Một số vấn đề trong quản lý nguồn vốn của các Ngân hàng thương Mại nước ta

Đề tài: một số vấn đề trong quản lý nguồn vốn của các Ngân Hàng Thương Mại nước ta I. Phần mở đầu: Hội nhập với khu vực và cộng đồng quốc tế về hoạt động Ngân Hàng trong quá trình hội nhập chung của nền kinh tế. Đây chính là sự mở cửa chủa hoạt động tiền tệ tín dụng Ngân Hàng với dịch vụ tài chính với thế giới. Trong điều kiện hội nhập hiện nay, không chỉ có một môi trường pháp lý phù hợp mà đòi hỏi năng lực cạnh tranh của các Ngân Hàng trong nước phải ngang tầm với khu vực và quốc tế. Nhưng

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1655 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề trong quản lý nguồn vốn của các Ngân hàng thương Mại nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong tình hình hoạt động của các Ngân Hàng hiện nay đặt ra rất nhiều thách thức. Trong xu hướng quốc tế và toàn cầu hoá nhanh các hoạt động kinh tế , thương mại, đầu tư, dịch vụ… Việt Nam để tránh nguy cơ tụt hậu cần nhanh chóng hội nhập kinh tế khu vực và cộng đồng quốc tế, quá trình hội nhập giúp Việt Nam thu hút đầu tư, tăng nguồn vốn đầu tư, …đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Song bên cạnh những ưu điểm hội nhập là những thách thức lớn lao mà Việt Nam cần tính tới, chủ động phòng tránh, có lộ trình và bước đi thích hợp. Do đó yêu cầu về nâng cao chất lượng của hoạt động Ngân Hàng nói chung và Ngân Hàng thương mại nói riêng là rất quan trọng. Hiện nay nâng cao hiệu quả hoạt động Ngân Hàng là vấn đề bức xúc hiện nay. Để hoạt động Ngân Hàng nói chung và Ngân Hàng thương mại nói riêng ổn định và có hiệu quả thì cần có một cơ chế quản lý hợp lý và hiệu quả. Trong đề án này chỉ xin phép nói về vấn đề theo tôi là đang bức xúc làm tiền đề đó là “Quản lý nguồn vốn của Ngân Hàng thương mại“ Trong đề án này nội dung đề cập ba phần chính: Phần I: Cơ sở lý luận cần phải thực hiện quản lý nguồn vốn trong Ngân Hàng Phần II: Vấn đề bức xúc về quản lý nguồn vốn trong Ngân hàng thương mại Việt Nam. Phần III: Một số kiến nghị về hướng giải pháp trong quản lý nguồn vốn và quản lý hoạt động Ngân hàng nói chung. II. Phần nội dung: A.Phần I: Cơ sở lý luận thực tiễn của công tác quản lý nguồn vốn. A.1. Đánh giá vai trò của quản lý nguồn vốn trong Ngân hàng thương mại. Quản lý nguồn vốn là một trong ba nội dung chính của quản lý hoạt động Ngân Hàng thương mại. Mặt khác hoạt động Ngân Hàng nói chung và Ngân Hàng thương mại nói riêng đóng vai trò chủ chốt trong hoạt động của nền kinh tế. Ngân Hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng. Trong đó, Ngân Hàng thương mại thường chiếm tỉ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các Ngân Hàng. Ngân Hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn bộ xã hội. Thu nhập từ Ngân Hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân Hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước. Với lý do đó để quản lý tốt hoạt động của Ngân Hàng đòi hỏi phải có công tác quản lý nguồn vốn trong Ngân Hàng thương mại tốt. Mặt khác, xét trên khía cạnh hoạt động kinh doanh thì Ngân Hàng thương mại thực tế là một Doanh Nghiệp đặc biệt, kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Do yêu cầu đối với Doanh Nghiệp nói chung và Ngân Hàng thương mại nói riêng thì nhu cầu về quản lý hoạt động có hiệu quả là quan trọng nhất. Thực tế hoạt động kinh doanh tiền tệ của Ngân Hàng thương mại dưới hình thức là huy động vốn, cho vay, đầu tư và cung cấp các hoạt động dịch vụ khác. Do đó công tác quản lý hoạt động huy động và cho vay rất quan trọng, nó quyết định đến hiệu quả, chất lượng và sự duy trì phát triển của Ngân Hàng thương mại. A.2. Mục tiêu đặt ra đối với công tác quản lý nguồn vốn. Trước hết xem xét được cơ cấu nguồn vốn của Ngân Hàng thương mại. Thông qua các hoạt động liên quan đến sử dụng nguồn vốn để thực hiện quản lý nguồn vốn. A.2.1. Vậy vấn đề đầu tiên quyết định hoạt đông của Ngân Hàng thương