Một số vấn đề về chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay

Lời mở đầu Theo quan điểm của các nhà kinh tế học: Tiền (hoặc một cách tương tự, lượng tiền cung ứng) được coi là bất cứ thứ gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán cho hàng hoá hoặc dịch vụ hoặc trong việc hoàn trả các món nợ. Tiền tệ xuất hiện như một tất yếu khách quan, phục vụ cho mục đích riêng của con người dù xấu, dù tốt. Giờ đây, khi thiên niên kỷ thứ ba đã bắt đầu, tiền vẫn chưa bớt đi tính huyền bí vốn có của nó. Với tiền tệ, vô luận là thời gian và không gian nào, người ta vẫ

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1495 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n phải đi tìm một nền tảng lý thuyết và nguyên lý của nó khả dĩ làm cứu cánh tương thích cho phát triển và giao lưu kinh tế. Do vai trò quan trọng của tiền tệ trong cuộc sống, trong nền kinh tế thị trường, do tính huyền bí vốn có của nó. Việc tìm hiểu, học tập và nghiên cứu là rất cần thiết đối với mỗi chúng ta, nhất là đối với sinh viên kinh tế. Với đề tài: “Một số vấn đề về chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay”, Em sẽ trình bầy những lý luận chung về chính sách tiền tệ và thực tế ở việt nam cùng một số giải pháp để chính sách tiền tệ tương thích với quá trình phát triển và hội nhập kinh tế. Qua đây, Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo: TS. Vũ Duy Hào đã giúp đỡ Em hoàn thành bài viết. Hà nội, năm 2004 SV: Nguyễn Ngọc Mạnh Chương I Tổng quan về chính sách tiền tệ 1. Chính sách tiền tệ là gì? Chính sách tiền tệ là tổng hoà các phương thức mà Ngân hàng Trung ương sử dụng nhằm điều khiển việc cung tiền tệ, để ổn định giá trị đồng bản tệ, đưa sản lượng và việc làm của quốc gia đến mức mong muốn. ở đó, chính sách tiền tệ luôn là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của nhà nước. Mức cung tiền là tổng số tiền có khả năng thanh khoản. Nó bao gồm tiền mặt đang lưu hành và các khoản tiền gửi không kỳ hạn tại các Ngân hàng Thương mại. Có hai loại hình chính sách tiền tệ đó là chính sách tiền tệ nới lỏng và chính sách tiền tệ thắt chặt. * Chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm lượng tiền cung ứng, hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế. Trường hợp này, chính sách tiền tệ nhằm chống lạm phát. * Chính sách tiền tệ nới lỏng, nhằm tăng lượng tiền cung ứng, khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm. Trường hợp này, chính sách tiền tệ nhằm chống suy thoái kinh tế, chống thất nghiệp. Trong mỗi giai đoạn, chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia có thể được hoạch định theo các hướng khác nhau nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản. 2. Cơ cấu chính sách tiền tệ Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ bao gồm 3 thành phần cơ bản gắn với 3 kênh dẫn nhập tiền vào lưu thông đó là chính sách tín dụng, chính sách ngoại hối và chính sách đối với ngân sách nhà nước. * Chính sách tín dụng: Thực chất của chính sách tín dụng là cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân, thông qua các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng dựa trên các quỹ cho vay được tạo lập từ các nguồn tiền gửi của xã hội và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo, phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường. * Chính sách ngoại hối: Nhằm đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả các tài sản có giá trị thanh toán đối ngoại, phục vụ cho việc ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và gia tăng việc làm trong xã hội, bảo đảm chủ nghĩa tiền tệ của đất nước. * Chính sách đối với ngân sách nhà nước: Nhằm đảm bảo cung ứng phương tiện thanh toán cho chính phủ trong trường hợp ngân sách Nhà nước bị thiếu hụt. Phương thức cung ứng tối ưu là ngân hàng trung ương cho ngân sách Nhà nước vay theo kỳ hạn nhất định. Dần dần và tiến tới loại bỏ hoàn toàn phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách. 3. Mục tiêu của chính sách tiền tệ. 3.1. