Một số vấn đề nâng cao công tác quản lý & sử dụng Ngân sách nhà nước trên địa bàn Hà Giang

mục lục Trang Đặt vấn đề Nội dung chuyên đề Phần thứ nhất một số vấn đề lý luận chung về ngân sách Nhà nước I. Khái niệm về NSNN và chính sách tài khoá. II. Bản chất, chức năng và vai trò của NSNN nói chung, của Hà Giang nói riêng trong sự nghiệp phát triển kinh tế -xã hội . III. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách động viên tài chính nói chung và thuế nói riêng cho ngân sách Nhà nước. Phần thứ hai tình hình về tự nhiên- kinh tế-xã hội và thưc trạng công tác quản lý sử

doc55 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1197 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề nâng cao công tác quản lý & sử dụng Ngân sách nhà nước trên địa bàn Hà Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng NSNN tỉnh hà giang I. Điệu kiện tự nhiên- kinh tế-xã hội của tỉnh Hà Giang. II. Thực trạng công tác quản lý và sử dụng NSNN tỉnh Hà Giang 1997- 1999. III. Đánh giá tình hình công tác quản lý thu thuế trong mấy năm qua. Phần thứ ba phương hướng và những giải pháp chủ yếu để nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh hà giang I. Phương hướng, mục tiêu chung. II. Những giải pháp chung chủ yếu để nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang Kiến nghị và kết luận. I. Kiến nghị II. Kết luận. Danh mục tài liệu tham khảo đặt vấn đề 1. Sự cần thiết của đề tài. Trong hệ thống tài chính của mỗi quốc gia thì NSNN có vị trí quan trọng đặc biệt, nó giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính và có ý nghĩa quyết định trong quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, thực hiện CNH, HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì đòi hỏi có khối lượng vốn vô cùng lớn và phát triển bền vững. Muốn vậy phải có chính sách tài chính quốc gia tiên tiến phù hợp, trong đó NSNN là một trong những công cụ quan trọng nhất. Thông qua công cụ NSNN thực hiện phân phối lần đầu và phân phối lại thu nhập quốc dân, nhờ đó tập trung một phần quan trọng thu nhập quốc dân vào NSNN, đảm bảo nguồn vốn cho tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế. NSNN là công cụ để thực hiện tích luỹ và tập trung vốn, phân phối và sử dụng vốn cho quá trình CNH, HĐH đất nước, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, từng bước làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng đi lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. NSNN giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. NSNN còn cung cấp kinh phí cho hoạt động của các lĩnh vực không sản xuất vật chất, duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, giữ ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu xây dựng một nền kinh tế phát triển theo hướng CNH, HĐH. Vì vậy cần phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn vị trí, vai trò của NSNN, trên cơ sở đó tiến hành đổi mới các hoạt động của NSNN cho phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, nhằm đảm bảo nguồn vốn đáp ứng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hà Giang là một tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc, có nhiều tiềm năng thế mạnh. Tuy nhiên cho đến nay vẫn là một tỉnh nghèo nhất của nước ta. Điều đó được thể hiện rõ nhất trên các mặt kinh tế, xã hội, về các cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là kết cấu hạ tầng, về lực lượng sản xuất và NSLĐ... đang yếu kém và lạc hậu. Với tình trạng đó thì chưa thể đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH nền kinh tế của tỉnhvà đồng thời cũng gặp khó khăn trong việc cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đó là Hà Giang còn quá thiếu nguồn vốn vật chất. Vì vậy, để giải quyết mâu thuẫn trên đây cần phải tiến hành đồng bộ nhiều vấn đề. Một trong những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt là giải quyết tốt vấn đề ngân sách. Chính vì vậy tôi chọn đề tài "Một số vấn đề về nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang" để viết luận văn tốt nghiệp cử nhân chính trị. 2. Mục đích, nhiệm vụ, phương pháp và phạm vi của đề tài. - Mục đích của đề tài: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề về lý luận, quan điểm của Đảng, thực tiễn của địa phương để trình bày bản luận văn tốt nghiệp cử nhân chính trị của mình; đồng thời thông qua sự nghiên cứu này có thể có đóng góp nhỏ về suy nghĩ của bản thân tôi trong lĩnh vực quản lý NSNN ở tỉnh Hà Giang. - Nhiệm vụ của đề tài: Từ mục đích nói trên, đề tài luận văn có các nhiệm vụ sau: + Khái quát một vài nét chung nhất về lý luận của NSNN và vai trò của NSNN trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong TKQĐ lên CNXH. + Phân tích, đánh giá những nét lớn về thực trạng kinh tế - xã hội cũng như thực trạng quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang hiện nay. + Từ hai nhiệm vụ trên, đề tài có nhiệm vụ phải nêu lên được phương hướng và những giải pháp chủ yếu để quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang tốt hơn trong thời gian tới. - Phương pháp của đề tài: Đề tài này thuộc thể loại nghị luận kinh tế - xã hội. Do đó, trong quá trình nghiên cứu và thể hiện, luận văn coi trọng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời bám sát vào quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực của đề tài nêu ra. Để thể hiện đề tài, luận văn còn sử dụng tổng hợp phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp từ tình hình và các số liệu của thực tiễn, để từ đó rút ra những nhận xét có căn cứ. Luận văn còn coi trọng tính kế thừa có chọn lọc thành quả của những công trình, những tác giả đã nghiên cứu vấn đề này. - Phạm vi của đề tài: Vấn đề quản lý và sử dụng NSNN là một vấn đề rộng lớn, khó khăn và phức tạp, đặc biệt là đối với những địa phương như Hà Giang nền kinh tế còn ở trình độ thấp và phát triển chậm. Tuy nhiên, trong khuôn khổ có mức độ của luận văn cử nhân chính trị, đề tài chỉ giới hạn ở phạm vi nghiên cứu công tác quản lý và sử dụng NSNN ở một địa phương - đó là tỉnh Hà Giang. Trong đó tập trung làm rõ thực trạng của quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh và qua đó nêu lên một số giải pháp để thực hiện quản lý tốt hơn NSNN của tỉnh. Đề tài không đủ điều kiện để nghiên cứu và thể hiện hết mọi khía cạnh của đề tài nói trên. 3. Bố cục của luận văn. Ngoài phần đặt vấn đề, kiến nghị và kết luận, nội dung của luận văn gồm cả 3 phần chính sau đây: Phần thứ nhất: Một số vấn đề lý luận chung về ngân sách Nhà nước (NSNN). Phần thứ hai: Tình hình cơ bản về tự nhiên - kinh tế - xã hội và thực trạng công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang. Phần thứ ba: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu để nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang. Nội Dung Luận Văn Phần thứ nhất Một số vấn đề lý luận chung về ngân sách Nhà nước (NSNN ) I. Khái niệm về NSNN và chính sách tài khoá. 1. Ngân sách Nhà nước . a. Khái niệm NSNN: Thuật ngữ "NSNN " có từ lâu và ngày nay được dùng phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội và được diễn đạt dưới nhiều góc độ khác nhau. Song quan niệm