Một số vấn đề pháp lý về tổ chức lại doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 1999

Lời nói đầu Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2000, là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp như Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân. Sau khi Luật doanh nghiệp ra đời, Chính phủ, các Bộ, ngành có liên quan đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành… Cùng với Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật hợp tác

doc48 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1563 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề pháp lý về tổ chức lại doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 1999, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xã, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước..., Luật Doanh nghiệp được ban hành đã đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tại Việt Nam, phục vụ cho nền công nghiệp hoá, hiện đại hóa nước nhà. Tuy nhiên sau hơn bốn năm thi hành, Luật doanh nghiệp cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định; nhiều quy định tỏ ra bất hợp lý, cần phải có những sửa đổi, bổ sung kịp thời; nhiều vấn đề phát sinh cần được nghiên cứu, lý giải để để góp phần xây dựng cơ chế thi hành Luật doanh nghiệp có hiệu quả trong đời sống xã hội. Nói cách khác là sau một thời gian phát huy hiệu lực, bên cạnh những thành tựu rất đáng ghi nhận, thì cũng dần xuất hiện không ít những vấn đề khó khăn cần phải được giải quyết, cả về lý luận cũng như cơ chế thi hành. Việc nghiên cứu vấn đề pháp lý về tổ chức lại doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp trở nên hết sức cấp thiết, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang cố gắng để hội nhập với nền kinh tế thế giới. Vì lý do đó, tôi đã chọn đề tài “Một số vấn đề pháp lý về tổ chức lại doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 1999 ”. Do trình độ và thời gian còn nhiều hạn chế, cũng như phạm vi rộng và tính phức tạp của đề tài, tiểu luận không thể tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự giúp đỡ và ý kiến đóng góp từ các thầy cô giáo để bài viết được hoàn thiện hơn. Chương I Khái quát chung về Luật doanh nghiệp I. Sự ra đời luật doanh nghiệp Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ra đời vào giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới (được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1990) đã thể hiện bước đột phá, đánh dấu sự thay đổi trong tư duy kinh tế của Đảng và Nhà nước, tạo cơ sở chính trị, pháp lý cho sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta. Với tính thời sự và tầm quan trọng của công cuộc đổi mới kinh tế mà Đảng và Nhà nước ta đề ra và quan tâm thực hiện, những quy định trong Luật công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân ban hành trước đây tỏ ra không còn thích hợp với nội dung tương ứng của một số Luật khác có liên quan, đặc biệt là Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Bộ luật dân sự, Luật thương mại… Ngoài ra, cũng phải kể đến trình độ phát triển về kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay đã đạt được mức cao hơn đáng kể so với 10 năm trước đây. Chính sự phát triển đó đã tạo ra lý do chủ yếu thúc đẩy việc ban hành Luật doanh nghiệp trên cơ sở hợp nhất Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Luật Doanh nghiệp có phạm vi điều chỉnh mở rộng hơn, nội dung đầy đủ bao quát hơn, phù hợp hơn với yêu cầu quản lý Nhà nước và yêu cầu đa dạng hoá hình thức kinh doanh, thúc đẩy, huy động nội lực phát triển kinh tế trong giai đoạn mới. Luật doanh nghiệp đã được xây dựng trên cơ sở bám sát các tư tưởng chỉ đạo sau đây: Một là, Quán triệt đầy đủ tư tưởng, nội dung, tinh thần của Nghị quyết hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 4 khóa VIII về tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh theo pháp luật. Hai là, Hiến pháp năm 1992, các Bộ Luật, Luật đã ban hành liên quan đến hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp. Ba là, Nội dung luật doanh nghiệp trước hết phải xuất phát từ thực tiễn, từ yêu cầu cuộc sống đang đòi hỏi, giải quyết những vướng mắc của đời sống kinh tế đồng thời tạo ra động lực mới thúc đẩy mạnh mẽ sức mạnh nội lực. Bốn là, Kế thừa những kinh nghiệm quý báu đúc kết được trong quá trình thực hiện Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân, cũng như học tập tham khảo kinh nghiệm của các nước để xây dựng Luật doanh nghiệp hiện đại góp phần thích nghi và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế nước ta vào kinh tế khu vực và thế giới. Trên tinh thần đó, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá X ngày 12/6/1999, Luật doanh nghiệp đã được thông qua, đánh dấu một bước tiến mới, quan trọng trong quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng hơn để thúc đẩy, khuyến khích các nhà đầu tư phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, nhằm “góp phần phát huy nội lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế, bảo đảm quyền tự do, bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh”. Những nội dung cơ bản của Luật doanh nghiệp Phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp Thay thế Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Doanh nghiệp quy định việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình công ty và doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp Nhà nước sau khi được cổ phần hoá, kể cả trường hợp Nhà nước có cổ phần chi phối tại doanh nghiệp; doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp. Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp thì những loại hình doanh nghiệp sau đây thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành: + Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân được thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp; + Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân đã thành lập theo quy định của Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ngày 21 tháng 12 năm 1990 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật sửa đổi một số điều của Luật công ty ngày 22 tháng 6 năm 1994; + Công ty cổ phần được thành lập từ việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước; + Công ty cổ phần được cổ phần hoá doanh nghiệp của Đảng, doanh nghiệp của tổ chức chính trị – xã hội; + Công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập từ việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước; + Công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập từ việc chuyển đổi doanh nghiệp của Đảng, doanh nghiệp của tổ chức chính trị – xã hội. Luật doanh nghiệp, cụ thể là các quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị – xã hội đăng ký và hoạt động. Như vậy, Luật doanh nghiệp điều chỉnh phần lớn các loại hình doanh nghiệp thành lập và hoạt động tại Việt Nam (trừ Hợp tác xã, Doanh nghiệp Nhà nước, và Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam). Đối tượng được quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp và góp vốn vào doanh nghiệp. Theo quy định của Luật doanh nghiệp, đối tượng được quyền thành lập, góp vốn và quản lý doanh nghiệp được mở rộng hơn so với Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Trong Luật doanh nghiệp vấn đề người được quyền góp vốn, thành lập và quản lý doanh nghiệp được quy định theo phương pháp loại trừ, theo đó mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền thành lập, quản lý và góp vốn vào doanh nghiệp, trừ trường hợp bị cấm được liệt kê trong Luật (điều 9, điều 10). Cách tiếp cận này của Luật doanh nghiệp tạo lập được các công cụ pháp lý để tập trung huy động vốn kinh doanh. Để huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, Luật doanh nghiệp mở rộng tối đa phạm vi các chủ thể có nguồn lực được đóng góp vào hoạt động kinh doanh. Thủ tục thành lập doanh nghiệp.   