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ. Trong điều kiện lưu thông tiền giấy không được tự do chuyển đổi ra vàng, lạm phát luôn là khả năng tiềm tàng, thậm chí khó tránh khỏi của các nước. Với chức năng của mình Ngân hàng trung ương luôn coi việc kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ. Lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung theo thời gian. Khi lạm phát ở mức độ cao (lạm phát phi mã, siêu lạm phát), sẽ dẫn tới phân phối lại thu nhập và của cải giữa các tầng lớp giai cấp khác nhau. Khi giá cả tăng lên một cách bất thường thì người mất là những người đang nắm các tài sản danh nghĩa còn người được là những người có các khoản nợ tính theo các giá trị danh nghĩa. Khi lạm phát tăng lên ở mức độ cao thu nhập thực tế của dân cư sẽ giảm, đời sống của nhân dân lao động sa sút , lạm phát cao còn gây ra hiện tượng đầu tư tích trữ hàng hoá và hiện tượng chuyển tiền sang các loại hàng hoá khác, làm cho cầu về hàng hoá tăng (gồm cả cầu giả tạo) dẫn tới mất cân đối cung cầu và giá cả hàng hoá tăng lên làm tốc độ lạm phát càng cao và dễ bị rơi vào vòng xoáy lạm phát nếu tình trạng này diễn ra trong một thời gian dài. Lạm phát cao còn làm sai lệch các biến số kinh tế vĩ mô, gây khó khăn cho việc lập kế hoạch cho tương lai và con có thể gây xung đột trong xã hội. Còn khi lạm phát ở mức độ vừa phải (lạm phát dự tính), thường là dưới 10% thì nó không có tác động tiêu cực mà theo nhiều nhà kinh tế nó còn là một liều thuốc bổ tăng trưởng kinh tế. Vì khi đó một khối lượng tiền cho lưu thông tăng lên, kích thích đầu tư, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo đà cho tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng trung ương có thể kiểm soát lạm phát bằng cách mở rộng cung ứng tiền tệ, đồng nghĩa với lạm phát tăng và ngược lại, thắt chặt cung ứng tiền tệ đồng nghĩa với lạm phát giảm. Kiểm soát lạm phát được biểu hiện trước hết là ổn định giá trị đối nội của đồng tiền. Mặt khác, là sự biểu hiện đối ngoại của đồng tiền, được đo bằng tỷ giá hối đoái thả nổi, bởi khi giá trị đồng bản tệ tăng so với ngoại tệ sẽ hạn chế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, hạn chế xuất khẩu. Lạm phát và lãi suất có mối quan hệ đặc biệt, khi lạm phát đâ được kiểm soát như mong muốn thì lãi suất cũng phải phù hợp và ổn định. Bởi khi lãi suất thường xuyên thay đổi làm cho nền kinh tế bấp bênh và càng khó lập kế hoạch cho tương lai. 3.2. Tạo việc làm, giảm bớt thất nghiệp Những người trong lực lượng lao động khi không có việc làm sẽ trở thành người thất nghiệp. Nạn thất nghiệp là một thực tế nan giải của mọi quốc gia có nền kinh tế thị trường cho dù quốc gia đó là phát triển, đang phát triển hây kém phát triển. Khi thất nghiệp xảy ra, các gia đình lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, lòng tự trọng mất đi sinh ra nhiều tội ác. Người lao động ngồi không, nguồn tài nguyên để không,…, làm cho tổng sản phẩm quốc dân (GDP) giảm xuống. Mục tiêu của chính sách tiền tệ là tạo việc làm, giảm bớt thất nghiệp chứ không phải là làm cho thất nghiệp bằng không mà ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, khi nền kinh tế toàn dụng nhân công. Bởi lẽ, trong thực tế có một số người thất nghiệp là có lợi cho nền kinh tế. Đó là khi người lao động quyết định đi tìm một công việc khác tốt hơn, phù hợp hơn, thì người lao động đó bị thất nghiệp trong thời gian đang tìm việc làm. Một số khác thì đi học hoặc là tìm một công việc khác thích hợp hơn. Ngân hàng trung ương có thể sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng, tức cung ứng tiền tệ tăng. Khi đó đầu tư được mở rộng, nền kinh tế cần nhiều lao động hơn, việc làm cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp. Ngược lại, cung ứng tiền tệ giảm xuống sẽ thu hẹp các hoạt động sản xuất kinh doanh, nền kinh tế cần ít lao động hơn, việc làm giảm và thất nghiệp tăng. 3.3. ổn định và tăng trưởng kinh tế Mục đích cao nhất của chính sách tiền tệ là làm thế nào để phát triển kinh tế, gia