NSNN được bao quát nhất cả về lý luận và thực tiễn của nước ta hiện nay là: NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nước. Trong thực tế nhìn bề ngoài, hoạt động NSNN là hoạt động thu chi tài chính của Nhà nước. Hoạt động đó đa dạng, phong phú, được tiến hành hầu hết trên các lĩnh vực, tác động đến mọi chủ thể kinh tế - xã hội. Tuy đa dạng, phong phú như vậy, nhưng chúng có những đặc điểm chung: Các hoạt động thu chi của NSNN luôn luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế - chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định. Đằng sau những hoạt động thu chi tài chính đó chứa đựng nội dung kinh tế - xã hội nhất định và chứa đựng các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích nhất định. Trong các quan hệ lợi ích đó, lợi ích quốc gia, lợi ích chung bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và chi phối các mặt lợi ích khác trong thu, chi ngân sách Nhà nước. Quá trình thực hiện các chỉ tiêu thu, chi NSNN nhằm hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước và là quá trình phân phối và phối lại giá trị tổng sản phẩm xã hội phục vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên các lĩnh vực, trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Như vậy, chúng ta thấy rằng thu, chi của NSNN hoàn toàn không giống bất kỳ một hình thức thu chi của một loại quỹ nào. Thu của NSNN phần lớn đều mang tính chất bắt buộc, còn các khoản chi của NSNN lại mang tính chất không hoàn lại. Đây là đặc trưng nổi bật của NSNN trong bất cứ một Nhà nước nào. Xuất phát từ quyền lực của Nhà nước và các nhu cầu về tài chính để thực hiện chức năng quản lý và điều hành của Nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội. Do nhu cầu chi tiêu của mình, Nhà nước đã sử dụng quyền lực thông qua hệ thống pháp luật tài chính buộc mọi pháp nhân và thể nhân phải đóng góp một phần thu nhập của mình cho NSNN, tức là các chủ thể kinh tế thực hiện nghĩa vụ của mình với Nhà nước. Sự bắt buộc đó là hoàn toàn khách quan, vì lợi ích của toàn xã hội chứ không phải phục vụ cho lợi ích riêng của Nhà nước. Các đối tượng nộp thuế cũng hoàn toàn ý thức được nghĩa vụ của mình trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Họ cũng hiểu được vai trò của Nhà nước trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính nhằm thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội, do nhân dân giao phó. Sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước chính là yếu tố quyết định tính chất hoạt động của NSNN, nói lên bản chất của NSNN. Mọi hoạt động của NSNN đều nhằm vào việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính, nó phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội, phát sinh do Nhà nước tạo lập thông qua NSNN. Đó là mối quan hệ kinh tế giữa phần nộp vào NSNN và phần để lại cho các chủ thể kinh tế trong xã hội. Phần nộp vào ngân sách sẽ tiếp tục được phân phối lại nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước và phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Với quyền lực tối cao của mình, Nhà nước có thể sử dụng các công cụ sẵn có để bắt buộc mỗi thành viên trong xã hội cung cấp cho mình các nguồn lực tài chính cần thiết. Song cơ sở tạo lập các nguồn lực tài chính xuất phát từ sản xuất, mà chủ thể của sản xuất chính là các thành viên trong xã hội. Mọi thành viên đều có lợi ích kinh tế và đấu tranh bảo vệ lợi ích kinh tế đó, nghĩa là thông qua quyền lực của mình, Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách giải quyết hài hoà giữa lợi ích Nhà nước và lợi ích của các thành viên trong xã hội. Do vậy muốn có NSNN đúng đắn, lành mạnh thì phải tôn trọng và vận dụng các quy luật kinh tế một cách khách quan, phải dựa trên cơ sở đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước và lợi ích cho các thành viên trong xã hội. Một NSNN lớn mạnh phải đảm bảo sự cân đối trên cơ sở khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, bao quát hết toàn bộ các nguồn thu, nuôi dưỡng nguồn thu để đáp ứng nhu cầu chi ngày càng tăng. Như vậy bản chất của NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các thành viên trong xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính, nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế, xã hội của Nhà nước. Chức năng đầu tiên của NSNN là chức năng phân phối. Bất kỳ một Nhà nước nào, muốn tồn tại và duy trì được các chức năng của mình, trước hết phải có nguồn lực tài chính. Đó là các khoản chi cho bộ máy quản lý Nhà nước, cho lực lượng quân đội, cảnh sát, cho nhu cầu văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, chi cho đầu tư phát triển v.v... Nhưng muốn tạo lập được NSNN, trước hết phải tập hợp các khoản thu theo luật định, cân đối chi tiêu theo tiêu chuẩn định mức đúng với chính sách hiện hành. Đó chính là sự huy động các nguồn lực tài chính và đảm bảo nhu cầu chi tiêu theo kế hoạch của Nhà nước, thực hiện việc cân đối thu chi bằng tiền của Nhà nước. Chức năng thứ hai của NSNN là giám đốc quá trình huy động các khoản thu và thực hiện các khoản chi. Thông qua chức năng này, NSNN kiểm tra, giám sát quá trình động viên các nguồn thu, tránh tình trạng trốn lậu thuế, chây ỳ nộp thuế của các đối tượng thực hiện nghĩa vụ nộp NSNN hoặc bị lạm dụng, làm trái pháp luật, coi thường pháp luật và các chính sách động viên khác. Trong khâu cấp phát nếu buông lỏng việc kiểm tra, kiểm soát chi thì dễ dẫn đến tình trạng làm sai luật định và các chế độ chi quy định. Đồng thời thông qua kiểm tra, kiểm soát hoạt động thu chi NSNN giúp ta giám sát việc chấp hành các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thông qua đó đánh giá hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của vốn NSNN, hiệu quả của các chủ trương, chính sách, chế độ do Đảng và Nhà nước đề ra. Như vậy, hai chức năng phân phối và giám đốc luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, có vị trí và tầm quan trọng như nhau, không thể coi chức năng này hơn chức năng kia, mà phải coi trọng cả hai chức năng ở mọi lúc, mọi nới trong tạo lập và sử dụng vốn NSNN. b. Các khoản thu huy động vào NSNN và chi NSNN. * Các khoản thu NSNN. - Các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí. Đây là các khoản thu bắt buộc thực hiện nghĩa vụ của các doanh nghiệp, các tổ chức và công dân do những yêu cầu tất yếu về kinh tế - chính trị - xã hội để bảo đảm các hoạt động của bộ máy Nhà nước, giữ vững quốc phòng, an ninh và bảo đảm các sự nghiệp xã hội. - Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước. Đây là các quan hệ thu thực hiện lợi ích kinh tế các loại tài sản và vốn bằng tiền thuộc sở hữu toàn dân giao cho Nhà nước quản lý và cho phép các chủ thể trong nền kinh tế sử dụng. Các quan hệ này cũng là bắt buộc, nhưng dựa trên các yếu tố kinh tế là đảm bảo cho chủ sở hữu thực hiện được lợi ích kinh tế, quyền sở hữu các loại tài sản đưa vào quá trình sản xuất xã hội. Những ai sử dụng nhiều tài sản của Nhà nước vào mục đích kinh doanh trên các địa bàn và những ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao thì phải đóng góp nhiều vào NSNN. Trình độ xã hội hóa càng