Lời nói đầu
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều loại hình doanh nghiệp cùng tồn tại, đan xen vào nhau tạo thành một cấu trúc nhiều tầng, hỗ trợ và thống nhất với nhau. Tuy nhiều loại hình doanh nghiệp mới ra đời, còn hết sức mới mẻ song có khả năng phát triển rất mạnh mẽ, ví dụ như công ty hợp danh, công ty cổ phần…; trong đó chiếm vị trí thống trị là các công ty cổ phần.
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp non trẻ ở Việt Nam nhưng nó đã có một chỗ đứng vững chắc trên thị
41 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề pháp lý trong việc cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường thế giới từ rất nhiều năm nay. Hình thái công ty cổ phần là sản phẩm tất yếu của sự phát triển nền kinh tế thị trường. Tiến trình đổi mới kinh tế ở hầu hết các nước đều gắn liền với tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp, Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam không thể không có nội dung cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó có vấn đề thu hẹp quyền sở hữu nhà nước và hạn chế sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, coi trọng vai trò điều tiết của cơ chế thị trường. Vì vậy, tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một vấn đề không thể bỏ qua, một nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới là một đòi hỏi khách quan để chuyển sang nền kinh tế thị trường dựa trên các động lực của thị trường và vai trò định hướng của Nhà nước.
Với vai trò quan trọng như vậy, việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trở thành một vấn đề cấp thiết trong tiến trình phát triển kinh tế ở Việt Nam. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, nhà nước phải xây dựng một khung pháp lý để làm nền tảng bước đầu cho các doanh nghiệp có cơ sở thực hiện cổ phần hóa. Đó là các bộ luật quan trọng có ý nghĩa là những điều kiện để xác lập và ổn định kinh tế vĩ mô, tạo ra những khuôn khổ pháp lý cho sự chuyển hóa và hoạt động của các doanh nghiệp được cổ phần hóa. Hiện nay Việt Nam đang cần có sự sửa đổi bổ sung và ban hành các bộ luật quan trọng như Luật công ty, Luật đầu tư nước ngoài, Luật thương mại, Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật phá sản, Luật lao động và bảo hiểm… để tạo điều kiện từng bước cho quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam thực hiện có kết quả.
Trong phạm vi tiểu luận này, người viết xin được trình bày "Một số vấn đề pháp lý trong việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước". Trong tiểu luận có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: duy vật biện chứng, thống kê, so sánh, phân tích, sơ đồ.
Tiểu luận gồm có ba phần:
Phần I: Sự cần thiết cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Phần II: Thực trạng cổ phần hóa thời gian qua
Phần III: Các quan điểm và giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới.
Phần I
Sự cần thiết cổ phần hóa một bộ phận
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
I. Khái niệm bản chất và nội dung của quá trình cổ phần hóa.
1. Khái niệm:
Điều 1 Nghị định 388-HĐBT ngày 2/11/1991 quy định:
"Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh doanh do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý".
Khái niệm trên còn sơ sài chưa phản ánh hết những nội dung thuộc về bản chất của doanh nghiệp như tư cách pháp nhân, quyền và nghĩa vụ dân sự khi tham gia các quan hệ pháp lý, khả năng tự chủ về vốn và các hoạt động khác, tên giao dịch, con dấu…
Trong điều 1 của Luật doanh nghiệp nhà nước ban hành ngày 20-4-1995 có đưa ra một khái niệm tương đối đẩy đủ và bao quát như sau:
"Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao".
Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý.
Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam".
Như vậy doanh nghiệp nhà nước có bốn đặc trưng sau:
- Doanh nghiệp nhà nước là một pháp nhân do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức.
- Doanh nghiệp nhà nước có thẩm quyền kinh tế bình đẳng với các doanh nghiệp khác và hạch toán kinh tế độc lập trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý.
- Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân được giao chức năng kinh doanh hoặc chức năng hoạt động công ích.
- Doanh nghiệp nhà nước có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam.
2. Bản chất.
Các CTCP được hình thành qua hai cách:
- Các thể nhân và pháp nhân đứng ra thành lập một doanh nghiệp mới theo hình thức CTCP.
