyên truyền về BHXH. Thời gian qua, các bài viết chủ yếu là của các nhà quản lý BHXH, đội ngũ cộng tác viên chưa đáp ứng được số lượng chất lượng bài viết. Để phục vụ độc giả ngày một tốt hơn, tạp chí BHXH phải đa dạng hoá nội dung và hình thức thể hiện.Để làm được việc này đòi hỏi đội ngũ phóng viên, biên tập viên cộng tác viên phải có những bài viết với chất lượng cao. Bài viết không thể dừng lại ở thông tin một cách đơn thuần những kết quả đã đạt được mà phải dựa trên sự phân tích một cách khoa học, mang tính lập luận nghiệp vụ về BHXH. Bài viết phải đầy đủ thông tin cần thiết, chính xác và cập nhật. Từ đó đòi hỏi đội ngũ biên tập viên, cộng tác viên trong và ngoài ngành phải có trình độ chuyên môn cũng như trách nhiệm cao.
- Phải đảm bảo kinh phí cho hoạt động thông tin tuyên truyền.
- Lựa chọn cán bộ có trình độ hiểu biết về BHXH chuyên trách làm công tác thông tin tuyên truyền từ cấp trung ương đến cấp tỉnh thành phố.
- Đầu tư phương tiện, trang thiết bị làm việc để đảm bảo cho hoạt động thông tin tuyên truyền.
- Tăng cường phối hợp với cơ quan thông tin đại chúng ( đài truyền hình, truyền thanh, báo chí…) để tuyên truyền sâu rộng hơn về BHXH. Nội dung tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ hiểu, gây được sự chú ý của mọi người.
- Tổ chức thực hiện một số hình thức tuyên truyền trực quan sinh động: tranh cổ động, áp phích, sách hỏi đáp giới thiệu về pháp luật và các chế độ BHXH, phát hành rộng rãi đến từng đơn vị sử dụng lao động.
- Tổ chức các hội nghị, các cuộc họp trong đó có các đại diện của cơ quan BHXH, chủ sử dụng lao động, đại diện của người lao động để nhằm mục đích tuyên truyền về BHXH gúp các bên tham gia hiểu rõ tính pháp luật của các chính sách BHXH, nắm được quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Đồng thời qua đó thu thập tổng hợp các ý kiến thắc mắc đóng góp từ phía người lao động, chủ sử dụng lao động để đưa ra các biện pháp phù hợp với nguyện vọng của họ.
Làm tốt công tác thông tin tuyên truyền về BHXH sẽ giúp cho người lao động hiểu rõ hơn ý nghĩa, trách nhiệm và quyền lợi của việc tham gia BHXH, từ đó thúc đẩy họ tham gia BHXH nhằm tăng thu cho quỹ BHXH.
3.2. Kiến nghị với công tác thu chi quỹ BHXH
3.2.1. Về quản lý và thực hiện quỹ BHXH
Nguồn đóng góp chủ yếu của quỹ BHXH vẫn từ người lao đông, người sử dụng lao động. Ngoài ra còn có các khoản thu khác như thu từ hoạt động đầu tư của quỹ BHXH, sự hỗ trợ của Nhà Nước. Thực tế cho thấy đất nước ta trải qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, sau ngày hoà bình lập lại, năm 1975 bước vào xây dựng đất nước nhưng chính sách bao cấp nói chung và bao cấp về BHXH vẫn duy trì đến tháng 9/1995. Tháng 10/1995 thì quỹ BHXH mới tách khỏi NSNN thành một quỹ độc lập. Như vậy những người thuộc diện hưởng chế độ BHXH thường xuyên trước tháng 10/1995 đều do nguồn kinh phí từ NSNN cấp. Từ tháng 10/1995 trở đi thì do quỹ BHXH đảm bảo nhưng thực tế số người này quỹ BHXH chưa thu hoặc chỉ thu trong thời gian ngắn theo các chuyên gia nghiên cứu về quỹ BHXH thì mức đóng 20% đối với lao động trong các thành phần kinh tế và 15% đối với cán bộ xã, phường. Mức chi tối đa 75%/tháng với điều kiện phải đóng BHXH 30 năm thì quỹ BHXH chỉ đảm bảo trả cho người lao động được 7 năm, còn lại bình quân 5 năm thì phải dùng nguồn kinh phí từ NSNN để bù. Chính điều này cho thấy vai trò hỗ trợ của Nhà Nước rất quan trọng. Nếu Nhà Nước không thống nhất quản lý tập trung quỹ BHXH thì nguy cơ phá vỡ quỹ là hiện hữu.
