Một số vấn đề về chính sách đất đai đối với nông nghiệp ở nước ta

Lời mở đầu Chính sách đất đai luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt từ khi đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì giải quyết vấn đề đất đai không những có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do vậy, chính sách đất đai luôn giữ một vị trí trọng yếu trong hệ thống các chính sách kinh tế của quốc gia. Đối

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1740 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về chính sách đất đai đối với nông nghiệp ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với nông nghiệp, khi đưa đất đai vào quá trình sản xuất thì đất đai được gọi là ruộng đất, lúc đó nó trở thành tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế. Trong hệ thống các chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn, chính sách ruộng đất có vị trí quan trọng nhất. Nó đã góp phần to lớn trong việc phát triển nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên. giải quyết các vấn đề đất đai là một viếc làm vô cùng phức tạp của mọi quốc gia. ở nước ta, chính sách đất đai đã được ban hành qua các thời kỳ cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Công việc này đã đem lại những hiệu quả nhất định nhưng vẫn còn những khó khăn chưa giải quyết được. Vì vậy em chọn đề tài: " Một số vấn đề về chính sách đất đai đối với nông nghiệp ở nước ta." Việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp em hiểu rõ hơn về chính sách đất đai trong nông nghiệp. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách, góp phần phát triển kinh tế nông thôn nói riêng và đất nước nói chung. Hà Nội, tháng 11 năm 2003 I. Đất đai và chính sách đất đai trong phát triển kinh tế xã hội nông thôn. 1. Vị trí, đặc điểm và vai trò của đất đai 1.1. Vị trí của đất đai Nước ta với gần 80% dân số sống ở nông thôn, đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng có vị trí quan trọng đặc biệt, nó không chỉ là tư liệu sản xuất đặc biệt của nông dân mà còn gắn liền với mọi hoạt động của xã hội. Ruộng đất là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động, tồn tại và xuất hiện ngoài ý muốn của con người, vì vậy đất đai là tài sản quốc gia. Tuy nhiên cùng với thời gian, con người dúng các biện pháp kỹ thuật và sức lao động để tác động vào đất đai thì đã có sự kết tinh của lao động ở trong đó thì ngày nay đất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của lao động. Ruộng đất vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Ruộng đất là đối tượng lao động khi con người dùng công cụ sản xuất tác động vào nó, làm biến đổi nó. Ruộng đất là tư liệu lao động khi con người sử dụng công cụ sản xuất tác động lên nó, thông qua tính chất lý, hoá...của nó để tác động lên cây trồng. Việc kết hợp giữa đối tượng lao động và tư liệu lao động đã làm cho ruộng đất trở thành tư liệu sản xuất trong nông nghiệp. 1.2. Đặc điểm của đất đai Khác với các tư liệu sản xuất khác, đất đai có những đạc điểm sau: Ruộng đất vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của lao động: Đất đai vốn là sản phẩm của tự nhiên, từ khi con người biết dùng công cụ sản xuất kết hợp với sức lao động để tác động vào đất đai thì ruộng đất đã trở thành sản phẩm của tự nhiên và lao động. Điều này đòi hỏi trong quá trình sản xuất con người phải luôn cải tạo đất, làm cho nó ngày càng màu mỡ. Ruộng đất bị giới hạn về mặt không gian, nhưng sức sản xuất của ruộng đất là không có giới hạn: Không phải toàn bộ diện tích đất tự nhiên đều có thể đưa vào canh tác mà chỉ có một phần diện tích được dưa vào canh tác. ở mỗi vùng khác nhau thì diện tích ruộng đất là khác nhau. Việc này là do quá trình hình thành đất đã mang lại. Tuy bị giới hạn về mặt không gian nhưng sức sản xuất của nó là không có giới hạn. Nghĩa là trên một đơn vị diện tích nếu đầu tư thêm các yếu tố đầu vào một cách thích hợp thì sẽ cho sản lượng và chất lượng ngày càng nhiều