- Cổ phần hóa doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước nhằm chuyển các loại hình doanh nghiệp này thành hình thức CTCP.
Như vậy, CPH chính là quá trình chuyển đổi các doanh nghiệp thuộc các hình thức tổ chức khác sang hình thức CTCP.
Bản chất của quá trình này là nhằm chuyển đổi hình thức sở hữu trong các doanh nghiệp cũ sang hình thức sở hữu hỗn hợp giữa các cổ đông là tư nhân, pháp nhân; giữa tư nhân với nhà nước hoặc giữa các tư nhân với nhau trên cơ sở chia nhỏ tài sản của công ty thành những phần bằng nhau, bán lại cho các cổ đông dưới hình thức cổ phiếu, thông qua đó thiết lập hình thức tổ chức quản lý sản xuất theo mô hình CTCP, hoạt động với tư cách một pháp nhân độc lập.
Mặc dù CPH diễn ra cả đối với các doanh nghiệp tư nhân song do số lượng các doanh nghiệp tư nhân CPH là không đáng kể, cho nên khi nhắc đến CPH người ta thường hiểu là CPH DNNN.
CPH các DNNN đã được nhiều nước tiến hành không chỉ ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Nga, các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam… mà còn cả ở nước tư bản phát triển, đang phát triển trên thế giới. Tuy nhiên do sự khác nhau về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, về mục đích và phương pháp nên quá trình tiến hành CPH ở các nước, mặc dù có cùng bản chất, song lại mang nhiều nét đặc thù khác biệt.
Chính vì vậy mà cho đến nay vẫn còn tồn tại rất nhiều quan điểm về CPH đặc biệt là quan điểm về mối quan hệ giữa tư nhân hóa (TNH) và CPH.
Như vậy, CPH ở các nước như Trung Quốc, Việt Nam rõ ràng có rất nhiều điểm khác biệt về chất so với CPH ở các nước như Nga, các nước Đông Âu, các nước tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, cho dù quan điểm CPH cũng là một bộ phận của TNH (hiểu theo nghĩa rộng là bất cứ quá trình chuyển đổi sở hữu các DNNN từ sở hữu nhà nước sang các hình thức sở hữu khác) thì cũng không thể đồng nhất khái niệm TNH ở các nước Trung Quốc và Việt Nam với khái niệm TNH ở các nước TBCN.
Do vậy, chúng tôi thiết nghĩ việc gọi CPH ở Việt Nam là TNH hay không sẽ không còn ý nghĩa nếu trong quá trình thực hiện chúng ta vẫn đảm bảo những nguyên tắc và những đặc điểm cơ bản khác biệt, đảm bảo phục vụ cho những mục đích mà chúng ta đã đề ra.
3. Các nội dung cơ bản của cổ phần hóa.
Là một bộ phận không tách rời của chương trình sắp xếp và cải cách DNNN, những ý tưởng về CPH thực ra đã được thanh tra từ năm 1987 và phải đến năm 1990, sau Quyết định số 143/HĐBT ngày 10/05/1990, biện pháp này mới được thực sự đưa vào thí điểm "trình tự tổ chức vài ba xí nghiệp quốc doanh thành CTCP có phát hành cổ phiếu". Ngày 08/06/1992, Chủ tịch HĐBT nay là Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị 202/CT về việc tiếp tục thí điểm chuyển một số DNNN thành CTCP. Ngày 04/03/1993 Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ra Chỉ thị 84/TTg vào việc tiếp tục xúc tiến thí điểm CPH DNNN và các giải pháp đa dạng hóa hình thức sở hữu đối với DNNN.
Việc chuyển từ giai đoạn thí điểm sang giai đoạn áp dụng trên diện rộng được đánh dấu bởi sự ra đời của Nghị định 28/CP ngày 07/05/1996 về việc "Chuyển một số DNNN thành CTCP". Từ đó đến nay còn có các Nghị định 25/CP ngày 26/03/1997 về "Sửa đổi một số điều của Nghị định 28/CP" và đặc biệt gần đây nhất là Nghị định 44/CP ban hành ngày 29/06/1998 về việc "Chuyển DNNN thành CTCP".