tăng sản lượng của nền kinh tế. Mục tiêu ổn định tăng trưởng kinh tế có quan hệ chặt chẽ với mục tiêu việc làm cao. Chính sách tiền tệ có thể tác động đồng thời đến hai mục tiêu này. Khi cung ứng tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, nhu cầu sử dụng lao động nhiều hơn, làm tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi cung ứng tiền tệ giảm, trong ngắn hạn lãi suất tăng sẽ hạn chế đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh và cần ít lao động hơn, lam cho sản lượng giảm, tăng trưởng kinh tế chậm lại. 3.4. Quan hệ giữa các mục tiêu Nhìn một cách tổng quát và có chiến lược lâu dài thì các mục tiêu chính sách tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Điều đó cho thấy rằng, trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ không thể tuyệt đối hoá một mục tiêu nào, không thể giải quyết các mục tiêu một cách độc lập trên tầm vĩ mô. Mặc dù nhiều mục tiêu nêu ra nhất trí với nhau - việc làm cao với tăng trưởng kinh tế hoặc ổn định lãi suất với ổn định thị trường tài chính - nhưng không phải lúc nào cũng như vậy. Trong ngắn hạn, các mục tiêu tăng trưởng, thất nghiệp và lạm phát có mối quan hệ chế ước lẫn nhau. Khi kìm chế được lạm phát thì tăng trưởng chậm lại dẫn đến suy thoái, thất nghiệp cao. Và khi mở rộng đầu tư khắc phục suy thoái, phát triển kinh tế thì sẽ tạo được nhiều công ăn việc làm hơn, thất nghiệp giảm nhưng lại rất khó kìm chế lạm phát. 4. Quan hệ giữa chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Để đạt được các mục tiêu và vận hành một cách hiệu quả chính sách tiền tệ, nó cần được có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Trước hết, phải phối hợp với chính sách tài khoá trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Bởi lẽ, mục tiêu của chính sách tài khoá là nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của chính phủ, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và sử dụng nhân lực ở mức tiềm năng. Song điều đó còn phụ thuộc vào tình hình thu chi của ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước vững vàng là cơ sở quan trọng bậc nhất cho giá trị đồng bản tệ được ổn định. Ngược lại, sự thiếu hụt ngân sách nhà nước làm cho giá trị đồng bản tệ không được ổn định, dù có khắc phục bằng hình thức nào, vay ngân hàng, vay các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế. Thông thường chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ đều phát huy tác dụng thông qua ảnh hưởng của nó đối với tổng cầu. Trong khi đó, theo cơ chế thị trường thì tiền lương và giá cả lại được quyết định bởi các yếu tố của thị trường. Trong thực tế, chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ có thể làm tăng nhu cầu, giảm thất nghiệp, nhưng sẽ gia tăng lạm phát. Giải quyết mâu thuẫn này, cần có sự phối hợp chặt chẽ với chính sách phân phối thu nhập trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Trong trường hợp này, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước phải thể hiện sự kiểm soát chặt chẽ về tiền lương, tiền thưởng và giá cả. Cũng cần phải kết hợp chính sách tiền tệ và chính sách kinh tế đối ngoại. Đặc biệt, với các nước có tình trạng bội chi ngân sách, kém phát triển, tăng trưởng kinh tế chưa cao…Qua đó, thể hiện một chính sách kinh tế mở, hướng xuất khẩu, tận dụng khoa học và nguồn vốn từ các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế. 5. Các công cụ của chính sách tiền tệ. 5.1. Nghiệp vụ thị trường mở. Nghiệp vụ thị trường mở là việc Ngân hàng trung ương mua và bán các chứng khoán có giá, mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc nhà nước (do tín phiếu kho bạc nhà nước có dung lượng lớn, tính lỏng cao, rủi ro thấ), nhằm làm thay đổi lượng tiền cung ứng. Khi Ngân hàng trung ương mua bán chứng khoán trên thị trường sẽ làm thay đổi cơ số tiền tệ (tiền đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng và tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng). Do các ngân hàng thương mại có thể tạo ra tiền (tuỳ vào tỷ lệ dự