cao, quy mô sở hữu càng lớn thì nguồn thu tập trung vào NSNN và những nguồn lực tài chính cũng càng nhiều. Thực hiện thu đúng, thu đủ từ các hình thức này không chỉ đảm bảo nguồn lực tài chính cho Nhà nước, mà còn là hình thức cụ thể thực hiện quản lý chặt các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước để bảo tồn và phát triển chế độ sở hữu toàn dân. - Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân thuộc đối tượng phải đóng góp theo luật định. - Các khoản viện trợ: Hình thức chủ yếu là viện trợ không hoàn lại, của các tổ chức, các tổ chức phi chính phủ của các nước và quốc tế. Nguồn thu này chủ yếu phụ thuộc vào đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đây là nguồn thu nhất thời, không ổn định, không tính toán trước một cách chính xác. - Các khoản do Nhà nước vay để bù đắp bội chi được đưa vào cân đối NSNN. Khoản thu này được thực hiện thông qua quan hệ tín dụng Nhà nước trong nước và quốc tế để sử dụng vào mục đích đầu tư phát triển kinh tế. Đây là nguồn thu không thuộc quyền sở hữu Nhà nước, đến kỳ hạn Nhà nước phải thanh toán. Vì vậy, việc sử dụng hình thức này đòi hỏi các tổ chức Nhà nước phải tính toán nhu cầu đầu tư, hiệu quả kinh tế - xã hội của công trình và khả năng thu hồi vốn để trả nợ. - Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. * Các khoản chi lấy từ NSNN. Chi NSNN là một hệ thống các quan hệ rất đa dạng, phức tạp, bao gồm: - Các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội. - Các khoản chi bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy Nhà nước. Đây là những khoản chi bắt buộc trong NSNN của mọi quốc gia nhằm để giữ vững an ninh tổ quốc, ổn định chính trị - xã hội. Quy mô khoản chi này tuỳ thuộc vào việc xác định chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy Nhà nước xuất phát từ tình hình kinh tế - chính trị - xã hội ở trong nước và quốc tế. Trên cơ sở xác định quy mô chi tiêu cần thiết cho lĩnh vực này, tiến hành phân bổ các loại thuế trực thu và gián thu, thông qua thực thu các sắc thuế mà bảo đảm nguồn lực tài chính đầy đủ cho nhu cầu này. - Các khoản chi trả nợ củ Nhà nước: Tuỳ theo mức độ bội chi của ngân sách, quy mô và các điều kiện tín dụng Nhà nước về thời hạn trả nợ và mức lãi suất mà khoản chi này có tỷ lệ cao hay thấp trong tổng chi NSNN. ở nước ta hiện nay, do hậu quả của việc quản lý vốn vay chưa tốt, để thất thoát lớn và việc sử dụng hiệu quả thấp, cho nên nợ nước ngoài tồn đọng rất lớn, cho nên chi trả nợ nước ngoài đang là vấn đề căng thẳng. Khả năng trả nợ thấp, tuy nhiên chúng ta vẫn phải đảm bảo uy tín trong quan hệ quốc tế. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần khống chế nhu cầu chi tiêu trong nước để dành tiền trả nợ. Đối với vay từ nguồn trong nước dưới nhiều hình thức, trong đó chủ yếu là hình thức tín phiếu kho bạc Nhà nước ngắn hạn và tín phiếu dài hạn để huy động vốn trong dân vào nhu cầu đầu tư. Hướng chủ yếu của tín dụng Nhà nước là các khoản vay dài hạn đầu tư phát triển kinh tế. Nhưng hình thức này chỉ phát triển trong điều kiện sức mua đồng tiền ổn định và lãi suất hợp lý đem lại lợi ích người cho vay, đồng thời đảm bảo cho Nhà nước thanh toán được nợ. - Các khoản chi dự trữ Nhà nước (từ 3 - 5% tổng số dư). Đây là khoản dự phòng cho những nhu cầu đột xuất bất trắc có thể xảy ra trong khi thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước. - Các khoản chi viện chợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. NSNN bao gồm hai cấp: Trung ương và địa phương. Quan hệ giữa hai cấp này được thực hiện theo nguyên tắc chủ yếu là phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể; thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để bảo đảm sự cân bằng, phát triển cân đối và thực hiện được nhiệm vụ của các vùng, các địa phương. NSNN được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao vào đầu tư phát triển. Nếu có bội chi thì số bội chi đó phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu - chi ngân sách. Nếu có vay để bù đắp bội chi NSNN thì phải trên nguyên tắc tiền vay được không sử dụng cho tiêu dùng mà chỉ sử dụng vào mục đích phát triển và có kế hoạch thu hồi vốn vay để đảm bảo cân đối ngân sách, chủ động trả nợ đến hạn. Ngân sách địa phương được cân đối theo quy tắc: tổng số chi không được vượt quá tổng số thu... 2. Chính sách tài khoá. Chính sách tài khoá là chính sách của Nhà nước trong việc huy động các nguồn thu vào NSNN và sử dụng nó trong hạn nhất định (thường là 1 năm). Chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế, đến kiềm chế lạm phát và tình trạng thất nghiệp; có tác động đến điều chỉnh nền kinh tế, cơ cấu kinh tế. Mục tiêu của chính sách tài khoá là bảo đảm các nguồn lực tài chính, tạo môi trường và điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội. Để đạt được mục tiêu đó, chính sách tài khoá cần xử lý nhiều mối quan hệ, trong đó giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn chủ yếu sau đây là nội dung cốt lõi của chính sách tài khoá: + Mâu thuẫn thu - chi NSNN. Đây là mâu thuẫn vốn có của bất kỳ một quốc gia nào, đặc biệt gay gắt đối với các nước kém phát triển. Xuất phát của mâu thuẫn này là do chi tiêu của Nhà nước lớn, trong khi nguồn thu bị hạn chế. Vì vậy, cần có những biện pháp tích cực để khống chế nhu cầu chi của Nhà nước. Đồng thời tích cực thu đúng, thu đủ, tận dụng các nguồn thu. Để thực hiện cân đối thu - chi, cần giữ vững 2 đối cân đối chủ yếu: Một là, thu từ các loại thuế trực thu và gián thu phải bảo đảm nhu cầu chi thường xuyên của bộ máy Nhà nước, quốc phòng, an ninh... Hai là, quy mô đầu tư phát triển kinh tế - xã hội phải tương ứng với tổng số thu từ thực hiện lợi ích kinh tế các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước và các nguồn lực huy động được trong nước và ngoài nước thông qua tín dụng dài hạn. + Mâu thuẫn giữa tập trung vào NSNN với tích luỹ trong các cơ sở kinh doanh. Vì vậy chính sách tài khoá cần giải quyết tốt mâu thuẫn này, đó là yêu cầu khách quan của phát triển kinh tế - xã hội. Mâu thuẫn này hiện nay ở nước ta đang gay gắt, biểu hiện ở chỗ tốc độ tăng thu vào NSNN năm sau cao hơn năm trước và lớn hơn nhiều lần so với tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc dân, trong khi tình trạng thất thu từ thuế còn lớn. + Mẫu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện công bằng xã hội. Nguyên nhân của mâu thuẫn này: từ một mặt NSLĐ xã hội còn thấp kém, muốn tăng trưởng thì phải tích luỹ, do đó tiêu dùng bị hạn chế, không giải quyết đúng mức những vấn đề xã hội cấp bách. Nếu ngược lại thì không đảm bảo thực hiện được mục tiêu kinh tế. Mặt khác, do phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, sẽ dẫn tới phân hoá giàu nghèo là không tránh khỏi. Vì vậy, để giải quyết mâu thuẫn trên, chính sách tài khoá phải thể hiện nội dung điều tiết thu nhập sao cho hợp lý. II. Bản chất, chức năng và vai trò của NSNN nói chung, của Hà Giang nói riêng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. 