Nghị định 44/CP ra đời là một bước căn bản nhằm tiến tới việc hoàn thiện khung pháp lý, làm rõ hơn nội dung của chủ trương CPH về các vấn đề sau:
3.1. Mục tiêu cổ phần hóa.
Điều 2 NĐ 44/CP quy định việc chuyển DNNN thành CTCP nhằm các mục tiêu sau:
1. Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển DN, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu DNNN.
2. Tạo điều kiện để người lao động trong DN có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực thúc đẩy DN kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
3.2. Đối tượng cổ phần hóa.
Nghị định 44/CP có quy định đối tượng CPH là tất cả các DNNN mà nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn đầu tư, không phân biệt quy mô vốn và lao động như trước đây.
Ban hành kèm theo Nghị định 44/CP là danh mục các loại DNNN để lựa chọn CPH bao gồm:
1. Loại DNNN hiện có chưa tiến hành CPH: Đó là DNNN hoạt động công ích quy định tại điều I Nghị định 56/CP ngày 02/10/1996 của Chính phủ và những DN sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ nhà nước độc quyền kinh doanh như vật liệu nổ, hóa chất độc…
2. Loại DNNN hiện có, nhà nước cần nắm giữ CP chi phối, CP đặc biệt khi tiến hành CPH, đó là các DN thuộc:
- DNNN hoạt động công ích trên 10 tỷ đồng.
- Khai thác quặng quý hiếm.
- Khai thác khoáng sản quy mô lớn.
- Các hoạt động dịch vụ kỹ thuật về khai thác dầu khí.
- Sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc chữa bệnh và hóa dược.
- Sản xuất kim loại màu và kim loại quý hiếm quy mô lớn.
- Sản xuất điện quy mô lớn, truyền tải và phân phối điện.
- Sửa chữa phương tiện bay.
- Dịch vụ khai thác bưu chính viễn thông.
- Vận tải đường sắt, hàng không, viễn dương.
- In, xuất bản, sản xuất rượu, bia, thuốc lá quy mô lớn.
- Ngân hàng đầu tư, ngân hàng cho người nghèo.
- Kinh doanh xăng dầu có quy mô lớn.
3. Các loại DNNN hiện có còn lại đều có thể thực hiện CPH và áp dụng các hình thức chuyển đổi sở hữu khác trong đó nhà nước không giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt.
3.3. Các hình thức và quá trình cổ phần hóa.
Hình thức CPH: Việc CPH được tiến hành theo 4 hình thức sau:
1. Giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại DN, phát hành cổ phiếu, thu hút thêm vốn để phát triển DN.
2. Bán một phần giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại DN.
3. Tách một bộ phận của DN đủ điều kiện để CPH.
4. Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn nhà nước tại DN để chuyển thành CTCP. Hình thành phải thừa kế hoạt động của DN cũ và có biện pháp tiếp tục đẩy mạnh và phát triển sản xuất sau khi được CPH. Lợi tức cổ phần được xác định trên vốn SXKD của DN bao gồm vốn cố định, vốn lưu động do các cổ đông đóng góp.
Trên đây là một số nội dung cơ bản của chủ trương CPH DNNN ở Việt Nam. Để hiểu rõ hơn ý nghĩa của chủ trương này đối với quá trình đổi mới DNNN, chúng ta sẽ xem xét một số vấn đề có tính lý luận ở phần sau.
II. Thực trạng các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
1. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân.
a. Khái niệm.
Xét về mặt hình thức, cổ phần hóa là việc nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong xí nghiệp cho các đối tượng tổ chức hoặc tư nhân trong và ngoài nước hoặc cho cán bộ quản lý và công nhân của xí nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trường chứng khoán để hình thành các công ty Trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Xét về mặt thực chất, cổ phần hóa chính là phương thức thực hiện xã hội hóa sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ với sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp thành công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh hiện đại.