mại đó là cơ cấu nguồn vốn. Cần xem xét cơ cấu nguồn vốn trong Ngân Hàng thương mại hiện nay đã họp lý chưa? Và tỉ lệ cấu trúc của các thành phần nguồn vốn ra sao? ảnh hưởng đến công tác quản lý nguồn vốn. Đứng trên giác độ về hình thức sở hữu thì nguồn vốn được chia làm hai loại chính là vốn chủ sở hữu và vốn huy động. Do đó để thực hiện tốt công tác quản lý nguồn vốn cần thực hiện tốt ở các khâu quản lý vốn chủ sở hữu và vốn huy động, đi vay của Ngân Hàng thương mại. Thực tế là thực hiện quản lý quy mô nguồn vốn, cơ cấu tỷ phần trong nguồn vốn và khả năng thanh toán. Đặc điểm của nguồn vốn rất quan trọng, nó quyết định đến khả năng ổn định và mở rộng của nó. Hiện nay trong quy mô của nguồn vốn chủ yếu là phụ thuộc vào quy mô hoạt động của Ngân Hàng thương mại. Nếu là Ngân Hàng thuộc sở hữu Nhà nước, ngân sách Nhà nước cấp (Vốn của Nhà nước). Nếu là Ngân Hàng cổ phần, các cổ đông góp thông qua mua cổ phân hoặc cổ phiếu. Ngân Hàng liên doanh do các bên liên doanh góp, Ngân Hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân. Ngoài các nguồn vốn hình thành ban đầu còn có các nguồn vốn huy động ở các nguồn khác nhau: Như nguồn bổ sung trong quá trình hoạt động, nguồn vốn từ các quỹ. Với các quỹ của Ngân Hàng thuộc sở hữu của chủ Ngân Hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của Ngân Hàng. Mặt khác một nguồn vốn được chuyển từ nguồn vay nợ thành cổ phần. Đó là nguồn vốn tự có của Ngân Hàng và huy động tiền gửi là hoạt động chính làm tăng lượng nguồn vốn. Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường nguồn này chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hằng năm của Ngân Hàng. A.2.2. Một trong những vấn đề quản lý nguồn vốn đặt ra đó là quản lý về cơ cấu nguồn vốn. Đánh giá trên các khía cạnh huy động vốn đó là cơ cấu về vốn huy động ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Và quản lý về hoạt động sử dụng cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Mỗi một khoản vốn huy động đều có những đặc điểm riêng từ đó nó ảnh hưởng đến cơ cấu cho vay, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của Ngân Hàng. Chất lượng của nó và số lượng các khoản vay và đâu tư. Mục tiêu về quản lý nguồn nợ không nằm ngoài mục tiêu quản lý chung của Ngân Hàng đó là an toàn và sinh lời. Mục tiêu cụ thể của quản lý khoản nợ yếu tố quyết định mọi hoạt Ngân Hàng. Tìm kiếm các nguồn nhằm tìm kiếm cơ cấu nguồn vốn có phí thấp và phù hợp với nhu cầu sử dụng. Đó là việc cân đối tìm kiếm các khoản đầu tư trung và dài hạn, qua phát hành giấy nợ. Mục đích nhằm gia tăng các nguồn trung và dài hạn ổn định cao cho Ngân Hàng. Ngân Hàng có thể sử dụng nguồn vay này để cho vay các dự án. Ngoài tìm kiếm nguồn huy động chủ yếu là tiền gửi, thì việc đa dạng hoá các nguồn tìm kiếm làm tăng tỷ phần khác nhau trong cơ cấu vốn. Mục đích làm tăng nguồn vốn từ các nguồn khác nhau. Mặt khác nó là một công cụ để quản lý hiệu quả nguồn vốn như giảm chi phí trả lãi. Đồng thời lại là yếu tố làm giảm rủi ro, phân tán rủi ro đáp ứng nhu cầu về tính thanh khoản và an toàn sử dụng vốn. Một yếu tố cũng rất là quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động lâu dài của Ngân Hàng. Yếu tố cốt lõi của công tác quản lý để tăng hiệu quả hoạt động phải dựa trên cơ sở ổn định về nguồn vốn. Việc ổn định này không chỉ là nhân tố tác động hiệu quả sử dụng nguồn vốn mà còn là cơ sở bảo đảm khả năng thanh toán giảm rủi ro. Tìm kiếm các công cụ nợ mới nhằm phát triển thị trường nợ của Ngân Hàng. Việc phát hành, tìm kiếm các công cụ mới với mục đích mở rộng quy mô vay vốn trên thị trường liên Ngân Hàng…Việc mở rộng thì trường nợ của Ngân Hàng làm lượng vốn huy động tăng lên, khả năng cho vay tăng, và thu được lợi nhuận cao nhưng vẫn đảm bảo tỉ lệ thanh toán. A.3. Các nội dung chính của hoạt động quản lý nghiệp vụ trong Ngân Hàng thương mại. Trong hoạt động của Ngân Hàng việc quản lý nguồn vốn rất phức tạp bởi vai trò của nó làm cơ sở cho các