LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề lao động, việc làm, thất nghiệp luôn là vấn đê quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia nói chung và mọi địa phương nói riêng trong tất cả các giai đoạn phát triển của thời đại, bởi vậy để thúc đẩy nền kinh tế phát triển đồng thời để phù hợp với thời kì hội nhập kinh tế quôc tế hiện nay, Bắc Ninh cũng như các địa phương khác trong cả nước đã và đang dành sự quan tâm đặc biệt cho vấn đề lao động ,việc làm ở địa phương. Để giải quyết việc làm cho lao động ở địa phương, Bắc Ninh đã đề
94 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1423 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề nhằm hoàn thiện quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động ở tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ra không ít các giải pháp như: phát triển các làng nghề thủ công, xây dựng và mở rộng khu công nghiệp,... và một trong những biện pháp hữu hiệu đã và đang được Bắc Ninh đẩy mạnh đó là xuất khẩu lao động.
Đất nước bước vào thời kỳ mới thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế mà dấu mốc cho thời kỳ mới này là sự kiện Việt Nam tổ chức thành công hội nghị cấp cao APEC ( 11/2006) và chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO), trong hoàn cảnh đó đặt ra không ít những khó khăn và thách thức cho nền kinh tế Việt Nam đặc biệt cho lực lượng lao động Việt Nam. Lao động dồi dào là một trong những điểm mạnh mà cũng là điểm yếu của chúng ta. Mở cửa hội nhập là cơ hội tốt để tìm việc làm tốt hơn cho những lao động trẻ có trình độ nhưng cũng là thách thức lớn khi số lượng lao động không lành nghề, lao động thủ công vẫn còn chiếm tỷ lệ cao trong số người thuộc độ tuổi lao động. Vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để giải quyết việc làm cho số lao động này và câu trả lời là: xuất khẩu lao động.
Tuy nhiên, xuất khẩu lao động không chỉ đơn giản là đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài rồi bỏ phóng họ mà phải là cả một quá trình quản lý đòi hỏi phải được quan tâm và có những biện pháp hữu hiệu để công tác xuất khẩu lao động đạt hiệu quả. Chính từ thực tế đó kết hợp với những kết quả thu được trong thời gian thực tập nghiên cứu tại Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Ninh, người viết quyết định chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động ở tỉnh Bắc Ninh” để làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu đề tài:
Tìm hiểu, nghiên cứu từ đó hệ thống được những vấn đề lý luận về công tác xuất khẩu lao động và quản lý Nhà nước về công tác xuất khẩu lao động.
Đánh giá được thực trạng chung của công tác xuất khẩu lao động và quản lý Nhà nước về công tác này trong những năm gần đây của nước ta.
Từ thực trạng của tỉnh Bắc Ninh rút ra được những thế mạnh cần phải phát huy và những thực tế bất cập trong công tác xuất khẩu và quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động của tỉnh cũng từ đó tìm hiểu, phân tích được nguyên nhân của những bất cập để đề ra được những biện pháp giải quyết hữu hiệu nhằm hoàn thiện quản lý Nhà nước vê xuất khẩu lao động của địa phương nhằm đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế của tỉnh Bắc Ninh.
Hoàn thiện công tác quản lý của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp xuất khẩu lao động và từ bản thân người lao động để công tác xuất khẩu lao động của tỉnh Bắc Ninh ngày càng hiệu quả và thực sự trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế địa phương nói riêng và của nước ta nói chung.
Sử dụng phương pháp đánh giá kết hợp với phương pháp phân tích tổng hợp cộng với việc vận dụng những cơ sở lý luận đã được trang bị trong nhà trường để tìm nguyên nhân, bản chất của vấn đề nghiên cứu từ đó đề ra những giải pháp phù hợp với thực tế của tỉnh Bắc Ninh.
Ngoài ra trong quá trình thực tập và nghiên cứu tìm tòi, người viết cũng có nhiệm vụ nữa là rút ra được những kinh nghiệm thực tế cho bản thân không chỉ trong quá trình nghiên cứu khoa học mà còn cả trong quá trình làm việc cọ sát với thực tế để hoàn thiện cũng như nâng cao kiến thức cho bản thân.
Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu về vấn đề xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian từ năm 2001 đến nay và những phương hướng nhiệm vụ của năm 2007 cũng như trong thời gian tới.Và để đáp ứng được những yêu cầu nhiệm vụ chủ yếu của đề tài thì luận văn tốt nghiệp này cần có những nội dung chính sau:
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG.
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA TỈNH BẮC NINH.
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA TỈNH BẮC NINH.
Do kiến thức và trình độ của bản thân còn nhiều hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi có những sai sót, mong quý thầy cô và bạn đọc thông cảm! Để hoàn thành được bài viết này, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của lãmh đạo và cán bộ Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Ninh trong thời gian thực tập và đặc biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo Đoàn Thị Thu Hà. Tôi xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG.
1.1. XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG.
1.1.1. Khái niệm, vai trò, đặc điểm của xuất khẩu lao động
1.1.1.1. Khái niệm
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về xuất khẩu lao động, dưới đây là một số các khái niệm cơ bản về xuất khẩu lao động.
Khái niệm thứ nhất là:
Phát triển hợp tác quốc tế trong việc tổ chức đưa người lao động và chuyên gia Việt nam ( trừ những cán bộ, công chức được quy định tại pháp lệnh cán bộ, công chức đi thực hiện nhiệm vụ, công vụ ở nước ngoài do sự phân công của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền) đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là một hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động, tăng nguồn thu cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước trên thế giới. Điều 1- Nghị định số 152/1999/NĐ – CP ngày 20/9/1999 của Chính phủ
Khái niệm thứ hai về xuất khẩu lao động được ghi trong chỉ thị số 41 – CT/TW ngày 29/9/1998 của Bộ chính trị như sau:
Xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế- xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước.
Một khái niệm nữa của xuất khẩu lao động là:
Xuất khẩu lao động là một hình thức đặc thù của xuất khẩu nói chung và là một bộ phận của kinh tế đối ngoại, hàng hoá đem xuất khẩu là sức lao động của con người, còn khách mua là chủ thể người nước ngoài. Nói cách khác xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế dưới dạng dịch vụ cung ứng lao động cho người nước ngoài, mà đối tượng của nó là con người. Bản tin lao động thị trường số 6/2006 – Vài nét về xuất khẩu lao động ở Việt Nam –tr.1, GS.TS Đặng Đình Đào.
Như vậy xuất khẩu lao động là một hoạt động xuất khẩu đặc biệt trong đó hàng hoá được giao bán là sức lao động của con người, chính vì vậy nhà nước, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng như chính bản thân người lao động cần phải hết sức chú ý tới hoạt động này, nó không chỉ mang lại thu nhập cao cho người lao động mà còn đóng một vai trò rất lớn trong sự phát triển của mỗi quốc gia.
1.1.1.2. Vai trò của xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động đóng một vai trò hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển của mỗi quốc gia đặc biệt là những nước có nền kinh tế chậm và đang phát triển như Việt Nam.
Trước hết, xuất khẩu lao động có một vai trò đặc biệt trong việc giải quyết việc làm và ổn định thị trường lao động. Đối với các quốc gia có nền kinh tế chưa phát triển khối lượng việc làm tạo ra trong xã hội là rất hạn chế so với khối lượng lao đông trong độ tuổi rất dồi dào của họ bởi vậy thất nghiệp và giải quyết việc làm luôn là vấn đề đau đầu của các nhà lãnh đạo quốc gia.
Ở Việt Nam, hiện nay có khoảng 400.000 lao động và chuyên gia làm việc tại trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề,mỗi năm tăng thêm khoảng trên dưới 70.000 người riêng năm 2006 Việt Nam đã đưa được 78.885 lao động đi làm việc ở nước ngoài.
(Nguồn: http:// www.thanhnienonline.com.vn – tác giả Ngọc Minh, ngày 27/4/2005)
Với những con số ấn tượng trên chúng ta có thể nhận thấy rằng xuất khẩu lao động đã giải quyết được việc làm cho một khối lượng lớn lao động, tỷ lệ lao động xuất khẩu lao động trong tổng số lao động được giải quyết việc làm giai đoạn 2001 – 2005 khoảng 3,42 %.
(Nguồn:Bản tin thị trường lao động số 8/2006-Một số vấn đề về xuất khẩu lao động 2000-2005 – tr 9, CN. Nguyễn Văn Dư.)
Tuy chưa phải là một con số cao song con số đó cũng cho thấy rằng xuất khẩu lao động đã góp một phần đáng kể vào việc giải quyết việc làm cho nước ta trong thời gian qua.Còn đối với các quốc gia nhập khẩu lao động thì việc nhận thêm lao động sẽ giúp họ giải quyết được tình trạng thiếu hụt lao động trong những ngành nghề mà lao động trong nước không muốn làm như lương thấp, độc hại, vất vả nặng nhọc hoặc những công việc cần lao động thủ công hay thiếu hụt lao động do nguồn lao động trong nước ít.
Không chỉ đơn thuần mang tính chất giải quyết việc làm cho số lao động dư thừa mà xuất khẩu lao động còn góp phần rất lớn vào công cuộc xoá đói giảm nghèo của đất nước nhờ có khoản thu nhập cao hơn rất nhiều so với mức lương ở trong nước điển hình như thu nhập bình quân của lao động tại Malaysia là 2 – 3 triệu đồng / 1 tháng, tại Đài Loan là 300 – 500 USD/tháng, tại Hàn Quốc là 900 – 1.000 USD/ tháng.
(Nguồn: Cục Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động Thương binh & Xã hội.)
Với mức thu nhập như vậy, hàng tháng ngoài chi phí cho ăn ở người lao động cũng tiết kiệm và gửi về cho gia đình một khoản thu nhập kha khá, đó sẽ là nguồn thu nhập giúp họ cải thiện cuộc sống của gia đình và bản thân. Hơn thế nữa, một số lao động sau khi trở về nước lại trở thành những ông chủ, những nhà đầu tư nhờ có nguồn vốn tiết kiệm được từ khoản thu nhập ở nước ngoài. Điều này không chỉ góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế trong nước mà còn tạo ra một khối lượng việc làm đáng kể cho những người khác.
Với con số ngoại tệ gửi về nước mỗi năm lên đến 1,5 tỷ USD xuất khẩu lao động ở Việt Nam đã trở thành một trong những ngành nghề mang lại nguồn thu ngoại tệ cao cho quốc gia. Không dừng lại ở đó, xuất khẩu lao động còn góp phần làm tăng thu ngân sách nhà nước nhờ có những khoản thuế thu từ hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và từ khoản ngoại tệ lao động gửi về nước.Như vậy, xuất khẩu lao động vừa trực tiếp lẫn gián tiếp góp phần thúc đẩy sự phát triển và ổn định xã hội.
Xuất khẩu lao động còn là một trong những công cụ hữu hiệu cho việc chuyển giao công nghệ tiên tiến hiện đại của nước ngoài thông qua quá trình đào tạo và làm việc ở nước ngoài của người lao động.Thông qua đó quốc gia có lao động đi xuất khẩu sẽ có được một đội ngũ lao động có tay nghề trình độ cao, có tác phong công nghiệp và ý thức kỷ luật cao.
Hoạt động xuất khẩu lao động cũng là cầu nối để quốc gia tăng cường quan hệ hợp tác về mọi mặt, giúp cho sự giao lưu giữa các nền văn hoá trên thế giới ngày càng được mở rộng.
Nói tóm lại công tác xuất khẩu lao động có một vai trò rất lớn đối với mỗi quốc gia bởi vậy Đảng và Nhà nước ta luôn xác định đây là một trong những công tác trọng điểm mang tính chiến lược cho quốc gia trong thời gian tới.
1.1.1.3. Đặc điểm.
Xuất khẩu lao động mang tính tất yếu khách quan.
Xuất khẩu lao động diễn ra chủ yếu là do giữa các nước trên thế giới có sự chênh lệch về kinh tế - xã hội. Những nước giàu có nền kinh tế phát triển mạnh thường có nhiều lao động có tay nghề cao, nhiều chuyên gia giỏi có trình độ cao mà lại thiếu những lao động phổ thông, lao dông cho những công việc vất vả, nặng nhọc, độc hại hoặc những công việc có thu nhập tương đối thấp so với thu nhập chung của xã hội. Điều ngược lại lại diễn ra tại những quốc gia nghèo đang phát triển, nơi mà dân số đông nên rất dồi dào về lao động song do nền kinh tế chậm phát triển nên trình độ lao động còn thấp chủ yếu là lao động giản đơn thủ công là chính công thêm với mức thu nhập thấp, thiếu việc làm, thiếu hụt những chuyên gia giỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.Cũng tương tự như quy tắc hai bình thông nhau trong vật lý vậy điều đương nhiên sẽ xảy ra là lao động từ chỗ dư thừa sẽ chảy về chỗ thiếu hụt. Đó cũng chính là nguyên lý chính của quy luật cung – cầu trong nền kinh tế thị trường.