So với Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Doanh nghiệp đã có bước tiến quan trọng trong các quy định về thủ tục thành lập doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp xoá bỏ thủ tục “xin – cho” trong thành lập doanh nghiệp. Nhằm khắc phục những hạn chế của Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân và thực hiện chủ trương cải cách thủ tục hành chính trong việc thành lập doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp đã hoàn thiện những quy định về thành lập và đăng ký kinh doanh theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính và hồ sơ, đề cao trách nhiệm của người đăng ký kinh doanh trong việc bảo đảm tính chính xác, trung thực. So với Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân, các quy định về thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh của Luật doanh nghiệp đã có những đổi mới cơ bản như: xoá bỏ chế độ xin phép thành lập, chỉ thực hiện việc đăng ký kinh doanh; coi việc thành lập doanh nghiệp là quyền tự do kinh doanh, được pháp luật bảo đảm, góp phần xoá bỏ cơ chế “xin-cho” đang tồn tại khá phổ biến trong đời sống kinh tế-xã hội nước ta. Đây chính là một bước tiến mới trong việc thực hiện nguyên tắc tự do kinh doanh của Luật doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp quán triệt tư tưởng “thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật là quyền của công dân và tổ chức được Nhà nước bảo hộ” đã quy định giản đơn về hồ sơ đăng ký kinh doanh. Ngoại trừ việc thành lập doanh nghiệp kinh doanh một số ngành nghề kinh doanh phải có vốn pháp định và chứng chỉ hành nghề, hồ sơ đăng ký kinh doanh chỉ bao gồm: (i) Đơn đăng ký kinh doanh; (ii) Điều lệ đối với công ty; (iii) Danh sách thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, danh sách thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, danh sách cổ đông cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần. Bên cạnh việc đơn giản hoá thủ tục thành lập doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp còn bãi bỏ quy định về vốn pháp định đối với doanh nghiệp ở hầu hết các ngành nghề. Với mục đích phát huy nội lực, huy động tối đa nguồn lực trong dân chúng, Luật doanh nghiệp không quy định vốn pháp định là một điều kiện để thành lập doanh nghiệp, trừ các doanh nghiệp kinh doanh ở một số ngành nghề được quy định trong các luật chuyên ngành. Như vậy, theo Luật Doanh nghiệp thì chỉ có một số ngành nghề nhất định mới đòi hỏi có xác nhận vốn pháp định (như kinh doanh vàng, bảo hiểm, tín dụng…). Ngoài ra Luật doanh nghiệp cũng không yêu cầu nhà đầu tư phải xuất trình phương án kinh doanh và những xác nhận khác về nhân thân của chủ đầu tư như giấy chứng nhận sức khoẻ, hộ khẩu thường trú khi đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp mà chỉ kê khai các thông tin này theo mẫu quy định. Tóm lại, Luật doanh nghiệp đã thực hiện một cuộc cải cách thủ tục hành chính trong việc thành lập doanh nghiệp theo hướng gộp việc xin phép thành lập và đăng ký kinh doanh thành một, đồng thời chỉ giữ lại những thủ tục, hồ sơ thực sự cần thiết trên cơ sở yêu cầu nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Những cải cách đó sẽ giảm bớt được chi phí về thời gian, công sức và tiền bạc cho việc thành lập doanh nghiệp, đồng thời cũng giúp cho doanh nghiệp có được sự chủ động trong hoạt động. Những cải cách đó cũng sẽ tháo bỏ được một cản trở đã tồn tại nhiều năm qua đối với việc thành lập doanh nghiệp, làm cho việc thành lập doanh nghiệp để kinh doanh trở nên hấp dẫn hơn đối với dân chúng và doanh nghiệp, qua đó giúp cho xã hội huy động được nguồn vốn đưa vào phát triển kinh doanh, làm tăng sức cạnh tranh của thị trường để làm cho nền kinh tế phát triển hiệu quả hơn. Các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp. Đây là một nội dung hoàn toàn mới của Luật Doanh nghiệp so với Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Mục đích và ý nghĩa của Luật doanh nghiệp khi quy định về các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong tổ chức vận hành hoạt động kinh doanh. Bởi vì có thể cũng là một loại hình kinh doanh, nhưng tại giai đoạn này thì phù hợp , nhưng sang giai đoạn khác lại không phù hợp nữa. Việc quy định các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp đã tạo ra cơ hội cho các nhà đầu tư có thể thay đổi hình thức kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển kinh tế. Hơn nữa, việc đưa ra một khung pháp lý để tổ chức lại doanh nghiệp nhằm giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, bảo vệ được lợi ích của các bên liên quan như chủ nợ, người lao động, Nhà nước .. Luật doanh nghiệp đã quy định khá đầy đủ về vấn đề tổ chức lại doanh nghiệp. Các quy định về tổ chức lại doanh nghiệp trong Luật doanh nghiệp được xây dựng trên cơ sở vận dụng những nguyên tắc chung về tổ chức lại pháp nhân đợc quy định trong Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp được đề cập trong Luật doanh nghiệp có nội dung là tổ chức lại công ty, cụ thể như sau: 4.1.Chia doanh nghiệp Chia doanh nghiệp là biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp được áp dụng cho công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, theo đó công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần được chia thành một số công ty mới cùng loại. Viêc chia công ty do Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc Đại hội đồng cổ đông của công ty quyết định. Quyết định chia công ty phải có các nội dung chủ yếu: tên, trụ sở công ty hiện có, số lượng công ty sẽ thành lập; nguyên tắc và thủ tục chia tài sản công ty; phương án sử dụng lao động, thời hạn và thủ tục chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị chia sang công ty mới thành lập; nguyên tắc giải quyết các nghĩa vụ của công ty bị chia, thời hạn chia công ty. Sau khi xác lập tư cách pháp lý cho các công ty mới (đăng ký kinh doanh), công ty bị chia chấm dứt sự tồn tại. Các công ty mới thành lập phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị chia, trừ trường hợp chủ nợ và các công ty mới thành lập có thoả thuận khác. 4.2.Tách doanh nghiệp Tách doanh nghiệp là biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp được áp dụng cho công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, theo đó một phần tài sản, quyền và nghĩa vụ của công ty hiện có (công ty bị tách) được tách ra để thành lập một hoặc một số công ty mới cùng loại (công ty được tách) mà không chấm dứt sự tồn tại của công ty bị tách. Việc tách công ty do Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc Đại hội đồng cổ đông của công ty quyết định. Quyết định tách công ty phải có các nội dung chủ yếu : tên, trụ sở công ty bị tách, số lượng công ty được tách; phương án sử dụng lao động; giá trị tài sản, các quyền và nghĩa vụ được chuyển từ công ty bị tách sang công ty được tách, thời hạn thực hiện tách công ty. Sau khi xác lập tư cách pháp lý cho công ty được tách, công ty bị tách và công ty được tách phải liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị tách phát sinh trước khi tách công ty, trừ trường hợp chủ nợ, ngời có quyền và lợi ích liên quan và công ty bị tách và công ty được tách có thoả thuận khác. 4.3. Hợp nhất doanh nghiệp Hợp nhất là biện pháp tổ chức lại được áp dụng cho tất cả các loại hình công ty, theo đó hai hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị hợp nhất) hợp nhất thành một công ty mới (gọi là công ty hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị hợp nhất. Để thực hiện việc hợp nhất, các công ty bị hợp nhất phải thiết lập một hợp đồng gọi là hợp đồng hợp nhất. Hợp đồng hợp nhất phải có các nội dung chủ yếu: tên, địa chỉ trụ sở công ty