hoạt động cho vay, thanh toán…quản lý hoạt động. Xem xét về tình hình hoạt động thì phần lớn các khoản nợ của Ngân Hàng liên quan tới chi phí trả lãi. Chi phí trả lãi là toàn bộ chi phí lớn nhất đối với Ngân Hàng vì vậy mà nó ảnh hưởng quyết định đến với thu nhập của Ngân Hàng. Chi phí trả lãi bị tác động trực tiếp bởi các yếu tố về quy mô nguồn vốn và cơ cấu vốn, lãi suất. 3.1. Quản lý về quy mô và cơ cấu nguồn vốn. Đây là nội dung đầu tiên trong quản lý các khoản nợ là quản lý quy mô cơ cấu lãi suất các khoản nợ và gửi tiết kiệm. Từ đó ổn định các khoản tiền gửi, khoản nợ quyết định một phần an toàn trong kinh doanh Ngân Hàng và thời hạn tín dụng. Quản lý quy mô và cơ cấu là nhằm đưa ra và thực hiện các biện pháp để gia tăng quy mô, thay đổi cơ cấu của nguồn một cách có hiệu quả nhất. Việc gia tăng các khoản tiền gửi và đi vay là chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động của Ngân Hàng, là điều kiện để Ngân Hàng mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao tính thanh khoản và tính ổn định của nguồn vốn. Cơ cấu nguồn ảnh hưởng tới cơ cấu tài sản và quyết định chi phí của Ngân Hàng. Quản lý quy mô và cơ cấu vốn gồm các nội dung sau: Thống kê đầy đủ kịp thời các thay đổi về các loại vốn, tốc độ quay vòng của mỗi nguồn. Phân tích kỹ lưỡng các nhân tố gắn liền với thay đổi đó (Các nhân tố ảnh hưởng và bị ảnh hưởng) Lập kế hoạch nguồn cho từng giai đoạn phù hợp với yêu cầu sử dụng. Công tác thống kê nguồn sẽ cho các nhà quản lý nghiên cứu mỗi liên hệ giữa số lượng, cấu trúc nguồn của các nhân tố ảnh hưởng cũng như thấy được đặc tính thị trường nguồn của Ngân Hàng. Trong điều kiện cụ thể các nguồn của một Ngân Hàng có thể có tốc độ và quy mô thay đổi khác nhau. Các Ngân Hàng lớn có quy mô nguồn lớn và tôc độ tăng trưởng nguồn có thể không cao như các Ngân Hàng nhỏ. Những Ngân Hàng ở trung tâm tiền tệ có cơ cấu nguồn khác với Ngân Hàng ở xa. Những nhân tố ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi quy mô và kết cấu của nguồn tiền thường xuyên thay đổi và cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Đây là cơ sở để Ngân Hàng đưa ra các quyết định phù hợp để thay đổi quy mô và kết cấu của nguồn tiền, vào gần dịp tết quy mô của tiền gửi tiết kiệm có thể giảm xuống tương đối, hoặc nếu Ngân Hàng phục vụ chủ yếu các doanh nghiệp xây lắp, tiền gửi của họ tăng hay giảm phụ thuộc nhiều vào mùa xây dựng. Từ đó, nhà quản lý Ngân Hàng cần phải chia các loại khách hàng gắn với quy mô và tốc độ gia tăng của mỗi nguồn. Các nhóm khách hàng hay khách hàng riêng, cá nhân có tiền gửi lớn cần được đặc biệt chú ý, các nhóm khách hàng truyền thống, các nhóm khách hàng nhạy cảm với những thay đổi về công nghệ, lãi suất và chất lượng, dịch vụ kèm theo phải được nghiên cứu cụ thể. Nhà quản lý cùng xem xét thị phần nguồn tiền của các Ngân Hàng khác trên địa bàn và khả năng cạnh tranh của họ. Kế hoạch nguồn cần được xây dựng cho từng giai đoạn, bao gồm kế hoạch gia tăng quy mô của mỗi nguồn, nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay đầu tư hoặc nhu cầu chi trả cho các doanh nghiệp và dân chúng, khả năng thay đổi cơ cấu nguồn hoặc tìm kiếm nguồn mới. Kế hoạch nguồn được đặt trong kế hoạch sử dụng và lợi nhuận kỳ vọng, bao gồm kế hoạch về lãi suất, mở chi nhánh hoặc điểm huy động, loại nguồn, tiếp thị… 3.2. Quản lý về lãi suất chi trả và kỳ hạn: Mặt khác quản lý cơ cấu nguồn vốn nhằm quản lý về khả năng thanh toán. Quản lý về khả năng thanh toán để giảm thiểu rủi ro, tăng khả năng huy động, và uy tín của Ngân Hàng. Đảm bảo khả năng thanh toán tức là công tác quản lý liên quan đến lãi suất chi trả, quản lý kỳ hạn, khả năng thanh khoản. Để đảm bảo tính ổn định của các khoản nợ, thì ổn định về thời hạn thanh toán và lãi suất chi trả hợp lý thì vẫn có thể thu hút và bảo đảm tốt khả năng huy động và cho vay. Trước tiên để có thể quản lý cơ cấu nguồn vốn thì cần quản lý tốt ở khâu lãi suất của các khoản nợ. Đó chính là