trữ), vì vậy lượng tiền cung ứng có thể tăng hoặc giảm ngoài lượng tiền mà Ngân hàng trung ương cung ứng. Khi Ngân hàng trung ương mua chứng khoán, làm tăng cơ số tiền tệ, qua đó làm tăng lượng tiền cung ứng. Khi Ngân hàng trung ương bán chứng khoán, thu hẹp cơ số tiền tệ, qua đó giảm lượng tiền cung ứng. Có hai loại nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ thị trường mở chủ động nhằm thay đổi mức dự trữ và cơ sồ tiền tệ và nghiệp vụ thị trường mở thụ động nhằm bù lại những chuyển động của các nhân tố khác đã ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ quan trọng nhất của Ngân hàng trung ương trong viêc điều tiết lượng tiền cung ứng, bởi những ưu thế vốn có của nó: * Ngân hàng trung ương có thể kiểm soát được hoàn toàn lượng nghiệp vụ thị trường tự do. * Nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất cứ mức độ nào, điều chỉnh một lượng tiền cung ứng lớn hay nhỏ. * Ngân hàng trung ương dễ dàng được đảo ngược lại tình thế của mình. Nếu Ngân hàng trung ương thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do mua quá nhiều trên thị trường mở, thì lập tức nó có thể sửa chữa ngay bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán và ngược lại. * Thực hiện nhanh chóng, ít tốn kém về chi phí và thời gian … Tuy nhiên, nghiệp vụ này phụ thuộc rât lớn vào thị trường chứng khoán và chỉ có thể áp dụng trong điều kiện mà hầu hết tiền trong lưu thông đều nằm ở tài khoản tại ngân hàng. 5.2. Chính sách chiết khấu. Chính sách chiết khấu là công cụ của Ngân hàng trung ương trong việc thực thi chính sách tiền tệ, bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh. Khi cho vay làm tăng thêm lượng tiền cung ứng. Ngân hàng trung ương kiểm soat công cụ này chủ yếu bằng cách tác động đến giá cả khoản vay (lãi suất cho vay tái chiết khấu). Khi nâng lãi suất tái chiết khấu, giá của khoản vay tăng, hạn chế cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm cho khả năng cho vay đối với nền kinh tế của các ngân hàng kinh doanh giảm xuống, làm lượng tiền cung ứng giảm và ngược lại. Chính sách chiết khấu là một công cụ rất quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Ngoài điều tiết lượng tiền cung ứng, Ngân hàng trung ương sử dụng công cụ chính sách chiêt khấu để tránh những cơn sụp đổ tài chính bằng cách thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng đối với các tổ chức tín dụng và tác động đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, với công cụ này. Ngân hàng trung ương thường bị động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Bởi vì: * Các ngân hàng thương mại phải chịu lợi tức chiết khấu và các khoản phí khi được vay. * Ngân hàng trung ương chỉ có thể thay đổi khung lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt các ngân hàng kinh doanh vay chiết khấu. 5.3. Dự trữ bắt buộc. Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dung phải giữ lại, mà không được dùng để cho vay hoặc đầu tư, mức dự trữ này do Ngân hàng trung ương quy định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng. Dự trữ bắt buộc mang tính pháp luật, được gửi ở Ngân hàng trung ương và không được hưởng lãi. Ngân hàng trung ương sử dụng dự trữ bắt buộc để tác động đến lượng tiền cung ứng trên hai phương diện: Thứ nhât: Tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các ngân hàng thương mại. Trong trường hợp ngân hàng thương mại quá ham kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay quá mức, có thể phương hại tới quyền lợi của người ký gửi tiền. ở đây, Ngân hàng trung ương đảm bảo an toàn tiền gưỉ cho khách hàng. Theo thuyết tạo tiền, hệ thống ngân hàng thương mại có thể tạo ra một lượng tiền lớn gấp nhiều lần, với công thức tổng quát: Tiền gửi mới được tạo ra = (1/ tỷ lệ dự trữ bắt buộc) * Tiền dự trữ ban đầu. Thứ hai: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại. Tiền dự trữ không được hưởng lãi nên khi mức dự trứ tăng lên, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại giảm xuống, và theo đó lượng tiền cung