bị hợp nhất và công ty hợp nhất; thủ tục và điều kiện hợp nhất; phương án sử dụng lao động; thời hạn, thủ tục và điều kiện chuyển đổi tài sản, chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị hợp nhất thành vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty hợp nhất; thời hạn thực hiện hợp đồng hợp nhất. Các thành viên, cổ đông của công ty bị hợp nhất thông qua hợp đồng hợp nhất, Điều lệ công ty hợp nhất, thiết lập bộ máy tổ chức quản lý công ty và đăng ký kinh doanh cho công ty hợp nhất. Sau khi đăng ký kinh doanh cho công ty hợp nhất, các công ty bị hợp nhất chấm dứt sự tồn tại, công ty hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các công ty bị hợp nhất. 4.4. Sáp nhập doanh nghiệp Sáp nhập là biện pháp tổ chức lại được áp dụng cho tất cả các loại hình công ty, theo đó một hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị sáp nhập) sáp nhập vào một công ty mới (gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập. Để thực hiện việc sáp nhập, các công ty có liên quan (công ty bị sáp nhập và công ty nhận sáp nhập) phải thiết lập một hợp đồng gọi là hợp đồng sáp nhập. Hợp đồng sáp nhập phải có các nội dung chủ yếu: tên, địa chỉ trụ sở công ty bị sáp nhập và công ty nhận sáp nhập; thủ tục và điều kiện sáp nhập; phương án sử dụng lao động; thời hạn, thủ tục và điều kiện chuyển đổi tài sản; chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị sáp nhập thành vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty nhận sáp nhập; thời hạn thực hiện hợp đồng sáp nhập. Các thành viên, cổ đông của các công ty có liên quan thông qua hợp đồng sáp nhập, Điều lệ công ty nhận sáp nhập và đăng ký kinh doanh cho công ty nhận sáp nhập. Sau khi đăng ký kinh doanh cho công ty nhận sáp nhập, các công ty bị sáp nhập chấm dứt sự tồn tại, công ty nhận sáp nhập được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các công ty bị sáp nhập. 4.5. Chuyển đổi doanh nghiệp Chuyển đổi doanh nghiệp được hiểu là biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp theo đó một doanh nghiệp loại hình này (doanh nghiệp được chuyển đổi) chuyển thành một doanh nghiệp thuộc loại hình khác. Theo Luật doanh nghiệp thì chuyển đổi doanh nghiệp chỉ được áp dụng cho công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, theo đó công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc ngược lại. Để thực hiên việc chuyển đổi công ty, Hội đồng thành viên hoặc Đại hội đồng cổ đông của công ty được chuyển đổi thông qua quyết định chuyển đổi và Điều lệ công ty chuyển đổi. Quyết định chuyển đổi phải có các nội dung: tên, trụ sở công ty được chuyển đổi và công ty chuyển đổi; thời hạn và điều kiện chuyển tài sản, phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty được chuyển đổi thành tài sản, phần vố góp, cổ phần, trái phiếu của công ty chuyển đổi; phương án sử dụng lao động; thời hạn thực hiện chuyển đổi. Công ty chuyển đổi phải được đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền. Sau khi đăng ký kinh doanh cho công ty chuyển đổi, công ty được chuyển đổi chấm dứt tồn tại. Công ty chuyển đổi được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty được chuyển đổi. Giải thể doanh nghiệp Theo Luật doanh nghiệp, vấn đề giải thể doanh nghiêp tư nhân và công ty được quy định chung. Luật doanh nghiệp có quy định các trường hợp giải thể tự nguyện và các trường hợp giải thể bắt buộc, nhưng chỉ quy định một thủ tục để tiến hành giải thể cho dù là giải thể tự nguyện hay giải thể bắt buộc. Thủ tục giải thể doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp bao gồm các bước cơ bản là: (1)Thông qua quyết định giải thể, (2)Gửi quyết định giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh, các chủ nợ, người có quyền và lợi ích liên quan và đăng báo quyết định giải thể, (3)Tiến hành thanh lý tài sản, thanh toán các khoản nợ và thanh lý các hợp đồng, (4)Cơ quan đăng ký kinh doanh xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp Mục tiêu của Luật doanh nghiệp trong việc đưa ra những quy định về quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp là tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc thành lập doanh nghiệp; nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với doanh nghiệp; góp phần ngăn ngừa khả năng một số cán bộ, công chức lợi dụng quyền hạn được giao để sách nhiễu, gây phiền hà cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp. II. Những thành tựu đạt được Trong hơn 3 năm thi hành Luật doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, cộng đồng doanh nghiệp đã làm được nhiều việc và thu được những kết quả nổi bật trong đổi mới phát triển kinh tế đất nước. Những kết quả quan trọng phải kể đến là: Về phía các cơ quan Nhà nước, Trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã ban hành tương đối kịp thời và đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành. Để thi hành Luật doanh nghiệp, ngày 3 tháng 2 năm 2000, Thủ tướng Chính phủ đã ký 3 văn bản quan trọng hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp, đó là: Nghị định số 02/2000/NĐ - CP về đăng ký kinh doanh; Nghị định số 03/2000/ NĐ - CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp; Quyết định 19/2000/QĐ -TTg về bãi bỏ 84 loại giấy phép trái với quy định của Luật doanh nghiệp. Ngày 2/3/2000, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư 03/2000/TT-BKH hướng dẫn về trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp quy đinh tại Luật doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể, ban hành 25 biểu mẫu về kinh doanh và đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước. Như vậy, chỉ sau một tháng, kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, Chính phủ đã ban hành được các văn bản quan trọng nhất hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp, đảm bảo thực thi những tư tưởng đổi mới chủ yếu của Luật về quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, đảm bảo việc đăng ký kinh doanh được tiến hành thuận lợi. Có thể nói, tuy có chậm hơn so với yêu cầu cuộc sống, song việc hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp đã được tiến hành khẩn trương, nghiêm túc và có nhiều tiến bộ hơn so với một số Luật khác. Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm theo dõi và trực tiếp chỉ đạo việc triển khai thi hành Luật doanh nghiệp. Ngày 22/5/2000 tại công văn số 34/CP-ĐMDN về việc thi hành Luật doanh nghiệp, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, cơ quan có liên quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết một số vấn đề vướng mắc trong việc thực hiện Luật doanh nghiệp. Trong quá trình thực hiện Luật doanh nghiệp, Chính phủ tiếp tục xem xét, rà soát, bãi bỏ các loại giấy phép con trái với quy đinh của Luật doanh nghiệp. NĐ 30/CP (có hiệu lực từ ngày 26/8/2000 ra đời, bãi bỏ 61 giấy phép con, và chuyển một số giáy phép này thành điều kiện kinh doanh. Về tổ chức hoạt động của các loại hình doanh nghiệp Luật doanh nghiệp ra đời là khâu đột phá trong đổi mới tư duy kinh tế, nhất là tư duy về quyền và nghĩa vụ của công dân, của cơ quan Nhà nước, thúc đẩy xây dựng và thực thi luật pháp theo nguyên tắc “công dân được quyền kinh doanh tất cả các ngành, nghề mà pháp luật không cấm”. Luật doanh nghiệp tạo ra một bước phát triển mới, thực sự cải cách khâu gia nhập thị trường; tức là tự do thành lập doanh nghiệp với các hình thức khác nhau (với thủ tục thành lập đơn giản ít tốn kém); tự do lựa chọn, thay đổi và bổ sung thêm ngành nghề kinh doanh mới; tự do lựa chọn địa bàn kinh doanh, và mở rộng kinh doanh sang địa bàn, vùng lãnh thổ mới, v.v… Những cản trở đối với các công việc nói trên về cơ bản đã được xoá bỏ. Thời gian trung bình cần thiết để thành lập được doanh nghiệp trước năm 2000 là 90 ngày, thì nay