Xuất khẩu lao động là một hoạt động xuất nhập khẩu đặc biệt.
Chắc hẳn rằng trong mỗi chúng ta ai cũng đã từng nghe qua cụm từ xuất nhập khẩu. Xuất nhập khẩu là hoạt động không thể tách rời giữa các quốc gia trên thế giới. Không thể có một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển nếu nền kinh tế của họ đóng cửa hoàn toàn với thế giới bên ngoài, bởi vậy xuất nhập khẩu là một hoạt động mang tính chất hết sức quan trọng, nhờ có xuất nhập khẩu mà hàng hóa và dịch vụ trên toàn thế giới được lưu thông, trao đổ. Xuất khẩu lao động cũng là một hoạt động như thế, vậy nó cũng là một hoạt động xuất nhập khẩu song là một hoạt động xuất nhập khẩu đặc biệt. Điểm đặc biệt là ở chỗ thay vì xuất nhập khẩu các loại thực phẩm hàng hóa tiêu dùng... như bình thường thì “hàng hóa” được xuất nhập khẩu ở đây là sức lao động của người lao động.
Trong hoạt động xuất khẩu lao động, người lao động sẽ đem “bán” sức lao động của mình cho chủ sử dụng lao động ở nước ngoài và nhận về khoản tiền công là tiền lương được trả. Chính vì sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt nên tính chất của xuất khẩu lao động không chỉ đơn thuần như hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa thông thường, tranh chấp về hàng hoá giữa các nước đã là một việc khó giải quyết bao nhiêu thì tranh chấp và những vi phạm trong việc xuất khẩu lao động giữa các nước lại càng khó giải quyết và xử lý hơn rất nhiều.Bởi đó mà đòi hỏi phải có sự quản lý và quan tâm đặc biệt của Nhà nước.
Xuất khẩu lao động mang tính lợi ích cao.
Xuất khẩu lao động trước hết mang lại lợi ích cho nước đưa lao động đi xuất khẩu cả về phía nhà nước, doanh nghiệp và bản thân người lao động.
Đối với quốc gia hoạt động xuất khẩu lao động mang lại một khoản thu cho ngân sách nhà nước nhờ khoản thuế thu từ hoạt động của các công ty, doanh nghiệp xuất khẩu lao động và khoản ngoại tệ người lao động gửi về nước. Hơn nữa, đối với quốc gia xuất khẩu lao động còn giúp giải quyết việc làm, giảm thiểu thất nghiệp, thông qua xuất nhập khẩu đẩy nhanh được tiến trình phát triển đất nước và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
Đối với các doanh nghiệp, công ty xuất khẩu lao động: hoạt động xuất khẩu lao động mang lại lợi nhuận trước hết cho các nhân viên của doanh nghiệp nhờ vào các khoản thu từ chi phí đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài như: phí môi giới, phí đào tạo,...sau đó là mang lại lợi ích cho chủ doanh nghiệp nhờ khoản lợi nhuận thu được từ hoạt đông của doanh nghiệp.
Đối với các đối tượng đi xuất khẩu lao động và người thân: khoản lợi ích mà họ nhận được chính là khoản tiền lương họ được nhận và gửi về nước cho người thân. Khoản tiền đó còn có thể trở thành khoản vốn đầu tư cho những người lao động sau khi họ trở về nước, giúp họ làm giàu và cải thiện cuộc sống của gia đình và bản thân. Một lợi ích vô hình nữa mà họ nhận được từ việc đi xuất khẩu lao động đó là được nâng cao trình độ tay nghề, ý thức lao động, kỷ luật,… cho bản thân họ điều mà ở trong nước không thể có được.
Không chỉ mang lại lợi ích lớn cho các quốc gia đưa lao động đi xuất khẩu mà đối với các nước tiếp nhận hoạt động này cũng mang lại những lợi ích không nhỏ. Trước tiên là nó bù đắp được một khối lượng lao động đang bị thiếu hụt ở những nước này. Kế đến là khoản tiền lương phải trả cho lao động nước ngoài là tương đối rẻ so với khoản lương phải trả cho lao động trong nước.
Xuất khẩu lao động mang tính xã hội cao.
Xuất khẩu lao động không chỉ đơn giản là một hoạt động kinh tế đơn thuần mà nó còn mang tính xã hội rất cao. Việc xuất khẩu lao động giúp cho các quốc gia giải quyết được phần nào những hạn chế của thi trường lao động như giải quyết việc làm cho những lao động dư thừa, giảm thiểu thất nghiệp ở những quốc gia đưa lao động đi xuất khẩu và giải quyết được tình trạng thiếu hụt lao động ở những nước tiếp nhận.Hoạt động xuất khẩu lao động không chỉ đơn giản là đem sức lao động của người lao động từ nước này sang nước kia mà nó còn đem theo cả một khối lượng dân cư từ nước đưa lao động đi xuất khẩu tới nước tiếp nhận lao động. Biên giới giữa các quốc gia không chỉ là mốc ngăn cách các quốc gia với nhau mà còn ngăn cách cả nền văn hoá, lối sống, tín ngưỡng, ...của các quốc gia đó. Chính vì lẽ đó hoạt động xuất khẩu lao động cũng kèm theo nó là một loạt những xáo trộn cho cả xã hội tại nơi tiếp nhận và nơi lao động được đưa đi.
Xuất khẩu lao động cũng góp phần cải thiện đời sống của nhân dân thông qua khoản thu nhập mà người lao động gửi về cho gia đình và người thân. Đây cũng là một trong những biện pháp hiệu quả để thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo cho nhân dân.
Xuất khẩu lao động cũng có tính cạnh tranh.
Cũng giống như mọi hoạt động kinh tế khác, hoạt động xuất khẩu lao động cũng được đặt trong một môi trường cạnh tranh gay gắt. Sự cạnh tranh đến trước hết là từ phía những người lao động với nhau. Bởi số lượng lao động được chọn đi xuất khẩu lao động sang các nước là có hạn mà dân số đông, nguồn lao động dư thừa lớn nên họ phải cạnh tranh nhau trên con đường đi đến việc có được một xuất đi lao động nước ngoài.
Sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa những người lao động mà còn giữa các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Họ phải cạnh tranh nhau khi cùng xuất khẩu vào một thị trường, khi cùng hoạt động trên một địa bàn...
Sự cạnh tranh cũng không chỉ diễn ra trên lãnh thổ của một quốc gia mà còn vượt ra trên toàn thế giới khi mà có rất nhiều quốc gia cùng cố gắng thúc đẩy hoạt động xuất khẩu lao động đó là những quốc gia còn đang gặp khó khăn và cùng sử dụng biện pháp xuất khẩu lao động làm bàn đạp cho sự phát triển của nền kinh tế. Ta có thể đơn cử ngay như trong khu vực Đông Nam Á, không chỉ có Việt Nam mà còn nhiều nước cũng hoạt động xuất khẩu lao động như: Inđônêxia, Philippin,...
Xuất khẩu lao động là hoạt động có tính rộng rãi trên toàn thế giới.
Nghe nói đến xuất khẩu lao động có thể người ta chỉ nghĩ rằng việc làm đó chỉ dành cho các quốc gia đang và kém phát triển, nơi mà nguồn lao động dồi dào dẫn đến dư thừa, còn các quốc gia phát triển sẽ chỉ là nước tiếp nhận lao động. Song thực tế không phải như vậy, hoạt động xuất khẩu lao động lại diễn ra trên hầu hết các nước kể cả các nước phát triển. Đối với các nước có nền kinh tế phát triển họ xuất khẩu lao động của mình sang các nước phát triển khác để làm việc hoặc tới các quốc gia đang và kém phát triển thông qua các chương trình, dự án đầu tư. Đặc điểm nổi bật của hoạt động xuất khẩu lao động ở các nước phát triển là lao động xuất khẩu của họ là lao động chất xám có chất lượng cao, trình độ và tay nghề cao còn các nước đang và kém phát triển thì hầu hết là lao động giản đơn, không lành nghề.
Xuất khẩu lao động phụ thuộc nhiều vào chính sách của các quốc gia.
Xuất khẩu lao động là một hoạt động có liên quan đến mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia với nhau bởi thế chính sách của mỗi quốc gia có liên quan mật thiết đến hoạt động xuất khẩu lao động. Chính sách, pháp luật của quốc gia đưa lao động đi xuất khẩu có ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu lao động của nước đó là điều đương nhiên rồi vì nó quyết định đến sự khuyến khích hay hạn chế xuất khẩu của hoạt động xuất khẩu lao động nhưng chính sách, pháp luật của quốc gia tiếp nhận lao động cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu lao động, ví dụ một quốc gia đưa ra chính sách hạn chế lượng người nước ngoài nhập cư thì ngay lập tức sẽ hạn chế hoạt động xuất khẩu của những quốc gia có lao động đi làm việc tại nước đó và ngược lại.
Xuất khẩu lao động còn có rất nhiều đặc điểm khác song trên đây người viết chỉ đưa ra những đặc điểm nổi bật nhất, đáng chú ý của xuất khẩu lao động để phân tích và giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về hoạt động xuất khẩu lao động.
1.1.2. Phân loại các hoạt động xuất khẩu lao động.
Có rất nhiều cách phân loại hoạt động xuất khẩu lao động khác nhau, theo điều 134a* - Bộ luật lao động của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được sửa đổi, bổ xung năm 2002,2006 thì các hình thức đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài gồm có:
Cung ứng lao động theo các hợp đồng ký với bên nước ngoài;
Đưa lao động đi làm việc theo hợp đồng nhận thầu, khoán công trình ở nước ngoài;
Đưa lao động đi làm việc theo các dự án đầu tư ở nước ngoài;
Các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài những quy định của nhà nước về những hình thức chủ yếu của xuất khẩu lao động, các hình thức xuất khẩu lao động còn được chia theo biên giới quốc gia bao gồm 2 hình thức:
Xuất khẩu lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Theo đó hình thức này bao gồm tất cả các hoạt động đưa người Việt Nam sang nước ngoài làm việc có thời hạn bao gồm: Đưa lao động đi theo Hiệp định ký kết giữa chính phủ Việt Nam với chính phủ các nước; hợp tác giữa các nước về lao động và chuyên gia; thông qua các doanh nghiệp xuất khẩu lao động;...
Xuất khẩu lao động tại chỗ: là hình thức các tổ chức kinh tế của Việt nam cung ứng lao động cho các tổ chức kinh tế nước ngoài làm việc tai Việt Nam như: Các công ty nước ngoài có văn phòng đại diện ở Việt Nam, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp liên doanh, các khu chế xuất, các cơ quan ngoại giao của nước ngoài đặt tại Việt Nam,...Theo đó trong hình thức này người lao động không phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam mà làm việc ngay trong nước.
Một cách phân loại khác nữa là phân loại theo loại hình công việc. Với cách phân loại này hoạt động xuất khẩu lao động được chia làm nhiều loại khác nhau, trong đó có những hình thức công việc chủ yếu sau: Thợ xây dựng, công nhân nhà máy, lao động làm việc trên biển ( thuyền viên hoặc thuỷ thủ), lao động giúp việc gia đình (với các công việc như trông trẻ, ôsin,..), khán hộ công gia đình,...Ta cũng có thể phân loại các hình thức xuất khẩu lao động theo thị trường xuất khẩu với: xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Trung Đông,...và nhiều cách phân loại khác tuy nhiên tuỳ theo những góc nhìn khác nhau và những mục đích nghiên cứu khác nhau mà lựa chọn cách phân loại nào cho phù hợp.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế đặc biệt bởi vậy nó cũng chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau. Trong số các nhân tố đó chúng ta có thể nhóm thành các nhóm chính sau:
Các yếu tố thuộc về Nhà nước
Công tác xuất khẩu lao động là một hoạt động mang tính chất quốc gia vì nó liên quan đến việc đưa lao động ra khỏi biên giới lãnh thổ của một nước để tới một nước khác do vậy yếu tố đầu tiên có ảnh hưởng quyết định đến hoạt động này chính là chủ chương chính sách của quốc gia. Bất cứ một chủ trương, chính sách nào liên quan đến hoạt động ngoại giao, hợp tác quốc tế, lao động - việc làm,... đều sẽ có tác động thúc đẩy hay hạn chế đến hoạt động xuất khẩu lao động.