1. Bản chất và chức năng của NSNN nói chung. Như trên đã trình bày, NSNN là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước, là công cụ vật chất quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội. Cho nên có thể nói chức năng và nhiệm vụ cơ bản của NSNN là động viên hợp lý các nguồn thu (đặc biệt là thuế, phí, lệ phí). Đồng thời tổ chức và quản lý chi tiêu NSNN, thực cân đối thu - chi. Tóm lại, NSNN có các chức năng, nhiệm vụ cơ bản sau đây: Một là, chức năng phân phối NSNN. Bộ máy Nhà nước muốn thực hiện được sự hoạt động của mình một cách bình thường và ổn định để thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ là quản lý mọi mặt của đời sống xã hội của một quốc gia thì nhất thiết phải có nguồn NSNN đảm bảo. Với quyền lực tối cao của mình, Nhà nước sử dụng các công cụ, các biện pháp bắt buộc các thành viên trong xã hội cung cấp cho mình các nguồn lực tài chính cần thiết. Nhưng cơ sở để hình thành nguồn lực tài chính đó là từ sự phát triển kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh. Vì vậy, muốn động viên được nguồn thu NSNN ngày càng tăng và có hiệu quả thì nền kinh tế nói chung, sản xuất kinh doanh nói riêng phải được phát triển với tốc độ nhanh, bền vững và có hiệu quả cao. Vì vậy, Nhà nước trong quá trình quản lý kinh tế - xã hội phải nắm được quy luật kinh tế và tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan. Đồng thời phải bảo đảm hài hoà các quan hệ lợi ích của các chủ thể của nền kinh tế. Một NSNN vững mạnh là một ngân sách mà cơ chế phân phối của nó đảm bảo được sự cân đối trên cơ sở khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh nuôi dưỡng nguồn thu, trên cơ sở đó tăng được thu để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên. Mặt khác, một NSNN vững mạnh còn phải thể hiện việc phân phối và quản lý chi đúng đắn, hợp lý và hiệu quả. Nhà nước sử dụng khối lượng tài chính từ nguồn NSNN để chi tiêu vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội và chi tiêu cho sự hoạt động của bộ máy Nhà nước. Như vậy, chức năng của NSNN, ngoài việc động viên nguồn thu thì còn phải thực hiện quản lý và phân phối chi tiêu sao cho có hiệu quả. Đó cũng là một tất yếu khách quan. Từ sự phân tích trên đây, ta có thể hiểu được bản chất của NSNN - đó là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các thành viên trong xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện trong các chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế - xã hội của Nhà nước. Hoạt động của NSNN luôn luôn gắn liền với thực hiện các chức năng của Nhà nước. Hai là, chức năng giám đốc quá trình huy động các nguồn thu và thực hiện các khoản chi tiêu. Thực hiện chức năng này, Nhà nước thông qua NSNN để biết được nguồn thu - chi nào là cơ bản của từng thời kỳ, từng giai đoạn và do đó có những giải pháp để làm tốt thu - chi. Nhà nước định ra cơ cấu thu- chi hợp lý ; theo dõi các phát sinh và những nhân tố ảnh hưởng đến thu- chi... Tóm lại, NSNN có hai chức năng cơ bản- chức năng phân phối và chức năng giám đốc. NSNN không thể cân đối được nếu như không thực hiện đầy đủ hai chức năng đó, bởi vì: nếu không có sự giám đốc trong việc động viên khai thác hợp lý các nguồn thu và do đó sẽ dẫn đến tình trạng thất thu dưới nhiều hình thức. Nếu không thực hiện tốt chức năng phân phối thì cũng không thể động viên được nguồn thu cho NSNN. Chức năng phân phối và chức năng giám đốc của NSNN đều có vị trí và tầm quan trọng của nó. Do đó, cần phải coi trọng cả hai chức năng đó và tổ chức chỉ đạo để các cơ quan chức năng thực hiện tốt hai chức năng đó của NSNN. 2. Quan điểm cơ bản về quản lý và sử dụng NSNN. Để thực hiện tốt công tác quản lý và sử dụng NSNN, tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành, cần phải quán triệt các quan điểm sau đây: + Trong chính sách tạo vốn của NSNN phải quán triệt tư tưởng không tận thu để bao chi, mà phải động viên nguồn thu ngân sách một cách hợp lý để đáp ứng nhu cầu chi trên cơ sở vừa bồi dưỡng và phát triển nguồn thu, vừa kiểm soát và tập trung khai thác một cách hợp lý và có hiệu quả các nguồn thu. + Thực hiện tốt công tác phân phối và sử dụng vốn NSNN theo nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả, chấm dứt tình trạng các khoản chi bao cấp tràn lan của cơ chế cũ trước đây. Thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm". + Thực hiện phương pháp cân đối ngân sách một cách khoa học để vừa phát huy tốt các nguồn lực bên trong và tranh thủ cao độ, có hiệu quả nguồn lực tài chính bên ngoài; vừa phù hợp với pháp luật của Nhà nước ta, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế và bảo đảm sự chủ động của NSNN. + Đổi mới chế độ phân cấp quản lý NSNN theo hướng giảm bớt chức năng quản lý kinh tế của chính quyền địa phương, tránh để tình trạng phân tán và sử dụng kém hiệu quả nguồn vốn ngân sách. + Ban hành đồng bộ hoá và tiếp tục hoàn thiện luật NSNN. Đồng thời giáo dục, nâng cao trình độ cho toàn dân, cho các chủ thể của nền kinh tế cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan chức năng trực tiếp làm công tác quản lý NSNN. Nghiêm chỉnh chấp hành luật NSNN. 3. Vai trò của NSNN trong các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội. Chúng ta biết rằng, trong cơ chế thị trường, mọi hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh chủ yếu của các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế chủ yếu tuân theo sự điều tiết của các quy luật vốn có của thị trường. Nhận thức được điều đó, Nhà nước ta đã có những cơ chế, chính sách hạn chế sự can thiệp và kiểm soát trực tiếp đối với các hoạt động kinh tế, nhất là các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước ta với chức năng của mình là thực hiện quản lý hành chính kinh tế bằng các công cụ pháp luật, kế hoạch hoá và các chính sách do Nhà nước ban hành tuân theo pháp luật hiện hành do cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội ban hành. Đó chính là sự đổi mới cơ bản về cơ chế quản lý của Nhà nước ta: từ chỗ quản lý, điều hành nên kinh tế một cách trực tiếp đến chỗ quản lý và điều hành mọi hoạt động kinh tế- xã hội thông qua việc tạo mọi điều kiện, môi trường, hành lang (trong đó có cả hành lang pháp lý) để cho nền kinh tế phát triển vừa tuân theo qui lụt kinh tế khách quan, vừa bảo đảm sự định hướng XHCN, nhằm nhanh chóng đạt được các mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra trong các kỳ đại hội. Trong tất cả các công cụ để quản lý mọi hoạt động kinh tế- xã hội, Nhà nước ta hết sức quan tâm đến công cụ NSNN, vì nó là yếu tố vật chất vô cùng quan trọng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Với cơ chế cũ trước đây, Nhà nước can thiệp sâu vào hoạt động kinh tế vi mô. Trong cơ chế mới- cơ chế thị trường các vấn đề của kinh tế sẽ được giải quyết theo qui luật của thị trường và các quan hệ cung- cầu. Nhà nước chỉ dùng các biện pháp về thuế, các khoản chi ngân sách để can thiệp nhằm ổn định nên kinh tế và phát triển theo mục tiêu đã định. Hoạt động của NSNN gắn với hoạt động của nền kinh tế thị trường, do đó thu NSNN luôn luôn biến đổi và phụ thuộc vào nhịp độ phát triển kinh tế và hiệu quả kinh tế. Xu hướng chung là khi nền kinh tế tăng trưởng sẽ làm tăng khả năng tăng khối lượng