ứng giảm xuống. Ngược lại, khi mức dự trữ giảm xuống, lãi suất cho vay giảm, khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại tăng và làm cho lượng tiền cung ứng tăng. Hiện nay, công cụ dữ trữ bắt buộc đóng vai trò kém quan trọng trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương, bởi nó ảnh hưởng tới lợi nhuận của các ngân hàng thương mại và kém linh hoạt tuy nó tác động như nhau tới các ngân hàng thương mại. 5.4. Quản lý lãi suất của các ngân hàng thương mại. Lãi suất được xem là công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc cung ứng tiền vào lưu thông hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông. Sở dĩ, nói lãi suất là công cụ gián tiếp, bởi lẽ, lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Thông thường, chính sách lãi suất đi vay hay lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay biến đổi cùng chiều. Nghĩa là, cả hai mức lãi suất đó đều tăng lên hay giảm xuống đồng thời. Tuy nhiên, nó vận động ngược chiều với giá cả của chứng khoán. Hiện nay, trên thế giới có hai quan điểm về cơ chế hình thành lãi suất. * Quan điểm thứ nhất: ấn định lãi suất, tức là ngân hàng trung ương phải qui định lãi suất đối với các ngân hàng trung gian. * Quan điểm thứ hai: Thả nổi lãi suất, tức là lãi suất do thị trường quyết định. Vận dụng quan điểm nào còn tuỳ thuộc vào tựng nước. Theo chính phủ ở nhiều nước đang phát triển ngày càng thừa nhận lãi suất chịu sự quản lý của nhà nước có thể có hại, họ có khuynh hướng để cho thị trường có tiếng nói lớn hơn đảm bảo cho môi trường cành tranh lành mạnh. Song, trong điều kiện sự ổn định kinh tế vĩ mô chưa được thiết lập, nhà nước có thể tiếp tục quản lý lãi suất. Tóm lại, công cụ lãi suất trong chính sách tiền tệ là công cụ cực kỳ lợi hại, có sức phản công rất ghê gớm, một nhà kinh tế người Mỹ đã nói, nó là một công cụ để kích thích sản xuất đồng thời là một công cụ để kìm hãm sản xuất, tuỳ thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại của những người sử dụng công cụ này. 5.5. Kiểm soát hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng là việc ngân hàng trung ương quy định một khối lượng tín dụng nhất định cho các ngân hàng thương mại, cho từng thời kỳ phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ. Nó được xác định trên cơ sở chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát, thâm hụt ngân sách, tốc độ lưu thông tiền tệ … Để hạn chế việc tạo tiền quá mức của ngân hàng thương mại làm tăng tổng khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, Ngân hàng trung ương quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng ngân hàng thương mại. Và phần lớn, hạn mức được căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ so với tổng mức cho vay của hệ thống ngân hàng. Hạn mức tín dụng được Ngân hàng trung ương sử dụng như một côg cụ quan trọng của chính sách tiền tệ, khi mà công cụ truyền thống kém hiệu quả. Tuy nhiên, khống chế hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất thị trường tăng lên, làm giảm cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, làm lệch lạc cơ cấu đầu tư của các ngân hàng thương mại, làm phát sinh các thị trường tài chính “ngầm” ngoài sự kiểm soát của Ngân hàng trung ương, gây khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp nhỏ … Chương II Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay 1. Tình hình kinh tế tiền tệ việt nam hiện nay Tuỳ vào từng thời điểm khác nhau, mỗi nước có mục tiêu riêng về chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam đã được xác định là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát và chúng ta đã thu được một số thành tựu trong những năm qua. * Tình hình tỷ giá. Tháng 9/1994, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được thiết lập, NHNN thực hiện vai trò người mua bán cuối cùng trong ngày. Tỷ giá chính thức vẫn được ngân hàng công bố, chỉ có biên độ dao động là có sự thay đổi. Đồng USD là đồng ngoại giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế, và