3.2.2. Mở rộng nguồn thu BHXH
Hiện nay việc thực hiện BHXH cho mọi người lao động ở tất cả các thành phần kinh tế đang là nguyện vọng và phương hướng xây dựng Nhà Nước XHCN. Khi mọi người lao động đều được tham gia BHXH chính là đã tạo ra được mạng lưới bảo vệ rộng khắp, che chắn cho mọi người lao động không bị rơi vào cảnh túng quẫn, một xã hội có sự liên kết cộng đồng tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Để mở rộng đối tượng tham gia BHXH, Nhà Nước ta cần ban hành các chính sách BHXH tự nguyện. Hình thức BHXH này đã được Bộ luật lao động và Nghị định 12/CP khẳng định song vẫn chưa thực hiện.
Nước ta đang trong thời kỳ hội nhập và phát triển nên số lượng lao động nhày càng tăng kéo theo sự gia tăng cả các đối tượng tham gia và hưởng BHXH. Đối tượng BHXH hiện nay mới chỉ dừng lại ở các cơ quan hành chính sự nghiệp sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể và các đơn vị có sử dụng từ 10 lao động trở lên. Do vậy cần phải có biện pháp hữu hiệu để cho mọi người lao động đều được tham gia BHXH. Có thể có các hướng giải quyết sau:
- Mức đóng góp hiện nay của người lao động dựa trên tiền lương cơ bản ( lương cấp bậc). Trong khi đó thu nhập thực tế của người lao động lại không ngừng tăng lên. Đặc biệt là lao động trong khu vực ngoài quốc doanh. Do vậy, nên hình thức BHXH bổ sung, khuyến khích người lao động tự nguyện đóng góp cao hơn ứng với thu nhập thực tế, xem xét mức hưởng của họ sao cho phù hợp để đảm bảo an toàn cho quỹ BHXH và quyền lợi của họ. Trong hình thức này chủ sử dụng lao động không có liên quan.
- Hiện nay do mở cửa nền kinh tế nên một loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời, trong đó số lượng doanh nghiệp có quy mô dưới 10 lao động tương đối lớn. Vì vậy nên mở rộng đối tượng lao động đến các doanh nghiệp này. Để đẩy mạnh công tác thu BHXH cần ban hành ngay các văn bản pháp luật các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải đăng ký tham gia BHXH. Phải quy định rõ ràng các doanh nghiệp khi đăng ký kinh doanh phải đăng ký tham gia BHXH cho người lao động thì mới cấp giấy phép kinh doanh. Đồng thời phải có văn bản cụ thể hướng dẫn chi trả để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chi trả trợ cấp BHXH.
- Đối với các đối tượng chưa tham gia BHXH bắt buộc thì cần áp dụng hình thức BHXH tự nguyện. Trong trường hợp người lao động tham gia BHXH tự nguyện không có khả năng đóng BHXH do các nguyên nhân khách quan thì cũng nên được hưởng trợ cấp một lần hoặc được bảo lưu tiền đóng BHXH đến khi người tham gia có điều kiện tiếp tục đóng BHXH. Số tiền đóng và số năm đóng được cộng cộng dồn. Quỹ BHXH tự nguyện phải hoàn toàn độc lập cân đối thu chi. Nghĩa là có đóng mới có hưởng, đóng nhiều hưởng nhiều đóng ít hưởng ít. Để mở rộng đối tượng tham gia cần làm tốt các công việc sau:
+ Mở rộng công tác tuyên truyền về chính sách BHXH để mọi người dân đều thấy lợi ích của việc tham gia, đồng thời cải cách thủ tục hành chính trong việc giải quyết chế độ chính sách BHXH cho người tham gia để họ ổn định cuộc sống.
+ Với các đối tượng có thu nhập không ổn định do không có mức lương để tính phí thì BHXH nên có biểu phí quy định cụ thể cho các loại hình thức tham gia.
+ Tổ chức mạng lưới cán bộ thu phí BHXH trực tiếp từ những người tham gia.
Việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH theo hình thức này đảm bảo được quy luật số đông bù số ít và tạo nên sự lớn mạnh của quỹ BHXH gắn chặt quyền lợi của người lao động với quỹ BHXH, đưa quỹ trở thành một công cụ xã hội quan trọng.