thu và ngược lại. Tuy nhiên, điều cần lưu ý ở đây là mức thu NSNN phải gắn với nhịp độ tăng của nền kinh tế, nếu tận thu quá mức sẽ dẫn tới tình trạng suy thoái do không kích thích được sản xuất và đầu tư. Trong bất kỳ tình huống nào, sức ép chi luôn luôn là gánh nặng cho NSNN. Đặc biệt là trong giai đoạn đầu khi mà nền kinh tế chưa kịp phát triển, trong khi đó phải nhanh chóng giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của xã hội. Bên cạnh đó chi NSNN còn bị sức ép của tình trạng có lạm phát cao xẩy ra. Khi có lạm phát cao thì khối lượng ngân sách tăng chậm hơn nhu cầu chi, vì vậy nếu xử lý không tốt sẽ dẫn đến rối loạn, gây thiệt hại về nhiều mặt cho nền kinh tế. Tóm lại, NSNN có vai trò vô cùng quan trọng. Bởi lẽ NSNN có chức năng huy động nguồn lực tài chính để hình thành các quỹ tiền tệ tập trung, đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Đồng thời NSNN còn thực hiện cân đối bằng tiền giữa các khoản thu và các khoản chi tiêu của Nhà nước. Đây là vai trò cơ bản của NSNN mà bất kỳ một quốc gia nào cũng phải thực hiện. NSNN là một công cụ quản lý quan trọng trong điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô của đất nước, đặc biệt thể hiện rất rõ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò đó đã được thể hiện cụ thể ở các lĩnh vực sau: - Về kinh tế: Nhà nước tạo các môi trường và điều kiện để xây dựng cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. NSNN đảm bảo cung cấp kinh phí đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp Nhà nước thuộc các ngành kinh tế, các lĩnh vực kinh tế then chốt. Trên cơ sở đó từng bước làm cho kinh tế Nhà nước đảm đương được vai trò chủ đạo nền kinh tế nhiều thành phần. Mặt khác, trong những điều kiện cho phép thì nguồn kinh phí từ NSNN cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp thuộc các TPKT khác để các doanh nghiệp đó có cơ sở về tài chính tốt hơn và do đó có được phương hướng kinh doanh có hiệu quả hơn. - Về mặt xã hội: Thông qua hoạt động thu, chi NSNN cấp phát kinh phí cho tất cả các lĩnh vực hoạt động vì mục đích phúc lợi xã hội. Thông qua công cụ ngân sách, Nhà nước có thể điều chỉnh các mặt hoạt động trong đời sống xã hội như: Thông qua chính sách thuế để kích thích sản xuất đối với những sản phẩm cần thiết cấp bách, đồng thời có thể hạn chế sản xuất những sản phẩm không cần khuyến khích sản xuất. Hoặc để hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng hợp lý. Thông qua nguồn vốn ngân sách để thực hiện hình thức trợ cấp giá đối với các hoạt động thuộc chính sách dân số, chính sách việc làm, chính sách thu nhập, chính sách bảo trợ xã hội v.v... - Về thị trường: Thông qua các khoản thu, chi NSNN sẽ góp phần bình ổn giá cả thị trường. Ta biết rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường, sự biến động giá cả đến mức gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nền kinh tế có nguyên nhân từ sự mất cân đối cung - cầu. Bằng công cụ thuế và dự trữ Nhà nước can thiệp đến quan hệ cung - cầu và bình ổn giá cả thị trường. Hoạt động thu chi NSNN có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề lạm phát.._. Lạm phát là căn bệnh nguy hiểm đối với nền kinh tế. Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng. Để kiềm chế được lạm phát tất yếu phải dùng các biện pháp để hạ thấp giá, hạ thấp chi phí. Bằng biện pháp giải quyết tốt thu chi NSNN có thể kiềm chế, đẩy lùi được lạm phát, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. 4. Vai trò của NSNN trong việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang. Hà Giang là một tỉnh miền núi biên giới, trình độ dân trí thấp, điều kiện địa lý phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, lại có nhiều dân tộc cùng chung sống. Sau chiến tranh giải phóng dân tộc, tỉnh Hà Giang còn chịu hậu quả nặng nề của 10 năm chiến tranh bảo vệ biên giới. Hầu như các cơ sở kinh tế đều bị tàn phá nặng nề, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc hết sức khó khăn. Tháng 10/1991 khi tách tỉnh, kết cấu hạ tầng hầu như không có gì. Trong những năm qua được sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang đã khắc phục khó khăn, từng bước ổn định đời sống, phát triển sản xuất. Đạt được những thành tích đó, ngoài sự lãnh chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước từ Trung ướng đến cơ sở, còn có các nhân tố khác, trong đó có vai trò của NSNN. Nhờ có nguồn thu NSNN mới đảm bảo chi thường xuyên cho sự hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và các cơ quan hành chính sự nghiệp, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng. Nhờ có NSNN mà phần nào đã đáp ứng được nhu cầu các khoản chi cấp bách, đặc biệt là chi cho đầu tư phát triển chiếm tỷ lệ khá cao trong chi ngân sách. Nhờ đó mà hiện nay ở Hà Giang nhiều cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hoá xã hội đã và đang được xây dựng, tu bổ, nâng cấp và đưa vào sử dụng. Trong nông nghiệp, chi NSNN tập trung cho việc ứng dụng khoa học- kỹ thuật vào sản xuất, đầu tư để tạo điều kiện thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi và cơ cấu mùa vụ v.v... Chẳng hạn đầu tư cho việc lai tạo giống cây con cho năng suất cao. Tuy lâm nghiệp đã chú ý đầu tư để đẩy mạnh trồng mới rừng, bảo vệ và tái sinh rừng, phát triển mô hình rừng trang trại, vườn rừng, theo phương thức lâm-nông kết hợp. Trong lĩnh vực văn hoá- xã hội: NSNN đã dành một tỷ lệ thích đáng cho đầu tư xây dựng và phát triển các cơ sở vật chất- kỹ thuật cho lĩnh vực giáo dục đào tạo, hệ thống trường chuyên, lớp chọn, trường dân tộc nội trú, trường cao đẳng sư phạm. Mặc dù nguồn thu ngân sách còn hạn chế, nhưng tỉnh cũng rất quan tâm đầu tư cho lĩnh vực y tế và dân số kế hoạch hoá gia đình. Cụ thể là đầu tư nâng cấp cải tạo các cơ sở khám chữa bệnh, tạo điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được tốt hơn. Ngoài ra NSNN còn thực hiện một loạt các chương trình khác như: củng cố mở rộng nâng cấp các đường giao thông liên huyện, liên xã, đầu tư để xây dựng đường dây, trạm biến áp để đưa điện lưới quốc gia về các huyện vùng cao. Đầu tư xây dựng các cơ sở phát thanh, truyền hình, bưu điện... để đáp ứng nhu cầu đời sống văn hoá, tinh thần cho các dân tộc trong tỉnh. Đồng thời cũng nhằm tạo các phương tiện tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, để nhân dân các dân tộc hiểu rõ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, để họ có sự tin tưởng và tự giác thực hiện. Đối với lĩnh vực thu NSNN: thông qua các hình thức hoạt động thu NSNN mà đã động viên được ngày càng nhiều hơn, tốt hơn nguồn lực tài chính cho địa phương. Sự động viên đó, một mặt đảm bảo nguồn thu, tránh thất thu cho NSNN, nhưng đồng thời cũng qua đó thực hiện sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đóng góp của nhân dân, của các chủ thể kinh tế, các TPKT trong tỉnh. Tóm lại, NSNN có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Đối với tỉnh Hà Giang thì vai trò NSNN lại càng đặc biệt quan trọng. Nhờ có nguồn thu NSNN mà đã tạo điều kiện về nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo kinh phí chi tiêu cho các hoạt động của bộ máy chính quyền và các tổ chức Đảng, đoàn thể, các lực lượng vũ trang an ninh... Tuy nhiên, hiện nay NSNN của tỉnh còn hết sức nhỏ bé, chưa đáp ứng nhu cầu nói trên. Do đó, chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu để tìm ra phương hướng và giải pháp phù hợp, nhằm thực hiện công tác NSNN tỉnh Hà Giang. Phần thứ hai tình hình cơ bản về tự nhiên - kinh tế - xã hội và thực trạng công tác quản lý, sử dụng NSNN tỉnh hà giang i. điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của tỉnh hà giang. 1. Về điều kiện tự nhiên. * Vị trí địa lý: Hà Giang là tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam, nằm ở vị trí từ 21023' đến 22010' vĩ bắc và 104025' đến 105034' kinh đông, cách thủ đô Hà Nội trên 320 km. Phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, có đường biên giáp Trung Quốc dài trên 270 km. Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Lào Cai và Yên Bái, phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang. Hà Giang có 10 huyện, thị: Bắc Giang, Vị Xuyên, Bắc Mê, Hoàng Su Phì, Xí Mần, Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc và thị xã Hà Giang. * Địa hình: - Hà Giang có địa hình núi cao chia cắt phức tạp, độ dốc lớn, nhiều dãy núi đá có độ cao trên 2000m, tạo nên nhiều tiểu vùng với các điều kiện về địa hình, khí hậu, đất đai, nguồn nước và dân cư khác biệt, độc đáo, có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế đa dạng theo cơ cấu nông - lâm - công nghiệp với nhiều sản phẩm phong phú, có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp để phát triển du lịch, dã ngoại... - Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên còn không ít khó khăn do địa hình chia cắt mạnh, độ dốc lớn, nhiều dãy núi đá nên không ít khó khăn trong phát triển sản xuất nông nghiệp đặc biệt ở các huyện vùng cao. * Đất đai: Tổng diện tích tự nhiên là: 788.437 ha (7884,37 km2). Trong đó: - Đất nông nghiệp : 106.425,113 ha + Đất trồng cây hàng năm : 39.817,77 ha Đất ruộng lúa, mầu : 28.372,09 ha Đất nương rẫy : 52.192,03 ha Đất cây hàng năm khác : 9.353,65 ha + Đất vườn tạp : 4.908,20 ha + Đất dùng vào chăn nuôi : 1.140,45 ha + Đất cây lâu năm : 9.874,87 ha + Đất có mặt nước nuôi thuỷ sản : 683,75 ha - Đất nông nghiệp : 279.450,7 ha + Đất có rừng tự nhiên : 229.587,96 ha Đất có rừng sản xuất : 34.071,03 ha Đất có rừng phòng hộ : 177.439,97 ha Đất có rừng đặc dụng : 17.191,36 ha + Đất có rừng trồng : 49.861,09 ha Đất có rừng sản xuất : 41.030,68 ha Đất có rừng phòng hộ : 8.793,46 ha + Đất cây ươm giống : 1,65 ha - Đất chuyên dùng : 4.183,33 ha - Đất ở : 5.973,1 ha - Đất chưa sử dụng : 392.404,74 ha Đất bằng chưa sử dụng : 1.663,77 ha Đất đồi núi chưa sử dụng : 313.165,67 ha Đất có mặt nước chưa SD : 10,9 ha Sông suối : 5.500,67 ha Núi đá không cây : 71.480,88 ha Đất chưa sử dụng khác : 627,9 ha Qua số liệu trên thấy được đất đai tự nhiên của Hà Giang rất rộng, tuy nhiên việc khai thác và sử dụng vào mục đích sản xuất nông, lâm nghiệp chưa được nhiều, hiện tại vẫn còn trên 314.828 ha đất bằng và đồi núi chưa sử dụng, đó là nguồn tài nguyên lớn cần phải tập trung đầu tư các nguồn lực nhằm khai thác phục vu chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. * Về đặc điểm khí hậu thuỷ văn: Do địa bàn rộng, khí hậu thuỷ văn các vùng phân bố không đồng đều: ở các huyện vùng cao: Lượng mưa trung bình 2000mm - 2400mm; Nhiệt độ trung bình 15 - 200C, có tháng mùa đông xuống 3- 40C, có tuyết. Vùng này khí hậu mang tính ôn đới. Các huyện vùng thấp: Nhiệt độ trung bình 270C; Lượng mưa 4.633 mm/năm. ở huyện Bắc Quang là vùng có lượng mưa bình quân cao nhất nước. Thông thường mùa đông Hà Giang chịu ảnh hưởng nhiều của gió mùa đông bắc. Sông suối: Toàn tỉnh có 7 sông lớn nhỏ: Sông Lô, Sông Gâm, Sông Chảy, Sông Nho Quế, Sông Niệm, Sông Con, Sông Bạc, còn lại là suối cạn. Lưu lượng nước sông phụ thuộc lớn vào mùa mưa lũ, mùa khô thường cạn kiệt, các dòng sông phân bổ không đều, đặc biệt là vùng cao núi đá, rất ít nước. Những tháng mùa khô còn trên 100.000 người thiếu nước sinh hoạt. * Về thổ nhưỡng: Trên địa hình tỉnh Hà Giang hình thành các nhóm đất chính như đất phù sa tập trung ở vùng Bắc Quang, nhóm đất đỏ vàng ( có tác dụng tốt phát triển cây công nghiệp ăn quả) ở Vị Xuyên, Bắc Quang, Thị xã Hà Giang, Xín Mần, Hoàng Su Phì, nhóm đất phù sa cổ trên cao nguyên Đồng Văn và các huyện vùng cao. * Tài nguyên khoáng sản: Qua khảo sát điều tra Hà Giang phát hiện được 28 loại khoáng sản khác nhau như ( Ăngtimon, vàng, chì, kẽm, sắt, Măngan, thuỷ ngân..., nước khoáng) với số lượng 149 mỏ và các điểm quặng. Hiện nay đang tiến hành thăm dò khai thác các loại khoáng sản như Măngan, Firit, Kẽm, Thiếc, đồng, chì, sắt, vàng, nước khoáng... khoáng sản có nhiều triển vọng nếu được đầu tư thăm dò khai thác thích hợp. 2. Điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang * Dân số và lao động: Dân số toàn tỉnh tính đến 1/4/1999 có: 60,268 vạn người với 22 dân tộc, trong đó 90% là đồng bào dân tộc thiểu số. Trong đó dân tộc Mông chiếm 31,3%; Tày 26,5%; Dao 15,3%; Kinh 11,8% còn lại các dân tộc ít người khác. Hà Giang có 9 Huyện và 1 thị xã tỉnh lỵ, trong đó có 7 Huyện vùng cao biên giới thì có 4 huyện đặc biệt khó khăn trong 9 Huyện khó khăn nhất cả nước. Hiện nay toàn tỉnh có 128/191 xã thuộc diện xã đặc biệt khó khăn (vùng III). * Về sự phân vùng kinh tế: Xuất phát từ điều kiện, đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Hà Giang hình thành làm 3 vùng kinh tế - xã hội và mỗi vùng có các tiềm năng thế mạnh khác nhau: - Vùng cao núi đá gồm 4 huyện phía Bắc là Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ. Đây là vùng khó khăn nhất so với cả nước. Diện tích toàn vùng này là 2.353 km2, độ cao trung bình: 1000 - 1600m; Dân số: 203.027 người, khí hậu đất đai phù hợp với trồng cây ôn đới, dược liệu. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu là trồng ngô một vụ trên đất hốc đá, chăn nuôi là bò, ngựa, dê, ong và gia cầm. Trong vùng có tiềm năng về khoáng sản. Khó khăn lớn của vùng: Khí hậu khắc nghiệt của mùa đông kéo dài, nhiệt độ thấp 5 - 100C, có năm tuyết rơi, sương muối ảnh hưởng tới phát triển nông nghiệp, là vùng cao núi đá tình trạng thiếu nước sinh hoạt, nghiêm trọng nhất là trong những tháng mùa khô lên tới 10 vạn dân. Thu nhập bình quân chỉ đạt 70 - 80 USD/người/năm. Tỷ lệ người mù chữ thất học vẫn còn rất cao, địa hình hiểm trở, diện tích canh tác manh mún, giao thông đi lại khó khăn. - Vùng cao núi đất gồm 2 huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần; diện tích vùng này là 1460 km2, độ cao trung bình 500 - 900 m; Dân số: 105.083 người, khí hậu thích hợp với những cây ôn đới, thuận lợi cho phát triển rừng, nuôi ong, trồng cây công nghiệp như chè, thông nhựa, trẩu, đậu tương... cây lượng thực chính là lúa, ngô, chăn nuôi chủ yếu là trâu, bò, ngựa, dê... và gia cầm. Khó khăn lớn nhất của vùng này là độ dốc rất lớn, hệ thống giao thông dễ sạt lở và sinh lầy trong mùa mưa lũ. Thu thập bình quân 80 -90 USD/người/năm, về văn hoá xã hội cũng khó khăn tương tự như vùng cao. - Vùng thấp gồm 3 huyện, thị xã: Bắc Quang, Bắc Mê, Vị Xuyên và thị xã Hà Giang. Diện tích tự nhiên là 4071 km2, độ cao trung bình 100 - 500 m; dân số: 294.574 người. Đây là vùng phù hợp với cây nhiệt đới phát triển như cam, quýt, dược liệu, cây công nghiệp như chè, cà phê, quế, dâu tằm, đậu tương, lạc... cây lương thực chủ yếu là lúa nước, ngô. Chăn nuôi: trâu bò, dê, cá và gia cầm. Trong vùng có cửa khẩu quốc gia Thanh Thuỷ rất thuận lợi cho giao lưu kinh tế, văn hoá với Trung Quốc, có điều kiện về xuất nhập khẩu và phát triển thương mại, dịch vụ... Đây là vùng thuận lợi nhất của tỉnh, song vẫn là khu vực còn những khó khăn về đời sống kinh tế - xã hội. Thu nhập bình quân ở mức 100 - 130 USD/người/năm. Hầu hết hệ thống thuỷ lợi, kênh mương chưa được kiên cố hoá. * Thực trạng sản xuất nông, lâm nghiệp của tỉnh trong những năm vừa qua: - Một số kết quả chung về phát triển kinh tế xã hội của tỉnh: Thực hiện đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước, trong đó vấn đề quan trọng có tính chiến lược lầu dài là chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế Tỉnh đã phát huy được cơ bản các thành phần kinh tế tham gia trong sản xuất kinh doanh, khẳng định hộ nông dân là một đơn vị tự chủ trong kinh tế... đồng thời đã thực hiện tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước nhất là Nghị quyết 22 NQ Trung ương của Bộ Chính trị, và Nghị quyết 72CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng về một số chính sách phát triển kinh tế xã hội miền núi, các Quyết định 327CP về sử dụng đất trống đồi núi trọc, và các chính sách vay vốn, trợ giá trợ cước vận chuyển và đảm bảo các hàng thiết yếu cho miền núi, chương trình 06CP về không trồng thuốc phiện và cai nghiện ma tuý; chương trình y tế và giáo dục VHXH đã trực tiếp thúc đẩy kinh tế xã hội ở địa phương. Về sản xuất: Trong những năm qua nền kinh tế của tỉnh phát triển tăng dần, đã duy trì nhịp độ tăng trưởng GDP từ 9 - 10,0% ( Năm 1994 GDP tăng 9,1% thì năm 1999 tăng 10,3%). GDP bình quân đầu người tăng từ 685.000 đồng năm 1994 lên 1.535.000 đồng năm 1999, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế nông lâm nghiệp lạc hậu mang tính tự cấp tự túc của những năm trước đây thì vài ba năm nay sản xuất hàng hoá đã bắt đầu phát triển, đã hình thành được một số vùng sản xuất tập trung. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch đúng hướng. + Tỷ trọng các ngành nông lâm nghiệp trong GDP giảm từ 63% năm 1994 xuống còn 61,8% năm 1995 và đến năm 1998 là 52,60%, năm 1999 là 51,46%. Nông lâm nghiệp phát triển tương đối toàn diện, nhiều giống cây, con có chất lượng và năng suất cao được đưa vào sản xuất đại trà, việc đưa những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất tạo nên sự chuyển biến rõ rệt trong sản xuất. Sản lượng lương thực quy thóc tăng từ 14,5 vạn tấn năm 1994 lên 18,4 vạn tấn trong năm 1999 tăng gần 4 vạn tấn. Chăn nuôi phát triển khá năm sau đều tăng hơn năm trước từ 4 - 5% năm. + Tỷ trọng ngành công nghiệp + xây dựng từ 17,02% năm 1994 lên 21,3% năm 1999. Trong công nghiệp từ chỗ hầu như chưa có gì, sản xuất quy mô thiết bị nhỏ bé lạc hậu nay đã bắt đầu được mở mang xây dựng phát huy tác dụng như: Nhà máy Xi măng 4 vạn tấn/năm, dây truyền Nhà máy gạch 15 triệu viên/năm, nhiều cơ sở chế biến chè, chế biến nông sản thực phẩm.. ra đời thu hút sản phẩm nông nghiệp và tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động. Nguồn điện lưới đã tới 10/10 huyện, thị trên toàn tỉnh... + Tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 19.9% năm 1994 lên 27,13% năm 1999. Các hoạt động lĩnh vực thương mại, dịch vụ, tiền tệ tín dụng cơ bản đáp ứng được các nhu cầu, phát triển cho các thành phần kinh tế thu ngân sách tăng từ 24 tỷ đồng năm 1994 lên 64 tỷ đồng năm 1999... Giá trị hàng hoá xuất khẩu và có tính chất xuất khẩu đạt 6,1 triệu USD/năm... + Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Đã có bươc phát triển khá về số lượng chất lượng, góp phần to lớn trong việc phát triển nền kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ đang từng bước được nâng cấp, mở rộng nhựa hoá. Đến nay có 232 km đường quốc lộ và 91 km đường tỉnh lộ được nhựa hoá. Đường cửa khẩu quốc gia Thanh Thuỷ, cửa khẩu tiểu ngạch được khai thông... Đặc biệt đến nay có 183/191 xã có đường về đến trung tâm xã... Công tác thuỷ lợi có những chuyển biến mạnh. Từ những công trình trước đây còn tạm bợ, chưa được kiên cố hoá, khả năng tưới 22.000 ha thì đến nay đã có 215 công trình lớn nhỏ được sửa chữa nâng cấp, cộng với 5283 công trình siêu nhỏ do dân tự làm với năng lực tưới đạt trên 28.000 ha. + Sự nghiệp y tế - Giáo dục - phát thanh , truyền hình trên địa bàn tỉnh đã từng bước được phát triển mở rộng, đã xoá được tất cả các xã trắng không có trạm xá và từng bước xây dựng kiên cố vững chắc. Tỉnh được công nhận đạt tiêu chuẩn quốc gia về hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ trên địa bàn toàn tỉnh vào năm 1999. Tỷ lệ phủ sóng phát thanh đạt 67,7%, sóng truyền hình đạt 61% năm 1999. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Từ những kết quả chung nêu trên đã có tác dụng kích thích môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh tế phát triển, có nhu nhập đời sống dần tăng lên. Tỷ lệ đói nghèo giảm từ 35% năm 1998 xuống còn 22% năm 1999, tỷ lệ hộ khá giàu đạt 3-4%, các khoản thu cho NSNN cũng tăng lên. - Thực trạng của cơ cấu ngành và sản xuất nông, lâm nghiệp trong những năm qua của địa phương: + Về nông nghiệp: Là một ngành kinh tế truyền thống đồng thời là ngành quan trọng hàng đầu trong các ngành kinh tế của tỉnh. Trên cơ sở về tiềm năng đất đai, khí hậu, được sự đầu tư giúp đỡ của Chính phủ, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, Chính quyền tỉnh cộng với sự vượt khó đi lên của nhân dân các dân tộc trong những năm gần đây bộ mặt nông thôn và đời sống nhân dân đã có nhiều chuyển biến phát triển rõ nét. Sản xuất nông, lâm nghiệp năm sau đều cao hơn năm trước. Tỉnh đã tập trung chỉ đạo phát triển nông, lâm nghiệp một cách tòan diện, bằng nhiều biện pháp tích cực, như làm thuỷ lợi, cung ứng vật tư kỹ thuật, công tác khuyến nông, khuyến lâm; có chính sách hỗ trợ sản xuất kịp thời để mở rộng diện tích thâm canh, thay đổi cơ cấu mùa vụ, đưa giống mới có năng suất cao vào sản xuất. Tổng sản lượng quy thóc toàn tỉnh tăng lên đáng kể qua các năm. Nếu năm 1995 đạt 15,4 vạn tấn thì đến năm 1999 sản lượng lương thực quy thóc đạt 18,4 vạn tấn tăng 3,0 vạn tấn. Tăng bình quân mỗi năm 6000 tấn. Thể hiện qua biểu sau: Biểu 1. Sản lượng lương thực quy thóc Sản lượng Tổng số Chia ra Năm (tấn) Thóc (tấn) Màu (tấn) 1995 154.158,4 85.422,3 68.736,1 1996 159.057 89.424 69.633 1997 165.479 95.581 69.898 1998 175.840,6 100.885,4 74.955,2 1999 184.000 109.800 74.800 Chỉ số phát triển về sản lượng lương thực quy thóc qua biểu trên ta thấy năm sau thường tăng hơn so năm trước từ 5-6%. Có được sản lượng tăng như trình bày trên đó là nhờ việc mở rộng diện tích ở những nơi có điều kiện canh tác, làm thuỷ lợi, đồng thời tăng cường các biện pháp thâm canh, áp dụng giống mới để đẩy mạnh năng suất cây trồng. Bỉểu 