xác định các loại và cơ cấu lãi suất trả cho các nguồn tiền khác nhau nhằm đảm bảo duy trì quy mô kết cấu nguồn phù hợp với yêu cầu sinh lợi của Ngân Hàng. Quản lý lãi suất của các khoản nợ là một bộ phận trong quản lý chi phí của Ngân Hàng. Lãi suất càng cao có thể huy động vay mượn được càng lớn, từ đó mở rộng cho vay và đầu tư. Tuy nhiên, lãi suất càng cao làm gia tăng chi phí của Ngân Hàng và nếu doanh thu không tăng kịp chi phí, lợi nhuận của Ngân Hàng sẽ giảm tương ứng. Vì vậy, quản lý lãi suất của nguồn vốn có liên quan chặt chẽ quản lý lãi suất cho vay và đầu tư của Ngân Hàng. Nội dung của quản lý lãi suất: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tối lãi suất huy động. Đa dạng hoá lãi suất. Lãi suất huy động gắn liền với mỗi loại sản phẩm của Ngân Hàng với mỗi Ngân Hàng, lãi suất huy động thường xuyên thay đổi dưới ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: Khả năng tiết kiệm và gia tăng tiết kiệm của quốc gia, nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp, nhà nước, hộ gia đình. Ngoài ra còn có ảnh hưởng của yếu tố lạm phát, khả năng sinh lời của hoạt động đầu tư khác, trình độ phát triển của thị trường tài chính, khả năng sinh lời của Ngân Hàng, độ an toàn của nó. Những yếu tố này ảnh hưởng đến hình thành nên lãi suất huy động của Ngân Hàng thương mại. Lãi suất của mỗi Ngân Hàng phân biệt theo nhiều hình thức khác nhau: Lãi suất phân biệt theo thời gian: Thời gian huy động càng dài thì lãi suất càng cao. Lãi suất phân biệt theo loại tiền: Nội tệ và ngoại tệ. Lãi suất phải phân biệt theo mục đích gửi, theo mục đích huy động. Lãi suất phân biệt theo rủi ro của Ngân Hàng: Lãi suất của các Ngân Hàng nhỏ, và Ngân Hàng tư nhân thường cao hơn Ngân Hàng lớn, hoặc Ngân Hàng của nhà nước. Lãi suất phân biệt theo dịch vụ đi kèm theo như tiết kiệm có thưởng, tiết kiệm bảo hiểm lãi suất thấp hơn tiết kiệm khác. Lãi suất phân biệt theo quy mô… Nhìn chung thì tiện ích của Ngân Hàng cung cấp cho người gửi tiền và người cho vay càng cao thì lãi suất càng thấp. Một số nguồn tiền lãi suất Ngân Hàng trả bằng không và người gửi phải trả phí để được hưởng tiện ích của Ngân Hàng. Ngân Hàng không chỉ quản lý về lãi suất mà còn phải quản lý về kỳ hạn huy động cho phù hợp với yêu cầu của kỳ hạn sử dụng, đồng thời tạo sự ổn định của nguồn vốn. Với các hoạt động chính của quản lý kỳ hạn như xác định kỳ hạn danh nghĩa của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng, xác định kỳ hạn thực của các nguồn và các nhân tố ảnh hưởng, xem xét khả năng chuyển hoán kỳ hạn của nguồn. Các kỳ hạn danh nghĩa thường gắn với một mức lãi suất thấp nhất định, theo xu hướng nguồn có kỳ hạn danh nghĩa càng dài, lãi suất càng cao. Trong trường hợp bình thường (không có khủng hoảng xảy ra) cũng có một số người rút tiền trước hạn, song nhìn chung người gửi tiền đều cố gắng duy trì kỳ hạn danh nghĩa để hưởng mức lãi suất cao nhất. Do vậy, kỳ hạn danh nghĩa là một chỉ tiêu phản ánh tính ổn định của nguồn vốn. Để cho vay và đầu tư dài hạn, Ngân Hàng cần có khả năng duy trì tính ổn định của nguồn tiền. Nguồn có tính ổn định cao thường phải có chi phí duy trì cao. Quản lý kỳ hạn vì vậy là một nội dung đảm bảo an toàn và sinh lời cho Ngân Hàng. Mặt khác từ những yếu tố ảnh hưởng đến kỳ hạn như thu nhập, nền kinh tế, lạm phát…mà Ngân Hàng có thể đưa ra các kỳ hạn huy động phù hợp với thị trường. Nhưng nhà quản lý thường quan tâm đến kỳ hạn thực tế của nguồn tiền bởi kì hạn thực tế liên quan đến kì hạn của khoản vay và đầu tư. Kỳ hạn thực tế là khoản thời gian mà khoản tiền gửi tồn tại liên tục tại một đơn vị Ngân Hàng. Bên cạnh các nhu cầu chi tiêu đột xuất và lãi suất cạnh tranh giữa các Ngân Hàng, lãi suất giữa các nguồn tiền khác nhau cũng góp phần quan trọng tới kì hạn. Sự thay đổi về lãi suất sẽ gây ra tình trạng dịch chuyển tiền từ Ngân Hàng này sang Ngân Hàng khác, từ kỳ hạn này sang kỳ hạn khác, từ loại tiền này sang loại tiền khác, làm giảm