Hầu hết các học giả nước ngoài khi xem xét quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đều đặt nó trong một quá trình rộng lớn hơn, đó là quá trình tư nhân hóa. Hầu hết người lao động quan niệm đồng nhất cồ phần hóa với tư nhân hóa. Cần phân biệt cổ phần hóa với tư nhân hóa. Cổ phần hóa là một nội dung đa dạng hóa sở hữu, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu của một chủ thể thành sở hữu của nhiều chủ thể, trong đó nhà nước là một chủ sở hữu. Còn tư nhân hóa là chuyển sở hữu nhà nước thành sở hữu tư nhân, nhà nước không tham gia là chủ sở hữu một phần vốn và tài sản nào. Ta có thể thấy rõ nét điều đó qua phân tích các hình thức cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
b. Đặc trưng của doanh nghiệp nhà nước.
Các doanh nghiệp thành lập theo Quyết định 90/TTg ngày 7-3-1994 của Thủ tướng Chính phủ cũng như các doanh nghiệp ghi tại điều 1 của Luật doanh nghiệp nhà nước thuộc diện nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn đầu tư đều có thể chuyển thành công ty cổ phần.
Theo điều 7 Nghị định 44/1998/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần và Thông tư 104/TT-BTC quy định bốn hình thức cổ phần hóa sau tùy theo tình hình và yêu cầu cụ thể:
Thứ nhất, giữ nguyên giá trị phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu, thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp. Theo hình thức này thì giá trị cổ phần nhà nước góp vào công ty bằng giá trị thực tế phần vốn của Nhà nước góp vào công ty trừ đi chi phí cổ phần hóa, giá trị ưu đãi của người lao động và giá trị phần trả dần của người lao động nghèo theo quy định của Nhà nước.
Thứ hai, bán một phần giá trị vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Theo hình thức này thì nhà nước sử dụng một phần giá trị thực tế vốn nhà nước tại doanh nghiệp để bán cho các cổ đông.
Thứ ba, tách một bộ phận của doanh nghiệp để cổ phần hóa. Theo hình thức này thì một bộ phận của doanh nghiệp có thể hoạt động độc lập và hạch toán riêng giá trị tài sản, được tách ra để cổ phần hóa (phân xưởng sản xuất, cửa hàng, bộ phận dịch vụ…).
Thứ tư, bán toàn bộ giá trị vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần. Theo hình thức này, nhà nước không tham gia cổ phần ở công ty cổ phần.
c. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước.
Đa phần các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới đều đã thực hiện xong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Điều này cho thấy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một lựa chọn tất yếu, có tính khách quan đối với sự phát triển của hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Cổ phần hóa với những mặt ưu việt đã đóng một vai trò hết sức to lớn trong sự phát triển nền kinh tế thị trường, nó là kết quả của sự vận động tách biệt hai mặt của sở hữu thể hiện ở mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh. Công ty cổ phần ra đời đã cho phép mở rộng quy mô sản xuất nhanh chóng mà không bị giới hạn bởi tích lũy của từng tư bản riêng biệt, tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sản xuất và do đó, nó khiến cho xã hội phải tiếp nhận các yêu cầu phát triển của nó và làm cho hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán và nhà nước trở thành một bộ máy kinh tế hoạt động và thực hiện các chức năng quản lý một cách có hiệu quả và thống nhất.
Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước sẽ tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho sự ra đời và đẩy nhanh sự phát triển của thị trường chứng khoán. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và thị trường chứng khoán vừa duy trì được sự ổn định của doanh nghiệp đồng thời vừa tạo nên sự di chuyển linh hoạt của các luồng vốn xã hội, góp phần đóng vai trò tổ chức trong nền kinh tế theo những yêu cầu của thị trường.
Nhờ vai trò lịch sử to lớn đó trên hình thức cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường được coi là hữu hiệu nhất để cải tổ các doanh nghiệp nhà nước đồng thời vẫn củng cố được vai trò của khu vực kinh tế nhà nước. Thông qua quá trình cổ phần hóa, sự hợp tác và xâm nhập lẫn nhau giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân, kể cả ở cấp công ty xuyên quốc gia đang hoạt động trên thị trường thế giới là một trong những con đường nâng cao hiệu quả nền kinh tế thị trường hỗn hợp ở các nước công nghiệp phát triển hiện nay.
2. Thực hiện các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Thực hiện nghị quyết Đại hội lần thứ VI, VII, VIII của Đảng và các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Đảng, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện 3 đợt sắp xếp lớn các doanh nghiệp nhà nước (DNNN): 1990-1993; 1994-1997 và từ giữa năm 1998 tới nay.