Một yếu tố khác thuộc về Nhà nước cũng có tác động rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu đó là những quy định của Nhà nước về quyền và nghĩa vụ của Nhà nước, doanh nghiệp xuất khẩu lao động và người lao động trong hoạt động xuất nhập khẩu và quan trọng hơn cả là những quy định của Nhà nước về thủ tục cần thiết khi tham gia hoạt động xuất nhập khẩu lao động.
Yếu tố thứ ba thuộc về Nhà nước có ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu lao động đó là quan hệ ngoại giao giữa các nước với nhau. Nếu hai quốc gia có quan hệ lâu đời khăng khít thì lẽ đương nhiên hoạt động xuất khẩu lao động sẽ thuận lợi còn ngược lại nếu quan hệ giữa hai nước đang trong tình trạng căng thẳng, thù địch thì hoạt động xuất khẩu lao động rất khó tiến hành.
Yếu tố nữa cũng thuộc về phía Nhà nước nhưng mà là thuộc về nước tiếp nhận lao động đó là môi trường pháp lý của quốc gia đó và luật pháp quốc tế. Một điều có tính chất đương nhiên là khi xuất khẩu lao động sang một quốc gia nào đó thì việc cần làm đó là tìm hiểu kỹ về luật pháp của nước đó xem họ có chính sách đối xử như thế nào với lao động nước ngoài làm việc tại đất nước họ, xem họ cần những thủ tục pháp lý như thế nào khi tiếp nhận lao động của ta,..Và cũng cần xem xét kỹ luật pháp của họ để khi lao động của ta sang nước họ làm việc không bị vi phạm điều gì trong pháp luật của nước sở tại. Việc xem xét và đảm bảo đúng những quy định của luật pháp quốc tế về việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng giữ vai trò quan trong trong công tác xuất khẩu lao động vì chỉ cần vi phạm một điều nào đó trong luật pháp quốc tế cũng sẽ khiến cho hoạt động xuất khẩu lao động bị đình trệ thậm chí thất bại.
Yếu tố thuộc về các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động là một hoạt động đem lại lợi ích rất lớn bởi thế mà hiện nay số lượng những doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu lao động ngày càng tăng lên. Những doanh nghiệp này có ảnh hưởng quyết định đến hoạt động xuất khẩu lao động bởi nếu họ hoạt động tốt thì sẽ đưa được nhiều lao động đi, mở rộng được thị trường xuất khẩu lao động nhưng ngược lại nếu họ hoạt động kém không những người lao động chịu thiệt thòi mà hoạt động xuất khẩu lao động cũng bị hạn chế.
Quyền hạn và nghĩa vụ của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đã được quy định rõ trong pháp luật của nhà nước ta. Tuy nhiên, tuỳ theo uy tín và khả năng hoạt động của mỗi doanh nghiệp mà chất lượng dịch vụ xuất khẩu lao động của họ tốt hơn hay kém hơn, những doanh nghiệp có uy tín, có khả năng lớn thì sẽ tìm được nhiều thị trường hơn, sẽ thu hút được nhiều lao động hơn,...Chất lượng của quá trình đào tạo, của hoạt động marketing của doanh nghiệp cũng sẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu lao động phát triển hay bị hạn chế vì quá trình đó ảnh hưởng đến chất lượng lao động và quy mô của thị trường.
Quá trình quản lý của doanh nghiệp đối với lao động đã xuất khẩu sẽ ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp và chất lượng của hoạt động xuất khẩu lao động. Đây là một trong những hình thức quản lý người lao động đã xuất cảnh một cách khá tốt trong quá trình quản lý hoạt động xuất khẩu lao động.
Yếu tố thuộc về người lao động.
Người lao động là đối tượng trực tiếp tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao động, nếu không có người lao động tham gia thì cũng không thể có được hoạt động xuất khẩu lao động chính vì vậy nhân tố này giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu lao động.
Một yếu tố quan trọng thuộc về bản thân người lao động có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu lao động đó là chất lượng của lao động. Chất lượng lao động ở đây bao gồm có: trình độ tay nghề, trình độ ngoại ngữ, trình độ học vấn, ý thức kỷ luật,...Nếu chất lượng lao động tốt thì chất lượng của hoạt động xuất khẩu lao động cũng sẽ tốt từ đó tạo uy tín cho quốc gia trên thị trường và có thẻ thu hút được những thị trường khó tính nhưng có thu nhập cao và ngược lại. Chất lượng của lao động cũng có ảnh hưởng đến ý thức của bản thân họ, hiện nay có nhiều trường hợp do lao động có nhận thức kém nên tự ý đơn phương chấm dứt hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài tự làm việc,..Nhiều lao động do có trình độ kém nên không đáp ứng được yêu cầu của công việc buộc phải quay về nước. Chính những yếu tố đó đã gây ra những sự kỳ thị đối với lao động nước ta khiến cho hoạt động xuất khẩu lao động bị hạn chế đi rất nhiều. Ngoài ra, các yếu tố khác như: số lượng lao động, việc làm và thu nhập của lao động,… cũng có ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu lao động và việc quản lý hoạt động này.
Các yếu tố khác.
Ngoài những yếu tố trên còn có rất nhiều yếu tố khác có ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động xuất khẩu lao động ví dụ như:
Các yếu tố thuộc về văn hoá như tôn giáo, tín ngưỡng, lối sống, phong tục tập quán, ...
Các yếu tố thuộc về kinh tế như cơ sở hạ tầng, thu nhập bình quân, giá cả thị trường,...
Các yếu tố mang tính chất cạnh tranh từ các nước khác,..v..v.
1.1.4. Hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam.
1.1.4.1. Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam.
Như đã phân tích ở trên hoạt động xuất khẩu lao động có tính tất yếu khách quan, chính vì vậy mà Việt Nam cũng giống như các nước đang phát triển khác trên thế giới không thể không triển khai hoạt động xuất khẩu lao động.
Với dân số trên 80 triệu người đứng thứ 13 trên thế giới, Việt Nam được xếp vào hàng ngũ những quốc gia đông dân nhất thế giới. Trong đó có khoảng 43 triệu người thuộc độ tuổi lao động ( nữ chiếm 48,7%), mỗi năm tăng thêm bình quân trên 1 triệu người, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề khoảng 20%, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 5% nhưng con số thiếu việc làm ở nông thôn thì còn cao hơn rất nhiều, số việc làm được tạo ra mới chỉ đáp ứng được khoảng trên dưới 40% số lao động.Những con số trên cho thấy tình trạng thất nghiệp thiếu việc làm đang là một trong những vấn đề nổi cộm của nền kinh tế Việt Nam, những biện pháp thu hút đẩy mạnh đầu tư luôn được khuyến khích song chỉ giải quyết được một phần nào tình trạng thiếu việc làm, do đó xuất khẩu lao động là lựa chọn hữu hiệu và cần thiết cho Việt Nam trong giai đoạn hiện nay không chỉ là vì giải quyết được phần nào lao động dư thừa mà còn vì những lợi ích to lớn mà hoạt động này mang lại cho quốc gia.
1.1.4.2. Một số quy định của Nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động là một vấn đề được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm nên vấn đề này được quy định trong rất nhiều văn bản pháp luật.Trước hết là trong Bộ luật lao động của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (đã được sửa đổi, bổ xung năm 2002, 2006) quy định:
(Xem phụ lục 1)
Dựa vào những quy định của Bộ Luật Lao động, Chính phủ cũng quy định cụ thể về việc người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài trong Nghị định số 152/NĐ-CP ngày 20/9/1999 của Chính phủ, ngoài những quy định cụ thể hơn về hình thức xuất khẩu lao động, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp và người lao động tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao động, Nghị định 152 còn có thêm những quy định sau:
(Xem phụ lục 2)
Trên đây là những quy định của Nhà nước ta về vấn đề xuất khẩu lao động được trích từ Bộ luật lao động và Nghị định 152/NĐ – CP của Chính phủ. Ngoài ra, còn có nhiều Nghị định và thông tư, chỉ thị khác quy định cụ thể hơn về hoạt động xuất khẩu lao động.
1.2.QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG.
1.2.1. Khái niệm.
Để hiểu được quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động là gì thì trước hết ta phải hiểu được quản lý là gì. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý do vậy cũng có nhiều khái niệm khác nhau về quản lý nhưng nhìn chung có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về quản lý như sau:
Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, cơ hội của tổ chức để đ._.ạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường. Khoa khoa học quản lý - Đại học Kinh tế quốc dân: Giáo trình Lý thuyết quản trị kinh doanh, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà nội, 2000.
Như vậy quản lý được hiểu là tất cả những tác động có tổ chức và hướng đích mà chủ thể tác động lên đối tượng trong điều kiện biến đổi của môi trường nhằm thực hiện mục tiêu đã đề ra. Theo đó quản lý Nhà nước vê xuất khẩu lao động cũng mang tính chất là một hoạt động quản lý trong đó chủ thể quản lý có thể là Nhà nước bao gồm các cơ quan Nhà nước quản lý về lao động có thẩm quyền và các cơ quan Nhà nước khác có liên quan còn đối tượng quản lý ở đây là người lao động, các doanh nghiệp chuyên doanh xuất khẩu lao động và hoạt động xuất khẩu lao động. Các chủ thể quản lý sẽ sử dụng các công cụ quản lý như: các chính sách, chế độ, quy chế, quy định về hoạt động xuất khẩu lao động hay các kế hoạch, chỉ tiêu xuất khẩu lao động hoặc những quy định ràng buộc về mặt vật chất, pháp lý,... để tiến hành quản lý.
Quá trình quản lý có thể diễn ra dưới nhiều hình thức từ quản lý trong nước cho đến quản lý ở nước ngoài, từ quản lý trực tiếp cho đến việc gián tiếp quản lý...Nhưng dù sử dụng cách thức quản lý nào thì mục đích của hoạt động quản lý đều là nhằm làm cho hoạt động xuất khẩu thực sự hiệu quả, mang lại lợi ích cho cả quốc gia, doanh nghiệp lẫn người lao động.Từ đây ta có thể thấy rằng quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động là quá trình tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của các chủ thể quản lý là Nhà nước lên các đối tượng quản lý là hoạt động xuất khẩu lao động và các khách thể quản lý là người lao động, các doanh nghiệp chuyên doanh xuất khẩu lao động cùng các đối tượng có liên quan khác nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động.
1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động là một hoạt động có vài trò hết sức to lớn trong tiến trình phát triển của các quốc gia do vậy nó đòi hỏi phải có sự quan tâm và quản lý của nhà nước và toàn xã hội. Quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động là rất cần thiết bởi các nguyên nhân sau:
Thứ nhất là do hoạt động này đem lại lợi ích rất lớn cho quốc gia và toàn xã hội. Như đã phân tích ở trên xuất khẩu lao động không chỉ mang lại lợi ích cho người lao động tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao động mà còn mang lại những lợi ích không nhỏ cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động, Nhà nước và toàn xã hội, chính vì hoạt động này mang lại nhiều lợi ích như vậy nên không thể tránh khỏi có những trường hợp lợi dụng tư tưởng hám lợi của người dân để lừa đảo, chuộc lợi bất chính. Để đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động và hiệu quả thực sự của hoạt động xuất khẩu lao động thì việc đứng ra quản lý của các cơ quan Nhà nước và của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động là điều tất yếu cần có.
Cũng xuất phát từ lợi ích to lớn của xuất khẩu lao động mang lại mà nảy sinh ra sự cạnh tranh gay gắt trong hoạt động này. Không chỉ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, giữa những người lao động mà còn cả giữa các quốc gia với nhau. Sự cạnh tranh này mang tính chất rất phức tạp bởi vậy để đảm bảo cho quá trình cạnh tranh diễn ra trong một môi trường lành mạnh và thực sự công bằng thì không thể thiếu mặt của quản lý xuất Nhà nước về khẩu lao động.
Một nguyên nhân nữa làm cho việc quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động trở nên cần thiết đó là do những tranh chấp và vi phạm trong hoạt động xuất khẩu lao động xảy ra. Vấn đề tranh chấp và sự cố trong quan hệ lao động là rất khó có thể tránh khỏi nên trong hoạt động xuất khẩu lao động việc xảy ra tranh chấp và vi phạm là điều cần phải tính đến. Tranh chấp và sự cố trong quan hệ lao động ở trong nước bình thường đã là vấn đề khó giải quyết rồi song nếu nó xảy ra trong hoạt động xuất khẩu lao động thì lại càng khó khăn hơn do nó có thêm yếu tố nước ngoài vào đó. Sự khác biệt về pháp luật, văn hoá, phong tục tập quán, ... giữa các quốc gia lại càng làm cho việc giải quyết trở nên khó khăn, phức tạp hơn nhiều lần nhưng nếu có sự quản lý chặt chẽ thì sẽ hạn chế được rất nhiều những vi phạm và tranh chấp trong hoạt động xuất khẩu lao động.