3.2.3. Bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH
Muốn công tác chi trả được thực hiện tốt hơn và để đảm bảo khả năng chi trả thì phải có các biện pháp bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH. Để bảo tồn được giá trị quỹ BHXH cần phải sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm quỹ, cần tăng nguồn thu, chi đúng mục đích, đối tượng và tăng cường công tác kiểm tra sử dụng quỹ. Do vậy cần phải đầu tư quỹ sao cho có hiệu quả cao nhất trên nguyên tắc đảm bảo an toàn và hạn chế rủi ro. Trong những năm tới chúng ta vẫn phải tiến hành đầu tư trên các lĩnh vực quên thuộc như: mua tín phiếu, trái phiếu của Chính phủ, cho các tổ chức tín dụng của Nhà Nước vay, đầu tư vốn vào các doanh nghiệp lớn được sự bảo hộ của Nhà Nước. Bên cạnh đó chúng ta sẽ phải tiến hành đầu tư vào những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao mặc dù các yếu tố rủi ro có tăng lên để đa dạng hoá các loại hình đầu tư.
3.2.4. Đẩy mạnh công tác thu bảo hiểm
Cơ quan BHXH quận Cầu Giấy cần đẩy mạnh công tác thu BHXHđối với các đơn vị ngoài quốc doanh. Cần bám sát các văn bản Pháp luật của Nhà Nước để buộc các đơn vị này thực hiện nghĩa vụ đối với người lao động. Có biện pháp nâng cao nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động, khuyến khích người lao động đấu tranh đòi quyền lợi của họ. Muốn vậy, phải tập trung cán bộ thu để thường xuyên theo dõi đôn đốc việc thực hiện đóng BHXH ở các đơn vị này. Trong thời gian tới số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia BHXH tăng lên, do đó ngay từ bây giờ BHXH quận cần sớm thành lập một nhóm cán bộ chuyên quản về mảng thu BHXH ngoài quốc doanh. Cán bộ thu ở mảng này phải được tổ chức tập huấn thường xuyên nâng cao trình độ, nghiệp vụ thu. Ngoài ra cần bổ sung thêm cán bộ nhất là cán bộ trẻ có trình độ năng lực, linh hoạt, năng động, có tấm lòng nhiệt huyết và sự cảm thông sâu sắc với đối tượng.
Để hạn chế doanh nghiệp ngoài quốc doanh trốn tránh, dây dưa kéo dài cố tình không nộp BHXH, giảm tình trạng nợ đọng BHXH đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp này tham gia BHXH thì cơ quan BHXH cần tập trung chỉ đạo và tiến hành điều tra khảo sát, nắm thực trạng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tổ chức thống kê tổng hợp, nắm chắc số liệu về đối tượng này. Trên cơ sở danh sách các đơn vị ngoài quốc doanh nắm được rà soát lại toàn bộ số doanh nghiệp, lập danh sách và phân loại các doanh nghiệp cụ thể từ đó xác định được số đối tượng tham gia, xác định cho được những vấn đề vướng mắc, biện pháp để xử lý và đề xuất các phương án tiếp theo.
Song song với việc rà soát toàn bộ đơn vị thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, cơ quan BHXH quận cần phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng trong quận: chi cục thuế, chính quyền xã phường, các nghành hữu quan để nắm vững số doanh nghiệp đang hoạt động, mới thành lập, giải thể để vận động các doanh nghiệp tham gia BHXH và hướng dẫn các đơn vị thủ tục tham gia BHXH. Kết hợp cùng với Liên đoàn lao động, Viện kiểm soát nhân dân quận kiểm tra các đơn vị nộp chậm, né tránh BHXH, thực hiện bằng nhiều hình thức: nhắc nhở trực tiếp đến đơn vị, đôn đốc, kiến nghị, xử phạt hành chính, phối hợp cùng với công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để quan sát thực thi các chế độ, bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Phối hợp với các cơ quan báo chí địa phương tuyên truyền về những đơn vị cố tình kéo dài thu nộp BHXH. Phối hợp chặt chẽ với cán bộ làm công tác thu BHXH tại các đơn vị tham gia, yêu cầu người sử dụng lao động đăng ký danh sách lao động một cách kịp thời, chính xác, nếu có sự thay đổi lao động, mức lương thì cán bộ đó phải báo ngay cho cơ quan BHXH nắm bắt kịp thời.