có xu hướng tăng giá so với VNĐ. * Tình hình lạm phát. Những năm gần đây, theo ước tính lạm phát ở Việt Nam là hai con số, trung bình khoảng 6%. Theo như lời của Ngân hàng nhà nước thì chúng ta vẫn khống chế được tỷ lệ lạm phát như mong muốn. Sự ra đời với mệnh giá lớn của đồng tiền việt nam không phải là dấu hiệu của lạm phát, chúng ta vẫn chưa nên thay đổi chính sách tiền tệ trong trường hợp này. * Tình hình thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đã lên mức báo động. Theo tính toán không chính thức của NH thế giới, thì giai đoạn hiện nay tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam xấp xỉ 7%, lao động qua dạy nghề chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng số lao động. * Tăng trưởng kinh tế. Trong công cuộc đổi mới kinh tế những năm vừa qua, chúng ta đã thu được kết quả bước đầu rất khả quan, tạo được niềm tin trong dân chúng cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nền kinh tế đã đạt được kết quả tương đối cao và bắt đầu có tích luỹ, đầu tư được mở rộng sản xuất lưu thông phát triển. Chúng ta đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng trên 7%/năm trong những năm qua. Tuy nhiên kinh tế nước ta có chiều hướng chững lại, do cơ chế của chúng ta không tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài … 2. Thực thi các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. 2.1. Dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ ngày 5/7/1999 đối với tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng của các NHTM và các công ty tài chính là 5% của NHTM cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng TW và quỹ tín dụng khu vực là 1%, riêng ngân hàng NHNN & PTNT do phải tập trung vốn thực hiện một số chính sách phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn, nên từ trung tuần tháng 9/1999 tỷ lệ dự trữ bắt buộc được giảm từ 5% xuống3%. Hành động này giúp cho các tổ chức tín dụng mở rộng qui mô tín dụng của mình tăng khả năng cung ứng vốn cho nên kinh tế và các tổ chức tín dụng có điều kiện để giảm thêm lãi suất cho vay. 2.2. Chiết khấu, tái chiết khấu. Do chưa có thị trường tiền tệ (kể cả thị trường thương phiếu) nên lãi suất tái cấp vốn được sử dụng trong quản lý tiền tệ thay cho lãi suất tái chiết khấu. Trong quá trình đổi mới, một mặt NHNN luôn nỗ lực phát triển khu vực thị trường tiền tệ, mặt khác cũng chú trọng hoàn thiện việc điều tiết lãi suất tái cấp vốn điểm nổi bật trong việc điều tiết lãi suất tái cấp vốn thời gian qua là chuyển lãi suất tái cấp vốn thế từ bị động sang thế chủ động. NNNH đã liên tục giảm lãi suất cho vay trên thị trường tái cấp vốn đối với NHTM từ 1.1%/tháng thời điểm ngày 21/1/1998 và đến 11/1999) chỉ còn 0.5%/tháng đồng thời NHNN công bố lãi suất chiết khấu là 0.45%/tháng. 2.3. Nghiệp vụ thị trường mở. ở Việt Nam hiện nay nghiệp vụ thị trường mở chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền. Nguyên nhân cơ bản nhất là chúng ta mới chỉ có thị trường sơ cấp còn thị trường thứ cấp mới được hình thành và manh nha hoạt động. Hàng hoá trên thị trường chủ yếu là tín phiếu kho bạc, nhưng khối lượng được phát hành còn ít lại chưa thường xuyên. Trong năm 1999 tính đến giữa tháng 11, kho bạc nhà nước phối hợp với NHNN tổ chức được 40 phiếu đấu thầu tín phiếu kho bạc kỳ hạn một năm. Tổng giá trị đấu thầu trong 40 phiếu này là 4000 tỷ đồng (100tỷ/phiếu) tổng khối lượng tín phiếu đã đấu thầu là 2.863,6 tỷ đồng, bằng 78.59% tổng khối lượng tín phiếu đấu thầu. Đây là một công cụ hết sức linh hoạt, chính xác, chủ động và dễ dàng mua bán. nhằm tiến hành chuyển hướng điều hành tiền tệ từ các công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp năm 1999, NHNN đã gấp rút các điều kiện chuẩn bị về pháp lý cũng như công cụ cho hoạt động thị trường mở, dự kiến sẽ hoạt động vào quý I năm 2000. 