rút xuống còn 7 ngày; nhiều nơi đã rút xuống còn 2 đến 4 ngày, so với thời hạn 15 ngày theo luật định. Tại thành phố Hồ Chí Minh đã thử nghiệm đăng ký kinh doanh qua mạng, rút ngắn thời hạn đăng ký kinh doanh xuống chỉ còn 1 giờ. Chi phí trung bình bằng tiền để thành lập một doanh nghiệp trước đây là hơn 10 triệu đồng (có trường hợp cá biệt là 380 triệu đồng) thì nay giảm xuống còn 500 ngàn đồng. Thành tựu đạt được từ việc thực hiện Luật Doanh nghiệp còn thể hiện ở chỗ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của người dân được thể chế hoá và đảm bảo tốt hơn; nhờ đó, mọi tổ chức, cá nhân muốn thành lập doanh nghiệp đều thành lập được doanh nghiệp một cách kịp thời và nhanh chóng. Khảo sát thực tế cho thấy không ít người đã có ý định thành lập doanh nghiệp từ 2 - 3 năm trước đây nhưng đã không làm được điều đó; bởi vì, họ không xin được giấy phép thành lập, hoặc khi đã xin được giấy phép thành lập rồi thì lại không xin được các loại giấy phép kinh doanh khác. Luật doanh nghiệp đã trở thành công cụ pháp lý bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp; là yếu tố góp phần củng cố niềm tin của ngời dân vào công cuộc đổi mới. Có thể nói, việc thực hiện Luật doanh nghiệp đã thổi một luồng sinh khí mới vào môi trờng kinh doanh, khơi dậy và thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, tinh thần tự do sáng tạo và tự chủ trong kinh doanh, làm cho cộng đồng doanh nghiệp tự tin hơn trong hoạt động đầu tư và kinh doanh; tăng thêm sự tin tưởng của nhân dân vào đường lối và chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước. Nhân dân nói chung và cộng đồng doanh nghiệp nói riêng đã ủng hộ, hưởng ứng và đón nhận “luồng sinh khí mới” một cách tích cực trên phạm vi toàn quốc. Đa số các doanh nghiệp đã nhận thức được sự thay đổi và quyền kinh doanh và nhanh chóng phát huy sáng kiến, tận dụng các cơ hội kinh doanh, trên nguyên tắc được kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Rõ ràng, Luật doanh nghiệp là một trong các điển hình về “ý Đảng hợp lòng dân”, nhanh chóng phát huy tác dụng trong thực tế cuộc sống. Thực tế cho thấy: Số doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể mới thành lập tăng gấp nhiều lần so với những năm trước đây. Ngay sau khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, trong năm 2000, đã có hơn 14.417 doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh, gấp khoảng 2,5 lần so với năm 1999. Số doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều tăng nhiều so với trước; có những tỉnh như Bắc Giang, Hà Giang, Hà tĩnh, Quảng Bình, Hưng Yên… riêng số doanh nghiệp đăng ký mới trong năm 2000 bằng hoặc gần bằng số doanh nghiệp đăng ký trong suốt 9 năm (1991-1999). Trong số doanh nghiệp mới đăng ký, có khoảng 88% số doanh nghiệp thành lập mới, 9% số doanh nghiệp thành lập bằng chuyển đổi từ hộ kinh doanh cá thể và số còn lại chuyển đổi từ hợp tác xã và các loại hình doanh nghiệp khác. Tiếp đó, trong năm 2001 có 21.040 doanh nghiệp đăng ký thành lập, tăng gần 50% so với năm 2000. Tính tổng số trong 2 năm 2000-2001 đã có 37.457 doanh nghiệp mới đăng ký (gần bằng tổng số doanh nghiệp đăng ký trong suốt 9 năm 1991-1999). Ngoài ra, trong hai năm 2000-2001 còn có thêm gần 300.000 hộ kinh doanh cá thể mới đăng ký kinh doanh. Ba tháng đầu năm 2002, theo thống kê chưa đầy đủ đã có khoảng 4.200 doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh.   Trong 2 năm 2000-2001, các doanh nghiệp đã đăng ký mới và bổ sung tổng cộng gần 55.500 tỷ đồng vốn (khoảng gần 4 tỷ đô la Mỹ), không thấp hơn số vốn đăng ký đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong cùng thời kỳ. Năm 2000 gần 20.000 tỷ đồng (trong đó, có 14.000 tỷ đồng là vốn mới đăng ký và 6.000 tỷ đồng vốn mới đăng ký bổ sung), cao gấp 3 lần so với năm 1999. Năm 2001 là 35.500 tỷ đồng, trong đó vốn mới đăng ký là 26.500 tỷ đồng, và số vốn đăng ký mới bổ sung là 9.000 tỷ đồng; tăng hơn 1,78 lần so với năm 2000. Cơ cấu loại hình doanh nghiệp cũng có thay đổi quan trọng. Trong số doanh nghiệp thành lập năm 2000 có: 6412 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 44%), 7304 công ty trách nhiệm hữu hạn (chiếm 51%), 726 công ty cổ phần và 2 công ty hợp danh (trong những năm 1991-1999 Doanh nghiệp tư nhân chiếm khoảng 75% tổng số doanh nghiệp). Số công ty cổ phần mới thành lập trong năm 2000 nhiều hơn số Công ty cổ phần được thành lập trong 9 năm trước đó (không kể doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa). Doanh nghiệp mở rộng thêm quy mô và địa bàn kinh doanh với nhiều hình thức như mở thêm chi nhánh, văn phòng đại diện, đầu tư thêm vốn, sử dụng thêm lao động, v.v… cũng là hiện tượng mới rõ nét hơn nhiều so với thời kỳ trước đó. Nhờ môi trờng kinh doanh được cải thiện, nhất là không bị ràng buộc, khống chế bất hợp lý của các loại giấy phép, một số doanh nghiệp đã tận dụng hết năng lực sản xuất được xây dựng từ trước, hoặc đầu tư mở rộng thêm quy mô, địa bàn kinh doanh. Riêng trong năm 2000, trong cả nước có hơn 5000 chi nhánh, văn phòng đại diện được thành lập; có hơn 4000 doanh nghiệp đăng ký bổ sung thêm vốn kinh doanh, khoảng hơn 8000 doanh nghiệp đăng ký bổ sung thêm ngành nghề kinh doanh tập trung chủ yếu ở các ngành nghề đã bị bãi bỏ giấy phép. Ví dụ, ở Hà Nội, số doanh nghiệp đăng ký bổ sung ngành nghề kinh doanh trong các ngành, nghề bãi bỏ giấy phép tăng từ 6,7% năm 1999 lên 65% năm 2000. Số lượng lớn doanh nghiệp hiện có mở thêm chi nhánh, văn phòng đại diện, bổ sung thêm vốn, ngành, nghề kinh doanh trong năm 2000 cũng là hiện tượng chưa từng có trước đây ở nước ta. Xét về khía cạnh pháp lý, với những quy định mới trong Luật Doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trở nên ổn định và chắc chắn hơn; không còn bị giới hạn cả về nội dung và thời gian hạn hẹp và cứng nhắc của giấy phép (ví dụ, trước đây có giấy phép quy định doanh nghiệp chỉ được đóng tàu có trọng tải không quá 200 tấn; nếu doanh nghiệp đóng tàu có trọng tải lơn hơn 200 tấn thì bị coi là kinh doanh trái phép; có giấy phép quy định thời hạn 3 tháng như giấy chứng nhận đủ điều kiện phòng cháy, chữa cháy; hay kinh doanh photocopy cứ 2 tháng lại phải gia hạn một lần). Do không còn bị giới hạn phụ thuộc vào nội dung giấy phép, không phải đối mặt với nguy cơ không gia hạn được giấy phép hoặc gia hạn không kịp thời, doanh nghiệp đã được an toàn và yên tâm hơn trong đầu tư mở rộng kinh doanh. Nhờ đó, việc thi hành Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành đã khích lệ tinh thần kinh doanh, tạo điều kiện và thúc đẩy sự sáng tạo và linh hoạt trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Theo điều tra của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt nam thì việc bãi bỏ 84 loại giấy phép con theo Quyết định số 19/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã tiết kiệm trung bình cho mỗi doanh nghiệp hàng năm khoảng 4,5 triệu đồng và 21 ngày làm việc đối với người điều hành doanh nghiệp (cá biệt có doanh nghiệp tiết kiệm được 50 triệu đồng và 900 ngày công để đi xin phép). Như vậy, đối với khoảng 62 nghìn doanh nghiệp (bao gồm khoảng 45.000 Doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, Công ty cổ phần, 6000 doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp của Đảng, của tổ chức chính trị - xã hội, hơn 2000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, và gần 9000 hợp tác xã) đang hoạt động (không kể hộ kinh doanh cá thể), riêng về chi phí bằng tiền phải._. bỏ ra để xin phép (chưa kể chi phí đi lại, ăn ở, chi phí về thời gian) thì việc bãi bỏ 84 loại giấy phép đã giảm được khoảng gần 280 tỷ đồng chi phí kinh doanh.  