Đưa lao động đi xuất khẩu sẽ là đem đến quốc gia đó một khối lượng dân cư khác biệt họ về môi trường sống, khí hậu, ngôn ngữ, tôn giáo,... do vậy sẽ tạo ra một sự xáo trộn lớn cho xã hội của nước tiếp nhận lao động do đó yêu cầu các nước này phải có sự quản lý chặt chẽ đối với hoạt động xuất khẩu lao động này. Hơn nữa khi số lao động này trở về nước thì vấn đề phức tạp nhất là giải quyết việc làm cho họ do đó cần phải có hệ thống quản lý chặt chẽ từ các cơ quan Nhà nước.
Xuất khẩu lao động như đã phân tích ở trên mang tính xã hội rất cao do đó vấn đề do nó gây ra cho xã hội là rất phức tạp yêu cầu cần phải có sự quản lý của các cơ quan Nhà nước đối với hoạt động này. Khi có xuất khẩu lao động thu nhập của một số lượng dân cư tăng lên, những người thân của lao động đi xuất khẩu ở trong nước không vất vả gì mà có được một khoản tiền lớn, đây là nguyên nhân gây ra một số hiện tượng xã hội phức tạp như đua đòi, ăn tiêu chác táng,…tạo ra những mâu thuẫn trong xã hội. Chính điều này làm cho việc quản lý đối với hoạt động xuất khẩu lao động trở lên rất quan trọng đối với các nước có lao động đi xuất khẩu.
Còn rất nhiều nguyên nhân khác nữa khiến cho việc quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động trở lên cần thiết, trên đây chỉ là một vài những nguyên nhân chủ yếu mà người viết muốn nêu lên.Quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động là cần thiết đối với các quốc gia có lao động đi xuất khẩu và càng cần thiết hơn nữa đối với một đất nước mà trình độ quản lý còn hạn chế như Việt Nam.
1.2.3. Những nội dung của quản lý xuất Nhà nước về khẩu lao động.
Quá trình quản lý thông thường bao gồm các nội dung chính là: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Tương tự như vậy quá trình quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động cũng bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
1.2.3.1. Công tác hoạch định.
Hoạch định là một nội dung khởi đầu và đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình đặc biệt là đối với hoạt động quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động. Thực chất của hoạch định chính lá giai đoạn lập kế hoạch trong quá trình quản lý.
Lập kế hoạch là một loại ra quyết định đặc thù để xác định một tương lai cụ thể mà các nhà quản lý mong muốn cho tổ chức của họ. Chúng ta biết rằng quản lý có bốn chức năng cơ bản là lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Chúng ta có thể hình dung là lập kế hoạch bắt đầu từ rễ cái của một cây sồi đồ sộ, rồi từ đó mọc lên các “nhánh” tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Trên ý nghĩa này, lập kế hoạch là chức năng khởi đầu và trọng yếu đối với nhà quản lý. Đoàn thị Thu Hà + Nguyễn thị Ngọc Huyền – Khoa Khoa Học Quản Lý – ĐH KTQD – Giáo trình Khoa Học Quản Lý tập I – tr333 – HN, 2004
Quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động cũng là một quá trình quản lý do đó việc lập kế hoạch xuất khẩu lao động cũng gjữ một vai trò rất quan trọng trong quá trình quản lý Nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động.
Nhìn chung, quá trình lập kế hoạch quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động bao gồm các bước sau:
Bước 1- Nghiên cứu và dự báo.
Bước 2 - Thiết lập các mục tiêu.
Bước 3- Phát triển các tiền đề.
Bước 4 - Xây dựng các phương án.
Bước 5 - Đánh giá các phương án.
Bước 6 - Lựa chọn phương án và ra quyết định.
Tuy nhiên, xét trên giác độ quản lý Nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động thì việc lập kế hoạch được tập trung vào việc xây dựng các kế hoạch có tính chất định hướng như: chiến lược, chính sách, các chương trình, quy hoạch…đặc biệt là chiến lược và quy hoạch.
Chiến lược được hiểu là một hệ thống các quan điểm cơ bản, những mục tiêu mang tính chất dài hạn và những phương án giải quyết được lựa chọn một cách kỹ lưỡng khoa học để đạt được mục tiêu đã đề ra và thường là mục tiêu từ 10 – 20 năm.
Còn quy hoạch là một loại kế hoạch có tầm dự báo dài hạn ngắn hơn chiến lược và thường là những sự cụ thể hóa hơn nữa của chiến lược. Chúng ta có thể hiểu rằng chiến lược là chủ đề còn quy hoạch giống như là bức tranh toàn cảnh vẽ về chủ đề đó.
Trên thực tế, chiến lược thường được xây dựng trên quy mô quốc gia còn quy hoạch thường được xây dựng tại các địa phương dựa trên các chiến lược cụ thể của quốc gia.
Dựa trên cơ sở chiến lược và quy hoạch về xuất khẩu lao động mà các cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý đối với hoạt động xuất khẩu lao động sẽ có được định hướng cụ thể từ đó lập ra những kế hoạch quản lý cụ thể cho đơn vị mình, địa phương mình.
1.2.3.2. Tổ chức bộ máy quản lý.
Tổ chức nói chung là quá trình triển khai các kế hoạch hay nói cách khác: Tổ chức là một chức năng của quá trình quản lý bao gồm việc phân bổ, sắp xếp nguồn nhân lực con người và gắn liền với con người là các nguồn lực khác nhằm thực hiện thành công công tác kế hoạch của tổ chức. Đoàn Thị Thu Hà + Nguyễn Thị Ngọc Huyền – Khoa Khoa Học Quản Lý - Đại Học KTQD – Giáo trình khoa học quản lý tập II – tr 6 – HN, 2002
Như vậy, hoạt động tổ chức là việc thiết lập và sắp xếpcác cá nhân, bộ phận vào các vị trí khác nhau nhằm phối hợp các cá nhân và bộ phận đó một cách tốt nhất để thực hiện mục tiêu của tổ chức. Đối với quá trình quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động thì chức năng tổ chức được chú trọng nhiều vào việc tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động.
Việc xây dựng và tổ chức bộ máy quản lý một cách hợp lý vàkhoa học sẽ có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của cả quá trình quản lý do vậy vấn đề tổ chức bộ máy cần đựoc quan tâm một cách đúng mức và đảm bảo tính hoàn chỉnh thống nhất, vừa linh hoạt vừa hiệu quả tránh cồng kềnh, trùng lặp vừa gây tốn kém vừa gây phiền hà, không để tạo một kẽ hở nào cho các hiện tượng tiêu cực như tham ô, tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền có cơ hội len lỏi vào các cơ quan quản lý Nhà nước.
Một vấn đề có tính quyết định đối với việc tổ chức thành công hay thất bại một bộ máy quản lý Nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động đó chính là nhân tố con người. Việc lựa chọn, sắp xếp nhân sự trong các cơ quan Nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc đúng người đúng việc phù hợp với trình độ chuyên môn, trình độ chính trị của từng cá nhân. Vấn đề đạo đức, tinh thần trách nhiệm của mỗi con người trong bộ máy quản lý Nhà nước về hoạt động xuất khảu lao động là một vấn đề rất quan trọng nó đòi hỏi phải có một sự thống nhất giữa quyền hạn được giao với trách nhiệm nghĩa vụ của từng người trong từng vị trí.
1.2.3.3. Chỉ đạo thực hiện.
Sau khi đã xác lập được kế hoạch trong thời gian gần nhất và tổ chức được bộ máy quản lý với những nhân sự thích hợp thì việc tiếp theo cần phải làm là chỉ đạo thực hiện kế hoạch đã đề ra.
Để chỉ đạo thực hiện kế hoạch quản lý xuất khẩu lao động của mình các cơ quan Nhà nước phải sử dụng nhiều biện pháp khác nhau. Trong đó, quan trọng và chủ yếu là biện pháp ra các văn bản pháp quy quy định các vấn đề có liên quan đến vấn đề xuất khẩu lao động. Các văn bản này phải đảm bảo tính chặt chẽ, rõ ràng, ổn định,…Ngoài ra, còn nhiều biện pháp khác như tuyên truyền, giáo dục, sử dụng các chế tài như xử phạy hành chính, truy cứu trách nhiệm dân sự, hình sự,…
Để chỉ đạo thực hiện công tác quản lý xuất khẩu lao động thì người lãnh đạo của các cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động cần tổ chức và phát huy hiệu quả của phương thức làm việc theo nhóm đồng thời phải dự kiến được các tình huống có thể xáy ra để có hướng chỉ đạo cho thật phù hợp và hiệu quả nhất.
Việc chỉ đạo thực hiện cũng phải đạt yêu cầu là bám sát vào thực tế, không chỉ là những chỉ đạo suông, những khẩu hiệu dùng để hô to…Căn cứ vào kế hoạch đã định sẵn người lãnh đạo vận hành bộ máy quản lý của mình chỉ đạo, khuyến khích, hướng dẫn và giám sát hoạt động xuất khẩu lao động của các đơn vị có liên quan đến vấn đề xuất khẩu lao động trên địa bàn quản lý của mình sao cho vừa đảm bảo thực hiện đựoc mục tiêu kế hoạch vừa đảm bảo thực hiện đúng pháp luật. Cụ thể là trên các mặt sau:
a. Tuyển mộ, tuyển chọn lao động xuất khẩu.
Căn cứ để tuyển chọn lao động đi xuất khẩu lao động được Chính phủ quy định cụ thể tại Nghị định 81/2003/NĐ-CP, trong đó cần chú ý những điểm sau:
- Đơn vị xuất khẩu lao động là đơn vị trực tiếp tiến hành việc tuyển chọn lao động xuất khẩu, không được uỷ quyền qua trung gian, môi giới và người lao động không phải nộp một khoản lệ phí nào cho hoạt động tuyển chọn này.
-Đơn vị phải xuất trình giấy phép hoạt động khi tuyển chọn lao động ở địa bàn khác.Đơn vị phải dành khoảng 10% số lượng lao động được tuyển cho các đối tượng thuộc diện ưu tiên.
- Không được tuyển lao động Việt Nam đi làm những ngành nghề mà pháp luật Việt Nam cấm.
-Việc tuyển chọn phải được thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, các vấn đề liên quan như: ngày giờ nhận hồ sơ, ngày giờ tuyển dụng, các tiêu chuẩn đặt ra,…cần phải được thông báo công khai cho người lao động nắm được.Công khai thông báo kết quả sau chậm nhất là 5 ngày.
-Đơn vị đưa lao động đi xuất khẩu phải kết hợp với bệnh viện tiến hành kiểm tra sức khỏe cho người lao động và chỉ được phép tyển chọn những lao động có đủ sức khoẻ.
Hồ sơ tuyển chọn bao gồm: Đơn tự nguyện đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (bao gồm cả bản cam kết của cá nhân và gia đình); sơ yếu lý lịch có xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn nơi lao động cư trú hoặc đơn vị, cơ quan làm việc của người lao động; giấy chứng nhận sức khoẻ.Các giấy tờ khác theo yêu cầu của bên nước ngoài.
Đối tượng tuyển chọn gồm các Công dân Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên có đủ các điều kiện dưới đây:
Có năng lực pháp lý và năng lực hành vi, chấp hành pháp luật một cách đầy đủ, hoàn toàn tự nguyện đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Đảm bảo đầy đủ các yêu cầu về sức khoẻ, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, ngoại ngữ của bên nước ngoài.
Không thuộc các đối tượng không được phép đi lao động tại nước ngoài theo quy định của pháp luật.
b. Đào tạo – giáo dục định hướng cho người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Theo Quy chế đào tạo và giáo dục định hướng cho người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (ban hành kèm theo Quyết định số 1635/1999/QĐ-BLĐTB&XH ngày 13 tháng 12 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ LĐ-TB & XH) quy định:
(Xem phụ lục 3)
Việc đào tạo giáo dục định hướng là hết sức cần thiết đối với hoạt động xuất khẩu lao động vì nó giúp cho người lao động có được nhận thức tốt hơn về công việc, luật pháp cũng như yêu cầu của bên nước ngoài đối với họ từ đó nâng cao được chất lượng, uy tín của đội ngũ lao động Việt Nam.Chính vì vậy việc đào tạo và giáo dục định hướng cho người lao động phải dành được sự quan tâm và quản lý chặt chẽ không chỉ của các đơn vị, doanh nghiệp xuất khẩu lao động mà còn của cả các cơ sở đào tạo, Cục quản lý lao động ngoài nước, Tổng cục dạy nghề, các Bộ, ngành, địa phương,…Trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan đơn vị trên đều được quy định rõ trong Quy chế đào tạo và giáo dục định hướng cho người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài ngày 13 tháng 12 ngày 1999 của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
c. Quản lý lao động đã xuất khẩu.
