Một số vấn đề về công tác Quản lý tài chính tại Công ty Dệt kim Thăng Long. Đánh giá phân tích các giải pháp

Lời mở đầu Những năm qua, nền kinh tế Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia khu vực Đông Nam á đã chịu ảnh hưởng và tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Trong bối cảnh đó hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung, công ty Dệt kim Thăng Long nói riêng gặp vô vàn các khó khăn. Các vấn đề về quản lý và sử dụng tài chính trở nên có vai trò hết sức quan trọng trong điều hành hoạt động của các doanh nghiệp nhằm duy trì và ổn địn

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1351 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về công tác Quản lý tài chính tại Công ty Dệt kim Thăng Long. Đánh giá phân tích các giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h hoạt động trên thị trường. Các vấn đề tài chính trong doanh nghiệp ngày càng có những biến đổi phức tạp và sâu sắc hơn trong môi trường kinh tế mới. Do đó công tác quản lý và sử dụng tài chính cũng cần phải có thay đổi và củng cố lại để đáp ứng cho phù hợp với tình hình trên. Bên cạnh đó, sự quản lý của Nhà nước đối với vấn đề này cũng có vai trò rất lớn. Một mặt Nhà nước là người lập ra những chính sách, pháp luật tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động tài chính trong doanh nghiệp. Mặt khác, Nhà nước lại đóng vai trò ủng hộ, giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động này nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế đối với các khu vực kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công tác quản trị tài chính ngày càng có ý nghĩa đối với sự sống còn và phát triển của các đơn vị sản xuất. Vì vậy việc đi sâu nghiên cứu để phân tích, đánh giá và từ đó đề xuất các giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản trị tài chính là vô cùng quan trọng và cần thiết. Do đó trong quá trình học tập tại trường Đại học Đông Đô Hà Nội và qua thời gian thực tập tốt nghiệp tại công ty Dệt kim Thăng Long, được sự chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo trong trường, các cán bộ, CNV trong công ty và đặc biệt là cô giáo Dr. Phan Thị Cẩm Vân, em đã dần dần tiếp cận với thực tiễn, trên cơ sở đó kết hợp với phần lý luận đã được học trong trường và qua thực tiễn hoạt động kinh doanh của công ty, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp với đề tài "Một số vấn đề về công tác quản lý tài chính tại công ty Dệt kim Thăng Long. Đánh giá phân tích các giải pháp". Nội dung đề tài được chia làm 4 phần Phần I: Cơ sở lý luận Phần II: Thực trạng về công tác quản lý tài chính tại công ty Dệt kim Thăng Long Phần III: Đánh giá công tác quản lý tài chính tại công ty Dệt kim Thăng Long Phần IV: Phân tích một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính tại công ty Dệt kim Thăng Long Vì thời gian thực tập có hạn, trình độ hiểu biết còn nhiều hạn chế nên khi nghiên cứu đề tài này chắc chắn không tránh khỏi những sơ xuất, thiếu sót. Kính mong sự góp ý, phê bình của cô giáo hướng dẫn và các thầy, cô giáo trong trường. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô, cô giáo trường ĐHDL Đông Đô. Đặc biệt là sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của cô giáo - Dr. Phan Thị Cẩm Vân. Các cán bộ, nhân viên phòng kế toán công ty Dệt kim Thăng Long đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn của mình. Phần I Cơ sở lý luận I/ Những vấn đề cơ bản về tài chính doanh nghiệp 1. Khái niệm chung về tài chính doanh nghiệp Tài chính doanh nghiệp là một khâu quan trọng trong hệ thống tài chính của nền kinh tế thị trường, là một phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ, tính chất và mức độ phát triển của tài chính doanh nghiệp được đặc trưng bởi hai nội dung chủ yếu sau: - Tài chính doanh nghiệp phản ánh những luồng chuyển dịch giá trị trong nền kinh tế. Luồng chuyển dịch đó chính là sự vận động của nguồn tài chính gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là sự vận động của các nguồn tài chính được diễn ra trong nội bộ doanh nghiệp để tiến hành quá trình sản xuất, kinh doanh được diễn ra giữa các doanh nghiệp với ngân sách Nhà nước (thông qua nộp thuế hoặc tài trợ tài chính), giữa doanh nghiệp với thị trường hàng hoá, sức lao động, tài chính, thông tin dịch vụ... trong việc cung ứng các yếu tố sản xuất (đầu vào) cũng như bán hàng hoá dịch vụ (đầu ra) của quá trình kinh doanh. Rõ ràng là sự vận động của các nguồn tài chính nêu trên được nảy sinh và gắn liên với các khâu trong quá trình tái sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Sự vận động của các nguồn tài chính doanh nghiệp không khỏi diễn ra một cách hỗn loạn mà nó được hoà nhập vào chu trình kinh tế của nền kinh tế thị trường. Đó là sự vận động chuyển hoá từ các nguồn tài chính thành các quỹ hoặc vốn kinh doanh của doanh nghiệp và ngược lại. Sự chuyển hoá qua lại đó được điều chỉnh bằng hệ thống các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị nhằm tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ phục vụ cho các mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ những đặc trưng nêu trên có thể rút ra khái niệm tài chính doanh nghiệp: TCDN là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động và chuyển hoá các nguồn tài chính trong quá trình phân phối để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đạt tới mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong khuôn khổ cho phép của pháp luật. 2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh Vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hoặc thụ động thậm chí có thể là tiêu cực đối với kinh doanh là do nhiều yếu tố tác động. Sở dĩ như vậy là do tài chính doanh nghiệp không chỉ là một phạm trù kinh tế khách quan như môi trường kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước đã hoạch định hàng loạt các chính sách đổi mới nhằm xoá bỏ cơ chế tập trung bao cấp, xác định cơ chế quản lý năng động như các chính sách khuyến khích đầu tư kinh doanh, khuyến khích giao lưu vốn, đẩy mạnh kinh tế đối ngoại... Trong điều kiện môi trường kinh doanh đã từng bước cải thiện, tài chính doanh nghiệp có đủ điều kiện thuận lợi để phát huy vai trò của mình trên những mặt sau đây: - Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò là một công cụ khai thác, thu hút nguồn tài chính nhằm đảm bảo nhu cầu cho đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp. - Tài chính doanh nghiệp có vai trò trong việc sử dụng vốn một cách có tiết kiệm và có hiệu quả. - Tài chính doanh nghiệp còn là công cụ quan trọng trong kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 3. Chức năng của tài chính doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh Tài chính doanh nghiệp có hai chức năng đó là chức năng phân phối và chức năng giám sát Chức năng phân phối: - Phân phối góp phần đổi mới lại quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp bán được hàng. Số tiền bán được dùng để bù đắp những hao phí của sản xuất, để lại cho nhu cầu mở rộng quy mô, đầu tư thêm chiều sâu của doanh nghiệp. Nhờ có chức năng phân phối mỗi doanh nghiệp có khả năng khai thác, thu hút các nguồn tài chính trong nền kinh tế để hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Cũng nhờ có khả năng phân phối mà vốn kinh doanh được sử dụng vào mục tiêu kinh doanh để tạo ra thu nhập và tích luỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Lợi nhuận thu được là mục đích của kinh doanh, nó là yếu tố quan trọng nhất quyết định phương hướng và cách thức phân phối tài chính của doanh nghiệp. Song song với chức năng phân phối tài chính doanh nghiệp còn có chức năng giám sát. Đó là khả năng giám sát, dự báo tính hiệu quả của quá trình phân phối. Nhờ khả năng giám sát tài chính, doanh nghiệp có thể phát hiện thấy những khuyết tật trong kinh doanh