Việc triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp đã góp phần bước đầu thúc đẩy chuyền biến tích cực về cơ cấu kinh tế Số liệu điều tra 300 doanh nghiệp thành lập trong 6 tháng đầu năm 2000 ở 6 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho thấy khoảng 32% doanh nghiệp kinh doanh các ngành sản xuất, chế biến; 26% kinh doanh dịch vụ thương mại, 15% kinh doanh xây dựng và dịch vụ thương mại; 21% kinh doanh dịch vụ khác, số còn lại đăng ký kinh doanh tổng hợp. Thực tế nói trên có hai điểm đáng chú ý. Một là, số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất có xu hướng tăng lên. Đó là dấu hiệu tích cực chứng tỏ người đầu tư đã tin tưởng, yên tâm hơn về tính ổn định của môi trường kinh doanh ở nước ta. Hai là, số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh các dịch vụ khác ngoài dịch vụ thương mại đã tăng thêm gấp nhiều lần so với trớc. Điều đó chứng tỏ đã có nhiều loại dịch vụ mới xuất hiện trong nền kinh tế, loại hình dịch vụ kinh doanh đã đa dạng hơn nhiều so với trước đây. Ngành nghề kinh doanh đăng ký và được thực hiện trên thực tế đa dạng và phong phú hơn nhiều. Hàng loạt ngành, nghề mới, các sản phẩm và dịch vụ mới xuất hiện (sản phẩm thủ công mỹ nghệ xuất khẩu được làm từ rơm, rạ; đất vi sinh được chế biến từ xơ dừa, dịch vụ điều tra dân sự, dịch vụ tư vấn đòi nợ, v.v…). Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng Tổng cục Thống kê đã tổng kết thực tế đa dạng và ban hành Danh mục hơn 939 loại ngành, nghề kinh doanh trong nền kinh tế. Việc thực hiện Luật Doanh nghiệp đã góp phần tích cực tạo thêm việc làm cho người lao động Theo báo cáo chưa đầy đủ của của các Sở Kế hoạch và Đầu tư, riêng các doanh nghiệp, các chi nhánh và văn phòng đại diện mới thành lập trong 2 năm qua đã tạo ra được khoảng từ 650.000 đến 750.000 chỗ làm việc mới cho người lao động. Ngoài ra, một số lượng không nhỏ doanh nghiệp đã tăng thêm vốn đầu tư, mở rộng thêm quy mô kinh doanh, và do đó cũng đã thu hút thêm lao động mới. Đó là chưa kể số việc làm mới được tạo ra bởi các hộ kinh doanh cá thể trong cả nước. Số công ăn việc làm mới được tạo ra nhờ tác động trực tiếp của Luật doanh nghiệp đã giải quyết công ăn việc làm cho khoảng gần 1/3 số lao động mới tăng thêm hàng năm trong nên kinh tế. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể đã và đang là nguồn chủ yếu tạo ra chỗ làm việc mới cho người lao động; góp phần không nhỏ vào việc cải thiện mức sống, đồng thời giải quyết các vấn đề bức xúc về xã hội. Những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện luật doanh nghiệp Về các loại hình doanh nghiệp Luật doanh nghiệp đã góp phần vào việc mở rộng mô hình tổ chức kinh doanh bằng việc quy định thêm mô hình công ty hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một tổ chức làm chủ. Đây là một tiến bộ mới trong việc đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp, góp phần mở rộng quyền tự do kinh doanh của các nhà đầu tư. Về vấn đề thành lập doanh nghiệp. Thứ nhất, việc đăng ký kinh doanh đối với những ngành nghề kinh doanh đòi hỏi phải có vốn pháp định. Trong hồ sơ đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp tại khoản 4 điều13 Luật doanh nghiệp có qui định: “đối với những doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định thì phải có thêm xác nhận về vốn của cơ quan tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật”. Thứ hai, việc đăng ký kinh doanh đối với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Khoản 2 Điều 17 Luật Doanh nghiệp quy định: “Doanh nghiệp có quyền hoạt động kinh doanh kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đối với những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì doanh nghiệp được quyền kinh doanh các ngành nghề đó kể từ ngày được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh hoặc có đủ điều kiện kinh doanh theo quy định”. Thứ ba, việc đăng ký kinh doanh với các ngành nghề mới. Với sự sáng tạo không ngừng của con người, nhất là dưới áp lực của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, việc phát sinh các ngành nghề kinh doanh mới là một lẽ tất nhiên. Thứ tư, những rắc rối mang tính “hậu đăng ký kinh doanh” Để khai sinh được một doanh nghiệp, công việc không chỉ do cơ quan đăng ký kinh doanh thực hiện là xong. Theo pháp luật hiện hành, sau khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải tiến hành việc đăng ký thuế với cơ quan thuế nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính và phải đợi cơ quan Công an cấp con dấu thì doanh nghiệp mới có thể tiến hành giao dịch được. Về vấn đề tổ chức lại doanh nghiệp. Thứ nhất, Luật doanh nghiệp quy định về sáp nhập, hợp nhất, chia, tách công ty với phạm vi rất hạn hẹp. Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ có thể được chia, tách thành các công ty cùng loại; cũng như vậy việc hợp nhất hay sáp nhập công ty cũng chỉ có thể được thực hiện giữa các công ty cùng loại với nhau. Thứ hai, Luật doanh nghiệp quy định chưa hợp lý về vấn đề chuyển đổi hình thức pháp lý của công ty. Chuyển đổi công ty là một trong những hình thức tổ chức lại công ty. Đây là một vấn đề mới lần đầu tiên được đề cập tới trong Luật doanh nghiệp. Những quy định tổ chức lại doanh nghiệp trong đó có chuyển đổi công ty đã đáp ứng được nhu cầu của các công ty, tạo điều kiện cho các công ty cải tổ, đổi mới lại cơ cấu tổ chức, loại bỏ các doanh nghiệp yếu kém, trì trệ, thua lỗ kéo dài nhằm cơ cấu lại nền kinh tế. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới và phức tạp nên Luật doanh nghiệp mới chỉ quy định về việc chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần và ngược lại (Điều 109 Luật doanh nghiệp), chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên. Việc quy định như trên đã phần nào hạn chế quyền tự do kinh doanh của chủ doanh nghiệp, giảm tính năng động của thị trường. Với quy định này, nhu cầu tổ chức lại doanh nghiệp trong nhiều trường hợp sẽ không được đáp ứng cho dù doanh nghiệp hoàn toàn có thể giải quyết tốt quyền lợi của các chủ nợ, cũng như của tập thể người lao động khi tiến hành tổ chức lại. Về vấn đề giải thể doanh nghiệp Gỉải thể doanh nghiệp là một thủ tục mang tính chất hành chính, hậu quả của nó là chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp trên thực tế. Giải thể trước hết là quyền của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Khoản 4 Điều 111 Luật doanh nghiệp còn quy định trường hợp giải thể bắt buộc, trường hợp này thì giải thể là một nghĩa vụ. Đó là khi doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (khoản 4 điều 111 Luật doanh nghiệp). Đây là một điểm mới của Luật doanh nghiệp so với luật Công ty năm 1990. Luật Công ty chỉ quy định về các trường hợp giải thể tự nguyện. Quy đinh về trường hợp giải thể bắt buộc là cần thiết, thể hiện tính chất cưỡng chế của Nhà nước đối với những doanh nghiệp có sự vi phạm luật dẫn đến bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (theo các trường hợp quy định tại khoản 3 điều 121 Luật doanh nghiệp). Có thể thấy rằng, có sự khác biệt rất rõ giữa giải thể tự nguyện và giải thể bắt buộc; một trường hợp do doanh nghiệp quyết định còn một trường hợp do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định bắt buộc doanh nghiệp phải giải thể vì kinh doanh vi phạm các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, điều 112 Luật doanh nghiệp lại quy định một thủ tục giải thể chung cho tất cả các trường hợp giải thể doanh nghiệp cho dù bản chất của hai trường hợp giải thể nói trên có sự khác nhau. Về cơ chế thi hành Luật doanh nghiệp. Một là, sự chậm chễ trong việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp. Hai là, không ít văn bản pháp luật được ban hành trong thời gian gần đây có nội dung không phù hợp, thậm chí trái với Luật doanh nghiệp. Ba là, việc nhận thức và tổ chức chỉ đạo thực hiện Luật trong không ít cơ quan thuộc hệ thống cơ quan