kì hạn thực tế của khoản tiền. Nhưng việc quản lý về lãi suất tiền gửi và tính thanh khoản, chuyển khoản sẽ giảm tính biến động về kì hạn thông qua sự nối tiếp liên tục của các khoản huy động và đi vay. Do đó, một nguồn với kỳ hạn danh nghĩa ngắn, có thể tồn tại liên tục trong nhiều năm, tức là trở thành nguồn có kỳ hạn thực tế là trung và dài hạn. Phân tích và đo lường kì hạn thực tế của nguồn là cơ sở để Ngân Hàng quản lý thanh khoản, chuyển khoản chuyển hoán kì hạn của nguồn, sử dụng các nguồn có kì hạn ngắn để cho vay với kì hạn dài hơn. Có thể nói quản lí kì hạn luôn gắn liền với quản lí lãi suất. Một sự gia tăng trong lãi suất nguồn đều liên quan đến không chỉ tăng quy mô của nguồn, mà còn tới tính ổn định của nguồn giữa các Ngân Hàng. Các cách tính khác nhau để cải thiện sự ổn định của khoản nợ. Dựa vào những loại tiền gửi chủ yếu (Tiền giao dịch hoặc tiền tiết kiệm) . Mặc dù tiền gửi phải hoàn trả theo yêu cầu, song nó tương đối ổn định. Các Ngân Hàng lớn ngày nay đang cố gắng tăng tiền gửi để giảm vay. Xây dựng các mỗi liên hệ với người gửi lớn sao cho họ tránh rút tiền trong lúc khủng hoảng. Đa dạng các nguồn tiền là huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Điều này giảm sự phụ thuộc của Ngân Hàng vào một khách hàng. Phát triển quản lí tài sản bên cạnh quản lí các khoản nợ. 3.3. Quản lí khả năng thanh khoản. Đối với nhiều Ngân Hàng phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn đang trở thành trọng tâm quản lí nguồn vốn. Tính thanh khoản của nguồn vốn được đo bằng khả năng tìm kiếm nguồn vốn mới với chi phí và thời gian nhỏ nhất. Nhiều Ngân Hàng lớn, do thực hiện chuyển hoán kì hạn của nguồn (nguồn vốn kì hạn ngắn được chuyển sang đầu tư hoặc cho vay với kì hạn dài hơn) và duy trì tỉ lệ dự trữ thấp, rất quan tâm khả năng tìm kiếm nguồn vốn mới để đáp ứng nhu cầu thanh khoản đắc biệt là các nguồn trong ngắn hạn. Tính thanh khoản của nguồn tuỳ thuộc rất lớn vào thị trường của mỗi Ngân Hàng vào chính sách,vào chính sách tiền tệ đang được vận hành. Nói chung các Ngân Hàng lớn, có nhiều chi nhánh và gần các trung tâm tiền tệ có nhiều khả năng tìm kiếm các nguồn nhanh chóng hơn là các Ngân Hàng nhỏ, ít chi nhánh và ở xa. Hơn nữa việc phát triển các công nợ sẽ cho phép các Ngân Hàng có nhiều cơ hội tiếp xúc với các nguồn. Do vậy, tại các nước mà thị trường nợ kém phát triển thì tính thanh khoản của nguồn vốn của các Ngân Hàng cũng trở nên bị giảm thấp. 3.4. Quản lí lãi suất đảm bảo về hệ số khả năng sinh lời trên cơ sở nguồn vốn của Ngân Hàng thương mại. Trên cơ sở nguồn vốn của Ngân Hàng ngoài những quản lí về mặt huy động và và vay của Ngân Hàng cần phải có công tác đánh giá về quản lí sử dụng vốn cho vay và đầu tư. Cụ thể hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn, do đó yêu cầu về quản lí khả năng sinh lời của sử dụng nguồn vốn nhằm bù đắp chi phí và tăng lợi nhuận hoạt động. Việc quản lí về lãi suất của tài sản snh lời rất phức tạp. Dựa trên các hình thức huy động vốn ngắn, trung và dài hạn mà có những chính sách quản lí về lãi suất cho vay đảm bảo bù đắp chi phí và có lợi nhuận. Nếu Ngân Hàng cho rằng, các nguồn ngắn hạn, trước hết dùng để tài trợ cho các tài sản ngắn hạn, thì chi phí nguồn bình quân của các tài sản ngắn hạn chính là chi phí trả lãi ngắn hạn. Tuy nhiên, phần lớn nguồn ngắn hạn phải chịu dự trữ bắt buộc, nên Ngân Hàng có thể phân bố dự trữ bắt buộc cho các khoản vay khác nhau. Hay trường hợp Ngân Hàng nắm giữ chứng khoán thanh khoản (sinh lời thấp) lãi suất các khoản vay ngắn hạn phải tính phần bù cho chứng khoán ngắn hạn (để hạn chế rủi ro thanh khoản). Nhưng đối với các khoản vay trung và dài hạn, lãi suất nguồn vốn tài sản nợ chính là lãi suất hỗn hợp giữa lãi suất trung, dài hạn với lãi suất ngắn hạn. Ngân Hàng có thể không phân bố chi phí nguồn (dành cho các khoản mục dự trữ), các khoản tín dụng trung và dài hạn, song chi phí quản lí trực tiếp gắn liền với việc thẩm định dự