3.2.5. Bổ sung và hoàn thiện công tác thu và chống thất thu, nợ đọng BHXH
Quỹ BHXH được hình thành trên cơ sở có sự đóng góp của người lao động và của người sử dụng lao động. Tham gia vào quá trình hình thành quỹ BHXH còn có Nhà Nước, một nguồn thu quan trọng khác của quỹ BHXH là đầu tư sinh lời để tăng trưởng quỹ. Ngoài ra còn có một khoản thu khác từ phần nộp phạt do nộp chậm BHXH của các đơn vị, doanh nghiệp nhằm tăng cường tính chặt chẽ và hiệu lực quản lý quỹ BHXH. Bổ sung hoàn thiện mức thu để đảm bảo cân đối thu chi có ý nghĩa quan trọng đối với quỹ BHXH.
Cần tiếp tục lấy nguyên tắc hạch toán thu chi quỹ làm căn bản trong chính sách BHXH. Trên cơ sở nguyên tắc này, xác định mức đóng và mức trợ cấp cần hợp lý theo từng thời kỳ, phù hợp với sự biến động của giá, khả năng tăng trưởng quỹ BHXH. Nếu mức đóng là 23% thì trong tương lai NSNN phải bù thiếu. Bởi vì sau 30 năm sẽ đóng khoảng 83 tháng tiền lương. Khi về hưu được lĩnh 75% mức lương trung bình trong 5 năm cuối. Như vậy sau khi nghỉ hưu được khoảng hơn 9 năm thì sẽ lĩnh đủ 83 tháng đã đóng vào quỹ BHXH. Giả sử khi về hưu người lao động sống được hơn 10 năm thì Nhà Nước phải hỗ trợ. Vì vậy để khắc phục tình trạng trên BHXH sẽ phải tăng mức thu song vấn đề này vẫn không có khả năng đóng đủ, mặt khác khi tăng mức thu BHXH thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động, đến giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
Một thực tế đặt ra là tuổi thọ người lao động nâng lên rõ rệt. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quỹ BHXH mà chắc chắn trong thời gian tới sẽ dẫn đến thâm hụt quỹ BHXH. Nên chăng kéo dài thời gian đóng góp bằng cách tăng tuổi nghỉ hưu, một mặt tăng thu cho quỹ, mặt khác giảm chi cho chế độ hưu trí trong thời gian công tác này. Đồng thời BHXH cũng phải tính toán lại mức hưởng của từng chế độ BHXH. Ngoài ra để tạo thêm nguồn thu cho quỹ thì cần có quy định và chế tài nghiêm ngặt hơn đối với các cơ quan doanh nghiệp chậm nộp BHXH, gian lận hoặc trốn đóng BHXH cho người lao động. Hiện nay với mức phạt 2 triệu đồng là quá thấp, cần phải nâng mức phạt cao hơn theo tỷ lệ phần trăm so với số tiền phải nộp BHXH. Có như vậy mới đảm bảo thu đúng, thu đủ tránh được hiện tượng nợ đọng, gian lận trong việc trích nộp cho cơ quan BHXH.
3.2.6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
- Thanh tra, kiểm tra tài chính đối với quỹ BHXH: Do nguồn quỹ BHXH nước ta con nhỏ và yêu cầu phát triển quỹ nhằm đảm bảo thu đủ chi nên trong thời gian tới cần phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra công tác thu chi quỹ BHXH. Phải quản lý chặt chẽ hồ sơ của từng đối tượng, kể cả đối tượng tham gia, đang hưởng và đối tượng đã cắt chế độ BHXH nhằm tránh các hiện tượng tiêu cực tham ô, móc ngoặc gây thất thoát kinh phí. Thực hiện chi trả đúng đối tượng, đúng định mức và đúng chế độ. Quỹ BHXH phải được kiểm toán trong quá trình quản lý và sử dụng nhằm đảm bảo trật tự kỷ cương pháp lý tài chính Nhà Nước đối với hoạt động của quỹ BHXH. Việc này đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa cán bộ và các cơ quan chức năng.
- Thanh tra, kiểm tra việc đóng góp, trích nộp BHXH của các đơn vị, doanh nghiệp nhằm phát hiện ra những đối tượng gian lận hay trốn đóng BHXH cho người lao động mà doanh nghiệp sử dụng để từ đó có hình thức xử phạt thích đáng đem lại nguồn thu cho quỹ, quyền lợi cho người lao động đồng thời thực hiện công bằng xã hội.