Nhà nước còn thụ động, chưa đầy đủ và kém nhiệt tình, thậm chí có nơi còn trì hoãn hoặc làm trái. Năm là, cơ chế hậu kiểm còn nhiều bất cập. Có thể khẳng định rằng một trong những nội dung đổi mới nhất của Luật doanh nghiệp chính là việc thiết lập phơng thức quản lý mới đối với các loại hình doanh nghiệp phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trờng định hướng xã hội chủ nghĩa thay thế cho phương thức quản lý Nhà nước vẫn còn mang nặng dáng dấp của cơ chế tiền đổi mới. Luật doanh nghiệp chấp nhận một tư duy quản lý mới trong đó xác định rõ vai trò của Nhà nước là người thúc đẩy, hỗ trợ, hậu thuẫn doanh nghiệp phát triển chứ không phải là để cai trị, áp đặt ý chí cho doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp thể hiện tinh thần: trong quản lý Nhà nước, sự thuận tiện cho người dân và cho doanh nghiệp được coi là trọng tâm ưu tiên chứ không phải là sự thuận tiện của cơ quan, cán bộ công chức Nhà nước. Với tinh thần ấy, Luật doanh nghiệp là nền tảng pháp lý quan trọng để cải thiện mối quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp vốn đã tồn tại nhiều định kiến bất lợi cho doanh nghiệp. Phương thức quản lý mới mà Luật doanh nghiệp thiết lập thể hiện ở hai nội dung quan trọng là công dân, doanh nghiệp được làm tất cả những gì pháp luật không cấm và áp dụng cơ chế hậu kiểm đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, để phương thức quản lý Nhà nước kiểu mới đi vào trong cuộc sống là chuyện không giản đơn. Bởi lẽ, sự thay đổi ấy đi kèm với việc nảy sinh những vấn đề không dễ giải quyết như sau: + Về vấn đề thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp. Để đảm bảo được sự quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp, đảm bảo cho doanh nghiệp vận hành theo đúng mục tiêu của Nhà nước, hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp tất yếu phải được chú trọng. Điều đó lại càng đúng khi mà Nhà nước ta chuyển việc quản lý doanh nghiệp từ mô hình tiền kiểm sang hậu kiểm. Tuy nhiên, việc kiểm tra, thanh tra đối với doanh nghiệp thực sự có tính hai mặt. Mặt tích cực của nó có thể dễ dàng nhận thấy. Nhưng mặt hạn chế của nó không thể không tính đến đó là việc thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp luôn luôn gắn liền với các chi phí về thời gian và tiền bạc cho cả ngân sách Nhà nước (chi phí cho hoạt động của đoàn thanh tra, kiểm tra; chi phí cơ hội của doanh nghiệp phải mất đi khi dành thời gian hoặc tạm thời ngừng một số giao dịch phục vụ việc thanh tra, kiểm tra của các đoàn thanh tra) đồng thời nó là một cơ hội tốt cho một số cán bộ thoái hoá, biến chất làm công tác thanh tra, kiểm tra sẽ làm đội giá thành sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp dẫn tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và thế giới bị giảm sút đáng kể. Vậy là, ngay trên sân nhà, doanh nghiệp Việt Nam đã không được tôn trọng và được đối xử bằng một luật chơi công bằng. Thay đổi phương thức quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm chắc chắn phải chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra. Nhưng chú trọng như thế nào để không buông lỏng quản lý Nhà nước mà vẫn không gây phiền nhiễu, lãng phí cho doanh nghiệp. Có một thực tế là, mặc dù đã có Nghị định 61/1998/NĐ-CP ngày 15 tháng 8 năm 1998 về thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp nhưng hiện nay công tác thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp vẫn gặp nhiều vướng mắc gây nhiều bất lợi cho doanh nghiệp. Cụ thể là, tình trạng thanh tra, kiểm tra một cách chồng chéo hoạt động của doanh nghiệp vẫn chưa chấm dứt. Tình trạng hạch sách, gây phiền nhiễu đối với doanh nghiệp nhằm trục lợi riêng vẫn còn bị công luận và giới doanh nghiệp liên tục lên tiếng. Cho đến nay, về mặt chính sách, pháp luật thanh tra, nhiều điểm vẫn chưa rõ ràng khiến cho doanh nghiệp luôn bị rơi vào thế bất lợi. Chẳng hạn, thanh tra, kiểm tra có khác nhau hay không? Có bao nhiêu cơ quan có thẩm quyền vào thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp? Sự thật là, ngay cả các chuyên gia pháp luật cũng không dễ dàng gì khi trả lời câu hỏi này của doanh nghiệp. Trong thực tế, do phân cấp quản lý Nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ của nước ta chưa rõ ràng nên có tới hàng chục cơ quan có quyền thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp. Chẳng han, Uỷ ban nhân dân cấp xã cũng có quyền thanh, kiểm tra doanh nghiệp. Uỷ ban nhân dân cấp huyện cũng có quyền ấy, rồi Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, các cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành như lao động, tài chính, thuế, môi trường… của tỉnh và của Trung ương cững có quyền ấy. đó là chưa kể đến thẩm quyền kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát và của cảnh sát kinh tế đối với doanh nghiệp. Sự chậm trễ trong việc giải bài toán phân cấp thẩm quyền quản lý không chỉ làm giảm hiệu lực của bộ máy hành chính mà đang là một vật cản to lớn đối với tiển trình cải cách và phát triển kinh tế. Trong Diễn đàn Doanh nghiệp lần thứ 17: “Hậu kiểm doanh nghiệp: quan điểm và giải pháp” do Phòng Thương mại và Công nhgiệp Việt Nam tổ chức ngày 21 tháng 12 năm 2000, một thành viên của Tổ công tác thi hành Luật doanh nghiệp cho biết, hiện tại có hơn 140 văn bản quy phạm ở nhiều tầm, cấp hiệu lực pháp lý khác nhau quy định về việc thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp và có tới hơn 30 loại cơ quan có thẩm quyền thanh tra doanh nghiệp. Nếu tính về số đầu mối cơ quan có thẩm quyền thành tra, kiểm tra doanh nghiệp thì có thể khẳng định một nền kinh tế nhỏ như của Việt Nam mà có tới khoảng một trăm cơ quan các cấp có quyền thanh tra, kiểm tra để can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tại diễn đàn về cơ chế hậu kiểm do Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam phối hợp Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương tổ chức ngày 21 tháng 12 năm 2000 bàn về cách hiểu và và hướng hoàn thiện mô hình hậu kiểm đối với doanh nghiệp, đã cho thấy cho đến nay cách hiểu về cơ chế hậu kiểm, mô hình hậu kiểm vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất. Chẳng hạn, trong cơ chế hậu kiểm vai trò của các thành tố như công chúng, chủ nợ, người tiêu dùng, Nhà nước … cần phải được xác lập như thế nào? Làm thế nào để chủ nợ, người tiêu dùng, các cổ đông (của công ty cổ phần) có thể thực thi được quyền kiểm tra, giám sát của mình, họ có thể được kiểm tra, giám sát bằng các phương tiện nào, mức độ đến đâu? Làm sao để các doanh nghiệp, những người điều hành doanh nghiệp không lẩn tránh được sự kiểm tra, giám sát? Loại doanh nghiệp nào nên được kỉểm toán rồi việc các cơ quan Nhà nước nên thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp ra sao? Đây quả thực là những vấn đề chưa dễ trả lời. Trong thực tế, do không chú trọng việc kiểm tra các thông tin do doanh nghiệp tự kê khai trong hồ sơ đăng ký kinh doanh, nhiều doanh nghiệp đã được cấp giấy chứng nhận dăng ký kinh doanh dựa trên vốn ảo để phô trương thanh thế của mình trong hoạt đông kinh doanh. Không ít doanh nghiệp “ma” cũng đã đợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trường hợp công ty Cổ phần Hai Lam được Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh Cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 410300012 là một ví dụ điển hình. Theo hồ sơ đăng ký kinh doanh, trụ sở của công ty này là số 22 đường 2 phường 4 quận 4 thành phố Hồ Chí Minh, ngành nghề kinh doanh là xây dựng, thương mại và dịch vụ thương mại, may công nghiệp với số vốn điều lệ là 2 tỷ đồng. Nhưng trên thực tế, công ty trên là một công ty “ma”. + Khó khăn trong xử lý một số vi phạm của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy đã phát hiện ra một số vi