Quá trình sắp xếp, đổi mới các DNNN (chủ yếu là đợt 3) được triển khai theo các nội dung sau:
Một là, đổi mới cơ chế, chính sách: DNNN tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thực sự hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường; đổi mới cả về kế hoạch, về tài chính, về tổ chức bộ máy, cán bộ và đổi mới quản lý nhà nước theo hướng xóa bỏ chế độ chủ quản của các cơ quan hành chính nhà nước đối với DNNN.
Hai là, sáp nhập, giải thể, cho phá sản DNNN yếu kém, thua lỗ kéo dài mà nhà nước không cần nắm giữ. Qua 3 đợt, DNNN đã giảm từ 12.300 doanh nghiệp còn 5.571 (giảm 55% về số lượng, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và do địa phương quản lý). Cơ cấu DNNN bước đầu được điều chỉnh hợp lý, có tác động tích cực đến quá trình tích tụ và tập trung vốn, hình thành và phát triển một số doanh nghiệp mới có trình độ công nghệ cao và có sức cạnh tranh. Số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng giảm từ 50% năm 1994 xuống còn 26% năm 1999; số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng tăng tương ứng, từ 10% lên 20%; vốn bình quân của một doanh nghiệp tăng từ 3,3 tỷ đồng lên 21 tỷ đồng. Trong quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp, nhà nước đã giải quyết trợ cấp thôi việc một lần cho 72 vạn lao động.
Ba là, tổ chức, củng cố và phát triển các Tổng công ty nhà nước (TCTNN) nhằm tập trung nguồn lực của Nhà nước vào các ngành then chốt mà nhà nước cần chi phối… Thời gian qua, đã sắp xếp lại 250 liên hiệp xí nghiệp và Tổng công ty. Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập 17 Tổng công ty 91 và ủy quyền cho các bộ, ủy ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương quản lý 77 Tổng công ty 90. Các TCTNN có 1.534 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm 8,8% số lượng DNNN, 355 lao động). Nhìn chung, các TCTNN đã chi phối được các ngành, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế và đã trở thành công cụ quan trọng để nhà nước điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Các TCTNN đã bảo toàn và tích tụ được vốn ngày càng tăng, huy động nhiều nguồn lực đầu tư, đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh (năm 1999, riêng 17 Tổng công ty 91 đã bổ sung thêm nguồn vốn 15.850 tỷ đồng, chiếm 22,5% tổng số vốn, doanh thu tăng 12%, lợi nhuận tăng 23%, nộp ngân sách tăng 29%).
Bốn là, cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Đến ngày 15/8/2000 cả nước cổ phần hóa được 369 bộ phận doanh nghiệp với tổng số vốn là 1920 tỷ đồng (tăng 12% so với trước khi cổ phần), bằng 1,6% tổng số vốn nhà nước trong các DNNN. Nhìn chung, các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận nộp ngân sách, số lượng công nhân viên của các doanh nghiệp cổ phần hóa đều tăng so với trước. Cùng với quá trình cổ phần hóa, Đảng, Chính phủ chủ trương để một số DNNN đầu tư một phần vốn lập công ty cổ phần mới. Đến ngày 15-8-2000, DNNN đã đầu tư vốn thành lập 279 công ty cổ phần mới với tổng số vốn nhà nước là 868,8 tỷ đồng, chiếm 46% vốn điều lệ. Kết quả sản xuất kinh doanh cho thấy: 267 công ty (96,4%) có lãi, 12 công ty còn lại (3,6%) hòa vốn.
Năm là, thực hiện giao, bán và khoán kinh doanh, cho thuê những DNNN có quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài để sử dụng có hiệu quả tài sản nhà nước, bảo đảm việc làm và thu nhập của người lao động.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VIII), Chính phủ đã ban hành Nghị định số 103/1999/NĐ-CP về giao bán, cho thuê và đã thực hiện được 27 DNNN có vốn nhà nước dưới 1 tỷ đồng. Các doanh nghiệp này đều trở thành công ty cổ phần và có kết quả sản xuất kinh doanh khá lên rõ rệt. Thực tế cho thấy, việc thực hiện giao, bán, khoán cho thuê các doanh nghiệp đã khắc phục được tình trạng giải thể, phá sản doanh nghiệp, bán phát mại tài sản của Nhà nước; khắc phục được tình trạng người lao động mất việc làm, năng lực sản xuất của doanh nghiệp được phát huy, xóa được bao cấp, bù lỗ của Nhà nước, tăng khả năng huy động nguồn vốn trong dân.