án, theo dõi dự án, chi quỹ phòng rủi ro gắn liền với tín dụng trung và dài hạn đều cao hơn ngắn hạn. Đó là yếu tố làm cho lãi suất tín dụng trung và dài hạn cao hơn ngắn hạn. Trong trường hợp kì hạn định giá huy động và cho vay không bằng nhau thường kì hạn định lại giá của huy động ngắn hơn cho vay, thì việc cho vay dựa trên lãi suất huy động bình quân sẽ không đảm bảo yêu cầu sinh lời. Để thích ứng với lãi suất biên khi huy động, Ngân Hàng thường tăng lãi suất huy động để cho vay với kì hạn dài hơn. Thường là huy động để cho vay trung và dài hạn, hoặc cho vay với lãi suất thả nổi. Một mặt làm tăng tỉ lệ sinh lời đó là quản lí về lãi suất huy động. Việc này đã được trình bày trong phần lãi suất chi trả. Nó có vai trong quản thiểu chi phí, tăng nguồn huy động từ đó làm cơ sở cho vay với lãi suất hợp lí, khối lượng lớn. Đây tạo nên ưu thế cạnh tranh của các Ngân Hàng và tăng khoản mục lãi chênh lệch thu về. B. Phần II. Thực trạng hoạt động quản lí nguồn vốn trong Ngân Hàng thương mại Việt Nam. B.I. Tình hình hoạt động chung của Ngân Hàng thương mại Việt Nam. Trên cơ sở các thành tựu đạt được từ khi đổi mới nền kinh tế đến nay, đặc biệt là những kết quả đạt được trong 5 năm gần đây, chúng ta đã có những định hướng rất cụ thể trong những năm tới về mọi lĩnh vực, mọi ngành thông qua các chỉ tiêu kinh tế từ vĩ mô đến vi mô. Dự kiến trong 5 năm tới (2001-2005), tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 7,2%, vốn huy động cho đầu tư phát triển tương đương 50-60 tỉ USD chiếm khoảng 30% GDP (hệ số ICOR dự kiến là: 4,2) trong đó nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 60%, vốn nước ngoài chiếm 40%, vốn trung và dài hạn khoảng 40-50% vốn đầu tư. Nguồn vốn ODA giải ngân khoản 10 tỷ USD, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 10 tỷ USD. Tổng tín dụng đạt 40-50% GDP, tỉ lệ tiết kiệm khoảng 26% GDP, tổng ngân sách đạt 20% GDP, giảm tỉ lệ đói nghèo xuống khoảng 5%. Trước những mục tiêu lớn đó, ngành Ngân Hàng cũng đã định hướng nhiều giải pháp quan trọng: Xây dựng và thực thi một chính sách tiền tệ và công cụ chính sách tiền tệ có hiệu qủa phù hợp với cơ chế thị trường thông qua công cụ thị trường mở, lãi suất, tỉ giá…. Hiện nay hệ thống Ngân Hàng thương mại Viêt Nam hiện có các loại hình như sau: Ngân Hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD) và Ngân Hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) chi nhánh Ngân Hàng nước ngoài và Ngân Hàng liên doanh (CNNHNN và NHLD). Trong các loại hình Ngân Hàng thương mại, thông qua thị phần dịch vụ Ngân Hàng nói chung và thị phần tín dụng nói riêng cho thấy loại hình Ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn nắm vai trò chủ đạo, chi phối và khống chế thị trường (khoảng trên 70%), tiếp đến loại hình chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và Ngân Hàng liên doanh (chiếm gần 15%). Hiện nay có 6 Ngân hàng thương mại quốc doanh sở hữu 100% vốn của nhà nước, song thực chất chỉ có 4 Ngân Hàng kinh doanh thương mai (Ngân Hàng công thương, Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển Nông Thôn) còn có 2 Ngân hàng hoạt động như Ngân hàng chính sách (Ngân Hàng người nghèo và Ngân hàng Đồng Bằng Sông Cửu Long). Mặc dù vậy, các Ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn nắm vai trò chủ đạo vì đây đều là những Ngân hàng có vốn lớn, có mạng luới rộng khắp trên toàn quốc (như Ngân hàng nông nghiệp có chi nhánh cấp 4 tới tận phường xã) Khách hàng hầu như là đại đa số các doanh nghiệp Việt Nam và các tổng công ty lớn từ các thành phố lớn đến cả những vùng nông thôn miền núi. Ngoài các Ngân hàng thương mại quốc doanh còn có các Ngân hàng nước ngoài và Ngân hàng liên doanh cũng chiếm thị phần 15% toàn hệ thống. Đặc biệt vào giai đoạn tham gia hội nhập này thì Ngân hàng nước ngoài thường có vốn lớn và uy tín trên thế giới. Do đó mà sẽ có lợi thế trong cạnh tranh với các Ngân hàng trong nước. Do vậy tầm quan trọng là củng cố và