phạm ở mức độ nhỏ, nhưng khá phổ biến. Các vi phạm đó bao gồm: không treo biển hiệu, viết tên và biển hiệu không đúng quy định; không đăng báo như quy định; không hiệu đính lại nội dung đăng ký kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan đăng ký kinh doanh; không gửi báo cáo tài chính hàng năm theo quy định đến cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế… Ngoài ra còn có một số vi phạm tương đối nghiêm trọng như hiện tượng khai khống vốn điều lệ khi đăng ký kinh doanh, người bị cấm thành lập doanh nghiệp đứng ra thành lập doanh nghiệp, thuê đứng tên thành lập, giả mạo hồ sơ kinh doanh, một số ít người đăng ký kinh doanh nhằm mua bán hoá đơn tài chính trục lợi, góp phần gây thêm thất thu cho ngân sách Nhà nước qua việc lạm dụng cơ chế hoàn thuế. Bên cạnh đó cũng chưa có được những biện pháp để xử lý đối với vi phạm của cơ quan đăng ký kinh doanh như yêu cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm một số giấy tờ khác ngoài luật định, từ chối cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho người có đủ điều kiện, cung cấp thông tin sai sự thật về nội dung đăng ký kinh doanh… Tuy nhiên cho đến nay, Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đắng ký kinh doanh chưa được ban hành, dẫn đến việc chưa có quy định về cơ quan có thẩm quyền, mức độ, hình thức và trình tự xử lý các vi phạm kể trên. Việc kéo dài tình trạng không xử lý được các vi phạm nói trên có thể dẫn đến thái độ coi thường pháp luật; vi phạm nhỏ không được xử lý kịp thời có thể dẫn đến vi phạm lớn hơn. Sáu là, Sự trở lại của các giấy phép con. Tại Việt Nam, nhiều giấy phép kinh doanh là con đẻ của cơ chế xin – cho thời bao cấp, là sản phẩm của việc tuỳ tiện, lạm dụng trong việc sử dụng giấy phép là một công cụ quản lý. Nhiều Bộ, ngành, địa phương ban hành giấy phép một cách thiếu căn cứ, thậm chí tuỳ tiện, chứ không phải xuất phát từ nhu cầu quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp. Sự thiếu căn cứ, tuỳ tiện thể hiện rõ nhất ở điểm khi Tổ công tác thi hành luật doanh nghiệp làm việc với một số ngành, địa phương về việc rà soát và xem xét tính hợp lý của giấy phép thì nhiều Bộ, ngành, địa phương thậm chí đã không nhớ nổi mình đã ban hành bao nhiêu loại giấy phép. Tính đến nay, cũng chưa có Bộ, ngành, địa phương nào có công trình nghiên cứu, đánh giá đầy đủ được những điểm tích cực và điểm hạn chế trong việc sử dụng giấy phép là công cụ quản lý Nhà nước của mình. Theo thống kê của Tổ công tác thi hành Luật doanh nghiệp, tại thời điểm Luật doanh nghiệp có hiệu lực thi hành, có khoảng 100 loại giấy phép đang được các Bộ, ngành địa phương sử dụng để quản lý các doanh nghiệp. mặc dù Quyết định 19/2000/QĐ - TTg ngày 3 tháng 2 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ đã bãi bỏ 84 loại giấy phép khác nhau, và Nghị định số 30/2000/NĐ - CP đã bãi bỏ hoặc chuyển thành điều kiện kinh doanh. Một vấn đề nổi cộm và khá được dư luận quan tâm là vấn đề giấy phép kinh doanh dần dần “tái xuất giang hồ” với sự giúp sức của chính các văn bản pháp luật. Với nỗ lực của Tổ công tác thi hành Luật doanh nghiệp của Chính phủ và sự phối hợp của nhiều cơ quan khác, đã có nhiều giấy phép con được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định bãi bỏ để tạo ra một môi trường kinh doanh thông thoáng, đưa Luật doanh nghiệp vào thực tiễn được thuận lơi. Tuy nhiên, trong khi Tổ công tác đang “truy tìm” thêm giấy phép con để tiếp tục kiến nghị Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ thì nhiều loại giấy phép con kiểu mới lại bắt đầu xuất hiện. Theo một thành viên Tổ Công tác thi hành Luật doanh nghiệp, những kiểu giáy phép con này có chiều hướng xuất hiện trong rất nhiều văn bản pháp quy được soản thảo từ nhiều cơ quan quản lý khác nhau. Nhưng đáng ngại hơn là có xu hướng nhiều loại quy định, giáy phép mới xuất hiện và “núp bóng” trong những văn bản pháp luật ở cấp độ cao hơn như Nghị định, pháp lệnh, và thậm chí cả ở Luật chuyên ngành. Những quy định này không chỉ tạo ra các kiểu giấy phép mới mà có xu hướng cô lập Luật doanh nghiệp, làm mất hiệu lực của Luật doanh nghiệp. Trên thực tế cũng cho thấy đã có không ít phản hồi từ phía các doanh nghiệp về vấn đề bãi bỏ giấy phép con. Liệu việc bãi bỏ một giấy phép con có cho ra đời một loại giấy phép mới mà lệ phí còn tốn kém hơn so với lệ phí xin giấy phép con hay không? Ví dụ trong ngành kinh doanh dịch vụ vận chuyển hành khách, sau khi bãi bỏ giấy phép kinh doanh vận tải hành khách thì lại có giấy phép xe khách chất lượng cao ra đời. Và điển hình nhất trong trường hợp này là, việc xin giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngành dược tư nhân. Để được kinh doanh dược phẩm (đối với dược sĩ đại học) hiện phải xin đủ ba loại giấy phép sau: Một là, Chứng chỉ hành nghề kinh doanh dược phẩm do Bộ Y tế cấp quy định tại Thông tư 01/2001/TT-BYT của Bộ Y tế ngày 19 tháng 1 năm 2001 hướng dẫn việc xét cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh dược phẩm; Hai là, Giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện thành lập cơ sở hành nghề dược tư nhân (do Bộ Y Tế cấp đối với các doanh nghiệp và Sở Y tế cấp đối với nhà thuốc tư nhân hoặc đại lý bán thuốc cho các doanh nghiệp) quy định tại Thông tư 01/1998/TT-BYT của Bộ Y tế ngày 21 tháng 1 năm 1998 hướng dẫn thi hành pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân và Nghị định số 06/CP ngày 29 tháng 1 năm 1994 của Chính phủ về cụ thể hoá một số điều trong Pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân thuộc lĩnh vực hành nghề dược; Ba là, Giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện kinh doanh do Giám đốc Sở Y tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp quy định tại Thông tư số 02/2000/TT-BYT của Bộ Y tế ngày 21 tháng 02 năm 2000 hướng dẫn kinh doanh thuốc phòng bệnh và chữa bệnh cho người. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp kinh doanh thuốc chữa bệnh (đã có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc chữa bệnh) muốn nhập khẩu thuốc phòng và chữa bệnh phải có thêm giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh quy định tại Thông tư 19/2001/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2001 của Bộ Y tế hướng dẫn điều kiện nhập khẩu trực tiếp thuốc phòng và chữa bệnh. Một số cơ quan Nhà nước vẫn áp dụng những văn bản hết hiệu lực thi hành để từ chối cấp chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận thay đổi ngành nghề kinh doanh cho doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp tại diễn đàn “Luật doanh nghiệp sau hai năm thực hiện đánh giá rằng một số giấy phép kinh doanh hiện nay không còn phù hợp, gây cản trở đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo ra sự độc quyền đối với một số ít doanh nghiệp được phép kinh doanh nghề này. Thẻ người đại diện sở hữu công nghiệp do Cục Sở hữu công nghiệp (Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường) cấp hiện nay là một điển hình. Điều kiện để đợc cấp giấy phép này rất khó khăn như phải có chứng chỉ tốt nghiệp khoá đào tạo chính quy về sở hữu công nghiệp (trong khi ở Việt nam chưa có cơ sở đào tạo chính quy về lĩnh vực này) hoặc phải trực tiếp làm công tác chuyên môn về sở hữu công nghiệp liên tục từ 5 năm trở lên, có chứng chỉ dạt yêu cầu tại kỳ thi kiểm tra do Cục sở hữu công nghiệp cấp … Trên toàn quốc hiện nay chỉ có khoảng 52 người được cấp Thẻ người đại diện sở hữu công nghiệp. Theo quy định, để thành lập Tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp cần phải có hai thành viên chính thức có thẻ Người đại diện sở hữu công nghiệp. Do vậy, số tổ chức hành nghề đại diện sở hữu công nghiệp hiện nay ở nước ta quá ít, không phù hợp với sự phát triển kinh tế nhanh chóng, tạo nên sự độc quyền của một số doanh