Có thể khái quát mặt được của DNNN sau quá trình sắp xếp, đổi mới như sau:
- Hầu hết các DNNN đều có chuyển biến tích cực: cơ cấu và quy mô bước đầu được điều chỉnh theo hướng phù hợp hơn; thích ứng được với cơ chế thị trường; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ; vốn được bảo toàn và tăng thêm; vốn tích lũy, tự bổ sung từ chỗ không đáng kể đã tăng lên 27% tổng vốn sản xuất kinh doanh; hiệu quả hoạt động từng bước tăng lên.
- Doanh nghiệp nhà nước đã góp phần rất quan trọng để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần; chi phối được các ngành và các lĩnh vực then chốt; thực sự là nòng cốt trong tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng góp cho ngân sách nhà nước; bảo đảm cân đối lớn và góp phần quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô; và lực lượng chính trong việc đảm bảo các sản phẩm và dịch vụ công ích chủ yếu của xã hội.
- Số DNNN giảm mạnh nhưng tốc độ tăng trưởng của khu vực DNNN vẫn duy trì mức khá cao, bình quân tăng 11% năm trong 10 năm (1991-1999). Năm 1999, các DNNN đóng góp 40,2% GDP, trên 5% kim ngạch xuất khẩu của cả nước và gần 4% ngân sách nhà nước, chiếm 98% các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Tuy nhiên, đi sau phân tích có thể thấy nổi lên một số yếu kém và những vấn đề đặt ra đối với quá trình sắp xếp và đổi mới các DNNN như sau:
Thứ nhất, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của các DNNN còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được; tốc độ tăng trưởng của DNNN có biểu hiện giảm dần; nợ khó đòi ngày càng lớn; tính năng động của một bộ phận không nhỏ DNNN còn hạn chế. Theo đánh giá chung, năm 1998 số DNNN thực sự kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm khoảng 4%, số doanh nghiệp kinh doanh không nhỏ có hiệu quả liên ục bị thua lỗ chiếm 20%, còn lại 40% số doanh nghiệp kinh doanh chưa có hiệu quả, khi lỗ khi lãi. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn nhà nước của DNNN chưa cao và có xu hướng giảm dần (năm 1996 là 11,2%, năm 1997 là 9,3%, năm 1998 là 9,1%, năm 1999 là 9,2%). Không ít doanh nghiệp xây dựng dự án, kế hoạch không phù hợp với định hướng phát triển chung của ngành, thiếu tính khả thi; việc bảo toàn vốn của không ít doanh nghiệp chưa tốt, còn có tình trạng ăn vào vốn, mất vốn.
Thứ hai, đầu tư đổi mới công nghệ chậm, trình độ công nghệ chậm, trình độ công nghệ lạc hậu đang là cản trở lớn đối với khả năng cạnh tranh và quá trình hội nhập. Theo số liệu của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, thì trừ một số doanh nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại hoặc trung bình của thế giới và khu vực (sản xuất thiết bị đo điện, lắp ráp điện tử, sản xuất sợi, dệt…) còn lại máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất của các DNNN của ta lạc hậu so với thế giới và khu vực từ 10 đến 20 năm, thậm chí 30 năm (cơ khí, sản xuất phôi); trình độ cơ khí hóa, tự động hóa dưới 10%, mức độ hao mòn hữu hình từ 30% đến 50%. Hậu quả trực tiếp của tình trạng trên là một số mặt hàng sản xuất trong nước như sắp thép, phân bón, xi măng, kính xây dựng… có mức giá cao hơn gia nhập khẩu từ 20% đến 40%, riêng đường thô cao hơn 70-80%. Đến tháng 10/2000 cả nước mới có 236 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO/9000, trong đó chỉ có 97 DNNN.