hơn. Đặc điểm này đòi hỏi chúng ta phải sử dụng nguồn lực ruộng đất hợp lý, hạn chế việc chuyển ruộng đất sang các mục đích khác đồng thời thực hiện thâm canh tăng năng suất. Ruộng đất có vị trí cố định và chất lượng không đồng đều: Đặc điểm này là do quá trình hình thành đất và do trình đọ canh tác của nông dân giữa các vùng là khác nhau. Điều này làm cho chất lượng của ruộng đất không đồng đếu giữa các khu vực, các vùng và ngay trên cánh đồng. Đất đai cũng không như các tư liệu sản xuất khác, nó có vị trí cố định gắn với từng vùng, từng điều kiện tự nhiên nhất định. Đặc điểm này đòi hỏi phải nghiên cứu tính chất của từng loại đất ở các vùng để đưa ra kế hoạch sản xuất cho phù hợp. Đồng thời giúp việc thực hiện chính sách về thuế của nhà nước cho công bằng. Ruộng đất - tư liệu sản xuất chủ yếu không bị hao mòn, đào thải khỏi quá trình sản xuất, nếu sử dụng hợp lý thì ruộng đất có chất lượng ngày càng tốt hơn: Khác với cá tư liệu sản xuất khác sau một thời gian sử dụng đều bị hao mòn vô hình hoặc hữa hình rồi cuối cùng bị đào thải khỏi quá trình sản xuất. Nhưng ruộng đất không bị hao mòn, nếu sử dụng nó đúng kỹ thuật thì chất lượng của nó ngày một tốt hơn. 1.3. Vai trò của đất đai Đất đai trong nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt không thể thay thế. Đất là thành phần quan trọng của môi trường sống, phân bố dân cư, xây dựng các cơ sở văn hoá -kinh tế -xã hội. Với sinh vật đất đai không chỉ là môi trường sống mà còn là nguồn cung cấp thức ăn. Năng suất cât trồng, vật nuôi phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đất đai. Việc quản lý và sử dụng đất đai đúng đắn có tác động quyết định đến sự thành công của các chính sách kinh tế khác. Từ đó, người sử dụng đất và cơ quan tổ chức nhà nước cần phải bảo vệ đất đai và quản lý đất đai theo đúng pháp luật mà Đảng và Nhà nước ta đã ban hành. 2. Khái niệm, vị trí, vai trò của chính sách đất đai. 2.1. Khái niệm Hiện nay chưa có một khái niệm cụ thể về chính sách đất đai.Tuy nhiên qua sự can thiệp của nhà nước trong việc quản lý đất đai ta có thể đưa ra khái niệm về chính sách đất đai như sau: Chính sách đất đai là tổng thể các biện pháp can thiệp của Đảng và Nhà nước đến đất đai nhằm tác động đến các vấn đề liên quan đến đất đai theo những mục tiêu nhất định trong một thời gian nhất định. Việc đưa ra các chính sách đất đai là hết sức cần thiết đối với việc quản lý và sử dụng đất đai, nhất là trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, đưa nông nghiệp từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo kinh tế thị trường. 2.2. Vị trí của chính sách đất đai Trong hệ thống các chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn, chính sách ruộng đất là một trong các chính sách quan trọng nhất. Đặc biệt là trong điều kiện của Việt Nam hiện nay với dân số gần 80 triệu người trong đó gần 80% dân số sống ở nông thôn trong điều kiện đất nông nghiệp có xu hướng và đang giảm xuống thì chúng ta càng thấy rõ vai trò quan trọng của chính sách đất đai. Vị trí của chính sách ruộng đất trước hết được xác lập bởi vị trí của ruộng đất trong sản xuất nông nghiệp. Trong sản xuất nông nghiệp ruộng đất có vai trò hết sức quan trọng. Vì nó là nguồn lực là cơ sở tự nhiên để sản xuất ra các sản phẩm nông nghiệp. Để nâng cao hiệu quả của việc sử dụng ruộng đất thì phải có chính sách đất đai hợp lý làm cho người lao động coi đó như chính tài sản của mình, từ đó có ý thức trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc, cải tạo nó để phục vụ cho lợi ích bản thân. Vị trí quan trọng của chính sách ruộng đất còn biểu hiện ở việc nó ảnh hưởng đến các chính sách khác đối với nông nghiệp nông thôn. Việc đưa ra một chính sách cần phải đảm bảo nó phải có tính đồng bộ với các chính sách có liên quan. Chính vì vậy mà việc ban hành các chính sách cho nông nghiệp nông nông thôn cần phải đảm bảo các chính sách đó là phù hợp với chính sách đất đai đã ban hành. 2.3. Vai trò của chính sách