nghiệp, cạnh tranh giảm đi, giá thành dịch vụ do vậy sẽ cao hơn, rất khó khăn cho đa số các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt nam hiện nay trong việc bảo vệ quyền lợi của mình (thực tế với chi phí dịch vụ như hiện nay chỉ các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh mơí đủ khả năng về tài chính để sử dụng dịch vụ này và các tổ chức cung ứng dịch vụ này cũng chỉ thường chú ý đến các đối tượng này). Việc quản lý hoạt động kinh doanh, nhất là trong một số ngành nghề đặc biệt, bằng giấy phép kinh doanh là cách làm truyền thống mà ngay cả những nước được coi là có mô hình nền kinh tế tự do như nước Mỹ cũng vẫn áp dụng. Tuy vậy, thực tiễn lịch sử đã chỉ ra rằng, bên cạnh việc có những mặt tích cực nhất định phục vụ hoạt động quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các nhà doanh nghiệp, giấy phép hoạt động kinh doanh còn mang trong mình nhiều điểm hạn chế không thể không tính đến. Giấy phép kinh doanh chính là những rào cản có tính chất hành chính đối với việc gia nhập ngành nghề kinh doanh của các doanh nghiệp. Điều đó có thể đồng nghĩa vơí việc giấy phép kinh doanh là các hàng rào ngăn cản việc lưu thông tiền tệ giữa các ngành nghề trong nền kinh tế. Sự tồn tại của các giấy phép còn có thể làm hạn chế cạnh tranh giữa các ngành, gây nên tình trạng độc quyền dựa vào quyền lực Nhà nớc, làm sai lệch sự phân bổ nguồn vốn trong toàn nền kinh té. Đồng thời sự tồn tại một loại giấy phép, có nghĩa là còn tồn tại cơ chế ”xin-cho”, còn tồn tại cơ hội để nảy sinh các hiện tượng tiêu cực. Vì những lý do trên, trừ khi xác định rõ ràng đợc rằng việc áp dụng loại giấy phép nào đó là có lợi nhiều hơn có hại, còn nói chung, các loại giấy phép đều cần phải bị bãi bỏ. Bên cạnh những trở ngại về giấy phép, nhiều cơ quan quản lý Nhà nước, các địa phương do không đủ khả năng quản lý và giám sát trước sự năng động và đa dạng của người kinh doanh đã đưa ra những quy định làm hạn chế, thậm chí cấm kinh doanh trong một số lĩnh vực. Lý do “quy hoạch” thường được nhiều tỉnh, thành phố vận dụng để hạn chế hoặc cấm các hoạt động kinh doanh của người dân. Trên thực tế, một số UBND cấp tỉnh ra chỉ thị tạm ngừng cấp đăng ký kinh doanh đối với một số ngành nghề và không quy định thời hạn tạm ngừng dẫn đến gần như cấm kinh doanh các ngành nghề đó. Một số UBND tỉnh ra các quyết định thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp thuộc một số ngành nghề một cách vô căn cứ, trái với Luật doanh nghiệp. Tại một số địa phương, lấy lý do “không đúng quy hoạch”, cơ quan đăng ký kinh doanh từ chối câp đăng ký kinh doanh theo địa điểm do doanh nghiệp đăng ký nhưng không cung cấp được văn bản quy hoạch hợp pháp. Một số tỉnh, thành phố đã ra quy định khi đăng ký kinh doanh một số ngành nghề như: vũ trường, karaoke, café, quán bar, cắt tóc thanh nữ, khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ… Phòng đăng ký kinh doanh phải xin ý kiến quận, huyện; quận, huyện phải xin ý kiến phường, xã. Nếu phường, xã không đồng ý thì quận, huyện cũng không đồng ý và doanh nghiệp không được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đây là một quy định có tính chất như giấy phép mà thực quyền cấp phép là cấp phường, xã. Với những ngành nghề này, các phường, xã không chấp thuận đăng ký cho doanh nghiệp thường dựa trên các lý do về trật tự, an ninh. Chủ trương trên đã khôi phục cơ chế “xin-cho” ở cấp quận, huyện, phường, xã, kéo dài thời gian xét duyệt đăng ký kinh doanh, hạn chế quyền tự do kinh doanh của công dân trái với Luật doanh nghiệp. Hiện có một số Bộ, ngành đang có ý định trình Chính phủ mở rộng thêm danh mục lĩnh vực cấm kinh doanh theo ý tưởng “chỉ cho kinh doanh những ngành quản lý được, nếu không thì phải tạm dừng cấp giấy đăng ký kinh doanh. Trong những tháng đầu tiên thi hành luật doanh nghiệp đã có một số cơ quan quản lý Nhà nước vẫn áp dụng văn bản đã hết hiệu lực thi hành để từ chối cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Cụ thể là trước đây, một số Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã ban hành lệnh tạm thời đình chỉ thi hành Luật doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh đối với những ngành nghề kinh doanh như: (1) Du lịch lữ hành nội địa;(2) Dịch vụ vận tải hàng hải;(3) Sản xuất, lắp đặt và mua bán thiết bị phòng cháy, chữa cháy;(4) Vận tải hành khách công cộng bằng taxi;(5) Dịch vụ pháp lý;(6) Tư vấn đi du học nước ngoài,…Nhưng nay, Luật doanh nghiệp không còn cho phép các cơ quan này đựoc ban hành lệnh tạm ngừng cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh như đã làm vừa qua và mặc nhiên các lệnh đình chỉ đến nay không còn hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, một số lệnh đã hết hiệu lực kể trên vẫn được cơ quan quản lý Nhà nước sử dụng để tước quyền dược kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp. Thậm chí, Công an Thành phố Hồ Chí Minh và Cục đường bộ Việt Nam còn ban hành thêm công văn yêu cầu các cơ quan chức năng phải tiếp tục thực hiện lệnh tạm đình chỉ cho phép thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh hai ngành sản xuất, lắp đặt, mua bán thiết bị phòng cháy, chữa cháy và kinh doanh vận tải hành khách công cộng bằng taxi. Rất may mắn là do được phản ánh kịp thời bằng báo chí và công luận cũng như của cộng đồng doanh nghiệp, Thủ tướng chính phủ đã kịp thời nhắc nhở và đôn đốc, yêu cầu các ngành, các Uỷ ban nhân dân phải thực thi nghiêm chỉnh Luật doanh nghiệp, vì thế đến cuối năm 2000, tình trạng kể trên đã được khắc phục một cách đáng kể. Tuy nhiên, cho tới cuối năm 2000 vẫn còn một số Bộ, ngành chưa ban hành được danh mục theo yêu cầu của Nghị định này. Bảy là, về phía các doanh nghiệp, ý thức chấp hành các quy định về nghĩa vụ của doanh nghiệp nhìn chung chưa cao. Một số không nhỏ chủ doanh nghiệp và những người quản lý doanh nghiệp chưa ý thức đầy đủ về việc cần thiết phải chấp hành đúng Luật doanh nghiệp; chưa coi việc chấp hành đúng Luật doanh nghiệp là công cụ bảo vệ lợi ích hợp pháp của họ; Những mặt chưa được trong chấp hành Luật doanh nghiệp thể hiện chủ yếu trên một số điểm sau đây:  Nội dung điều lệ rất sơ sài : người đăng ký kinh doanh lập điều lệ dường như chủ yếu để đủ hồ sơ và đúng thủ tục; chứ chưa coi điều lệ là văn bản pháp lý có tính nền tảng đầu tiên mà họ có để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong doanh nghiệp, để ngăn ngừa các mâu thuẫn về quyền lợi có thể xảy ra giữa những người góp vốn và là công cụ để giải quyết “hoà bình”, “nội bộ” các mâu thuẫn giữa họ khi xảy ra. Một số người đầu tư chưa ý thức được nghĩa vụ và trách nhiệm của họ đối với nội dung kê khai trong hồ sơ, nhất là các nội dung liên quan đến kê khai vốn góp và vốn đăng ký. Tình trạng kê khai vốn cao hơn vốn thực có vẫn còn; chưa ý thức được rằng kê khai càng cao, trách nhiệm càng lớn và nếu không có tài sản tương ứng với trách nhiệm cam kết, thì đó sẽ được coi là hành vi lừa đảo.   Đa số doanh nghiệp đã đăng ký “dự phòng” một số ngành nghề. Điều này là phù hợp với Luật doanh nghiệp, nhưng có thể là biều hiện của các yếu tố sau đây. Một là, các doanh nghiệp vẫn lo ngại về thủ tục hành chính theo kiễu xin cho khi bổ sung ngành, nghề kinh doanh gây thêm tốn kém và làm mất cơ hội kinh doanh. Hai là, đa số doanh nghiệp khi đăng ký kinh doanh vẫn chưa xác định rõ trọng tâm, và nhất là đường hướng kinh doanh của mình; từ đó vẫn làm theo lối “hàng xén”, “gặp cái gì làm cái đó” . Về phía quản lý Nhà nước thì việc làm nói trên của doanh nghiệp gây phức tạp cho công tác thống kê, không nắm rõ được sự phân bổ doanh nghiệp theo ngành nghề kinh doanh trong nền kinh tế.   Về đăng ký bổ sung nội dung đăng ký kinh doanh, vi phạm phổ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV186.doc
Tài liệu liên quan