Thứ ba, quy mô của DNNN vẫn còn nhỏ, dàn trải, chồng chéo về ngành nghề và tổ chức quản lý. Đến nay cả nước có 5 571 doanh nghiệp với tổng số vốn khoảng 116000 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp có gần 21 tỷ đồng; số doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 65,4%. DNNN chưa tập trung vào những ngành và lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế mà DNNN nhất thiết phải chi phối.
Thứ tư, lao động thiếu việc làm và dôi dư có xu hướng ngày càng tăng và khó khăn lớn, ảnh hưởng đến quá trình đổi mới và phát triển DNNN. Theo số liệu của Bộ Lao động Thương binh - Xã hội, hiện nay, số lao động không có việc làm thường xuyên và mất việc làm ở các doanh nghiệp khoảng 20%, có doanh nghiệp lên tới 40%.
Thứ năm, trình độ quản lý của DNNN phần lớn còn yếu chưa đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trường; nhiều cán bộ quản lý chưa được đào tạo, đào tạo lại, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyên môn, còn lúng túng trước cơ chế thị trường.
Thứ sáu, cơ chế chính sách quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp nhà nước còn nhiều tồn tại, vướng mắc cần tháo gỡ.
- Chính sách tài chính, tín dụng tuy đã được sửa đổi, bổ sung, nhưng vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với loại hình DNNN hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường. Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện và chưa đòi hỏi đúng mức để DNNN tự chủ, tự chịu trách nhiệm, năng động trong sản xuất kinh doanh, tích tụ vốn cho đầu tư và đổi mới công nghệ; chưa xây dựng và phát triển được đồng bộ thị trường vốn để tạo ra sự chu chuyển vốn thông suốt trong toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Chính sách thuế tuy đã được sửa đổi, bổ sung, nhưng vẫn còn nhiều bất hợp lý, chưa ổn định, chưa chú trọng đầy đủ đến việc nuôi dưỡng nguồn thu và phát triển sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích lũy vốn. Chế độ kế toán chưa tạo điều kiện và buộc DNNN hạch toán đúng kết quả kinh doanh; phân phối thu nhập chưa tạo được động lực mạnh mẽ cả đối với người quản lý và người lao động. Chính sách tiền lương và phân phối lợi nhuận để lại doanh nghiệp chưa gắn chặt với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều cơ chế, chính sách tài chính không còn phù hợp với thị trường nhưng chưa được sửa đổi, chẳng hạn như: Quỹ dự phòng rủi ro, Quỹ dự phòng thất nghiệp (lấy từ lợi nhuận để lại cho doanh nghiệp), tiền thu sử dụng vốn…
- Về đầu tư, việc phân cấp, giao quyền quyết định đầu tư cho doanh nghiệp chưa rõ ràng và không đầy đủ, không chịu trách nhiệm khi phương án đầu tư không hiệu quả và chưa có cơ chế kiểm soát đầu tư.
- Về quản lý nhà nước, chưa phân định rõ ràng các loại quyền như: quyền quản lý của nhà nước đối với DNNN; quyền của cơ quan nhà nước với tư cách là chủ sở hữu; quyền của đại diện chủ sở hữu trực tiếp đối với doanh nghiệp; quyền sử dụng vốn và quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp; còn quá nhiều văn bản pháp quy chồng chéo, thiếu khả thi; cơ chế phá sản doanh nghiệp còn chưa được thực hiện theo luật phá sản doanh nghiệp, bởi cả ba chủ thể đều không tự nguyện đề nghị phá sản (ngân hàng sợ mất vốn; đại diện công nhân viên chức sợ không giải quyết được chế độ đối với công nhân; lãnh đạo doanh nghiệp sợ mất quyền lợi và sợ bị truy cứu trách nhiệm). Đối với tổng công ty, mô hình quản lý còn nhiều mặt chưa phù hợp như việc quy định chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng quản trị và của Tỏng giám đốc chưa rõ ràng; mối quan hệ của nhiều công ty với các đơn vị thành viên vẫn là hành chính, chưa dựa trên quan hệ tài chính, trách nhiệm và quyền lợi; quan hệ giữa các đơn vị thành viên với nhau còn mang tính ghép nối cơ học.