Quản lý ở trong nước.
- Quản lý hợp đồng lao động.
Để quản lý lao động xuất khẩu việc đầu tiên cần làm là quản lý hợp đồng lao động bởi đây là căn cứ pháp lý quan trọng điều chỉnh quan hệ lao động trong hoạt động xuất khẩu lao động. Trong họat động xuất khẩu lao động có ba loại hợp đồng:
Thứ nhất là hợp đồng cung ứng lao động ký kết giữa bên doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam với bên sử dụng lao động nước ngoài. Mẫu hợp đồng được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định, tuỳ theo từng loại hình lao động và nước tiếp nhận lao động mà hợp đồng có thêm những điều khoản cần thiết khác song vẫn phải đảm bảo những quy định chung về hợp đồng lao động.
Loại hợp đồng thứ hai là hờp đồng ký giữa doanh nghiệp xuất khẩu lao động và người lao động. Mẫu hợp đồng này được ban hành kèm theo Quy chế ngày 30 tháng 6 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Lao động– Thương binh và Xã hội, cụ thể như sau:
(Xem phụ lục 4)
Loại hợp đồng thứ ba là hợp đồng ký kết trực tiếp giữa chủ sử dụng lao động với người lao động. Loại hợp đồng này không được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội không ban hành mẫu quy định mà do chủ sử dụng lao động đề xuất, tuy nhiên phải tuân thủ các nguyên tắc và quy định về hợp đồng lao động của Bộ Luật Lao động nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Hợp đồng phải có những nội dung cơ bản sau: số lượng lao động; ngành nghề; nơi làm việc; thời gian làm việc, nghỉ ngơi; tiền lương, thưởng, làm thêm giờ; điều kiện làm việc và sinh hoạt; các chi phí: ăn, ở, đi lại; Bảo hiểm xã hội; Bảo hộ lao động; Các loại phí: dịch vụ, đào tạo, tuyển chọn; trách nhiệm xử lý khi tranh chấp hoặc sự cố đặc biệt xảy ra trong thời gian thực hiện hợp đồng.
Các doanh nghiệp và cá nhân tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao động phải có trách nhiệm đăng ký hợp đồng với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo đúng trình tự và thủ tục đăng ký hợp đồng.
- Quản lý sổ lao động, sổ bảo hiểm xã hội của lao động.
Theo quy định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thì sổ lao động và sổ bảo hiểm xã hội của người lao động phải do doanh nghiệp xuất khẩu lao động quản lý. Doanh nghiệp có trách nhiệm xin cấp hoặc cấp lại sổ lao động, sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động tại Sở Lao động – Thương binh và Xã hội và cơ quan Bảo hiểm xã hội trên địa bàn doanh nghiệp dóng trụ sở. Doanh nghiệp cũng phải có trách nhiệm xác nhận những vấn đề như: quá trình làm việc, tiền lương, thời gian đóng bảo hiểm xã hội, …của người lao động trong thời gian đi làm việc ở nước ngoài theo đúng quy định của pháp luật hiện hành. Trường hợp người lao động đi làm việc nước ngoài theo hợp đồng cá nhân ký kết trực tiếp với bên nước ngoài thì việc cấp sổ lao động và sổ bảo hiểm xã hội thuộc về trách nhiệm của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội.
- Quản lý việc thanh lý hợp đồng.
Khi người lao động hết hợp đồng trở về nước, doanh nghiệp đưa họ đi xuất khẩu sẽ phải chịu trách nhiệm thanh lý hợp đồng với họ. Nội dung thanh lý gồm: Trả lại sổ lao động và sổ bảo hiểm xã hội đã có xác nhận đầy đủ; thanh toán nốt những khoản tiền cần thiết còn lại; làm đầy đủ các giấy tờ, thủ tục cần thiết để trả lao động về nơi ở trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Đối với người lao động đi theo hợp đồng ký trực tiếp với bên nước ngoài thì khi về nước sẽ tiến hành làm thủ tục thanh lý hợp đồng tại Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nơi đăng ký hợp đồng.
Quản lý ở nước ngoài.
Với hình thức đi xuất khẩu lao động theo doanh nghiệp xuất khẩu lao động thì việc quản lý lao động thuộc về trách nhiệm của chính doanh nghiệp đó. Trong trường hợp doanh nghiệp có nhiều lao động làm việc tại một nước nào đó thì họ có quyền mở văn phòng đại diện hoặc cử cán bộ sang làm công tác quản lý lao động một cách trực tiếp. Người được doanh nghiệp cử đi quản lý lao động ở nước ngoài phải được bảo đảm các yêu cầu: về phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ để có đủ năng lực theo dõi, giám sát việc thực hiện các vụ tranh chấp và những vấn đề nảy sinh liên quan đến người lao động. Khi người lao động đã hoàn thành hợp đồng, người quản lý phải có trách nhiệm đưa họ trở về nước. Việc cử cán bộ đi quản lý lao động ở nước ngoài của doanh nghiệp phải báo cáo với Cục quản lý lao động ngoài nước và cơ quan đại diện của Việt Nam tại nước đó bằng văn bản (có kèm theo cả sơ yếu lý lịch của những cán bộ được cử đi) đồng thời chịu sự quản lý của các cơ quan đại diện Việt Nam ở các nước tiếp nhận lao động.Với những vấn đề phát sinh vượt quá thẩm quyền của doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải báo cáo ngay với các cơ quan chủ quản, cơ quan đại diện phía Việt Nam ở nước tiếp nhận, Cục quản lý lao động ngoài nước để có biện pháp giải quyết kịp thời. Doanh nghiệp cũng phải lập danh sách lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn tại nước sở tại gửi cho cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước đó và cho Cục quản lý lao động ngoài nước.
Đối với những trường hợp khác thì việc quản lý lao động ở nước ngoài sẽ do cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài và Cục quản lý lao động ngoài nước trực tiếp quản lý.
1.2.3.4. Kiểm tra hoạt động xuất khẩu lao động.
Đây là nội dungcuối cùng trong quý trình quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động cũng là một nội dung quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của quá trình quản lý. Kiểm tra là hoạt động giúp nhà quản lý phát hiện ra đựoc những sai sót có thể xảy ra để có biện pháp khắc phục kịp thời. Việc kiểm tra không phải đợi đến lúc công việc quản lý kết thúc mới tiến hành mà phải được thực hiện song song thường xuyên liên tục để tăng cường hiệu quả của việc kiểm tra.
Việc kiểm tra được thực hiện trong hai khu vực chính, đó là:
Khu vực tự kiểm tra tức là việc kiểm tra đưọc tiến hành tại các cơ quan quản lý có trách nhiệm quản lý hoạt động xuất khẩu lao động. Đối với khu vực này việc kiểm tra là tiến hành đo lường, phân tích, đánh giá xem hoạt động quản lý của từng bộ phận, từng cá nhân trong đơn vị mình có thực sự hiệu quả chưa? cần tiến hành điều chỉnh hay sửa đổi không? nếu có thì phải điều chỉnh, sử đổi như thế nào?... Đây là hoạt động kiểm tra có ya nghĩa quyết định đến hiệu quả của cả quá trình quản lý Nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động do đó đòi hỏi phải được tiến hành một cách khách quan, chính xác và hiệu quả.
Khu vực thứ hai – khu vực chính của hoạt động kiểm tra là khu vực các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn quản lý. việc kiểm tra đựoc tiến hành trên hầu hết các lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp này bao gồm cả công tác tuyển mộ tuyển chọn lao động lẫn các công tác đào tạo giáo dục - định hướng, công tác quản lý lao động đã xuất khẩu,...Việc kiểm tra tập trung chủ yếu vào việc xem xét việc thực hiện xuất khẩu lao động của đơn vị có đúng pháp luật không, có gì chưa phù hợp với mục tiêu kế hoạch chung không...
1.2.4. Quản lý Nhà nước của chính quyền tỉnh về xuất khẩu lao động
Chính quyền tỉnh thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động của mình bao gồm các công việc sau:
* Về công tác hoạch định:
- Nắm vững chiến lược và quy hoạch phát triển về xuất khẩu lao động của quốc gia để nắm được mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để phân tích, đánh giá làm cơ sở để vận dụng xây dựng những kế hoạch dài hạn và ngắn hạn của tỉnh về xuất khẩu lao động và vấn đề quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động.
- Tìm hiểu, nắm vững tình hình thực tế của công tác xuất khẩu lao động và những phương hướng, tiềm năng của công tác này trong tương lai. Dựa vào phương pháp dự báo và phương pháp chuyên gia để dự báo và đưa ra những phương án giải quyết cho các tình huống có thể xảy ra trong tương lai đối với hoạt động xuất khẩu lao động của tỉnh.
* Về công tác tổ chức bộ máy và nhân sự:
- Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động từ cấp tỉnh đến cấp xã, phường, thị trấn theo đúng yêu cầu và quy định của Nhà nước.
- Tuyển chọn nhân lực có năng lực, trình độ, phẩm chất phù hợp với từng vị trí trong bộ máy quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động tỉnh.
* Về chỉ đạo thực hiện quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động.
- Ra các văn bản quy định về các chế độ thực hiện, trợ cấp, quản lý… đối với xuất khẩu lao động trên địa bàn quản lý.
- Quy định về chế độ làm việc, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng cá nhân, từng vị trí, từng bộ phận trong bộ máy quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động của tỉnh mình.
- Chỉ đạo việc thực thi pháp luật về xuất khẩu lao động của các cơ quan, đơn vị có liên quan đến xuất khẩu lao động.
- Chỉ đạo, hướng dẫn, quản lý đối với việc thực hiện nhiệm vụ quản lý của các bộ máy giúp việc của chính quyền tỉnh trong việc quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động.
* Về kiểm tra, thanh tra hoạt động xuất khẩu lao động:
- Chỉ đạo các đơn vị, bộ phận của bộ máy quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động của tỉnh thực hiện việc thanh tra, kiểm tra đối với các doanh nghiệp, đơn vị hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh.
- Tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý đối với các cơ quan, đơn vị thuộc bộ máy quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động của tỉnh.
- Xử lý, điều chỉnh ngăn chặn những trường hợp vi phạm pháp luật về xuất khẩu lao động.
Và nhiều công việc khác.
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT KHẨU
LAO ĐỘNG CỦA TỈNH BẮC NINH.
2.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA TỈNH BẮC NINH ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU LAO ĐỘNG VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA TỈNH BẮC NINH.
2.1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội.
Từ năm 1997, tỉnh Bắc Ninh được tái lập cho đến nay trải qua 10 năm phấn đấu Đảng và nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã tạo ra một diện mạo kinh tế - xã hội mới.
Từ một tỉnh mới tái lập nền kinh tế còn non yếu, tỉnh Bắc Ninh đã tập trung nguồn lực để khai thác những thế mạnh của mình vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ có những chính sách hợp lý, sau 10 năm Bắc Ninh đã đạt được những thành tựu rất to lớn mang tính đột phá.
Tốc độ tăng trưởng trong những năm gần đây đều là rất cao, riêng năm 2006 GDP tăng 15,3% trong đó: công nghiệp – xây dựng tăng 20,28%; nông nghiệp tăng 3 % và dịch vụ tăng 47,79%; cơ cấu kinh tế: công nghiệp – xây dựng 47,79%; dịch vụ 28,61%; nông nghiệp 23,6%; giá trị sản xuất công nghiệp đạt 8.504 tỷ đồng (giá cố định năm 1994), thu ngân sách đạt 1.270,8 tỷ đồng, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 171,6 triệu USD, nhập khẩu đạt 245 triệu USD, tạo việc làm mới cho 19.075 lao động. Toàn tỉnh có 1.789 doanh nghiệp hoạt động với tổng số vốn điều kiện là 6.279 tỷ đồng. Năm 2006 tỉnh đã cấp phép cho 48 dự án đầu tư mới và cấp phép điều chỉnh cho 28 dự án. Tổng cộng cho đến năm 2006 tỉnh đã thu hút được 61 dự án FDI và 13 chi nhánh văn phòng đại diện với tổng số vốn đăng ký là 557 triệu USD với nhiều dự án tập trung vào các khu công nghiệp như khu công nghiệp Quế Võ, khu công nghiệp Tiên Sơn…
(Nguồn tham khảo: http:// www.moi.gov.vn -ngày 04/04/2007)
Trong 10 năm vừa qua, nhịp độ tăng trưởng của tỉnh luôn giữ ở mức độ cao, bình quân mỗi năm GDP tăng 13,5% với khu vực nông nghiệp tăng 6%, khu vực công nghiệp – xây dựng cơ bản tăng 22%, khu vực dịch vụ tăng 12,5% mỗi năm; cơ cấu kinh tế đang trên đà chuyển dịch theo chiều hướng tích cực: tỷ trọng công nghiệp tăng nhanh từ 23,7% năm 1997 lên 47,8% năm 2006 tăng 24,1%, tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 45% năm 1997 xuống còn 23,6% năm 2006 giảm 21,4% so với năm 1997. Năm 2006, giá trị sản xuất nông nghiệp là 2.238 tỷ đồng (bằng 1,83 lần so với năm 1997), giá trị sản xuất công nghiệp là 8.504 tỷ đồng (bằng 14.9 lần so với năm 1997). Cụ thể:
Biểu 2.1.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 10 năm(1997-2006) của tỉnh Bắc Ninh.