2.4. Quản lý lãi suất của ngân hàng thương mại. Quốc hội khoá IX trong kỳ họp thứ 8, tháng 8/1995 cùng với nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng, đã yêu cầu ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động kinh doanh và khống chế mức lãi suất huy động và cho vay bình quân là 0.35%/tháng. Việc quy định trần lãi suất và quy định sàn lãi suất. Vì thế từ 1/1/96, NHNN đã quy định trần lãi suất cho vay tối đa và mức chênh lệch 0.35% thay cho việc điều hành lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi chi tiết và lãi suất thoả thuận quy định trước đó. Từ 21/1/1998 đến nay, tại kỳ họp thứ 2 tháng 12/1997, quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh lệch 0.35%/tháng đồng thời để thu hẹp mức cách biệt giữa mức lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn, NHNN quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn ba trần lãi suất Trẫn lãi suất cho vay ngắn hạn : 1.2%/tháng Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn: 1.25%/tháng Trần lãi suất quỹ tín dụng cho vay thành viên 1.5%/tháng. Trong năm 1999, trước tình hình thiểu phát, tốc độ tăng trưởng có xu hướng chậm lại, NHNN đã điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất trần và được điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở bám sát các diễn biến kinh tế vĩ mô cung cầu vốn trên thị trường tiềng tệ và xu hướng nới lỏng tiền tệ, kích cầu. Từ đầu năm đến nay NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay. Cho đến tháng 10/1999 trần lãi suất cho vay áp dụng cho khu vực thành thị là 0.85%/tháng. Khu vực nông thôn là 1%/tháng riêng NHTN cổ phần nông thôn vẫn là 1.15%/tháng, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và hợp tác xã tín dụng cho vay đối với thành viên vẫn là 1.15%/tháng. 2.5. Quản lý ngoại hối. Thực hiện chính sách quản lý ngoại hối chặt chẽ, năm 1999 NHNN đã tăng cường theo dõi , giam sát các tổ chức tín dụng thực hiện các quy định của thủ tướng chính phủ về kết hối ngoại tệ, thường xuyên có đánh giá tình hình thực hiện và kịp thời trình chính phủ sửa đổi cơ chế cho phù hợp với thức tế (giảm tỷ lệ kết hối bắt buộc đối với các tổ chức kinh tế có nguồn thu ngoại tệ vãng lãi từ 80% xuống còn 50% số ngoại tệ thu được); xây dựng và trình thủ tướng chính phủ ban hành quy định về việc quy định người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước nhằm thu hút nguồn ngoại tệ phục vụ công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Cung với việc đổi mới trong quản lý các giao dịch vãng lai, NHNN đã tăng cường các biện pháp trong quản lý vay trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp, quản lý đầu tư nước ngoài, quản lý hoạt động kinh doanh vàng. 3. Đánh giá quá trình điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam 3.1. Những mặt tích cực. Việc cho ra đời và vận hành một chính sách tiền tệ theo các nguyên tắc cơ bản của hoạt động tiền tệ trong nền kinh tế thị trường là một bước ngoặt trong lịch sử điều hành và thể hiện tập nhất của quá trình đổi mới hệ thống tiền tệ NH thời gian qua. Thứ nhất: Về hoạt động cung ứng tiền. Thời điểm thay đổi có tính chất quyết định đối với cơ chế cung ứng tiền là năm 1990, khi cơ chế xác định lượng tiền cung ứng một cách hành chính bị xoá bỏ, thay và đó là lượng tiền cung ứng hàng năm được xác định trên các căn cứ tương đối hợp lý đó là tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát dự tính. Xác định các căn cứ cung ứng tiền trên đây cũng đồng nghĩa với việc xoá bỏ một kênh cung cấp tiền truyền thống in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách (năm 1991). Cơ chế điều hành việc cung ứng tiền cũng đã có những thay đổi rõ rệt. Với chức năng điều tiết lưu thông tiền tệ kể từ năm 1993, NHNN đã được trao quyền chủ động hơn và rút tiền khỏi lưu thông trên cơ sở chỉ tiêu năm đã được duyệt, loại bỏ vĩnh viễn tình trạng thiếu tiền mặt có tính thời điểm trong nền kinh tế. Thứ hai: Về chính sách lãi suất. Lãi suất đối với nền kinh tế: Nội dung việc điều tiết lãi suất đã kết hợp được cả hai yêu cầu, đó là quán triệt nguyên tắc lãi suất dương và từng bước thị trừơng hóa việc điều tiết lãi suất tạo môi trường tự chủ cho các tổ chức