đất đai Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhiều ngành nghề mới xuất hiện kéo theo tình trạng đất nông nghiệp ngày càng giảm. Trong bối cảnh đó, việc xây dựng một chính sách đất đai hợp lý có vai trò vô cùng quan trọng. Vai trò của chính sách đất đai được thể hiện ở một số điểm sau: Thứ nhất, chính sáchh đất đai hợp lý tạo ra động lực để sử dụng đầy đủ và hợp lý đất đai: Trong điều kiện đất nông nghiệp có hạn mà dân số lại ngày một tăng thì việc xác lập một chính sách đất đai hợp lý là vô cùng quan trọng. Nó góp phần sử dụng đất đai hợp lý và có hiệu quả hơn. Thứ hai, chính sách đất đai hợp lý góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sản xuất hàng hoá: Để thực hiện được vấn đề trên thì phải giải quyết rất nhiều vấn đề, trong đó có việc đổi mới và hoàn thiện Luật đất đai và các chính sách về ruộng đất là vô cùng quan trọng, cơ bản và cấp thiết. Chính sách đất đai hợp lý sẽ tạo điều kiện để các nhà sản xuất, kinh doanh, đầu tư... yên tâm đưa vốn của mình vào nông nghiệp nhằm thu lợi nhuận. Cùng với việc đầu tư đó nông nghiệp nông thôn sẽ phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá mà Nhà nước ta đã đề ra. Thứ ba, chính sách đất đai có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình chuyển nền nông nghiệp Việt Nam từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá: Chính sách đất đai phù hợp giúp cho người nông dân áp dụng được tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển thêm các ngành nghề, tiến lên sản xuất hàng hoá. Thứ tư, chính sách đất đai hợp lý là một trong những biện pháp quan trọng để giải quyết vấn đề tranh chấp ruộng đất ở nông thôn: Trong cuộc sống có nhiều tranh chấp xảy ra giữa cá nhân, tập thể. ở nông thôn việc tranh chấp đất đai cũng xảy ra ở nhiều mức độ khác nhau. Để giải quyết vấn đề tranh chấp này một cách công bằng đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước. Nhà nước với tư cách là “ trọng tài ” dưa ra các văn bản pháp luật nhằm giải quyết các tranh chấp đất đai. Một trong các văn bản pháp luật đó là chính sách đất đai. Việc ban hành chính sách đất đai cùng với các quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất một mặt hạn chế vi phạm của người sử dụng, mặt khác có cơ sở để giải quyết các vấn đề liên quan đến đất đai. II. Vài nét về chính sách đất đai của Đảng và Nhà nước ta qua các thời kỳ. Để có cơ sở trong việc nhận định và đưa ra một số giải pháp về hoàn thiện chính sách đất đai trong nông nghiệp, cần thiết phải hiểu được sâu sắc quá trình diễn biến của quan hệ ruộng đất qua các thời kỳ trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, bởi vì các chính sách ruộng đất đều mang tính lịch sử, cụ thể như sau: 1. Chính sách đất đai trước năm 1986 (trước đổi mới). Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, trong cả nước, giai cấp địa chủ với 3% số dân đã chiếm 41% tổng diện tích ruộng đất, còn nông dân lao động với 97% số dân chỉ có 36% diện tích ruộng đất (số còn lại của thực dân Pháp và đất công), trong đó số hộ không có đất chiếm tới 59% (ở Nam bộ có 3/4 số hộ nông dân, ở Bắc bộ và Trung bộ có khoảng 1/2 số hộ không có đất, phải lĩnh canh làm tá điền cho đại chủ hay đi làm thuê theo mùa vụ, một bộ phận đi làm công trong các đồn điền của thực dân Pháp với chế độ hết sức hà khắc). Tình trạng chiếm hữa và sử dụng ruộng đất bất công trước cách mạng đã để lại một di sản cực kỳ thảm khốc cho chính quyền nhân dân sau đó. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, chính sách ruộng đất do Đảng và Nhà nước ta đã ban hành với nhiều sắc lệnh, nghị định về ruộng đất. Nổi bật là sau Hội nghị Ban chấp hành Trung ương (Khoá II) thông qua cương lĩnh ruộng đất (tháng 11 - 1953) thì tháng 12-1953 Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã thông qua Luật Cải cách ruộng đất. Theo luật đất đai đó thì ở miền Bắc đã tịch thu ruộng đất của bon địa chủ, thực dân để chia cho nông dân. Vấn đề “ người cày có ruộng “ đã được triệt để giải quyết ở các vùng nông thôn miền Bắc. Từ đó chế độ sở hữu ruộng đất được trao vào tay nông dân, hình thành một giai cấp gần như đồng nhất là các hộ tiểu nông để sản xuất tự túc là chủ yếu, ngoại trừ một số đồn điền chuyển thành nông trường quốc doanh do nhà nước quản lý và sau này có sự phát triển rộng thêm. Chế độ sở hữu tiểu nông về ruộng đất thuộc từng hộ nông dân ở miền Bắc chỉ kéo dài trong khoảng 5-7 năm từ sau cải cách ruộng đất cho tới thời kỳ đầu hợp tác hoá - tập thể háo nông nghiệp bậc cao (giữa thập kỷ 60).Sau thời kỳ đó, ruộng đất được tập thể hoá. Chế độ tập thể hoá về cơ bản đã xoá bỏ các chủ thể kinh tế hộ nông dân, được thực hiện trên quy mô lớn hàng trăm, hàng nghìn ha trong từng hợp tác xã nông nghiệp với sản xuất thủ công là chính, trình độ kỹ thuật và quản lý rất thấp kém đã tỏ ra không có hiệu quả trong thời gian dài. Chính sách tập thể hoá ruộng đất đã không giải quyết thoả đáng mối quan hệ ruộng đất, với việc tổ chức hợp tác xã thành các dơn vị sản xuất kinh doanh đã xoá bỏ vai trò của hộ gia đình trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp và biến người nông dân thành người lao động bộ phận, làm cho người nông dân không hăng hái sản xuất, không thiết tha với ruộng đất và tài sane thuộc sở hữu tập thể, hàng vạn ha đất trồng trọt bị bỏ hoang. Sản xuất nông nghiệp giảm sút, đời sống nhân dân khó khăn, phong trào tập thể hoá trong nông nghiệp có nguy cơ bị tan vỡ. Cùng với thời kỳ trên ở miền Nam, sau năm 1954, dưới thời Mỹ - Nguỵ, chính quyền Sài Gòn cũng tiến hành 2 lần “ cải cách ruộng đất ’’: Lần thứ nhất vào năm 1955-1956, Ngô Đình Diệm tước đoạt phần lớn ruộng đất của nông dân đã được cách mạng chia cấp, trả lại cho địa chủ, phục hồi chế độ đại điền chủ, đưa số dân trở lại làm tá điền. Lần thứ hai vào năm 1970 Nguyễn Văn Thiệu cũng thực hiện luật “người cày có ruộng”, bằng cách “ truất hữu” có bồi thường giá trị đất cho địa chủ để cấp đất cho nông dân. Nhưng về thực chất, Luật ruộng đất năm 1970 của Nguyễn Văn Thiệu không có ý nghĩa thực tế vì vấn đề ruộng đất đã được chính quyền cách mạng và nông dân giải quyết trước đó. Mặc dù vậy, chính sách ruộng đất của Nguyễn Văn Thiệu cũng đã tạo lên một tầng lớp trung nông khá giả nhờ tích tụ ruộng đất cao hơn và áp dụng kỹ thuật mới, trong khi khoảng 30% nông dân không có đất hoặc có quá ít ruộng đất không thể sinh sống. Sau ngày giải phóng miền Nam - từ năm 1975 đến cuối những năm 80: Nhà nước ta thực hiện một loạt chính sách ruộng đất như điều chỉnh lại ruộng đất giữa các tầng lớp nông dân ở miền Nam theo tinh thần “ nhường cơm sẻ áo”, khai hoang phục hoá, lập các vùng kinh tế mới, xây dựng các công trình thuỷ lợi, mở rộng diện tích canh tác, phân bổ lại dân cư sau chiến tranh, cấp thêm đất cho nông dân. Tiếp đó, kết hợp với phong trào hợp tác hoá nông nghiệp theo “mô hình” miền Bắc, đã xoá bỏ cơ bản tình trạng người nghèo không có ruộng đất sản xuất, xác lập chế độ bình quân về ruộng đất. Cụ thể như sau: Trên cơ sở tổng kết các hợp tác xã thực hiện thí điểm các sản phẩm cây lúa, Hội nghị lần thứ 9 (9-1980) của ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IV đã quyết định “ Mở rộng việc thực hiện và hoàn thiện các hình thức khoán sản phẩm trong nông nghiệp”. Ngày 13-01-1981, Ban chấp hành Trung ương đã ra chỉ thị số 100 -CT/TƯ - Cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp ” (gọi tắt là khoán 100). Chỉ thị chỉ đạo: “ Tổ chức tốt việc giao diện tích đất cho đội sản xuất, cho nhóm và người lao động sử dụng để thực hiện sản lượng khoán...”