để kịp thời điều chỉnh nhằm thực hiện các mục tiêu kinh doanh đã được hoạch định. 4. Nội dung chủ yếu của công tác tài chính trong doanh nghiệp Công tác tài chính của một doanh nghiệp thường bao gồm những nội dung chủ yếu sau: - Tham gia đánh giá lựa chọn các dự án đầu tư và kế hoạch kinh doanh. Việc xây dựng, đánh giá và lựa chọn các dự án đầu tư do nhiều bộ phận trong cùng hợp tác thực hiện. Trên góc độ tài chính, điều chủ yếu cần phải xem xét là hiệu quả tài chính của dự án tức là cần xem xét cân nhắc giữa chi phí bỏ ra, rủi ro có thể gặp phải và khả năng thu lợi nhuận khi thực hiện dự án. Việc đánh giá, phân tích bằng thước đo tài chính nhằm lựa chọn các dự án đầu tư, tài chính doanh nghiệp tham gia định hướng phát triển doanh nghiệp. Trong đó khi xem xét việc bỏ vốn đầu tư thực hiện dự án cần chú ý tới việc tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp để bảo đảm đạt hiệu quả kinh tế cao trước mắt cũng như lâu dài. - Xác định nhu cầu vốn và tổ chức huy động các nguồn vốn đáp ứng cho hoạt động của doanh nghiệp. Tất cả các hoạt động của doanh nghiệp đều đòi hỏi phải có vốn. Tài chính doanh nghiệp xác định các nhu cầu vốn cần thiết cho các hoạt động của doanh nghiệp ở trong kỳ hay nói cách khác phải trả lời câu hỏi phải cần bao nhiêu vốn? Bao hàm vốn dài hạn và vốn ngắn hạn và điều quan trọng đối với tài chính doanh nghiệp là tổ chức huy động các nguồn vốn bảo đảm kịp thời, đầy đủ và có lợi cho các hoạt động của doanh nghiệp. Điều đó cũng có nghĩa là phải trả lời câu hỏi lấy vốn từ đâu? Việc tổ chức huy động các nguồn vốn ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp. Để đi đến việc ra quyết định lựa chọn hình thức và phương pháp huy động vốn thích hợp cần xem xét cân nhắc trên nhiều mặt. Trong đó cần phải chú ý đến một số vấn đề chủ yếu sau: Kết cầu nguồn vốn, những điểm lợi và bất lợi của từng hình thức huy động vốn, chi phí cho việc sử dụng nguồn vốn... - Tổ chức sử dụng tốt vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các khoản phải thu - chi và bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp phải thường xuyên tìm biện pháp góp phần huy động tối đa số vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh, giải phóng kịp thời số vốn bị ứ đọng. Theo dõi chặt chẽ và thực hiện tốt việc thanh toán thu hồi tiền bán hàng và các khoản thu khác, đồng thời phải quản lý chặt chẽ mọi khoản chi tiêu phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Thường xuyên tìm biện pháp thích hợp duy trì sự cân bằng giữa thu và chi bằng tiền bảo đảm cho doanh nghiệp luôn có khả năng thanh toán. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng trong công tác tài chính của doanh nghiệp. - Thực hiện tốt việc phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ của doanh nghiệp. Đây là một nội dung của công tác tài chính doanh nghiệp. Thực hiện phân phối hợp lý lợi nhuận sau thuế cũng như trích lập và sử dụng tốt các quỹ của doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển doanh nghiệp và cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. - Kiểm soát thường xuyên hoạt động của doanh nghiệp và thực hiện tốt việc phân tích tài chính. Thông qua tình hình thu chi hàng ngày tình hình thực hiện các chỉ tiêu tài chính cho phép thường xuyên kiểm soát được tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Qua việc phân tích cần đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn, những điểm mạnh và yếu trong quản lý và dự báo trước tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó phục vụ đắc lực cho công tác điều chỉnh kinh doanh. - Thực hiện tốt việc kế hoạch hoá tài chính. Các hoạt động tài chính của doanh nghiệp cần được dự kiến trước thông qua việc thiết lập kế h oạch tài chính. Thực hiện tốt việc lập kế hoạch tài chính là công việc cần thiết cho doanh nghiệp có thể chủ động đưa ra các giải pháp kịp thời khi có sự biến động của thị trường. Quá trình thực hiện kế hoạch tài chính cũng là quá trình ra các quyết định tài chính thích hợp nhằm đạt tới các mục tiêu của doanh nghiệp. II/.Vốn và nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp 1. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp 1.1. Các đặc trưng của vốn kinh doanh Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tư liệu sản xuất được doanh nghiệp sử dụng một cách hợp lý và có kế hoạch vào hoạt động kinh doanh nhằm đạt mục tiêu nhất định. Các đặc trưng của vốn kinh doanh bao gồm: + Vốn phải được biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp. + Vốn phải vận động để sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. + Vốn có giá trị về mặt thời gian, điều này rất có ý nghĩa khi bỏ vốn vào đầu tư và tính hiệu quả của đồng vốn + Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn vô chủ và không ai quản lý. + Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của các tài sản hữu hình mà còn biểu hiện bằng tiền của các tài sản vô hình (tài sản vô hình của doanh nghiệp có thể vị trí kinh doanh, lợi thế trong sản xuất, bằng phát minh sáng chế, các bí quyết về công nghệ...) Nội dung của vốn vốn kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm vốn cố định và vốn lưu động. 1.2. Vốn cố định của doanh nghiệp Khi đầu tư thành lập một doanh nghiệp, bao gồm việc xây dựng nhà xưởng, nhà làm việc và quản lý, lắp đặt các hệ thống máy móc thiết bị chế tạo sản phẩm, xây dựng các công trình làm đường đi trong doanh nghiệp, mua sắm xe cộ và phương tiện vận tải... đến khi các công việc hoàn thành bàn giao và doanh nghiệp có thể tiến hành sản xuất được. Như vậy, từ việc vốn đầu tư xây dựng đó đã chuyển thành vốn cố định của doanh nghiệp. Vậy vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định, đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời hạn sử dụng. Vốn cố định của doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sản xuất kinh doanh. Việc đầu tư đúng hướng vốn cố định sẽ mang lại hiệu quả và năng suất rất cao trong kinh doanh, giúp cho doanh nghiệp cạnh tranh tốt hơn và đứng vững được trong nền kinh tế thị trường. - Kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. Việc kiểm tra tài chính đối với tài sản cố định, vốn cố định là điều quan trọng, cho phép các doanh nghiệp và các nhà quản lý kinh tế biết được những ưu điểm và những mặt còn tồn tại trong công tác quản lý vốn và tài sản tại doanh nghiệp. Việc kiểm tra này được tiến hành theo các bước sau: - Thứ nhất: Cần xây dựng các hệ thống chỉ tiêu kiểm tra bao gồm các chỉ tiêu: Hiệu suất sử dụng tài sản cố định, hiệu suất sử dụng vốn cố định, hiệu quả sử dụng vốn cố định trong kỳ, hệ số hàm lượng vốn cố định... - Thứ hai: Xử lý thông tin kiểm tra và đề xuất các biện pháp nhằm tăng cường quản lý vốn cố định Sau khi đã xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu kiểm tra tính toán các hệ số, cần tiến hành phân tích tính toán các hệ số, tiến hành phân tích xử lý các thông tin và đưa ra các kết luận về tình hình quản lý, sử dụng tài sản cố định, vốn cố định của doanh nghiệp. 