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm 1997
Năm 2006
So sánh
1
2
3
4
5
6=5/4
1.
Tăng trưởng GDP bình quân
10 năm giai đoạn 1997-2006,
trong đó:
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
%
13,5
5,67
21,64
13,3
2.
Cơ cấu kinh tế
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
%
100
44,7
24,5
30,8
100
23,6
47,79
28,61
52,8%
195,1%
92,9%
3.
Giá trị sản xuất
Nông nghiệp
Công nghiệp
Tỷ đồng
Tỷ đồng
1.218
569
2.238
8.504
1,83 lần
14,9 lần
(Nguồn: http:// www.bacninh.gov.vn - Thứ 2, ngày 22/01/2007)
Từ sự phát triển vượt bậc của kinh tế tỉnh Bắc Ninh đã giúp cho thu nhập của người dân tăng lên rất nhiều so với trước, đời sống được cải thiện hơn. Tuy nhiên, cùng với các khu công nghiệp, khu đô thị mọc lên ngày càng nhiều là việc người nông dân bị mất đất nông nghiệp sản xuất do bị thu hồi cũng ngày càng gia tăng. Điều này khiến cho một bộ phận lao động ở nông thôn không có việc làm, đây sẽ là nguồn lao động chủ yếu cho hoạt động xuất khẩu lao động.
Về mặt xã hội, sau 10 năm Bắc Ninh cũng đã có bộ mặt khác cả về công tác giáo dục đào tạo, công tác y tế lẫn các công tác xã hội. Đời sống của nhân dân được cải thiện do đó họ cũng tập trung đầu tư rất nhiều cho công tác giáo dục – đào tạo con em mình cũng như chế độ dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ. Nhìn chung, trình độ học vấn của người dân đã được nâng lên rất nhiều, số người bị mù chữ chỉ còn là con số ít. Hầu hết các xã, phường, thị trấn đều có trạm y tế riêng, các tuyến tỉnh - huyện đều tập trung nâng cấp cơ sở hạ tầng cũng như trình độ cho các y – bác sỹ để làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân trong tỉnh.
Biểu 2.1.2. Số liệu về công tác giáo dục – đào tạo và y tế tỉnh Bắc Ninh.
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
Tổng số giáo viên phổ thông
7988
8560
9030
Số học sinh phổ thông/ 1 vạn dân
2479
2467
2433
Số cơ sở y tế
142
147
147
Số giường bệnh /1 vạn dân
16,9
17,45
17,5
Số cán bộ y tế / 1 vạn dân
16,2
16,72
17,81
(Nguồn: niên giám thống kê Bắc ninh năm 2005)
Theo những số liệu này thì chúng ta có thể khẳng định được rằng trong những năm gần đây công tác giáo dục – đào tạo và y tế chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân đã được tăng cường rất nhiều, với tổng số gần 1 vạn giáo viên phổ thông, trung bình cứ 1 vạn dân sẽ có khoảng 18 cán bộ y tế, 18 giường bệnh cho thấy cơ sở hạ tầng và nhân lực phục vụ cho các công tác này đã được tăng cường qua các năm và tương đối ổn định. Ngoài những bệnh viện cấp huyện, thành phố, tỉnh và cấp trung ương đóng trên địa bàn thì 100% các xã, phường, thị trấn đều có trạm y tế riêng.
Mới nghe thì có vẻ tình hình kinh tế - xã hội chẳng có ảnh hưởng gì đến hoạt động xuất khẩu lao động và việc quản lý nó song thực tế thì ngược lại chúng có một mối liên hệ rất là sâu sắc. Sự phát triển kinh tế - xã hội có ảnh hưởng trước hết đối với hoạt động xuất khẩu lao động ở chỗ nếu tỉnh Bắc Ninh đã có nền kinh tế rất phát triển rồi thì công tác xuất khẩu lao động sẽ được nhìn ở một góc độ khác, khi đó tỉnh sẽ chỉ cần xuất khẩu những lao động chất xám, lao động kỹ thuật cao, hoạt động xuất khẩu lao động sẽ thu hẹp hơn và ngược lại. Kinh tế phát triển trình độ quản lý sẽ được nâng cao thì công tác quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động sẽ trở nên dễ dàng và nhẹ nhàng hơn rất nhiều và ngược lại. Xuất khẩu lao động và việc quản lý nó cũng có ảnh hưởng ngược lại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh bởi nếu công tác này đạt hiệu quả sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
2.1.2. Đặc điểm tự nhiên.
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ, nằm hoàn toàn trong châu._.am gia vào các lớp đào tạo nghề. Việc này không phải là chờ các doanh nghiệp tới tuyển dụng hay Nhà nước ra chính sách thì người lao động mới bắt đầu đi học mà người lao động cần phải chủ động tham gia vào các khoá đào tạo nghề này để nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân mình, chuẩn bị cho việc đăng ký tuyển mộ, tuyển chọn đi lao động xuất khẩu.
Thư ba nữa là nâng cao trình độ ngoại ngữ, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp thông qua các lớp học tiếng nước ngoài và các chương trình đào tạo – giáo dục định hướng của các đơn vị xuất khẩu lao động tổ chức.
Thứ tư là cần phải nhận thức một cách đúng đắn về hoạt động xuất khẩu lao động, tìm hiểu và nắm rõ những quy định của nhà nước về hoạt động này để xác định rõ ràng rằng mình đi lao động chứ không phải là đi du lịch từ đó có ý thức lao động và tuân thủ kỷ luật lao động. Nhận thức rõ hơn nữa những hậu quả mình sẽ phải trả giá nếu vi phạm hợp đồng hoặc pháp luật của Việt Nam và nước sở tại.
Thứ năm là thường xuyên liên hệ với các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước sở tại và cơ quan đại diện hoặc người quản lý của doanh nghiệp xuất khẩu lao động của mình để khi cần thiết có thể giúp mình giải quyết những tranh chấp hoặc sự cố xảy ra.
Khi ở nước ngoài, người lao động phải luôn luôn có ý thức làm việc và chấp hành quy định của chủ sử dụng lao động,
Ngoài ra, người lao động phải luôn luôn chấp hành tốt pháp luật và quy định của nước sở tại về người lao động nước ngoài cũng như các công ước quốc tế, …
Tìm hiểu kỹ về những thủ tục cần thiết để chuẩn bị tốt tránh tự gây ra cho mình những phiền phức không đáng có và để đảm bảo tính hợp pháp cho việc đi xuất khẩu lao động của mình.
Khi trở về nước, người lao động phải thực hiện tốt những nghĩa vụ khai báo, làm thủ tục cần thiết với cơ quan Nhà nước để nhập cảnh trở về quê hương. Về với gia đình, người lao động cần phải tích cực tìm kiếm việc làm cho bản thân và sử dụng hợp lý khoản thu nhập mà bản thân dành dụm được trong thời gian lao động ở nước ngoài. Tích cực tìm kiếm việc làm để ổn định cuộc sống chứ không được có tư tưởng có tiền rồi không phải làm gì.
Và còn rất nhiều giải pháp khác nữa.
KẾT LUẬN
Luận văn đã giải quyết được những vấn đề sau:
Thứ nhất, trình bày và tìm hiểu những vấn đề lý luận liên quan đến các vấn đề xuất khẩu lao động và quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động.
Thứ hai, nêu, phân tích và đánh giá được thực trạng xuất khẩu lao động và việc quản lý Nhà nước đối với công tác xuất khẩu lao động của tỉnh Bắc Ninh từ đó tìm ra những nguyên nhân của những thành tựu cũng như những bất cập còn tồn tại trong việc quản lý Nhà nước đối với công tác xuất khẩu lao động của tỉnh Bắc Ninh.
Thứ ba, nêu được phương hướng, mục tiêu và triển vọng của công tác xuất khẩu lao động của nước ta và của Bắc Ninh trong các năm tới.
Cuối cùng là đưa ra được những biện pháp hữu hiệu để tăng cường quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động của tỉnh Bắc Ninh nhằm khắc phục những mặt hạn chế và phát huy những tiềm năng, thế mạnh của tỉnh nhà để công tác này thực sự đạt được hiệu quả như mong muốn.
Nói tóm lại, trong thời gian gần đây Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bắc Ninh đã và đang triển khai rất nhiều biện pháp hữu hiêu nhằm nâng cao hiệu quả của công tác xuất khẩu lao động của tỉnh nhà. Nhờ có vậy, Bắc Ninh đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần giải quyết việc làm cho lao động trong tỉnh và đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo cho địa phương. Tuy nhiên, trong thời gian này công tác xuất khẩu lao động cũng gặp phải những khó khăn, bất cập. Chính từ thực trạng đó, người viết đã tập trung nghiên cứu số liệu và tổng hợp lại để tìm ra những biện pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động của tỉnh Bắc Ninh với hy vọng sẽ góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao hiệu quả của công tác xuất khẩu lao động để công tác xuất khẩu lao động thực sự trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của quê hương Bắc Ninh nhằm thực hiện mục tiêu trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015 của tỉnh nhà.
Trong bài viết tuy đã có nhiều cố gắng nhưng do năng lực còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi gặp phải những sai sót mong quý thầy cô và bạn đọc thông cảm.
Tôi cũng xin cam đoan rằng bài viết này là hoàn toàn do tự bản thân người viết tự mình vận dụng kiến thức của bản thân và tham khảo sách, báo, tài liệu viết ra, không có sự sao chép nào trái quy định. Tôi xin chấp nhận mọi trách nhiệm nếu điều nêu trên là sai sự thật.
PHẦN PHỤ LỤC
Phụ lục 1:
Bộ Luật lao động nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Trích)
Điều 134*
Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân tìm kiếm và mở rộng thị trường lao động nhằm tạo việc làm ở nước ngoài cho người lao động Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật nước sở tại và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.
Công dân Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên, có khả năng lao động, tự nguyện và có đủ tiêu chuẩn, điều kiện khác của pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và yêu cầu của bên nước ngoài thì được đi làm ở nước ngoài.
Điều 134a*
Các hình thức đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài gồm có:
Cung ứng lao động theo các hợp đồng ký với bên nước ngoài;
Đưa lao động đi làm việc theo hợp đồng nhận thầu, khoán công trình ở nước ngoài;
Đưa lao động đi làm việc theo các dự án đầu tư ở nước ngoài;
Các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Điều 135*
Doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động phải có giấy phép của cơ quan quản lý nhà nước về lao động có thẩm quyền.
Doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động có những quyền và nghĩa vụ sau:
a) Phải đăng ký hợp đồng xuất khẩu lao động với cơ quan quản lý nhà nước về lao động có thẩm quyền;
b) Khai thác thị trường, ký kết hợp đồng với bên nước ngoài;
c) Công bố công khai các tiêu chuẩn, điều kiện tuyển chọn, quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động;
d) Trực tiếp tuyển chọn lao động và không được thu phí tuyển chọn của người lao động;
đ) Tổ chức việc đào tạo, giáo dục định hướng cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo quy định của pháp luật;
e) Ký hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài với người lao động; tổ chức cho người lao động đi và về nước theo đúng hợp đồng đã ký và quy định của pháp luật;
g) Trực tiếp thu phí xuất khẩu lao động, đóng tiền vào quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động theo quy định của Chính phủ;
h) Quản lý và bảo vệ quyền lợi của người lao động trong thời gian làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài phù hợp với pháp luật Việt Nam và pháp luật nước sở tại;
i) Bồi thường thiệt hại cho người lao động do doanh nghiệp vi phạm hợp đồng gây ra;
k) Khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại do người lao động vi phạm hợp đồng gây ra;
l) Khiếu nại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động.
Doanh nghiệp đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài để thực hiện hợp đồng nhận thầu, khoán công trình và dự án đầu tư ở nước ngoài phải đăng ký hợp đồng với cơ quan nhà nước về lao động có thẩm quyền và thực hiện quy định tại các điểm c, d, đ, e, h, i, k và l khoản 2 Điều này.