. Điểm nổi bật của chỉ thị 100 là bước đầu khôi phục lại quyền sử dụng ruộng đất và lao động của hộ xã viên, gắn lao động với đất đai, đáp ứng được nguyện vọng của người nông dân, khơi dậy được tiềm năng cảu người, của đất, làm cho người nông dân quan tâm hơn đến kết quả cuối cùng của sản xuất. Trong những năm 1981-1985, sản xuất nông nghiệp và nhất là sản xuất lương thực phát triển khá nhanh, bính quân là 5%. Trong khi tốc độ tăng này năm 1976-1980 là 1.85%. Như vậy chỉ thị 100 đã chặn đứng đơược tình trạng giảm sút liên tục của sản xuất nông nghiệp trong những năm 1976-1980, mở ra một hướng mới giải quyết vấn đề ruộng đất, giao quyền tự chủ và sử dụng ruộng đất cho nông dân. Đại hội Đảng lần thứ V (Tháng 3-1982) xác định vẫn tiếp tục củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa theo hướng tập thể hoá hơn nữa ruộng đất và tư liệu sản xuất chủ yếu của nông dân, vẫn coi hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp là những dơn vị kinh tế chủ yếu ở nông thôn. Đó là nguyên nhân làm cho tác động tích cực của Chỉ thị 100 không còn hiệu lực. Miền Nam sau khi hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp (1985) phát sinh hàng loạt mâu thuẫn trong quan hệ ruộng đất sau sự điều chỉnh mang tính “cào bằng”.Sản xuất nông nghiệp bị giảm sút đòi hỏi phải có chính sách ruộng đất mới ra đời để khắc phục tình trạng trên. 2. Chính sách đất đai từ năm 1986-1993 Trước tình hình nền kinh tế hoạt động không có hiệu quả, nhiều mâu thuẫn nảy sinh. Tại Đại hội Đảng lần thứ 6 (tháng 12-1986), Đảng ta đã quyết định đổi mới nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Cùng với việc đổi mới đó, để có cơ sở pháp lý giải quyết các vấn đề đất đai, ngày 8-1 1988, Luật đất đai đầu tiên của nước ta mới được thông qua. Luật đất đai đã cụ thể hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng (tại đại hội lần thứ 6) và hiến pháp năm 1980 đồng thời khẳng định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Như vậy Luật này một lần nữa khẳng định quyền sở hữu tối cao của nhà nước, Nhà nước giao đất lâu dài cho các nông lâm trường, hợp tác xã, cá nhân. Có thể nêu ra một số thay đổi căn bản về mặt pháp lý trong luật này như sau Nhà nước không chỉ giao đất cho tổ chức mà còn giao cho cả các cá nhân sử dụng lâu dài và ổn định Cho phép người được giao quyền sử dụng được bán thành quả lao động và kết quả đầu tư trên đất. Nâng mức đất giao cho các hộ làm kinh tế gia đình từ 5-10% Quy định những nguên tắc giải quyết đất đai. Luật đất đai năm 1988 đã có tác dụng gắn bó người nông dân với ruộng đất, giúp họ yên tâm đầu tư vào sản xuất, cải tạo, bảo vệ đất đai được giao. Nhưng Luật đất đai năm 1988 đã bộc lộ những hạn chế cơ bản sau: Luật mới tập chung điều chỉnh quan hệ sản xuất nông nghiệp theo kiểu tự cung tự cấp, mới điều chỉnh quan hệ pháp lý hành chính, chưa chú ý đến quan hệ kinh tế, chưa tạo điều kiện để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lao động mới ở nông thôn, dẫn tới ruộng đất không có giá, chỉ cấp phát để sử dụng, do đó mâu thuẫn với cuộc sống đang chuyển sang sản xuất hàng hoá, dẫn tới hình thành thị trường ngầm về đất đai, mua bán trá hình dưới hình dạng mua bán thành quả lao động, kết quả đầu tư, nhà cửa trên đất đai mà Nhà nước không quản lý nổi, gây ra nhiều sơ hở, tiêu cực, tham nhũng trong việc mua bán, sang nhượng, cấp phát đất đai ngoài sự kiểm soát của Nhà nước, gây tổn thất lớn cho ngân sách nhà nước. Sau khi có Luật Đất đai, ngày 5-4-1988, Bộ chính trị ra Nghị quyết 10 về “ tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”. Nếu như Chỉ thị 100 của Ban bí thư chỉ giao khoán diện tích cho người lao động ổn định trong vài ba năm, thì Nhị quyết 10 của Bộ Chính trị đã có bước tiến hơn là kéo dài thời hạn cho “ người nhận khoán canh tác trên diện tích ổn định trong khoảng 15 năm”. Ruộng đất của hợp tác xã đều được giao cho xã viên sử dụng lâu dài dưới hình thức khoán và đấu thầu với hình thức với hình thức và mức khoán có khác nhau giữa các vùng và các địa phương, người nông dân được khôi phục lại quyền làm chủ ruộng đất, gắn đất đai với lao động và sản phẩm cuối cùng. Sau nghị quyết 10 là Chỉ thị 47-CT/TW về giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất, đến tháng 10-1988 Hội đồng Bộ trưởng ra chỉ thị 154-HĐBT cũng về giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất. Bộ nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm có Chỉ thị 18-NN/CT đã yêu cầu các nông, lâm trường rà soát lại quỹ đất được giao, cân đối với khả năng quản lý và sử dụng, sau đó lại cho địa phương sở tại phần diện tích không có khả năng quản lý, sử dụng. Điểm nổi bật của Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, Nghị quyết Trung ương 6 (Khoá VI) (tháng 3-1989) là nông dân được thực sự tự chủ sản xuất kinh doanh trên ruộng đất được giao và trở thành những đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn. Khi thực sự là người chủ ruộng đất, người nông dân gắn bó với đất đai, tự nguyện lao động hết mình cho mảnh đất cảu mình. Tóm lại các văn bản pháp lý của Nhà nước ta đã ban hành cùng với tinh thần của các văn bản đó đã giúp cho việc quản lý và sử dụng ruộng đất có hiệu quả hơn. Các văn bản đó đã từng bước cụ thể hoá, thể chế hoá quyền và nghĩa vụ của từng người được giao đất. Từ quan niệm chung về quyền sơ hữu của Nhà nước đối với ruộng đất, dưới cấp tối cao đó là các doanh nghiệp nhà nước và các hợp tác xã, đến chỗ thừa nhận cá nhân cũng có thể được giao đất, thừa thận một phần thành quả lao động trên đất là hàng hoá có thể chuyển nhượng. Có thể nói, những thay đổi về mặt pháp lý, chính sách, chủ trương của nhà nước, của Đảng ta trong quan hệ ruộng đất đang thích ứng dần với xu thế phát triển tất yếu của cơ chế thị trường đó là những căn cứ để uốn nắn những xu thế lệch lạc, những xu thế quá khích dẫn đến làm mất ổn định kinh tế xã hội, chính trị của nước nhà, mà vẫn đảm bảo tạo ra được cơ chế để làm tăng hiệu quả sử dụng đất trong nông nghiệp. Những thành tựu đạt được trong sản xuất nông nghiệp từ khi cá Nghị quyết 10 và các văn bản pháp lý của nhà nước đã góp phần quyết định đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng và tìm thấy hướng đi mới. Song vẫn còn những nhân tố hạn chế và kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu giải phóng mạnh mẽ sức lao động, sức sản xuất với tiềm năng đất đai manh mún theo nhân khẩu. Đất nông nghiệp vố đã ít lại giảm dần và bị chia nhỏ hơn nhằm đảm bao tính công bằng xã hội, điều đó mâu thuẫn với yêu cầu tập trung ruộng đất theo hướng sản xuất hàng hoá, cơ cấu đất thay đổi theo chiều hướng giảm dần diện tích cây hàng năm va fdiện tích đất lúa. Nhiều chủ trương, chính sách của nhà nước chưa phản ánh hết được tính phức tạp thực tiễn của quan hệ ruộng đất. Vì vậy, giữa thực tế cuộ sống với các văn bản pháp lý bắt đầu có khoảng cách. 3. Chính sách đất đai từ năm 1993 đến nay Để giảm bớt khoảng cách giữa những quy định của luật pháp với cuộc sống linh động, đồng thời để tạo cơ sở pháp lý tốt hơn cho công cuộc đổi mới trong quan hệ ruộng đất, Đảng và nhà nước ta đã đưa ra một số chính sách nhằm bổ sung, đổi mới những văn bản pháp luật trước. Cụ thể như sau: Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII họp vào đầu tháng 6 năm 1993 ra Nghị quyết “ Tiếp tục đôỉơ mới và phát triển kinh tế xã hội nông thôn ”. Một trong những nội dung đổi mới của Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VII) so với nghị quyết 10 là thực hiện chính sách giao quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân (5 quyền), làm cho người nông dân yên tâm đầu tư, tăng vụ. Ngay sau khi Nghị quyết TƯ 5 (khoá VII) ra đời, ngày 14-7-1993, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật đất đai (sửa đổi). Luật đất đai năm 1993, kế thừa các quy định của Luật đất đai năm 1988 và bổ sung một số quyền của người sử dụng đất trên tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII và Hiến pháp năm 1992. Luật đất đai năm 1993 đã thể chế hoá các nội dung cơ bản của chính sách ruộng đất trong thời kỳ đổi mới, tạo cơ sở, tiền đề và giải quyết các nhiệm vụ cơ bản của nông nghiệp như: Xử lý cụ thể quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước thống nhất quản lý và việc Nhà nước giao đất và cho thuê đất với các hộ gia đình và cá nhân sử dụng đất đai ổn định lâu dài. Luật