lành mạnh hoạt động các Ngân hàng thương mại quốc doanh và quản lí có hiệu quả các hoạt động của nó có vai trò quan trọng mang tính chiến lược. Từ đó cần phải có những đánh giá tổng hợp về tình hình hoạt động về vốn, về khả năng huy động vốn, sử dụng và quản lý nguồn vốn của ngân hàng thương mại.Tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại quốc doanh cho đến nay mặc dù đã được chính phủ cấp bổ sung vốn điều lệ song vẫn còn nhiều vấn đề.Tình trạng nợ nần dây dưa quá hạn còn phổ biến, số lượng nhiều, môi trường kinh doanh còn nhiều rủi ro, tỷ lệ rủi rỏ trong hoạt động ở các ngân hàng này còn cao (hệ số an toàn Cook bình quân chỉ vào khoảng 5% trong khi thông thường thì tỷ lệ này tối thiểu phải là 8%).Việc củng cố các Ngân hàng thương mại quốc doanh cần phải nâng cao khả năng quản lý chặt chẽ hơn. Nhưng thực tế để đánh giá một cách chính xác kết quả hoạt động tài chính của Ngân hàng rất khó khăn. Vì nghiệp vụ kế toán còn có nhiều điều khác với các tiêu chuẩn quốc tế.Thông tin hiện có về hoạt động ngân hàng còn thiếu, tản mạn và không đầy đủ. Khó tính được lợi nhuận Ngân hàng vì ít được biết về thực tế dự phòng của Ngân hàng. Những số liệu sẵn có duy nhất làm rõ được hiệu năng và chất lượng của vốn đầu tư chứng khoán của Ngân hàng đó là số liệu liên quan đến các khoản dịch vụ thanh toán nợ quá hạn. Nó cũng chính là một trong những chỉ tiêu đánh giá công tác quản lý nguồn vốn ở Việt Nam. B.2. Đánh giá về cơ cấu nguồn vốn và quản lý nguồn vốn trong Ngân hàng thương mại hiện nay. Hiện nay về quản lý cơ cấu nguồn vốn trở nên cần thiết đối với các Ngân hàng thương mại. Bởi thực trạng mất cân đối trong cơ cấu nguồn vốn ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản. Đầu tư vốn tín dụng trung và dài hạn là yêu cầu mang tính khách quan của nền kinh tế trong thời kì công nghiệp hoá. ở nước ta, các ngành kinh tế quốc dân đều có nhu cầu rất lớn về vốn đầu tư dài hạn để tạo lập cơ sơ vật chất ban đầu, đổi mới công nghệ hay mở rộng quy mô sản xuất. Do đó mà vai trò vốn tín dụng chiếm vị trí quan trọng trong tổng số vốn đầu tư và đứng trước yêu cầu cấp thiết để phát triển các ngành kinh tế quốc dân. Thế nhưng hiện nay, nhiều Ngân hàng và các tổ chức tín dụng chỉ dành một phần nhỏ trong tổng số vốn của mình để đầu tư tín dung trung và dài hạn, so với nhu cầu rất cao của các ngành kinh tế, thậm chí ngay cả trong các thời kì không tìm được đầu ra cho tín dụng ngắn hạn. Qua tìm hiêủ ta thấy rằng vấn đề khó khăn là tỷ lệ quy định cho vay dài hạn trong tổng huy động vốn quá thấp, hơn nữa việc sử dụng vốn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn sẽ gặp khó khăn về vấn đề thanh toán. Trong trường hợp này đặt ra về xác định tỷ lệ cơ cấu nguồn vốn huy động ngắn hạn dùng để cho vay trung và dài hạn. Từ thực trạng đặt ra trên thì cần có hướng giải pháp tạo ra nguồn huy động trung và dài hạn để có thể thực hiện tín dụng dài hạn. Từ thực tiễn ở Ngân hàng thương mại hiện nay chúng ta rút ra một số tác động và hướng về huy động. Theo các nhà nghiên cứu cho rằng để huy động nguồn vốn trung và dài hạn không đâu xa mà khai thác nguồn từ số dư cáctài khoản tiền gửi ngắn hạn mà các Ngân hàng tập trung được. Ta có thể nói cơ cấu huy động có ảnh hưởng rất lớn đến xác định cơ cấu cho vay.Do đó số dư trên tài khoản tiền gửi tương đối vững chắc làm tiền đề tạo vốn . Việc vững chắc của số dư là do các Ngân hàng tạo được tổng số dư các tài khoản huy động vốn ổn định trong một thời gian dài , thì đó chính là nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn . ở đây , đó là một tập hợp số có vốn huy động , không phân biệt ngắn hạn hay dài hạn, cho dù huy động ngắn hạn là chủ yếu đi chăng nữa . Do đó đặt ra tiêu chí cố định là việc huy động vốn ngắn hạn là nguồn để cho vay ngắn hạn , và đồng thời không phải là không huy động vốn dài hạn thì sẽ không có nguồn để cho vay dài hạn . Việc huy động vốn trung và dài hạn giữ vay trò làm tăng tính vững chắc của