Chính phủ quy định cụ thể về việc người lao động có hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài không thông qua doanh nghiệp.
Điều 135*
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài có những quyền và nghĩa vụ sau:
a) Được cung cấp các thông tin liên quan tới chính sách, pháp luật về lao động, điều kiện tuyển dụng, quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động làm việc ở ngoài nước;
b) Được đào tạo, giáo dục định hướng trước khi đi làm việc ở nước ngoài;
c) Ký và thực hiện đúng hợp đồng;
d) Được đảm bảo các quyền lợi trong hợp đồng đã ký theo quy định của pháp luật Việt nam, pháp luật nước sở tại;
đ) Tuân thủ pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại và tôn trọng phong tục, tập quán nước sở tại;
e) Được bảo hộ về lãnh sự và tư pháp;
g) Nộp phí về xuất khẩu lao động;
h) Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện với cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước Việt Nam hoặc của nước sở tại về các vi phạm của danh nghiệp xuất khẩu lao động và của người sử dụng lao động nước ngoài;
i) Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra;
k) Được bồi thường thiệt hại do doanh nghiệp vi phạm hợp đồng gây ra.
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 135 có những quyền và nghĩa vụ quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, h, i và k khoản 1 Điều này.
Điều 135b*
Chính phủ quy định cụ thể việc đào tạo lao động xuất khẩu; tổ chức, quản lý và sủ dụng lao động ở nước ngoài và việc thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động.
Điều 135c*
Nghiêm cấm việc tuyển và đưa người lao động ra nước ngoài làm việc trái pháp luật.
Doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân lợi dụng xuất khẩu lao động để tuyển chọn, đào tạo, tổ chức đưa người lao động ra nước ngoài làm việc trái pháp luật thì bị xử lý theo quy định của pháp luật, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường cho người lao động.
Người lao động lợi dụng việc đi làm việc ở nước ngoài để thực hiện mục đích khác thì bị xử lý theo quy định của pháp luật, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Phụ lục 2:
Trích Nghị định số 152/NĐ-CP ngày 20/9/1999 của Chính phủ.
Quy định về thủ tục cấp phép hoạt động chuyên doanh và đăng ký hợp đồng đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài tại:
Điều 5
Doanh nghiệp Việt Nam có đủ điều kiện dưới đây được xem xét cấp phép hoạt động chuyên doanh đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài:
Doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp đoàn thể thuộc Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội đồng Trung ương Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam;
Có vốn điều lệ từ một tỷ đồng trở lên;
Doanh nghiệp phải có ít nhất 50% cán bộ quản lý và điều hành hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài có trình độ đại học trở lên, có ngoại ngữ để trực tiếp làm việc với đối tác nước ngoài. Người lãnh đạo và đội ngũ cán bộ quản lý phải có lý lịch rõ ràng, chưa bị kết án hình sự;
Có tài liệu chứng minh khả năng ký kết hợp đồng và thực hiện việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Hồ sơ xin phép hoạt động chuyên doanh gồm có:
Đơn đề nghị cấp phép hoạt động chuyên doanh;
Các văn bản chứng minh về vốn và tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm xin cấp phép, có xác nhận của cơ quan tài chính có thẩm quyền;
Luận chứng kinh tế về khẳ năng hoạt động của doanh nghiệp trong lĩnh vực đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, có ý kiến của Thủ trưởng cơ quan chủ quản của doang nghiệp (Thủ trưởng Bộ, ngành, đoàn thể Trung ương và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cơ quan chủ quản của doanh nghiệp);
Quyết định thành lập doanh nghiệp chyên doanh đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Đối với việc thành lập mới doanh nghiệp chuyên doanh hoặc bổ sung chức năng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài cho doanh nghiệp đã thành lập thì Thủ trưởng Bộ, ngành, cơ quan Trung ương các đoàn thể hoặc chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải thoả thuận với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội bằng văn bản trước ra khi quyết định.
Hồ sơ xin phép hoạt động chuyên doanh gửi về Bộ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.Thời hạn xem xét cấp giấy phép không quá 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ theo quy định tại khoản 2 Điều này; lệ phí giấy phép hoạt động chuyên doanh là 10.000.000 (mười triệu đồng).
Điều 6.
Doanh nghiệp đăng ký hợp đồng tại Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội theo quy dịnh sau đây:
Doanh nghiệp có giấy phép hoạt động chuyên doanh phải đăng ký hợp đồng ít nhất ba ngày trước khi tổ chức tuyển chọn người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Doanh nghiệp không có giấy phép hoạt động chuyên doanh quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định này phải đăng ký hợp đồng ít nhất bảy ngày trước khi tổ chức tuyển chọn người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Hồ sơ đăng ký hợp đồng của doanh nghiệp gồm có:
Bản sao hợp đồng đã ký với bên nước ngoài;
Đối với doanh nghiệp không có giấy phép hoạt động chuyên doanh quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định này phải có văn bản chứng minh khả năng tài chính của doanh nghiệp đảm bảo thực hiện hợp đồng tại thời điểm đăng ký hợp đồng, có xác nhận của cơ quan tài chính có thẩm quyền.
Người lao động đi làm việc theo hợp đồng lao động cá nhân ký kết với người sử dụng lao động ở nước ngoài phải đăng ký hợp đồng lao động tại Sở Lao động – Thương binh và Xã hội địa phương nơi người lao động thường trú. Hồ sơ xin đăng ký hợp đồng lao động cá nhân gòm có:
Đơn xin đi lao động ở nước ngoài, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân phường, xã, thị trấn về nơi thường trú của người lao động. Đối với những người đang làm việc ở các đơn vị sự nghiệp, các cơ sở sản xuất dịch vụ thì cần có thêm xác nhận của nơi người lao động làm việc;
Bản sao hợp đồng lao động hoặc bản sao văn bản tiếp nhận làm việc của bên nước ngoài.
Trong trường hợp xét thấy hợp đồng gửi đăng ký không đủ các điều kiện cần thiết do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định hoặc vi phạm các quy định của Nghị định này, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quyết định việc tạm đình chỉ hoặc đình chỉ thực hiện hợp đồng với bên nước ngoài.
Nghị định cũng quy định trách nhiệm của các Bộ, ngành và địa phương trong việc đưa người lao động Việt nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài như sau:
Điều 18. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội có trách nhiệm:
Đàm phán, ký kết các Hiệp định Chính phủ về hợp tác sử dụng lao động với nước ngoài theo uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ;
Xác định chỉ tiêu kế hoạch hàng năm và 5 năm về đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài; phối hợp với các Bộ, ngành, đoàn thể Trung ương và địa phương chỉ đạo thực hiện;
Nghiên cứu các chính sách, chế độ liên quan đến việc đưa lao động Việt nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài để trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền và hướng dẫn thực hiện các chính sách, chế độ đó;
Nghiên cứu thị trường lao động ngoài nước và quy định các điều kiện làm việc, sinh hoạt cần thiết cho người lao động, quy định các danh mục các nghề cấm, các khu vực cấm đưa lao động Việt nam đi làm việc ở nước ngoài;
Hướng dẫn công tác bồi dưỡng nghề, tạo nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài; quy định các chương trình đào tạo, giáo dục định hướng cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Thành lập các trung tâm quốc gia đào tạo nguồn lao động có kỹ thuật, tay nghề cao và ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động ngoài nước;
Cấp, đình chỉ và thu hồi giấy phép hoạt động chuyên doanh, nhận đăng ký hợp đồng và thu lệ phí, phí quản lý theo quy định;
Tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra các cơ quan và doanh nghiệp có liên quan đến việc thực hiện đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; tạm đình chỉ hoặc đình chỉ thực hiện hợp đồng theo quy định tại khoản 3 Điều 6 và khoản 3 Điều 24 của Nghị định này;
Định kỳ báo cáo với Thủ tướng về tình hình lao động Việt Nam làm việc có thời hạn ở nước ngoài;
Phối hợp với Bộ Ngoại giao và các Bộ, ngành có liên quan giải quyết các vấn đề phát sinh trong việc quản lý người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài;
Phối hợp với Bộ Ngoại giao và Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ nghiên cứu tổ chức bộ phận quản lý lao động trong cơ quan đại diện Việt Nam ở những nước và khu vực có nhiều lao động Việt Nam làm việc hoặc có nhu cầu và khả năng nhận nhiều lao động Việt Nam với số lượng biên chế, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn phù hợp với Pháp lệnh về vơ quan đại diện nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài.
Điều 19.
Bộ tài chính chủ trì phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định chi tiết việc thu và sử dụng lệ phí, phí quản lý và phí dịch vụ; mức và thể thức giữ tiền đặt cọc của người lao động.
Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thực hiện quản lý Nhà nước đối với lao động Việt Nam ở nước sở tại; thông qua Bộ Ngoại giao cung cấp kịp thời cho Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thông tin về tình hình thị trường lao động nước ngoài và tình hình người lao động Việt Nam ở nước sở tại; liên hệ với các cơ quan chức năng của nước sở tại để giúp Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thiết lập quan hệ hợp tác sử dụng lao động; phối hợp với các tổ chức, cơ quan hữu quan của nước sở tại và các tổ chức quốc tế để giải quyết các vấn đề phát sinh nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động và doanh nghiệp Việt Nam.
Bộ Công an trong phạm vi trách nhiệm của mình phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trong việc quản lý người lao động đi làm việc ở nước ngoài; tạo điều kiện để người lao động được cấp hộ chiếu một cách thuận lợi theo đúng quy định của pháp luật, đáp ứng yêu cầu về thời gian thực hiện hợp đồng với bên nước ngoài.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành trong phạm vi trách nhiệm của mình đưa nội dung hợp tác lao động với nước ngoài vào các kế hoạch phát triển kinh tế đối ngoại, các chương trình hợp tác quốc tế, cùng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội xác định chỉ tiêu kế hoạch về đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài hàng năm, 5 năm.
Bộ Thương mại và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiên cứu trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành kèm theo thẩm quyền các chính sách tạo điều kiện để người lao động và doanh nghiệp đưa lao động Việt nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài thực hiện các quyền quy định tại khoản 3 Điều 8, khoản 1 Điều 10 và Điều 17 của Nghị định này.
Điều 20. Các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương các đoàn thể, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm:
Thống nhất với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quyết định số lượng các doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý được phép đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo đúng quy định của pháp luật;
Chỉ đạo, quản lý và chịu trách nhiệm về hoạt động của các doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài thuộc phạm vi quản lý, đồng thời phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan giải quyết các vấn đề phát sinh;
Báo cáo tinh hình đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài của các doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý; lập kế hoạch hàng năm, 5 năm về việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài gửi Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội để tổng hợp báo cáo Chính phủ.
Điều 21. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan quy định chi tiết việc người lao động thuộc các đối tượng chính sách có công với nước và người lao động nghèo được vay tín dụng để nộp tiền đặt cọc và lệ phí trước khi đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Điều 22. Trong trường hợp bất khả kháng phải khẩn cấp đưa người lao động Việt Nam về nước, cơ quan chủ quản của doanh nghiệp đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài có trách nhiệm chỉ đạo doanh nghiệp tổ chức đưa người lao động về nước; trường hợp vượt quá thẩm quyền và khả năng thì cơ quan chủ quản phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính lập phương án trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Phụ lục 3:
Trích Quy chế đào tạo và giáo dục định hướng cho người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (ban hành kèm theo Quyết định số 1635/1999/QĐ-BLĐTB&XH ngày 13 tháng 12 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ LĐ-TB & XH).
- Đào tạo và giáo dục định hướng cho người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài được thực hiện ở các trường, trung tâm dạy nghề và đào tạo thuộc Bộ, ngành, địa phương có giấy phép hoạt động hợp pháp.
Chương trình đào tạo giáo dục định hướng cho người lao động gồm những nội dung chính sau:
Dạy ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu của nước tiếp nhận lao động (Theo hợp đồng).
Giáo dục định hướng những điều cần biết có liên quan:
Luật Lao động, Luật hình sự, Luật xuất - nhập cảnh và cư trú của Việt nam và của nước tiếp nhận lao động, nghĩa vụ chấp hành và tuân thủ pháp luật;
Phong tục, tập quán, tôn giáo, điều kiện làm việc và sinh hoạt, quan hệ cư xử giữa chủ và thợ của nước tiếp nhận lao động, kinh nghiệm giao tiếp.
Nội dung hợp đồng lao động mà doanh nghiệp đã ký với đối tác nước ngoài và nội dung sẽ ký với người lao động, quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của người lao động trong việc thực hiện các điều cam kết đã ký trong hợp đồng.