tận dụng cũng như khu vực khách hàng. Từ chỗ ấn định cụ thể mức lãi suất đối với các hoạt động huy động và cho vay của hệ thống NH, đến nay NHNN chỉ quản lý trần lãi suất thả nổi hoàn toàn lãi suất đầu vào cũng trong thời gian đó, mức lãi suất liên tục điều chỉnh giảm 4-5 lần/năm vào các năm 96-99. Lãi suất tái cấp vốn: do chưa có thị trương tiền tệ (kể cả thị trường thương phiếu) nên lãi suất tái cấp vẫn được sử dụng trong quản lý tiền tệ thay cho lãi suất chiết khấu. Trong quá trình đổi mới một mặt NHNN luôn nỗ lực phát triển thị trường tiền tệ, mặt khác cũng chú trọng việc điều tiết lãi suất tái cấp vốn. Điểm nổi bật trong điều tiết lãi suất tái cấp vốn thời gian qua là chuyển lãi suất tái cấp vốn từ thể bị động sang thể chủ động, kể từ khoảng tháng 3/97, lãi suất tái cấp vốn đã được xác định một cách độc lập. Tương quan lãi suất nội ngoại tệ cũng được điều tiết tương đối thích hợp. Từ năm 1997-1999 do VND được điều tiết giảm theo những tín hiệu trên thị trường nên lãi suất VND được điều tiết cao hơn lãi suất ngoại tệ. Chính vì vậy, ngay cả khi khủng hoảng tài chính châu á xảy ra, các đông tiền trong khu vực mất giá mạnh nhưng giá trị đồng Việt Nam vẫn được duy trì tương đối ổn định việc chuyển dịch tiền tệ (đô la hoá) không xảy ra ồ ạt. Thứ ba: Về tài chính chính sách quản lý ngoại hối. Quan điểm chủ đạo trong chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới là: Từng bước đảm bảo nhà nước nắm được ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu và ổn định giá tri đồng nội tệ. Định hướng lâu dài của chính sách ngoại hối là tăng cường dự trữ ngoại hối củng cố nâng cao gia trị VND và đưa VND thành đông tiền tự do chuyển đổi, các giao dịch ngoại hối mang tính thị trường như giao dịch kỳ hạn , giao dịch hoán đổi ... đã được chú ý phát triển. đây có thể coi là những bước đột phá trên thị trường ngoại hối và có tác dụng hỗ trợ tích cực cho việc thực thi các quy chế ngoại hối, phần nào giảm bớt những khó khăn cho nền kinh tế đang trong qua trình tự do hoá thương mại. Thứ 4: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc. NHNN đã liên tục giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng đây là một giải pháp kịp thời, linh hoạt và đồng bộ của NHNN, góp phần làm dịu đi những khó khăn của các tổ chức tín dụng do lãi suất giảm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay tăng khả năng cung ứng vốn đối với nền kinh tê và góp phần thúc đẩy phát triển tăng trưởng kinh tế. 3.2. Những kết quả đạt được. Việc thực hiện chính sách tiền tệ kích hoạt có kiểm soát, lượng tiền đưa vào lưu thông liên tục tăng, khoảng trên 20%, phương tiện thanh toán được đảm bảo trong nền kinh tế. Nó đã góp phần quan trọng thúc đầy nền kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao, bình quân khoảng hơn 7% trong những năm gần đây. Giữ được ổn định vĩ mô, ổn định tỷ giá điều chỉnh lãi suất phù hợp để đáp ứng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ngoại tệ phù hợp tăng ngoại tệ cho đất nước thị trường ngoại tệ sôi động doanh số giao dịch trên thị trường ngoại tệ tăng. Huy động được quyền vốn đầu tư bù đắp sự giảm sút vốn đầu tư nước ngoài, ngoài dư nợ cho vay thông thường còn đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư của nhà nước, đáp ứng đủ ngoại tệ để đầu tư những dự án trọng điểm với lãi suất thấp hơn lãi suất quốc tế. Cái được lớn nhất trong hoạt động kinh doanh tiền tệ thời gian qua là tốc độ gia tăng nguồn vốn huy động và dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng góp phần quan trọng vào việc ổn định lưu thông tiền tệ, đáp ứng nhu cầu to lớn về vốn cho phát triển kinh tế trong bối cảnh cơ sở vật chất tự có còn rất hạn chế (theo ước tính vốn tự có của khu vực sản xuất chiếm khoảng 10-20% tổng vốn sản xuất). 3.3. Mặt hạn chế còn tồn tại. Tỷ lệ lạm phát biến động không đông đều, lạm phát ở nước ta thấp ở mức kỷ lục và có thể rơi vào vòng xoáy lạm phát từ thá._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35633.doc
Tài liệu liên quan