- Tổ chức, quản lý cán bộ lao động chưa có chính sách phù hợp. Đối với tổng công ty nhà nước, cơ chế quyết định nhân sự hiện hành chưa phát huy được trách nhiệm và hiệu lực điều hành quản lý của Tổng giám đốc. Tổng giám đốc không có quyền bổ nhiệm giám đốc thành viên, giám đốc có quyền tuyển dụng lao động không hạn chế, nhưng không có quyền sa thải; Tổng giám đốc, Giám đốc, Hội đồng quả trị không được chủ động bố trí bộ máy doanh nghiệp.
III. Sự cần thiết phải cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước.
Thứ nhất, tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam là một vấn đề không thể bỏ qua, một nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới và cũng là một đòi hỏi khách quan để chuyển sang nền kinh tế thị trường dựa trên các động lực của thị trường và vai trò định hướng của Nhà nước.
Thứ hai, do tình trạng hoạt động thiếu hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả do nhiều nguyên nhân:
+ Do hệ thống kế hoạch hóa và tài chính cứng nhắc không có tính chất thích ứng với cơ chế thị trường vì được quản lý theo hệ thống hành chính từ trên xuống với nhiều cấp trung gian.
+ Tính tự chủ trong quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước bị hạn chế vì nhiều quy chế liên quan đến quyền sở hữu của Nhà nước, do đó gây ra những yếu tố làm cản trở đến hoạt động có hiệu quả của doanh nghiệp.
+ Tình trạng độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trên thị trường được pháp luật nhà nước củng cố đã đánh mất những động lực cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
+ Các doanh nghiệp được thành lập với vốn của Nhà nước, không được phép phá sản và được che chắn bằng các khoản trợ cấp từ ngân sách nhà nước hoặc được sử dụng nguồn vốn nội bộ với lãi suất thấp hoặc được ưu tiên tiếp cận với các nguồn tài chính nước ngoài. Vì vậy các doanh nghiệp nhà nước không có các yếu tố kích thích phải nâng cao hiệu quả để tồn tại trong cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân.
Thứ ba, do thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài, đây là một nguyên nhân quan trọng thúc đẩy nước ta phải tiến hành cổ phần hóa vì các khoản nợ cấp ngày càng lớn cho khu vực kinh tế quốc doanh để đảm bảo nhà nước kiểm soát giá cả sản phẩm hoặc để trang trải chi phí về giá vốn được duy trì thấp để ổn định sản xuất ở một số ngành. Kết quả tài chính nghèo nàn làm tăng sự phụ thuộc của chúng vào ngân sách Nhà nước. Trên thực tế các nguồn tài chính có thể được Chính phủ huy động và vay nợ để trang trải thâm hụt ngân sách Nhà nước ngày càng suy giảm đã làm bộc lộ nghiêm trọng sự yếu kém của doanh nghiệp nhà nước.
Thứ tư, là do sự thay đổi nhận thức về vai trò điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Vấn đề đa dạng hóa sở hữu được đặt ra và thực hiện do sự thay đổi nhận thức từ chỗ nhấn mạnh vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước đến chỗ tôn trọng nhiều hơn vào khu vực kinh tế tư nhân và vai trò điều tiết của cơ chế thị trường.
Do vậy ta có thể nói, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một xu hướng tất yếu, là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế đất nước, tạo những động lực đáng kể để doanh nghiệp vươn lên, phát triển.
Phần II
Thực trạng cổ phần hóa thời gian qua
I. Các giai đoạn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước lần đầu tiên được nêu ra tại Nghị định hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành từ khóa VII (11/1999) và tiếp tục được cụ thể hóa tại Nghị quyết hội nghị giữ nhiệm khóa 11(1/1994), Nghị định 10/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 17/03/1995, thông báo số 63/TB-TW ngày 04/04/1997 và đã được khẳng định rõ hơn tại Nghị quyết Đại hội VII vừa qua. Nhìn chung quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được chia làm 2 giai đoạn:
1. Giai đoạn thí điểm (1992-1995): tro._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35224.doc