Trách nhiệm của doanh nghiệp với người lao động; trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp; trách nhiệm của người lao động với Nhà nước.
Kỷ luật và tác phong công nghiệp.Những quy định, quy phạm về an toàn lao động trong xí nghiệp, công, nông trường và trên các phương tiện vận tải, tàu cá.
Dạy nghề, nâng cao trình độ tay nghề tuỳ theo yêu cầu của mõi nước tiếp nhận.
Chương trình đào tạo và giáo dục định hướng cho các chuyên gia, kỹ thuật viên và sỹ quan thuỷ thủ do từng Bộ chủ quản quy định.
Ngiêm cấm các lớp đào tạo lợi dụng việc dạy nghề, đào tạo giáo dục định hướng để tuyên truyền, quảng cáo lừa gạt người lao động.
Người lao động có nghĩa vụ sau:
Chấp nhận sự bố trí, tổ chức đào tạo của doanh nghiệp được phép đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Nghiêm túc thực hiện nội quy của cơ sở đào tạo và giáo dục định hướng cho người lao động đi lao động có thời hạn ở nước ngoài.
Trực tiếp đóng góp phí đào tạo nghề (nếu có), phí đào tạo và giáo dục định hướng cho doanh nghiệp theo quy định hiện hành của Nhà nước.
Người lao động có những quyền lợi sau:
Được học tập đày đủ các nội dung về đào tạo và giáo dục định hướng quy định tại Điều 4 Quy chế này.
Được cấp chứng chỉ sau khi đạt kết quả kiểm tra kết thúc khoá học nghề, khoá học đào tạo và giáo dục định hướng để đi làm việc ở nước ngoài.
Phụ lục 5:
Mẫu hợp đồng lao động ban hành kèm theo Quy chế ngày 30 tháng 6 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
CỘNG HOÀ XÃ HỘi CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
HỢP ĐỒNG
ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI
(Giữa người lao động và doanh nghiệp Việt Nam)
Hợp đồng đi làm việc có thời hạn tại nước……………………….
Hôm nay, ngày……. Tháng ….. năm 200
Chúng tôi gồm:
1.Tên doanh nghiệp Việt Nam:…………………………………………………
- Đại diện là Ông, Bà:…………………………………………………..……
- Chức vụ:……………………………………………………………………
- Địa chỉ cơ quan ( trụ sở chính):…………………………………………….
- Điện thoại:………………………………………………………………….
2. Họ và tên người lao động:………………………………………...………….
- Ngày, tháng, năm sinh:………………………………………………………..
- Số chứng minh thư:…………….…..; ngày cấp:…………………...………
Cơ quan cấp:………………………..; nơi cấp:………………………….....
- Địa chỉ trước khi đi:…………………………...……………………………
- Nghề nghiệp trước khi đi:………………………………..…………………
- Khi cần báo tin cho:…………………….. địa chỉ:…………………………
……………………………………………………..………………………...
Hai bên thỏa thuận và cam kết thực hiện các điều khoản hợp đồng sau đây:
Điều 1. Thời gian và công việc của hợp đồng:
- Thời gian hợp đồng:………………………...……………………………...
- Thời gian thử việc:…………………...………. ……………………………
- Thời gian làm việc: (giờ/ngày, giờ/tuần, các ngày nghỉ v.v…..)
- Nước đến làm việc:…………..……………………………………………..
- Nơi làm việc của lao động:……………………. (nhà máy, công trường cơ quan tổ chức tiếp nhận) …………………….
- Loại công việc:………………..…………………………………………....
Điều 2. Quyền lợi và nghĩa vụ của lao động:
A - Quyền lợi:
Tiền lương theo hợp đồng mà doanh nghiệp Việt nam ký với tổ chức kinh tế nước ngoài:…………/tháng.
Tiền lương làm thêm giờ: ……..(ghi rõ mức được hưởng nếu có)……...
Tiền thưởng:……..(nếu có)
Tiền lương thực lĩnh hàng tháng (sau khi trừ các khoản phí dịch vụ, phí quản lý ở nước ngoài, bảo hiểm xã hội,…và các khoản phải nộp khác theo pháp luật Nhà nước Việt Nam và pháp luật của nước đến làm việc là:…../tháng.
Chi trả lương: (chi trả hàng tháng tại đâu, ai trả …ghi rõ vào hợp đồng).
Điều kiện ăn, ở: (ghi rõ chỗ ở miễn phí hay tự trả, điều kiện ở chống nóng, chống lạnh, đệm, giường, chăn gối, nhà tắm v.v…).
Được hưởng bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm y tế theo quy định của ai?
Trong thời gian làm việc tại nước ngoài lao động ốm nặng ai chịu tiền viện phí (ghi rõ).
Được cung cấp trang thiết bị bảo hộ lao động (ghi rõ ai cung cấp).
Tiền cho phương tiện đi, về, đi lại từ nơi ở đến nơi làm việc v.v…
B – Nghĩa vụ của người lao động.
Người lao động phải qua kiểm tra sức khỏe và làm hồ sơ gồm: lý lịch có xác nhận của cấp phường, thị trấn, thủ tục cho xuất cảnh.
Thực hiện đầy đủ các điều khoản thuộc trách nhiệm, nghĩa vụ của người lao động trong các hợp đồng đã ký kết: giữa doanh nghiệp Việt nam với người lao động và tổ chức kinh tế nước ngoài.
Tự chịu trách nhiệm về những thiệt hại do người lao động gây ra trong thời gian làm việc tại …….;
Phải nộp cho doanh nghiệp Việt Nam trước khi đi một khoản tiền sau:
Tiền đặt cọc theo quy định là: ………………………………….……….
Tiền phí dịch vụ: …………………………………………..…………….
Tiền bảo hiểm xã hội: …………………………………….……………..
Phí quản lý ở nước ngoài (nếu có): ……………………………….……..
Tiền vé máy bay từ Việt Nam đến nước làm việc:………………………
……………………………………………………..………………………...
5. Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật nước đến làm việc, nội quy, quy chế, chế độ làm việc của cơ quan, ttổ chức hoặc doanh nghiệp tiếp nhận lao động.
6.Không được tham gia chính trị hoặc hội họp bất hợp pháp hoặc đình công trái pháp luật;
7. Thực hiện đúng thời gian làm việc ở cơ quan, tổ chức hoặc doanh nghiệp tiếp nhận được chỉ định cho đến khi hết hạn hợp đồng. Khi kết thúc hợp đồng nếu gia hạn phải được sự đồng ý của doanh nghiệpcử đi và tổ chức tiếp nhận, nếu không được gia hạn thì phải về nước không ở lại bất hợp pháp, nếu đơn phương chấm dứt hợp đồng hoặc vi phạm hợp đồng, phải bồi hoàn thiệt hại cho doanh nghiệp, mức độ bồi thường theo các quy định hiện hành của Nhà nước Việt Nam và nước đến làm việc.
Điều 3. Trách nhiệm và quyền hạn của doanh nghiệp Việt Nam:
A - Quyền hạn
Được thu các khoản tiền theo quy định tại mục B Điều 2 trên đây.
Giám đốc doanh nghiệp có quyền thi hành kỷ luật với các hình thức phê bình, cảnh cáo hoặc chấm dứt hợp đồng và đòi người lao động phải bồi thường mọi chi phí và thiệt hại do lỗi của người lao động gây ra (nếu có).
B – Trách nhiệm
Làm thủ tục xin cấp hộ chiếu, thủ tục với phía đối tác xin visa, mua vé máy bay, thực hiện chương trình tập huấn bắt buộc cho người lao động trước khi đi ra nước ngoài.
Thực hiện đầy đủ các quyền lợi của người lao động theo Điều 2 mục A hợp đồng này.
Giám sát tổ chức tiếp nhận, sử dụng lao động về việc thực hiện các điều khoản đã ký bảo đảm quyền lợi cho người lao động.
Doanh nghiệp có trách nhiệm giữ khoản tiền đặt cọc, đảm bảo khi người lao động về nước nếu không gây thiệt hại cho doanh nghiệp thì phải hoàn trả lại cho người lao động kể cả tièn lãi, trả sổ bảo hiểm, sổ lao động cho người lao động.
Quản lý người lao động trong thời gian làm việc ở nước ngoài, trực tiếp giải quyết và xử lý các vấn đề phát sinh từ khi đưa đi đến khi thanh lý hợp đồng, chuyển trả về nơi trước khi đi.
Điều 4. Trách nhiệm thực hiện hợp đồng:
Hai bên thực hiện đầy đủ các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng, trường hợp một trong hai bên vi phạm sẽ bị xử phạt theo Luật Lao động và các pháp luật có liên quan, quy trách nhiệm bồi thường vật chất theo mức độ thiệt hại do mỗi bên gây ra.
Điều 5. Gia hạn hợp đồng:
Trường hợp, hợp đồng giữa người lao động và tổ chức nhận được gia hạn thêm thì doanh nghiệp Việt Nam và người lao động có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các khoản tại Điều 2, Điều 3 của hợp đồng này.
Điều 6. Hợp đồng này được làm thành hai bản, một bản do doanh nghiệp giữ, một bản do người lao động giữ để thực hiện, có hiệu lực kể từ ngày ký và có giá trị trong thời hạn….. năm.
Hai bên đại diện doanh nghiệp và người lao động đã đọc kỹ và hiểu rõ các điều khoản trên nhất trí ký tên.
NGƯỜI LAO ĐỘNG
(Ký tên, ghi rõ họ tên)
ĐẠI DIỆN DOANH NGHIỆP
(Ký tên, đóng dấu)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ luật lao động của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được sửa đổi, bổ xung năm 2002,2006.
Chính phủ nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam - Nghị định số 152/1999/NĐ – CP ngày 20/9/1999.
Chính phủ nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam - Nghị định số 81/2003/NĐ – CP.
Quy chế đào tạo và giáo dục định hướng cho người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (ban hành kèm theo Quyết định số 1635/1999/QĐ-BLĐTB&XH ngày 13 tháng 12 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ LĐ-TB & XH).
Quy chế ngày 30 tháng 6 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Lao động– Thương binh và Xã hội.
Đỗ Hoàng Toàn + Mai Văn Bưu – Khoa Khoa Học Quản Lý – ĐH KTQD – Giáo trình Quản lý học kinh tế quốc dân tập II –HN, 2002.
Đoàn thị Thu Hà + Nguyễn thị Ngọc Huyền – Khoa Khoa Học Quản Lý –ĐH KTQD –Giáo trình Khoa Học Quản Lý tập I–HN, 2004.
Đoàn thị Thu Hà + Nguyễn thị Ngọc Huyền – Khoa Khoa Học Quản Lý –ĐH KTQD –Giáo trình Khoa Học Quản Lý tập II–HN, 2002
Khoa khoa học quản lý - Đại học Kinh tế quốc dân: Giáo trình Lý thuyết quản trị kinh doanh, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà nội, 2000.
Nguyễn Vân Điềm + Nguyễn Ngọc Quân – Khoa Kinh Tế Lao Động và Dân Số - ĐH KTQD – Giáo trình Quản trị nhân lực – HN,2004.
Bản tin lao động thị trường số 6/2006 – Vài nét về xuất khẩu lao động ở Việt Nam –tr.1, GS.TS Đặng Đình Đào.
Bản tin thị trường lao động số 8/2006-Một số vấn đề về xuất khẩu lao động 2000-2005 – tr 9, CN. Nguyễn Văn Dư.
http:// www.thanhnienonline.com.vn – tác giả Ngọc Minh, ngày 27/4/2005.
http:// www.moi.gov.vn -ngày 04/04/2007.
http:// www.bacninh.gov.vn - Thứ 2, ngày 22/01/2007.
Kết quả điều tra lao động - việc làm tỉnh Bắc Ninh qua các năm 2001– 2006 - Phòng Quản lý lao động - tiền công - tiền lương - Sở Lao động – TB&XH tỉnh Bắc Ninh.
Báo cáo công tác xuất khẩu lao động của tỉnh Bắc Ninh năm 2001-2006 - Phòng Quản lý lao động - tiền công - tiền lương - Sở Lao động – TB&XH tỉnh Bắc Ninh.
Chương trình phát triển nguồn nhân lực - giải quyết việc làm giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2015 - Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Ninh.
Số lượng lao động xuất khẩu giai đoạn 2000-2006 – Phòng quản lý lao động ngoài nước - Cục quản lý lao động ngoài nước - Bộ LĐTB & XH, năm 2007.
Niên giám thống kê Bắc Ninh năm 2005.
Số liệu thống kê - Cục Thống kê.
. Danh sách các đơn vị hoạt động xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh - Phòng Quản lý lao động - tiền công - tiền lương - Sở Lao động – TB&XH tỉnh Bắc Ninh.
MỤC LỤC
L
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5325.doc