1.3. Vốn lưu động của doanh nghiệp 1.3.1. Nội dung của vốn lưu động Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp ngoài tư liệu lao động cần phải có đối tượng lao động Đối tượng lao động trong doanh nghiệp được biểu hiện thành hai bộ phận là: vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục và vật tư đang trong quá trình chế biến. Hai bộ phận này phục vụ cho quá trình dự trữ và quá trình sản xuất sản phẩm nên thường gọi là tài sản lưu động sản xuất. Mặt khác, quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn với lưu thông, trong lưu thông còn phải tiến hành một số công việc như chọn lọc, đóng gói, vận chuyển bảo quản sản phẩm, thanh toán... Như vậy, trong khâu lưu thông hình thành một số khoản háng hoá, tiền tệ, vốn trong thanh toán còn gọi là sản phẩm lưu thông. Trước khi bước vào sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp nào cũng cần một số vốn đích đáng để đầu tư vào tài sản ấy, số tiền ứng trước cho những tài sản ấy được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Vốn lưu động được chuyển hoá qua nhiều hình thức khác nhau, bắt đầu từ trạng thái tiền tệ sang hình thức dự trữ vật tư hàng hoá lại quay trở về hình thức tiền tệ ban đầu của nó. Vì quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục cho nên vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng có tính chất chu kỳ thành sự chu chuyển của tiền vốn. Do sự chu chuyển không ngừng nên vốn lưu động thường xuyên có các bộ phận tồn tại cùng một lúc dưới các hình thức khác nhau trong sản xuất và lưu thông. Tóm lại, vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động và tài sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên liên tục. 1.3.2. Thành phần và kết cấu của vốn lưu động Căn cứ vào công dụng của các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp thì vốn lưu động bao gồm các khoản vốn vay sau: + Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất + Vốn lưu động nằm trong quá trình trực tiếp sản xuất + Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông: vốn thành phẩm và hàng hoá mua ngoài, vốn tiền tệ, vốn thanh toán, vốn tạm ứng. Dựa vào hình thái biểu hiện và theo chức năng của các thành phần vốn lưu động có thể chia thành: + Vốn vật tư hàng hoá + Vốn tiền tệ Dựa vào nguồn hình thành có thể chia vốn lưu động ra thành các nguồn sau: + Nguồn vốn pháp định + Nguồn vốn tự bổ sung + Nguồn vốn liên doanh liên kết + Nguồn vốn đi vay qua phát hành trái phiếu, vay của các tổ chức tín dụng Kết cấu của vốn lưu động là tỷ trọng từng loại vốn lưu động trong tổng số vốn lưu động. Nghiên cứu kết cấu vốn lưu động sẽ giúp các nhà quản trị tài chính thấy được tình hình phân bổ vốn lưu động và tỷ trọng của mỗi khoản vốn chiếm trong mỗi giai đoạn luân chuyển, từ đó xác định trọng điểm vốn lưu động. Đối với sản xuất kinh doanh nói chung thì giá trị các loại tài sản lưu động thường chiếm từ 25% đến 50% trong tổng giá trị tài sản của chúng, điều đó cho thấy việc quản lý và sử dụng hợp lý các loại tài sản lưu động có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ của doanh nghiệp. 1.3.3. Quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp - Quản lý tài sản lưu động Tài sản lưu động bao gồm tài sản trong lĩnh vực dự trữ, sản xuất và lưu thông, trong khi quản lý tài sản lưu động cần nhận biết một số đặc điểm sau: + Các loại tài sản lưu động thường luân chuyển nhanh hơn tài sản cố định và có thể biến đổi hoàn toàn ra tiền mặt hoặc gần như hoàn toàn (các loại vật tư, hàng hoá chuẩn bị đem vào sản xuất hay tiêu thụ) bởi vậy một vấn đề đặt ra là nên đầu tư bao nhiêu vào từng loại để mang lợi ích lớn nhất. Do đó các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay, cần cân nhắc tài sản lưu động thông qua việc xác định đúng giá trị tài sản lưu động để tăng cường quản lý và giúp cho việc xác định đúng đắn giá trị doanh nghiệp. = + + ++ + Quản lý tiền mặt và chứng khoán có khả năng thanh toán cao cần phải Tăng tốc độ thu hồi tiền mặt, khuyến khích khách hàng sớm thanh toán, sớm trả nợ. Tăng cường quản lý các khoản phải thu. Doanh nghiệp phải có những chính sách như chính sách tín dụng, kiểm soát, chính sách chiết khấu, việc thu tiền, theo dõi các khoản phải thu, kỳ thu tiền bình quân để đảm bảo thu hồi nhanh chóng các khoản nợ, tập trung được vốn và tăng vòng quay đồng vốn. Tăng cường quản lý hàng tồn kho 2. Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp Vốn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước được hình thành bởi các nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn huy động vốn. 2.1. Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp 2.1.1. Nguồn vốn pháp định Vốn pháp định là số pháp định tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do pháp luật quy định đối với từng ngành nghề. Nguồn vốn này do ngân sách Nhà nước cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước như các khoản chênh lệch tăng giá làm tăng giá trị tài sản, tiền vốn trong doanh nghiệp, các khoản phải nộp nhưng được để lại doanh nghiệp. Hiện nay, mức vốn pháp định mà Nhà nước quy định cho từng ngành, nghề kinh doanh áp dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước khi thành lập với mức thấp nhất là 1 tỷ VNĐ và cao nhất là 50 tỷ VNĐ. 2.1.2. Nguồn vốn tự bổ sung Vốn do doanh nghiệp tự bổ sung chủ yếu là do doanh nghiệp lấy một phần từ lợi nhuận sau khi đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp... Số vốn được bổ sung từ lợi nhuận này được thực hiện dưới hình thức lấy một phần từ quỹ đầu tư phát triển quỹ dự phòng tài chính. Ngoài việc lấy một phần từ lợi nhuận để lại doanh nghiệp ra, doanh nghiệp Nhà nước còn được để lại toàn bộ số khấu hao cơ bản tài sản cố định để đầu tư, thay thế, đổi mới tài sản cố định. Tuy nhiên, trong sản xuất kinh doanh, do nhu cầu thường xuyên cần vốn. Doanh nghiệp phải tích cực huy động các nguồn vốn không được trông chờ, ỷ lại vào các nguồn vốn đã có sẵn. 2.2. Nguồn vốn huy động Ngoài nguồn vốn mà Nhà nước đầu tư, doanh nghiệp Nhà nước còn được quyền huy động vốn phục vụ mục tiêu kinh doanh dưới các hình thức phát hành trái phiếu để vay nợ dài hạn, ngắn hạn, nhận góp vốn kinh doanh, vốn tín dụng và các hình thức khác. Việc huy động các nguồn vốn này không được làm thay đổi các hình thức sở hữu của doanh nghiệp. + Nguồn vốn liên doanh liên kết: đây là một hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp, nó làm nổi bật vai trò tạo lập vốn cho doanh nghiệp, khai thác được lợi thế của các bên tham gia. + Nguồn vốn huy động thông qua phát hành trái phiếu. Trái phiếu là một công cụ tài chính quan trọng dễ sử dụng vào mục đích vay dài hạn, đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh. Việc phát hành trái phiếu cho phép các doanh nghiệp có thể thu được rộng rãi số tiền nhàn rỗi trong xã hội để mở rộng sản xuất kinh doanh của mình. 3. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh Để tiến hành sản xuất các doanh nghiệp cần phải có tài sản bao gồm TSLĐ và đầu tư ngắn hạn. TSCĐ và đầu tư dài hạn. Để hình thành hai loại tài sản này phải có các nguồn vốn tài trợ tương ứng bao gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Nguồn vốn dài hạn trước hết được đầu tư để hình thành TSCĐ, phần dư của nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn được đầu tư hình thành nên TSLĐ. Chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn với TSCĐ hay giữa TSLĐ với nguồn vốn ngắn hạn là vốn lưu động thường xuyên. VLĐ thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn - TSCĐ = TSLĐ - Nguồn vốn ngắn hạn Mức độ an toàn của tài sản ngắn hạn phụ thuộc vào mức độ của VLĐ thường xuyên. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh ta cần tính toán và so sánh giữa nguồn vốn với tài sản. Khi nguồn vốn dài hạn < TSCĐ Hoặc TSLĐ < Nguồn vốn ngắn hạn Có nghĩa là nguồn vốn thường xuyên <0. Nguồn vốn dài hạn không đủ đầu tư cho TSCĐ. Doanh nghiệp phải đầu tư vào TSCĐ một phần nguồn vốn ngắn hạn. TSLĐ không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất cân bằng, doanh nghiệp phải dùng một phần TSCĐ để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả. Trong trường hợp như vậy, giải pháp của doanh nghiệp là tăng cường huy động vốn ngắn hạn hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư dài hạn hoặc thực hiện đồng thời cả hai giải pháp đó. Khi nguồn vốn dài hạn > TSCĐ Hoặc TSLĐ > Nguồn vốn ngắn hạn Có nghĩa là nguồn vốn thường xuyên >0. Nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư cho TSCĐ, phần dư thừa đó đầu tư vào TSLĐ. Đồng thời TSLĐ > nguồn vốn ngắn hạn do vậy khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp tốt. Vốn thường xuyên = 0 có nghĩa là nguồn vốn ngắn hạn đã tài trợ cho TSCĐ và TSLĐ đủ để cho doanh nghiệp trả các khoản vay ngắn hạn, tình hình tài chính như vậy là lành mạnh. VLĐ thường xuyên là chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, chỉ tiêu này cho biết hai điều cốt yếu: Một là: Doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không? Hai là: TSCĐ của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không? Ngoài khái niệm VLĐ thường xuyên được phân tích trên đây, nghiên cứu tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, người ta còn sử dụng chỉ tiêu nhu cầu VLĐ thường xuyên để phân tích. Nhu cầu VLĐ thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để trài trợ cho một phần TSLĐ, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu (TSLĐ không phải là tiền) = - Thực tế có khả năng xảy ra các trường hợp sau: + Nhu cầu VLĐ thường xuyên >0 tức là tồn kho và các khoản phải thu > nợ ngắn hạn. Giải pháp trong trường hợp này là nhanh chóng giải phóng hàng tồn kho và giảm các khoản phải thu của khách hàng. + Nhu cầu VLĐ thường xuyên <0 tức là các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh. III. Công tác quản lý tài chính doanh nghiệp A. Đối tượng quản lý 1. Chi phí, thu nhập và lợi nhuận của doanh nghiệp 1.1. Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm và các khoản thuế gián thu mà doanh nghiệp bỏ ra để thực hiện sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. - Căn cứ vào công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh để sắp xếp chi phí vào những khoản mục nhất định. + Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm chi phí tiền lương, tiền công, các khoản tính nộp như quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ. + Chi phí sản xuất chung là chi phí sử dụng chung cho hoạt động sản xuất và kinh doanh, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền phát sinh trong quá trình hoạt động. + Chi phí bán hàng là những chi phí liên quan đến quá trình tiêu thụ hàng hoá. + Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm các chi phí cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp như: tiền lương và các khoản trích nộp của bộ máy quản lý và điều hành, chi phí về công cụ và dụng cụ, khấu hao TSCĐ phục vụ cho bộ máy quản lý chung của doanh nghiệp, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bằng tiền khác. - Căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí sản xuất kinh doanh và khối lượng hàng hoá có thể chia chi phí thành chi phí cố định và chi phí biến đổi. + Chi phí cố định là những chi phí không thay đổi theo sự thay đổi của khối lượng sản phẩm tiêu thụ. + Chi phí biến đổi là chi phí thay đổi theo sự thay đổi của khối lượng sản phẩm tiêu thụ. - Ngoài ra chi phí sản xuất kinh doanh còn được chia thành chi phí cơ bản và chi phí chung. + Chi phí cơ bản là những khoản chi phí chủ yếu cần thiết cho quá trình tiêu thụ sản phẩm kể từ lúc nhập sản phẩm cho đến giai đoạn tiêu thụ. + Chi phí chung là những khoản chi phí không liên quan trực tiếp đến quá trình tiêu thụ sản phẩm. Để quản lý tốt chi phí của doanh nghiệp cần phải xem xét cơ cấu chi phí và xu hướng thay đổi kết cấu chi phí. Kết cấu chi phí sản xuất kinh doanh là tỷ trọng giữa các yếu tố chi phí trong tổng số các chi phí sản xuất kinh doanh. Những nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu chi phí là đặc điểm sản xuất chung của từng loại doanh nghiệp, của từng ngành kinh tế, loại hình có quy mô sản xuất kinh doanh, điều kiện tự nhiên, công tác quản lý và tiêu thụ sản phẩm. 1.2. Thu nhập và lợi nhuận của doanh nghiệp * Thu nhập trong năm tài chính của doanh nghiệp + Thu nhập của doanh nghiệp là tất cả các khoản tiền thu được do hoạt động kinh doanh mang lại. Nội dung của thu nhập bao gồm: + Thu nhập bán hàng là toàn bộ các khoản tiền thu nhập về tiêu thụ sản phẩm và lao vụ từ các hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là một bộ phận chủ yếu có thể chiếm được tỷ trọng lớn trong toàn bộ tổng số thu nhập của doanh nghiệp. + Thu nhập từ các hoạt động tài chính bao gồm các khoản thu do hoạt động đầu tư tài chính, kinh doanh về vốn mang lại như các hoạt động mua bán cổ phiếu, trái phiếu, cho vay vốn... + Thu nhập khác (còn gọi là thu nhập bất thường, thu nhập đặc biệt) VD: thu nhập từ việc thanh lý TSCĐ, các khoản nợ vắng chủ hay nợ không có người đòi nợ. - Doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ Nội dung gồm: + Doanh thu từ hoạt động kinh doanh: là tiền bán sản phẩm, hàng hoá dịch vụ sau khi đã từ các khoản tiền chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, thu từ phần trợ giá của Nhà nước, nếu doanh nghiệp có cung cấp hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu của Nhà nước. + Doanh thu từ các hoạt động dịch vụ khác: Doanh thu từ các hoạt động mua bán trái phiếu, tín phiếu, cổ phiếu, cho thuê tài sản, liên doanh, liên kết, thu lãi tiền gửi, lãi từ tiền đã cho vay các khoản thu từ lãi... Doanh nghiệp được hưởng sự trợ giá, trợ cấp của Nhà nước nếu thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước giao về sản xuất hay cung ứng các dịch vụ về quốc phòng, an ninh, cung cấp các sản phẩm dịch vụ theo giá cả của nhà nước mà thu nhập không đủ bù đắp chi phí cũng được hưởng sự trợ cấp, trợ giá của nhà nước. * Lợi nhuận và phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp Lợi nhuận của doanh nghiệp của doanh nghiệp là số tiền chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để đạt được số thu nhập đó từ các hoạt động của doanh nghiệp mang lại. Nội dung lợi nhuận doanh nghiệp bao gồm: + Lợi nhuận hoạt động kinh doanh là khoản tiền chênh lệch giữa thu nhập của hoạt động kinh doanh trừ đi chi phí hoạt động kinh doanh. Nếu các hệ số này thấp hơn hệ số chung của toàn ngành, chứng tỏ doanh thu không đảm bảo, bán hàng với giá thấp hoặc giá thành sản phẩm của doanh nghiệp cao hơn các ngành khác. Những phương hướng cơ bản để tăng lợi nhuận và nâng cao tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp là: + Phấn đấu giảm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm + Doanh nghiệp phải tăng sản lượng sản xuất và tiêu thụ không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, giữ uy tín với khách hàng. - Phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp + Yêu cầu của phân phối lợi nhuận doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải giải quyết mối quan hệ hài hoà giữa nhà nước, doanh nghiệp và công nhân viên về mặt lợi ích, làm các nghĩa vụ, trách nhiệm đối với nhà nước theo pháp luật quy định như nộp thuế thu nhập, các khoản lệ phí... Doanh nghiệp phải dành phần lợi nhuận để lại thích đáng để giải quyết của nhu cầu kinh doanh của mình chú trọng đảm bảo lợi ích của các thành viên trong đơn vị mình. + Nội dung phân phối lợi nhuận doanh nghiệp Tổng số lợi nhuận thực hiện cả năm của doanh nghiệp sau khi nộp thuế thu nhập theo luật định được phân phối như sau: Nộp tiền thu về sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Nếu doanh nghiệp bị lỗ thì không phải nộp về khoản này. Nếu lợi tức sau thuế không đủ nộp tiền thu sử dụng vốn theo mục đích quy định thì doanh nghiệp phải nộp toàn bộ lợi tức sau thuế. Doanh nghiệp phải trả các khoản tiền bị phạt như: tiền phạt do vi phạm kỷ luật thu nộp ngân sách, tiền phạt vi phạm hành chính, phạt vi phạm hợp đồng, phạt vì nợ quá hạn, các khoản chi phí hợp lệ chưa được trừ khi xác định thuế lợi tức phải nộp. Trừ các khoản lỗ không được trừ vào lợi tức trước thuế Nhưng doanh nghiệp kinh doanh trong một số ngành đặc thù như ngân hàng, bảo hiểm... mà pháp luật quy định phải trích lập các quỹ đặc biệt từ lợi tức, thì sau khi trừ các khoản nêu trên, doanh nghiệp được trích lập các quỹ đó theo tỷ lệ do nhà nước quy định. 2. Quản lý chi phí - thu nhập và lợi nhuận của doanh nghiệp * Yêu cầu quản lý Yêu cầu quan trọng nhất của công tác quản lý doanh