cũng quy định thời hạn giao đất và sử dụng đất ổn định lâu dài để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản là 20 năm, để trồng cây lâu dài là 50 năm. Khi hết thời hạn sử dụng, nếu hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu sử dụng tiếp thì Nhà nước giao tiếp. Một trong những điểm mới đánh dấu bước phát triển về chính sách ruộng đất của nước ta và đóng vai trò quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế là việc Luật quy định hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất với 5 quyền: Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp (điều 3) và được bồi thường thiệt hại khi đất bị thu hồi (Nghị định 90/CP ngày 17/8/1994). Lần đầu tiên luật quy định đất có giá. Đây là nội dung quan trọng thể hiện sự có mặt của quan hệ ruộng đất trong cơ chế thị trường. “ Giá đất ” là công cụ kinh tế để người quản lý và người sử dụng tiếp cận với cơ chế thị trường. Nó cũng là phương tiện thể hiện nội dung kinh tế của các quan hệ thực hiện các quyền sử dụng đất. Luật cũng quy định cụ thể về phân công, phân cấp giữa hệ thống cơ quan quản lý nhà nước ở các lĩnh vực khác với tư cách là “ người sử dụng đất ”. Mở rộng thẩm quyền về đất đai cho cơ quan hành chính cấp dưới, chú trọng vai trò của chính quyền cấp cơ sở và tổ chức quần chúng để hoà giải các tranh chấp đất đai trong nội bọ nông dân, đồng thời chuyển sang Toà án giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và trang chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất đó. Luật quy định về việc đổi mới chế độ sử dụng các loại đất, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư công của để mở rộng thâm canh đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp (giao đát nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối), có chính sách ưu đãi sử dụng đất với vùng sâu, vùng xa, nơi còn nhiều đất tống, đồi núi trọc (hạn mức sử dụng đất này do địa phương quy định), sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả, đúng mục đích phù hợp với quy hoạch, bảo vệ môi trường. Quốc hội đã ban hành Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất năm 1994 và năm 1999 sủa đổi, bổ sung đối với hộ gia đình sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức. Để cụ thể hoá Luật Đất đai, Chính phủ đã ra Nghị định số 64/CP ngày 27-9-1993, quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất. Cùng với việc ban hành Luật Đất đai (là cơ sở pháp lý cho việc giao quyền tự chủ sử dụng đất ổn định, lâu dài cho hộ nông dân), Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp đã được Quốc hội thông qua, thay cho thuế nông nghiệp theo pháp lệnh. Theo luật này, Nhà nước trực tiếp thu thuế đối với từng hộ nông dân sử dụng đất. Ngoài thuế sử dụng đất nông nghiệp, Nhà nước không thu thêm một loại thuế nào khác trong sản xuất nông nghiệp. Để cụ thể hoá Luật thuế sử dụng đất, Nghị định số 73/CP ngày 27-03-1993 quy định chi tiết việc phân hạng đất, tính thuế sử dụng đất nông nghiệp, và Nghị định số 74/CP ngày 25-10-1993 quy định chi tiết việc thi hành Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp. Những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta được thực hiện trong năm 1993 đã tạo những điều kiện rất thuận lợi cho nông nghiệp phát triển, người nông dân yên tâm sản xuất, kinh doanh và làm giàu chính đáng trên ruộng đất được giao, góp phần mang lại những thành tựu trong sản xuất nông nghiệp. Giá trị sản lượng lương thực quy ra thóc tăng từ 25.5 triệu tấn năm 1993 lên 27 triệu tấn năm 1995. Do sản lượng lương thực tăng nhanh hơn tốc độ tăng của dân số nên lương thực bình quân đầu người trong 3 năm 1993-1994 đạt 361.1 kg/năm. Tuy đạt được những kết quả nhất định nhưng Luật đất đai năm 1993 vẫn còn những hạn chế. Tại Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII đã nhận định: “ Luật đất đai năm 1993 sau 5 năm thực hiện, bên cạnh những mặt tích cực đã bộc lộ một số điểm chưa thật phù hợp, chưa cụ thể để sử lý những