số dư vốn huy động. Trong phạm vi từng Ngân hàng thương mại , nếu có tỷ trọng vốn trung và dài hạn cao thì có thể chủ động hơn về các kỳ hạn cho vay (và chủ động chi trả tiền gửi cho khách hàng) chứ không hoàn toàn giữ vai trò chủ yếu trong việc tạo nguồn cho vay trung và dài hạn cũng không thể nói huy động ngắn hạn giữ vài trò thiết yếu. Mặt khác quan điểm tạo vốn hiện nay theo cơ chế thị trường hiện nay mang tính quảng đại về một tập hợp nguồn tiền vào quỹ Ngân hàng, mà không nặng nề về chi tiết, nói cách khác nó phụ thuộc vào chính sách thể lệ hấp dẫn của các thể lệ tiền gửi. Cụ thể là vốn để cho vay trung và dài hạn không hoàn toàn phụ thuộc vào việc các thể lệ tiền gửi có hấp dẫn không? thời gian ra sao? lãi suất cao hay thấp? mà ở chỗ ở NHTM có tạo ra được cơ hội tốt nhất, khơi ra được các cơ hội tốt nhất, khơi ra được các dòng chảy tự nhiên . Để hầu hết mọi khoản tiền đều chảy qua và đọng lại quỹ NH một con số đáng kể hay không. Do đó đòi hỏi công tác quản lý làm rõ một số vấn đề như: Tổng nguồn vốn huy động có tỷ trọng tiền gửi ngắn hạn cao thì giá cả đầu vào của tín dụng sẽ hạ thấp tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại hạ giá đầu ra. Có được điều này là một ưu thế lớn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, một khi tỉ suất lợi nhuận bình quân đã chi phối hầu hết các doanh nghiệp, họ đòi hỏi lãi suất cho vay của Ngân hàng phải giảm thấp. Các Ngân hàng hiện nay đã có xu hướng giảm lãi suất sàn và trần của tín dụng gần với lãi suất chung của các nền kinh tế thị trường phát triển. Việc hạ thấp lãi suất chính là kích thích đầu tư, những người gửi tiền vào Ngân hàng không hoàn toàn coi đó là một cách đầu tư đơn giản để kiếm lãi suất, do sự hấp dẫn của lãi suất như trong thời kỳ lạm phát. Dần dần người gửi tiền không còn cân nhắc lựa chọn nhiều về các thể lệ có lãi suất cao (tương đương với kỳ hạn dài) vì chênh lệch lãi suất cao (tương đương với các kỳ hạn dài). Vì chênh lệch lãi suất rất nhỏ, lại bất tiện hơn vì bị ràng buộc bởi các kỳ hạn của thể lệ tiền gửi. Khi đó, điều quan tâm nhất của họ là tính an toàn hay uy tín của Ngân hàng về mức độ tiện ích của thể lệ gửi tiền và các công cụ thanh toán, cùng với chất lượng phục vụ của Ngân hàng. Khi trên thị trường đã phổ biến rộng rãi các công cụ thanh toán như séc, thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động, các dịch vụ của Ngân hàng tốt hơn như gửi một nơi, rút ở các nơi khác, chuyển tiền nhanh chóng an toàn …thì chính các tài khoản tiền gửi thanh toán và tiền gửi hoạt ký khác, mặc dù với lãi suất thấp, vẫn sẽ chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số dư các tài khoản tiền gửi tại các Ngân . Vì thế , việc huy động vốn của Ngân hàng sẽ dễ dàng hơn, việc kinh doanh có hiệu quả hơn. Trong thực tế , việc tăng khả năng huy động đó cũng dựa trên uy tín của Ngân hàng trong lĩnh vực hoạt động .Ngân hàng thương mại mà phục vụ tốt ( ví như các Ngân hàng thương mại cổ phần ) các khoản tiền gửi hoạt ký ngắn ngày được gọi là tiền ký thác , không những không phải trả lãi cho người gửi mà còn thu được những khoản tiền có tên gọi phí dịch vụ đáng kể . Như vậy, khi kinh tế thị trường phát triển, chưa hẳn các thể lệ huy động vốn có kỳ hạn dài, lãi suất cao được coi là ưu thế tạo vốn của Ngân hàng . Hiện nay, do chất lượng phục vụ chưa cao, nên hầu hết các Ngân hàng thương mại lấy các thể lệ huy động có định kỳ dài hạn với lãi suất cao hơn làm cộng cụ chính để tạo vốn. Việc các loại tiền gửi này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn, chính là một bất lợi trong kinh doanh. Trước hết, lãi suất cao là một gắng nặng cho người vay ( gồm cả chính Ngân hàng và người vay NH ) . Do đó việc huy động quá nhiều tiền gửi định kỳ có lãi suất cao không phải là cách của các Ngân hàng) tiên tiến. Và những kế hoạch cho vay dài hạn được lập ra ăn khớp với kỳ hạn của vốn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0941.doc
Tài liệu liên quan