nghiệp là phải tiết kiệm chi phí, vì chi phí có quan hệ chặt chẽ đối với thu nhập và lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu chi phí tăng, tất yếu đưa lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm sút. Đối với thu nhập của doanh nghiệp, cần phải xác định rõ thu nhập ._.trong năm tài chính của doanh nghiệp, khi lập kế hoạch của doanh nghiệp không để xót thu nhập, lập được kế hoạch thu nhập và lợi nhuận cũng như phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. * Nội dung quản lý Vì chi phí, thu nhập và lợi nhuận có liên quan chặt chẽ với nhau nên việc quản lý chúng cũng được đặt trong mối quan hệ đó. - Quản lý chi phí sản xuất kinh doanh. + Phải lập được kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố xác định chi phí hoạt động kinh doanh và chi phí hoạt động khác bỏ ra trong năm. + Quản lý theo định mức: xây dựng chính xác định mức lao động, chế độ lương, trợ cấp, định mức tiêu hao nguyên nhiên vật liệu, định mức lao động và các khoản chi phí gián tiếp phù hợp với việc tổ chức sản xuất kinh doanh, với đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của doanh nghiệp, sử dụng đúng đắn quỹ lương, quỹ tiền thưởng. + Đối với các khoản chi phí quản lý như chi phí về hội họp giao dịch, tiếp khách, đối ngoại... cần xây dựng định mức chi tiêu. + Các chi phí về dịch vụ mua ngoài, doanh nghiệp cần có dự toán, có hợp đồng kinh tế, nghiệm thu và thanh lý hợp đồng, về giá cả sẽ theo giá quy định của nhà nước (đối với các dịch vụ do nhà nước quy định giá). Nếu theo giá thị trường cần phải có hoá đơn, chứng từ hợp pháp. + Một điều quan trọng trong quản lý chi phí là doanh nghiệp phải xác định đúng chi phí hoạt động kinh doanh, những khoản chi phí không đúng tính chất là chi phí hoạt động kinh doanh hoặc các khoản chi phí đã có các nguồn kinh phí khác đài thọ thì không được tính là chi phí hoạt động kinh doanh. - Quản lý thu nhập, doanh thu của doanh nghiệp: trong quản lý thu nhập và doanh thu, ngoài việc phải xác định rõ đâu là doanh thu từ hoạt động kinh doanh và doanh thu từ các hoạt động khác thì doanh nghiệp còn phải xác định tất cả số doanh thu phát sinh trong năm tài chính dứt khoát phải được thể hiện đầy đủ, rõ ràng trên hoá đơn, chứng từ hợp lệ và được phản ánh đầy đủ trên sổ sách kế toán theo chế độ do nhà nước quy định. Các khoản doanh thu tính thuế cho từng loại hoạt động theo các quy định của luật thuế. Nếu có trường hợp các khoản thu nhập nào không được phản ánh mà để ngoài sổ sách thì doanh nghiệp phải truy nộp toàn bộ vào ngân sách nhà nước. B. Phương pháp và công cụ để quản lý tài chính 1. Phương pháp để quản lý tài chính Để đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp có thể có nhiều phương pháp phân tích, trong đó phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến là phương pháp tỷ lệ. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện ngày càng được bổ sung hoàn thiện. Thứ nhất nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và cung cấp đầy đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành những tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỷ lệ của một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp. Thứ hai, việc áp dụng công nghệ tin học phổ biến cho phép tích luỹ dữ liệu, thúc đẩy nhanh quá trình tính toán các tỷ lệ. Thứ ba, phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích khai thác có hiệu quả số liệu, phân tích hệ thống hàng loạt tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục hay theo từng giai đoạn. Các tỷ lệ chủ yếu trong phân tích tài chính. * Tỷ lệ về khả năng thanh toán: Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. * Tỷ lệ về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn: Phản ánh mức độ ổn định, tự chủ tài chính cũng như khả năng nợ vay của doanh nghiệp. * Tỷ lệ về khả năng hoạt động: Đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp * Tỷ lệ về khả năng sinh lời: Phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp nhất của một doanh nghiệp 2. Công cụ để quản lý tài chính Quản lý tài chính là một công cụ khá phức tạp, vì vậy nó đòi hỏi phải có những công cụ để thực hiện. Đó là các sổ sách kế toán được ghi chép chính xác cùng với báo cáo tài chính định kỳ và một số kỹ thuật phân tích báo cáo. Những công cụ này sẽ không cho các câu trả lời sẵn đối với các vấn đề tài chính nhưng chúng sẽ giúp đề ra những quyết định đúng dựa trên các dữ liệu và nguyên tắc quản lý kinh doanh đã được kiểm nghiệm. Sổ sách kế toán Sổ sách kế toán là những công cụ cơ bản trong quản lý tài chính. Những báo cáo mà người quản lý tài chính làm ra có thể không chính xác hay không đầy đủ hơn so với các sổ sách kế toán mà họ sử dụng để tổng hợp. Sổ sách kế toán có thể đơn giản hoặc phức tạp tuỳ theo mức độ, tính chất của nghề kinh doanh nhưng luôn cần sắp xếp một cách có tổ chức và nhất quán. Trong thời đại ngày nay, tuy hệ thống máy vi tính phát triển, có nhiều chương trình kế toán được viết ra giúp đỡ rất lớn cho kế toán viên nhưng ngay từ bước đầu tiên vẫn cần có sổ sách kế toán tốt. Đây chính là tiền đề, là nền móng vững chắc cho mọi việc cải tiến công tác quản lý tài chính. Ngoài sổ sách kế toán, các báo cáo tài chính, tổng kết tài sản, bảng quyết toán lãi-lỗ và một số chỉ tiêu tài chính cũng giúp ta hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động của doanh nghiệp. IV. Một số chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính chủ yếu 1. Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán Tình hình tài chính doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau: Hệ số thanh toán tổng quát = Hệ số <1 là báo hiệu sự phá sản của doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu bị mất toàn bộ, tổng số tài sản hiện có không đủ trả số nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán Hệ số thanh toán tạm thời = Hệ số thanh toán tạm thời thể hiện mức độ đảm bảo của TSLĐ với nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán nhanh = Hệ số thanh toán nhanh là thước đo về khả năng trả nợ ngay, không dựa vào việc phải bán vật tư hàng hoá 2. Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính Các doanh nghiệp luôn thay đổi tỷ trọng các loại vốn theo xu hướng hợp lý (kết cấu tối ưu). Nhưng kết cấu này lại luôn bị phá vỡ do tình hình đầu tư. Vì vậy nghiên cứu các hệ số nợ, hệ số tự tài trợ sẽ cung cấp cho các nhà hoạch định chiến lược tài chính một cái nhìn tổng quát về sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Hệ số nợ = Hệ số nợ là một chỉ tiêu tài chính phản ánh trong một đồng vốn hiện nay doanh nghiệp đang sử dụng có mấy đồng vốn vay nợ. Tỷ suất tự tài trợ = = 1 - Hệ số nợ Tỷ suất tự tài trợ là một chỉ tiêu tài chính đo lường sự góp vốn của chủ sở hữu trong tổng số vốn hiện có của doanh nghiệp. 3. Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động Các chỉ tiêu này dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn, tài sản của một doanh nghiệp bằng cách so sánh doanh thu với việc bỏ vốn vào kinh doanh dưới các loại tài sản khác nhau. Số vòng quay hàng tồn kho = Số vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hoá tồn kho bình quân luân chuyển trong kỳ Số vòng quay hàng tồn kho càng cao thì việc kinh doanh được đánh giá càng tốt = Phản ánh số ngày trung bình của một vòng quay hàng tồn kho. Vòng quay các khoản phải thu = Phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt của doanh nghiệp. Vòng quay càng lớn, chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản thu nhanh là tốt. Kỳ thu tiền trung bình = Kỳ thu tiền trung bình phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu. Vòng quay vốn lưu động = Vòng quay vốn lưu động phản ánh trong kỳ vốn lưu động quay được mấy vòng. = Số ngày một vòng quay vốn lưu động phản ánh trung bình một vòng quay hết bao nhiêu ngày. Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Hiệu suất sử dụng vốn cố định phản ánh cứ đầu từ trung bình 1 đồng vào vốn cố định thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. 4. Nhóm các chỉ số sinh lời Các chỉ số sinh lời luôn luôn được các nhà quản trị tài chính quan tâm. Chúng là cơ sở quan trọng để đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong một kỳ nhất định, là đáp số sau cùng của hiệu quả kinh doanh, và còn là một luận cứ quan trọng để các nhà hoạch định đưa ra các quyết định tài chính trong tương lai. Doanh lợi doanh thu = Tỷ suất doanh lợi doanh thu thể hiện trong 1 đồng doanh thu mà doanh nghiệp thực hiện trong kỳ có mấy đồng lợi nhuận. Doanh thu tổng vốn = Tỷ suất doanh lợi tổng vốn thể hiện 1 đồng vốn bình quân được sử dụng trong kỳ tạo ra mấy đồng lợi nhuận. Doanh lợi vốn chủ sở hữu = Doanh lợi vốn chủ sở hữu thể hiện 1 đồng vốn mà chủ sở hữu đầu tư mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Căn cứ vào 4 nhóm chỉ tiêu tài chính sử dụng trong phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, người phân tích có thể đánh giá tình hình tài chính nói riêng và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp nói chung. Việc tiến hành lựa chọn và sắp xếp các chỉ tiêu tuỳ theo góc độ nghiên cứu của nhà phân tích và lập bảng để so sánh đánh giá. Phần II Thực trạng về công tác quản lý tài chính tại công ty Dệt kim Thăng Long I/ Giới thiệu tổng quát về công ty 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Công ty Dệt kim Thăng Long được thành lập vào tháng 2/1982 trên cơ sở sát nhập hai xí nghiệp: Xí nghiệp dệt Cự doanh và xí nghiệp may mặt Hà Nội do Sở Công nghiệp và Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội quyết định. Công ty Dệt kim Thăng Long là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội có đầy đủ tư cách pháp nhân tự chủ trong sản xuất kinh doanh và hạch toán kinh tế độc lập. Sự ra đời và phát triển của công ty - Thời kỳ những năm 1950: Trong những năm 1950, nền kinh tế của chúng ta còn dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, các doanh nghiệp đều thuộc sở hữu tư nhân và một trong những doanh nghiệp đó có doanh nghiệp sản xuất hàng dệt kim. Người sở hữu lúc này là nhà tư sản Nguyễn Văn Căn. Toàn bộ máy móc đều nhập từ Anh và Pháp, cơ sở sản xuất đặt tại phố Hàng Quạt - Hà Nội. - Thời kỳ năm 1959, chấp hành đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước là cải tạo công ty thương nghiệp với hình thức công tư hợp doanh, cơ sở sản xuất bước sang giai đoạn mới có sự hỗ trợ đầu tư cũng như sự tham gia quản lý của nhà nước với quy mô và hình thức tổ chức sản xuất, công ty đổi tên thành XN Dệt cự doanh. - Thời kỳ từ tháng 7/1982 đến năm 1986 Trong những năm này nhìn chung ngành công nghiệp dệt vẫn thiếu nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất. Đứng trước tình hình đó, sau nhiều lần hội thảo xây dựng góp ý kiến, UBNDTP Hà Nội đã quyết định sát nhập Xí nghiệp Dệt cự doanh với Xí nghiệp may Hà Nội thành Công ty Dệt kim Thăng Long. - Thời kỳ từ năm 1986 đến nay Trong thời kỳ này nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Khi quyết định số 217/HĐBT được thực hiện thì mọi hoạt động trong các doanh nghiệp đều có sự thay đổi. Các doanh nghiệp làm chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, tự sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Bước vào một thời kỳ chính sách mới, công ty kinh doanh 4 năm đầu gặp phải nhiều khó khăn thử thách tưởng chừng không vượt qua được như nguyên vật liệu khan hiếm phải nhập ngoại, máy móc thiết bị đã cũ, cơ sở hạ tầng xuống cấp, đội ngũ công nhân thì lớn trong khi đó sản phẩm sản xuất ra với giá thành cao, hình thức mẫu mã chưa phù hợp và phong phú. Giờ đây công ty đã tìm được các đối tác làm ăn lớn trong khu vực, đầu tư thêm trang thiết bị tiên tiến và thành lập tổ chuyên nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, công ty đã mạnh dạn vững bước trên con đường kinh doanh trong nền kinh tế thị trường tiến tới tương lai với những thử thách và thắng lợi mới. 2. Đặc điểm tổ chức sản xuất, đặc điểm sản phẩm, đặc điểm tổ chức quản lý và tổ chức công tác kế toán của công ty 2.1. Đặc điểm tổ chức sản xuất Cơ cấu sản xuất của công ty ngày càng được hoàn thiện. Hiện nay công ty có 3 phân xưởng sản xuất chính là phân xưởng dệt, phân xưởng tẩy nhuộm, phân xưởng cắt may. Mỗi phân xưởng có một quản đốc và một phó giám đốc. Các phân xưởng có mối quan hệ với nhau tạo thành một dây chuyển sản xuất khép kín. - Phân xưởng dệt là một giai đoạn sản xuất khởi đầu của quá trình sản xuất sản phẩm, nó có nhiệm vụ sản xuất ra vải mộc từ sợi bông. - Phân xưởng tẩy với chức năng tẩy trắng toàn bộ vải mộc của phân xưởng dệt và nhuộm màu cho số vải đó. - Phân xưởng cắt may có nhiệm vụ cắt và may vải đã nhuộm thành sản phẩm cuối cùng. Mối quan hệ giữa các phân xưởng rất chặt chẽ và liên tục, nó tạo thành 1 vòng tuần hoàn cố định và được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Qui trình công nghệ sản xuất của công ty Dệt kim Thăng Long Guồng đảo sợi Dệt vải Kiểm tra vải dệt Nguyên vật liệu (sợi) Là, đóng gói Kiểm tra áo Giặt sạch Vắt ly tâm Sấy khô Cán nguội Giặt sạch Mạng sợi Kho vải mộc Kiềm NaOH Giặt nước nóng Tổng NaOH, H20 Na2SO3 lơ hồng Giặt xử lý axit H20, H2SO4 Nấu vải H20, NaOH, Na2CO3, Na2SO3 Kho vải trắng Cán nóng Kiểm tra vải Kho bán T. phẩm May Kho thành phẩm 2.2. Đặc điểm sản phẩm Sản phẩm của công ty chủ yếu là các loại quần có kiểu cách, chủng loại, kích cỡ khác nhau như áo T-shirt, quần áo thể thao... nhằm đáp ứng cho nhu cầu về mặc của mọi đối tượng, tầng lớp trong xã hội. Chính vì thế mà sản phẩm sản xuất ra phải có kiểu cách, mầu sắc và kích cỡ phù hợp với người tiêu dùng. Hiện nay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng phong phú, đa dạng và ngày càng cao của người tiêu dùng, công ty chủ yếu tập trung vào những loại mặt hàng sau: - Hàng tiêu thụ nội địa (quần và áo các loại): là loại sản phẩm mà công ty sản xuất ra rồi đem tiêu thụ ngay trong nước. - Hàng xuất khẩu: là những sản phẩm mà công ty chủ yếu sản xuất theo đơn đặt hàng của các bạn hàng nước ngoài. - Hàng gia công là những sản phẩm được sản xuất bằng nguyên vật liệu của khách hàng mang đến. Về chủng loại mặt hàng của công ty thì rất đa dạng và phong phú, trong đó mỗi loại có kiểu dáng, kích cỡ khác nhau. Chính đặc điểm này đã ảnh hưởng rất lớn đến công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty. Về số lượng sản phẩm sản xuất thì công ty chủ yếu căn cứ vào các đơn đặt hàng, các hợp đồng kinh tế đã ký kết, đồng thời căn cứ vào nhu cầu thị trường trong thời kỳ. Về chất lượng, do nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao đòi hỏi yêu cầu về chất lượng sản phẩm cũng phải nâng cao. Bởi vậy nên mọi sản phẩm của công ty xuất ra đều phải qua bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm (KCS) để kiểm tra đánh giá chất lượng và chỉ nhập kho những mặt hàng đạt yêu cầu. 2.3. Đặc điểm tổ chức quản lý của công ty Bộ máy quản lý của công ty xác định rõ chức năng nhiệm vụ và mối quan hệ công tác giữa các phòng ban, các phân xưởng đảm bảo sự hợp tác chặt chẽ thống nhất tạo ra sự thông suốt trong công việc. Chức năng và nhiệm vụ của tổ chức bộ máy quản lý được thể hiện qua sơ đồ Sơ đồ 2: Bộ máy quản lý của công ty Dệt kim Thăng Long Giám đốc Giám đốc kỹ thuật Phó giám đốc đời sống Phòng kỹ thuật Phòng Tài vụ Phòng cung tiêu Phòng hành chính Phòng tổ chức Phòng KCS Tổ cơ điện Phòng bảo vệ Phòng y tế Phân xưởng dệt Phân xưởng tẩy nhuộm Phân xưởng cắt may Phòng kế hoạch Nhìn vào sơ đồ trên chúng ta thấy có chức năng của từng phòng. Sự sắp xếp này rất khoa học đảm bảo cho việc cung cấp thông tin nhanh chính xác và xử lý được kịp thời các thông tin đó. Các phòng có chức năng riêng của mình và đều chịu sự quản lý của giám đốc và các phó giám đốc: - Giám đốc điều hành chung toàn công ty dưới sự trợ giúp của các phó giám đốc và các phòng nghiệp vụ. - Phó giám đốc kỹ thuật phụ trách các kế hoạch trong sản xuất làm sao khi các thông tin của phòng kế hoạch chuyển lên phó giám đốc. Giải quyết ngay nếu thấy là hợp lý, nếu không phù hợp sẽ tiến hành họp bàn lại sao cho phù hợp. Việc này tạo ra một sự quản lý chặt chẽ từ dưới lên trên. - Phó giám đốc đời sống phụ trách đời sống cho anh chị em công nhân, đảm bảo cuộc sống cho họ cả về tinh thần cũng như vật chất. - Phòng kế hoạch: có nhiệm vụ lập các phương án kinh doanh để giám đốc, phó giám đốc lấy làm căn cứ cho việc thực hiện các hợp đồng kinh tế cũng như việc đề ra các phương án sản xuất kinh doanh, cung ứng nguyên vật liệu cho các phân xưởng sản xuất. - Phòng kỹ thuật có trách nhiệm giải quyết các quy trình công nghệ sản xuất, có nhiệm vụ tính toán đề ra các định mức, tỷ lệ tiêu hao NVL, xây dựng kế hoạch sản xuất và thiết kế làm thử, định hình mặt hàng mẫu. - Phòng tài vụ: Có trách nhiệm hạch toán các khoản chi phí NVL chi phí về động lực, nhân công, tiêu thụ sản phẩm... có tình hình biến động vốn tài sản của công ty. Theo dõi các khoản thu, chi tài chính để phản ánh vào các tài khoản kèm theo. Sau 1 thời gian quy định lập báo cáo tài chính gửi giám đốc tạo điều kiện thuận lợi giúp cho ban lãnh đạo công ty đề ra các biện pháp nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao, tạo tạo điều kiện giúp cho phòng kế hoạch thực hiện tốt nhiệm vụ. - Phòng cung tiêu: Có nhiệm vụ tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm, tăng cường các biện pháp yểm trợ, xúc tiến bán hàng, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm. - Phòng hành chính: Có nhiệm vụ tiếp khách, trang bị đồ dùng hành chính cho các phòng ban, làm tạp vụ toàn công ty. - Phòng tổ chức: Có nhiệm vụ quản lý về mặt lao động và trả lương của công ty. Dự kiến thời gian thực hiện kế hoạch sản xuất theo hợp đồng phù hợp với trình độ tay nghề, sức lao động hiện có của công ty. - Tổ cơ điện: Có nhiệm vụ sửa chữa, đại tu thường xuyên máy móc thiết bị sửa chữa cơ điện. - Phòng KCS: Có nhiệm vụ kiểm tra chất lượng sản phẩm xem có phù hợp với yêu cầu đề ra hay không. - Phòng bảo vệ: Bảo vệ tài sản của công ty, phòng cháy chữa cháy đảm bảo an ninh nội bộ. - Phòng y tế: Đảm nhận việc quản lý, tổ chức khám sức khoẻ, chữa bệnh cho cán bộ CNV. Hiện nay công ty có 625 người, trong đó số cán bộ công nhân viên phục vụ gián tiếp là 156 người, số lao động trực tiếp sản xuất là 469 người. Tính đến đầu năm 2000 tổng số vốn sản xuất kinh doanh của công ty là 9.180.090.293 VNĐ trong đó: Vốn lưu động: 2955356241 VNĐ Vốn cố định: 6224734052 VNĐ Với nguồn lực trên cùng với sự lãnh đạo của giám đốc và sự say mê sáng tạo của cán bộ công nhân viên, công ty Dệt kim Thăng Long đã ngày càng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nâng cao uy tín trên thương trường, phát huy thế mạnh của công ty và tận dụng những ưu đãi bạn hàng dành cho để liên tục phát triển và trở thành doanh nghiệp mạnh trong ngành dệt và may mặc ở nước ta. 2.4. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán của công ty Hiện nay ở công ty Dệt kim Thăng Long đang áp dụng hình thức kế toán nhật ký chứng từ. Với hệ thống sổ sách khá đầy đủ, đồng thời sử dụng hệ thống tài khoản kế toán thống nhất áp dụng cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân theo quyết định số 1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/95 của Bộ trưởng BTC với phương pháp kê khai thường xuyên. Toàn công ty chỉ có một phòng tài vụ kế toán. Tại các cửa hàng và trụ sở, nhân viên làm nhiệm vụ lập, thu thập, kiểm tra và định kỳ chuyển về phòng tài vụ. Phòng tài vụ gồm 8 thành viên làm các công việc sau: - Kế toán trưởng (kiêm trưởng phòng) là người phụ trách chung công việc của phòng, có trách nhiệm chỉ đạo công việc cho các nhân viên trong phòng và chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về những sai sót trong công tác quản lý tài chính của xí nghiệp. Kế toán trưởng lập kế hoạch tài chính với nhà nước, là người trực tiếp báo cáo các thông tin kinh tế, tài chính với giám đốc và các cơ quan có thẩm quyền khi họ có yêu cầu. - Kế toán vật liệu: Có nhiệm vụ thu thập các nghiệp vụ phát sinh về xuất nhập nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất kinh doanh. - Kế toán CPSX và giá thành: Có nhiệm vụ tập hợp chi phí phát sinh để tiêu thụ sản phẩm. - Kế toán vốn thanh toán: Có nhiệm vụ hạch toán các khoản chi, thu bằng tiền mặt, séc và chuyển khoản. - Kế toán TSCĐ: Có nhiệm vụ hạch toán tăng giảm nguyên giá và hao mòn TSCĐ. - Kế toán tiền lương và BHXH làm nhiệm vụ theo dõi việc chi trả lương, thanh toán BHXH cho cán bộ CNV. - Kế toán thành phẩm và tiêu thụ: Có nhiệm vụ hạch toán quá trình xuất nhập thành phẩm, doanh thu bán hàng và các nghiệp vụ khác phát sinh liên quan tới tiêu thụ thành phẩm. - Thủ quỹ: Thực hiện các khoản tiền như tạm ứng thanh toán quỹ tiền mặt, bảo quản quỹ tiền của công ty. Các bộ phận cấu thành bộ máy kế toán có nhiệm vụ thực hiện những công việc thuộc phần hành của mình và hướng dẫn, kiểm tra các bộ phận khác trong công ty. Sơ đồ: Bộ máy kế toán của công ty Kế toán trưởng K. toán vốn thanh toán Kế toán TSCĐ KToán TP và tiêu thụ Thủ quĩ K.T tiền lương và BHXH KToán CFSX và TGTSP Kế toán vật liệu II/ Thực trạng về tổ chức công tác tài chính tại công ty Dệt kim Thăng Long 1. Quản lý chi phí, thu nhập và lợi nhuận của công ty * Về chi phí Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải quan tâm và tổ chức quản lý chặt chẽ chi phí này bởi lẽ nó liên quan đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Bảng 1: Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố cụ thể trong 3 năm Đơn vị: 1000đồng Yếu tố chi phí Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Số tiền Tỷ lệ so với DT Số tiền Tỷ lệ so với DT Số tiền Tỷ lệ so với DT 1. Chi phí NVL trực tiếp 1979986 35,8% 1989499 34,4% 2467804 35,8% 2. Chi phí nhân công trực tiếp 1669872 30,1% 1680021 29% 2049761 29,7% 3. Chi phí sản xuất chung 747347 13,5% 751588 13% 876542 12,7% Tổng cộng 4397205 66% 4421108 63,5% 5394107 65,6% Nguồn: Báo cáo quyết toán năm 1998, 1999, 2000 Công ty Dệt kim Thăng Long Giá vốn hàng bán của công ty trong năm 1998 là 4397205000 VNĐ. Giá vốn hàng bán so với tổng doanh thu còn tương đối cao. Điều này chứng tỏ công tác sản xuất kinh doanh ở công ty còn nhiều hạn chế, thiếu sót. - Giá vốn hàng bán năm 1999 của Công ty là 4421108000 VNĐ tăng lên so với năm 1998. - Giá vốn hàng bán năm 2000 của công ty là 5394107000 VNĐ tăng lên so với 2 năm 1998 và 1999. Điều đó cho thấy giá vốn hàng bán năm 2000 đã tăng nhanh so với doanh thu hàng bán. Điều này chứng tỏ năm 2000, công tác thu mua nguồn nguyên vật liệu của công ty chưa được tổ chức tốt cho nên phần nào làm cho giá vốn hàng bán cao. - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp tăng là do công tác bảo quản nguyên vật liệu khâu dự trữ còn kém hiệu quả. Đối với công ty Dệt kim Thăng Long thì nguyên vật liệu chủ yếu để sản phẩm là vải các loại mà điều kiện bảo quản tốt nhất là ở những nơi thoáng, hệ thống chống ẩm tốt. Tuy nhiên cho đến nay hầu hết các kho bảo quản nguyên vật liệu của công ty đều là những dãy nhà cấp bốn đã cũ và xuống cấp. Vì vậy không tránh khỏi khi có những đợt mưa kéo dài đã có những lô vải bị ẩm mốc trước khi đưa vào sản xuất. Đây chính là nguyên nhân làm tăng chi phí nguyên vật liệu của công ty. Ngoài ra, chi phí nhiên liệu, động lực năm 2000 cũng tăng so với các năm 1998-1999 do xăng, dầu, điện... dùng để chạy đều tăng. Có thể nói công tác quản lý và sử dụng chi phí nguyên vật liệu của công ty vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. - Đối với khoản mục chi phí nhân công: vì công ty chủ yếu may gia công cho nước ngoài nên chi phí nhân công chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí của doanh nghiệp (38%). - Khoản mục chi phí sản xuất chung: Do trong năm 2000 có sự đầu tư một số TSCĐ như máy may, máy cắt, bàn là... làm tăng khấu hao nên đã làm cho chi phí sản xuất chung của công ty tăng so với 2 năm 1998, 1999. - Đối với khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp: Thực tế chi phí này năm 2000 giảm so với năm 1999 là 1610.000đ tương ứng với tỉ lệ giảm 0,17%. Đây được coi là thành tích của công ty đã biết sắp xếp, bố trí hợp lý bộ máy lao động gián tiếp, cắt giảm các cuộc hội họp không cần thiết từ đó sẽ giảm được chi phí gián tiếp trong giá thành. * Về thu nhập Đây là một chỉ tiêu quan trọng, là kết quả kinh doanh đầu tiên và trực tiếp nhất của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, mức độ đáp ứng trên thị trường, nó cũng được thể hiện qua hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Tổng doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty tăng dần trong những năm gần đây. Năm 1998 tổng doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh là 5734792000 VNĐ hầu hết được hình thành thì các hợp đồng sản xuất. Tuy kết quả đạt được chưa cao nhưng nó thể hiện sự cố gắn lớn vượt qua khó khăn trong nền kinh tế thị trường của công ty. Trong năm 1999, tổng doanh thu của công ty đạt được là 5784758000 VNĐ Đến năm 2000, tổng doanh thu của công ty đạt được là 6899996.000 VNĐ tức là tăng lên so với năm 1998, 1999. Đây là một con số đáng khích lệ song vẫn còn thấp so với chỉ tiêu toàn ngành trên địa bàn Hà Nội. Nguyên nhân là do có tình hình biến động kinh tế trong khu vực, môi trường kinh tế khó khăn hơn, hơn nữa quy mô của công ty còn nhỏ so với nhiều đơn vị khác trong ngành. * Về chỉ tiêu lợi nhuận Để thấy rõ kết quả sản xuất kinh doanh của công ty, ta xem xét chỉ tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu cuối cùng phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Nó thể hiện sự cố gắng trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh và cũng là nhân tố chủ yếu để đánh giá hiệu quả sản xuất của một doanh nghiệp. Năm 2000 là năm nhiều thử thách đối với công ty Dệt kim Thăng Long, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty gặp không ít khó khăn. Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong năm 2000 so với các năm 1998, và đặc biệt là so với năm 1999 là chưa thực sự tốt mặc dù sản lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ cũng như doanh thu tiêu thụ tăng lên nhưng lợi nhuận năm 2000 lại giảm nhiều so với năm 1998 và 1999. Nhìn vào số liệu ở bảng ta nhận thấy lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh năm 1999 của công ty đạt cao nhất trong 3 năm (174613000đ), tăng 64377000 đ tương ứng với tỷ lệ tăng 58,39% so với năm 1998. Nhưng sang đến năm 2000 lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh giảm hẳn, giảm 70415000đ tương ứng với tỷ lệ giảm 40,32% so với năm 1999. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty như trên là chưa thực sự tốt. Trong thời gian tới công ty cần có những biện pháp thích đáng để từ đó phấn đấu tăng lợi nhuận cho công ty. (bảng 2) 2. Quản lý và sử dụng vốn của công ty 2.1. Hiệu quả sử dụng vốn của công ty Sử dụng vốn là một trong những công tác quan trọng trong quản lý tài chính Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào thì vốn cũng là điều kiện hàng đầu trong việc kinh doanh của công ty, cho nên công ty phải tính đến hiệu quả sử dụng vốn, xem việc sử dụng vốn vào hoạt động kinh doanh của công ty ra sao để từ đó đi đến quyết định sử dụng vốn tốt hơn để có được lợi nhuận cao. Bảng 3: Hiệu quả sử dụng vốn của công ty năm 1998-1999-2000(trang bên) * Hiệu quả sử dụng vốn lưu động Qua bảng trên ta thấy hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty qua các năm như sau: - Xét về "doanh lợi vốn lưu động" Năm 1999 là năm có mức tăng cao nhất, tăng 87,5% so với năm 1998. Điều này chứng tỏ công ty đã có tiến bộ rất lớn trong việc nâng cao khả năng sinh lợi của vốn lưu động. Nhưng sang đến năm 2000 doanh lợi vốn lưu động giảm nhiều so với các năm trước, giảm 55% so với năm 1999. - Xét về "chỉ số vòng quay của vốn lưu động" Trong 3 năm (1998-2000) ta thấy năm 1999 là năm có chỉ số vòng quay của vốn lưu động quay nhanh nhất (nhưng chỉ đạt 2,67 lần/năm) tăng 21,36% so với năm 1998. Nhưng sang đến năm 2000 chỉ số này lại giảm 15,36% so với năm 2000. Điều này cho thấy được hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty chưa tốt. - Xét về "số ngày một vòng quay của vốn lưu động". Thể hiện số ngày cần thiết cho vốn lưu động quay một vòng. Công ty đã giảm bớt được số ngày (thời gian) của một vòng quay. Đặc điểm là năm 1999 đã giảm được 28,8 ngày so với năm 1998 (từ 163,6 ngày xuống còn 134,8 ngày). Sang đến năm 2000 số ngày một vòng quay lại bị tăng lên, từ 134,8 ngày (năm 1999) lên 159,3 ngày (năm 2000). Như vậy trong 3 năm (1998-2000), năm 1999 là năm công ty có những thành tích đáng ghi nhận trong việc sử dụng vốn lưu động. Năm 1999 về doanh lợi vốn lưu động tăng hơn 1,5 lần, số vòng quay tăng 0,47 lần và đặc biệt là thời gian của một vòng quay giảm được 28,8 ngày. Nhưng nhìn chung hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty là chưa tốt (số vòng quay vốn của công ty quá chậm, số ngày một vòng quay quá nhiều...) * Hiệu quả sử dụng vốn cố định Qua số liệu trên bảng ta rút ra hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty như sau: - Xét về "doanh lợi vốn cố định" Năm 1999 mặc dù có mức tăng cao nhất, tăng 76% so với năm 1998 (nhưng chỉ đạt 2,27%/năm). Năm 2000 doanh lợi vốn cố định giảm nhiều so với các năm trước, giảm 45% so với năm 1999. So với 2 năm 1998 và 2000 thì năm 1999 là năm công ty đã có tiến bộ trong việc nâng cao khả năng sinh lợi của vốn cố định. - Xét về chỉ tiêu "số vòng quay vốn cố định" Qua bảng trên ta thấy số vòng quay của vốn cố định quá chậm. Năm 2000 là năm đạt được chỉ tiêu về số vòng quay vốn cố định cao nhất trong 3 năm (1998-2000), nhưng chỉ đạt 1,07 lần/năm. Qua kết quả trên ta thấy hiệu quả sử dụng vốn chung (vốn cố định + vốn lưu động) của công ty chưa được tốt. Vòng quay vốn của công ty quá chậm, số ngày một vòng quay vốn lưu động quá nhiều. Doanh lợi vốn lưu động năm cao nhất chỉ đạt 5,85%, còn doanh lợi vốn cố định năm cao nhất chỉ đạt 2,27%/năm. (Con số này phản ánh cứ 100 đồng vốn sản xuất bình quân năm 1999 tạo ra được 1,63 đồng lợi nhuận ròng). Điều đó thể hiện công ty chưa biết cách kết hợp hài hoà hai nguồn vốn với nhau để mang lại hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. Theo tôi trong thời gian tới công ty cần có những giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 2.2. Tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh Vốn lưu động của công ty là số vốn tối thiểu cần thiết đảm bảo cho công ty có đủ vốn để dự trữ các loại tài sản lưu động (kể cả dự trữ trong lưu thông) nhằm đáp ứng cho các nhu cầu hoạt động cơ bản của công ty. Trong quá trình kinh doanh vốn lưu động là một yếu tố không thể tách rời và có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Vì vậy cần đảm bảo đủ hay thừa, thiếu vốn lưu động so với nhu cầu của quá trình kinh doanh, khả năng huy động tăng thêm vốn hay cấp thêm các nguồn vốn nào để dự trữ cho kinh doanh và việc sử dụng vốn lưu động có hợp lý và hợp pháp không là điều rất cần thiết trong công tác quản lý tài chính của công ty. - Nhu cầu vốn Bảng 4: Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên trong 3 năm Đơn vị: VNĐ Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 1. Khoản phải thu 262556800 526840027 1256876101 2. Hàng tồn kho 1259941775 1311541349 1178449755 3. TSCĐ khác 86563850 82023850 302358850 4. Nợ ngắn hạn 1192068597 1599769700 1626482683 Nhu cầu._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3425.doc
Tài liệu liên quan