vấn đề mới phát sinh, nhất là trong việc chuyển quyền sử dụng đất, làm cho quan hệ đất đai trong nông nghịêp rất phức tạp, không chỉ về mặt kinh tế mà còn ảnh hưởng đến cả ổn định xã hội ”. Điều đó thể hiện ở các mặt sau đây: Thứ nhất, mới chỉ dừng lại ở quy định chung của Luật, nhiều văn bản dưới Luật hướng dẫn chậm ban hành, nhất là 5 quyền cụ thể: quyền cho thuê, chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế và thế chấp. Thứ hai, quá trình giao đất và cấp đất gắn với cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất triển khai quá chậm, không tạo thành tâm lý và điều kiện để người được giao quyền sử dụng đất an tâm đầu tư thâm canh và sử dụng đất có hiệu quả cũng như thực hiện 5 quyền. Nguyên nhân của tình hình này là: khó khăn về kỹ thuật, nghiệp vụ, thủ tục phiền hà, buông lỏng quản lý đất lâu dài, tồn đọng nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Thứ ba, trên thực tế thị trường bất động sản đã hình thành và vận động rất sôi động nhưng Nhà nước thiếu cơ chế quản lý phù hợp dẫn đến những tác động không thuận lợi cho sự vận động của thị trường đặc biệt này. Giá đất vẫn do Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương quy định, có nơi có lúc quá coa hoặc quá thấp không sát với giá thị trường do người mua và người bán tự thoả thuận. Thứ tư, tạo nên sự bất công và bất bình đẳng giữa các tổ chức và cá nhân trong việc cấp đất và giao quyền sử dụng đất. Do trước đây đất đai thuộc sở hữu của Nhà nước, không có giá, Nhà nước các cấp đều có quyền cấp đất cho các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội một cách tuỳ tiện, thoải mái. Khi chuyển sang kinh tế thị trường, các cơ quan, tổ chức, các doanh nghiệp nhà nước, các hơp tác xã mặc dù chức năng, nhiệm vụ đã thay đổi nhưng vẫn giữ đất va ftự ý chia chác nội bộ hoặc sử dụng một cách bất hợp pháp. Nhiều quan chức đã có chỗ ở nhưng khi chuyển cơ quan mới lại được cấp đất, cấp nhà mà không giao lại chỗ cũ. Nhiều quan chức chỉ bằng quyền uy hoặc bằng các nguồn thu bất chính có thể chiếm dụng nhiều mảnh đất béo bở, có nhiều khu đất ở nhiều nơi có giá, trong khi đó người bình thường lại rất khó khăn trong việc tìm một nơi ở khiêm tốn. Thứ năm là, quy định mức hạn điền ở Việt Nam là rất cần thiết nhưng mức còn cứng nhắc, giữa quy định và thực tế còn khác nhau khá xa. Hiện nay ở Việt Nam còn trên 10 triệu ha đất trống, đồi núi trọc, gần 1 triệu ha mặt nước chưa được sử dụng. Việc quy định mức hạn điền còn thấp cho các vùng này không khuyến khích hình thành các trang trại, các doanh nghiệp trong nông nghiệp, nông thôn. Thứ sáu là, mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai diễn ra hết sức phức tạp cả lý luận và thực tiễn. Trong khi chấp nhận quyền sở hữu đất đai thuộc về Nhà nước và Nhà nước có quyền giao cho các tổ chức và cá nhân quyền sử dụng nhưng đã sử dụng rồi thì rất khó thu hồi. Nhà nước cũng không quản lý việc sử dụng đất đai theo một quy hoạch thống nhất nên việc sử dụng đất đai hết sức manh mún, tuỳ tiện. Người sử dụng lại hiểu và biến quyền sử dụng thành quyền sở hữu tuyệt đối, vĩnh viễn, thành một tài sản có giá nhất cho bản thân mình và cho con cháu mai sau, có quyền mặc cả với Nhà nước khi bị thu hồi, gây ảnh hưởng xấu đến việc giải toả để xây dựng các công trình công cộng. Để khắc phục tình trạng đó, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra một số văn bản pháp luật như: Chỉ thị số 10/1998/CT-TTg ngày 20/2/1998 của Thủ tướng Chính phủ “ về đẩy mạnh và hoàn thành việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp ”; Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24-4-1998 về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất... Tháng 11 năm 1998, Hội nghị BCHTƯ 6 (khoá VIII) ra NQ6-NQ/TƯ về một số vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn, đưa ra một số chủ trương, chính sách lớn, trong đó có bàn về chí._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35491.doc
Tài liệu liên quan