- Thanh tra kiểm tra xử lý cả đối tượng cố ý vi phạm để hưởng chế độ BHXH trái với quy định, truy thu lại số tiền mà họ đã hưởng sai.
3.2.7. Thực hiện các biện pháp giảm chi
Thực hiện tốt các biện pháp chăm sóc sức khoẻ cho người lao động để họ luôn có sức khoẻ tốt, giảm được số đối tượng hưởng trợ cấp ốm đau đồng thời hạn chế được sự gián đoạn trong sản xuất kinh doanh, nâng cao năng suất lao động.
Nghành BHXH cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng buộc các đơn vị phải cải thiện môi trường làm việc cho người lao động, thực hiện tốt các biện pháp bảo hộ lao động để hạn chế đến mức thấp nhất số người bị tai nạn lao động cũng như tác hại của nó đối với từng lao động. Từ đó góp phần giảm chi từ quỹ BHXH.
Tách các chính sách xã hội khác ra khỏi các chế độ BHXH. Vì hoạt động của BHXH dựa trên nguyên tắc cân bằng thu chi, có đóng mới có hưởng, người lao động đóng nhiều thì hưởng nhiều và ngược lại. Do vậy việc đưa ra các chính sách ưu đãi xã hội như ưu đãi đối với lực lượng vũ trang… là không hợp lý, không đảm bảo sự công bằng giữa những người lao động.
Kết luận
BHXH là một chính sách thể hiện rõ bản chất nhân đạo và tốt đẹp của Nhà Nước nước ta. Nó mở rộng và nâng cao việc đảm bảo vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ trong các trượng hợp ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN, mất việc làm… gặp rủi ro hoặc các khó khăn khác và là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị xã hội. Từ năm 1995, BHXH mới chính thức trở thành một hệ thống độc lập nhằm mục đích thực hiện công việc quản lý thu, chi các chế độ BHXH. Từ ngày được thành lập đến nay, BHXH đã tạo được sự an tâm và niềm tin vững chắc cho mọi tầng lớp người lao động. Tuy vậy trong thực tế, chính sách BHXH mới cũng chưa được quán triệt, tuyên truyền rộng khắp nên kết quả đạt được chưa cao. Để BHXH thực sự trở thành một chính sách xã hội quan trọng góp phần hơn nữa vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội, thì đòi hỏi có sự quan tâm từ các nghành, các cấp có liên quan để không ngừng nghiên cứu sửa đổi bổ sung kịp thời nhằm đáp ứng được với nhu cầu của người lao động.
Đề tài: “Một số vấn đề về công tác thu chi BHXH ở cơ quan BHXH quận Cầu Giấy- Hà Nội” đã làm rõ được khái niệm, bản chất, vai trò của BHXH và quỹ BHXH. Đồng thời đề tài đã tổ hợp, phân tích đánh giá quá trình hình thành, tổ chức thực hiện chính sách BHXH quận Cầu Giấy từ năm 2002- 2006. Và trên cơ sở phân tích khoa học, tổng kết kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn, đề tài đưa ra những quan điểm, những nguyên tắc và những kiến nghị để khắc phục những hạn chế, vướng mắc, hoàn thiện nội dung, phương thức quản lý và cân đối quỹ BHXH trong thời gian tới, nhằm đáp ứng đầy đủ, kịp thời mọi nhu cầu chi tiêu do quỹ đảm bảo trong bất kỳ hoàn cảnh và thời gian nào.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, do điều kiện và năng lực còn hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những sai sót, rất mong sự đóng góp ý kiến quý báu của các thầy cô và những người quan tâm đến vấn đề này.
Tài liệu tham khảo
1) Bài giảng của thầy cô giáo bộ môn Bảo Hiểm trường ĐHKTQD.
2) Giáo trình Bảo Hiểm_ PGS TS. Nguyễn Văn Định- NXB thống kê năm 2005
3) Tạp chí BHXH các năm 2005, 2006, 2007.
4) Số liệu BHXH quận Cầu Giấy.
5) Điều lệ các chế độ BHXH năm 1961,1995,2002.
6) “Một số vấn đề về BHXH”- Tạp chí Luật học
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
BHXH:
Bảo hiểm xã hội
TNLĐ-BNN:
Tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp
NSNN:
Ngân sách Nhà nước
HCSN :
Hành chính sự nghiệp
DNNN:
Doanh nghiệp Nhà nước
nhận xét của gIảNG viên hướng dẫn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3716.doc