2. Tổng diện tích cây lương thực từ năm 1995 đến 1999 Năm Tổng số Trong đó (ha) Lúa (ha) Màu (ha) 1995 75.600,1 29.208,3 46.451,8 1996 76.999,5 29.896,0 47.103,5 1997 77.100,4 29.447,7 47.652,7 1998 77.880,4 29.684,6 48.205,8 1999 76.280,0 30.364,6 45.916,0 Chỉ số phát triển về diện tích cây lương thực: Năm trước là 100% thì năm sau thường tăng hơn 1,02%- 1,068%. Năng suất lúa ruộng cả năm: nếu năm 1995 đạt 31,3 tạ/ha cả năm thì năm 1999 đạt 38,05 tạ/ha, tăng hơn 7,2 tạ/ha. Năng suất ngô cả năm năm 1995 đạt 13,64 tạ/ha thì năm 1999 đạt 18-20 tạ/ha. Bên cạnh cây lương thực cây công nghiệp ngắn ngày cũng đuợc phát triển khá tạo ra những vùng tập trung có sản lượng hàng hoá trao đổi như huyện Hoàng Su Phì, Bắc Quang, Vị Xuyên đặc biệt là cây đậu tương: Năm 1995 diện tích 3.271 ha đến năm 1999 diện tích 5079,9 ha tăng 1,826 ha, năng suất đạt 6,53 tạ/ha. Đưa tổng sản lượng năm 1999 lên 3.338 tấn tăng gấp 2 lần so với năm 1995. Sản lượng bán ra hàng năm trên 2.500 tấn. Một số cây công nghiệp ăn quả chính dài ngày như cây chè, cà phê, cây ăn quả cam, quýt đang có chiều hướng tăng lên đáng kể tạo ra hàng hoá lớn trên địa bàn nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân. Cây soài, cây lê, cây hồng cũng đã phát triển mở ra hướng chuyển đổi mới về cơ cấu cây trồng cho vùng cao. Kết quả thể hiện: Biểu 3. Diện tích cây công nghiệp lâu năm Diện tích Tổng số Chia ra Năm (ha) Chè (ha) Cà phê (ha) 1995 6.473,3 6.220,9 249 1997 8.617,3 7.613,6 1003,7 1998 9.361,1 8.621,3 739,4 1999 9.654,7 9.654,7 769,4 Chỉ số phát triển (nếu lấy năm trước là 100%) thì năm sau tăng hơn năm trước bình quân 13%. Về sản lượng cây chè và cà phê tăng khá nhanh, đạt chất lượng tốt cho xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Đặc biệt là cây chè Santuyết trên núi cao 500-1000 m đạt độ sạch và chất lượng cao được nhiều người ưa dùng. Năm 1995 sản lượng chè búp tươi đạt 9,624 nghìn tấn, thì năm 1999 đạt 16,2 nghìn tấn, và đã tạo ra trên 2500 tấn chè khô hàng hoá xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Cây ăn quả: được phát triển mạnh, năm 1995 tổng cây ăn quả đạt 3.395 ha đến năm 1999 lên tới 6.345 ha tăng gần gấp 2 lần. Trong đó diện tích cam, quýt đạt 4.638 ha, sản lượng quả 12,8 ngàn tấn, cây soài hiện có 354 ha, nhãn, vải, hồng không hạt 103,6 ha, lê 66,28 ha. Ngành trồng trọt phát triển đã thúc đẩy cho ngành chăn nuôi cũng được phát triển nhanh, tổng đàn năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt tổng đàn trâu bò, đàn lợn, gia cầm... có sản lượng thịt hơi xuất chuồng đều tăng, tốc độ tăng của đàn gia súc hàng năm từ 4-5% năm, đàn gia cầm 3-4%. Thể hiện qua các biểu sau: Biểu 4. Số lượng gia súc, gia cầm Đơn vị: con Trâu Bò Lợn Ngựa Dê Gia cầm T. số con năm 1995 110.541 42.749 195.335 24.283 72.732 1.031.326 1997 116.998 45.779 211.144 25.009 78.185 1.073.000 1998 120.542 48.301 220.180 25.115 82.436 1.118.332 1999 127.428 51.955 236.000 25.250 88.716 1.250.350 Tính đến năm 1999 chỉ số PT bình quân % 3,2 5,5 4,2 0,4 5,4 4,2 Biểu 5. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng chủ yếu Đơn vị: tấn 1995 1997 1998 1999 99/95% Trâu 390,1 411 423 450 115 Bò 369,4 392,8 412 430 116 Lợn 3.353,1 3.857,0 4.050 4.350 135 Gia cầm 1.102 1.175,4 1.223 1.320 119,7 Hiện nay tỉnh tập trung thực hiện chương trình hỗ trợ cho vay đầu tư phát triển trâu bò hàng hoá với chương trình 3 vạn con trâu bò. Năm 1999 đã thực hiện được gần 10.000 con. Năm 1999 diện tích nuôi trồng thuỷ sản có 900 ha, tăng hơn năm 1995 là 120 ha. Sản lượng thuỷ sản năm 1999 đạt 820 tấn. Đàn ong năm 1999 có 9.009 tổ, tăng 3% so với năm 1998 cho sản lượng 40 tấn mật. + Về lâm nghiệp: Là tỉnh có diện tích đất rừng tự nhiên nhiều, nhưng hiện tại phần lớn là đất trống đồi núi trọc, rừng đầu nguồn và rừng phòng hộ. Những năm trước đây do tệ nạn khai thác không có tổ chức, buôn bán trái phép, dân du canh dư cư nhiều, mặt khác ảnh hưởng chiến tranh thế giới tàn phá, nên đã làm cho rừng ngheo kiệt, làm mất cân bằng hệ sinh thái; Ngoài ra việc giao đất giao rừng chưa hợp lý, người dân chưa thực sự được làm chủ đất rừng, nên ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế -xã hội và nguồn thu của nhân dân. Nhưng những năm gần đây do thực hiện tốt chủ trương giao đất giao rừng đến từng hộ và nguời lao động (đến năm 1998 diện tích đất nông nghiệp đã giao tới xã đạt 93% và 92,4% đất lâm nghiệp). Đặc biệt thông qua chương trình 327, ĐCĐC... Rừng Hà Giang đã tái sinh trở lại. Công tác trồng, chăm sóc, bảo vệ, khoanh nuôi được tăng cường rừng đã trở lại mầu xanh, độ che phủ của rừng từ 22% năm 1992 nay đã nâng lên 35% năm 1999. Kết quả năm 1995- 1999: - Diện tích đất rừng được giao tới hộ 126.088 ha, bình quân mỗi hộ 4-5 ha đất rừng. - Trồng rừng 17.773 ha, bình quân mỗi năm trồng 3.554 ha - Chăm sóc rừng trồng 21.218 ha, bình quân mỗi năm 4.243 ha - Bảo vệ rừng 145.263 ha, bình quân mỗi năm bảo vệ 29.053 ha - Khoanh nuôi rừng 25.455 ha, bình quân mỗi năm là 5.091 ha Về sản phẩm lâm nghiệp chủ yếu khai thác hàng năm: - Gỗ tròn bình quân mỗi năm khai thác 60.200 m3 - Củi khai thác bình quân mỗi năm 103.800 m3 - Tre, vầu, nứa bình quân mỗi năm 2.500 triệu cây. Tổng giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp trên địa bàn bình quân năm đạt 139.00 triệu đồng/năm. Trong đó: - Trồng và nuôi rừng 23.000 triệu đồng/năm - Khai thác và thu hoạch 116.000 triệu đồng. + Về tình hình phát triển kinh tế HTX và kinh tế trang trại: Theo báo cáo của các huyện, thị đến tháng 9 năm 1998 toàn tỉnh có 693 HTX (Trong đó nông nghiệp 680, tiểu thủ công nghiệp có 6, tín dụng 4, thuỷ sản 2, vận tải 1). Đến nay việc triển khai thực hiện Luật HTX trong phạm vi toàn tỉnh đã chuyển đổi và thành lập được 135 HTX mới theo luật. (Trong đó có 131 nông nghiệp, 4 tiểu thủ công nghiệp, 2 tín dụng, 1 vận tải, 1 dịch vụ vật tư xây dựng, 2 thuỷ sản). Đây là những mô hình tiên tiến có tác dụng tốt trong việc phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá và làm dịch vụ cho kinh tế hộ gia đình, tạo điều kiện cho họ được quyền tự chủ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. - Về kinh tế trang trại, trong những năm gần đây Hà Giang đã có sự quan tâm phát triển mô hình này. Tổng số trang trại lớn, nhỏ tính đến năm 1998 toàn tỉnh có trên 2000 hộ dân làm kinh tế trang trại, trong đó chính sách 478 hộ kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp theo mô hình trang trại quy mô từ 2 ha trở lên, chiếm 0,48% tổng số hộ toàn tỉnh. Trong số hộ trên riêng huyện Bắc Quang có khoảng 100 hộ, đạt doanh thu hàng năm từ 100-200 triệu đồng. Đây thực sự là một mô hình mới về phát triển nông, lâm nghiệp hàng hoá đúng hướng có hiệu quả cần được tiếp tục nghiên cứu, tổng kết và tạo điều kiện để khuyến khích mở rộng. + Về đầu tư phát triển: Được sự hỗ trợ của Chính phủ cộng với tinh thần phát huy nội lực của địa phương trong những năm qua, hướng đầu tư cho nông nghiệp, lâm nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các chính sách trợ cước, trợ giá trong chương trình phát triển nông, lâm nghiệp của tỉnh năm sau để tăng hơn năm trước. Đảm bảo cho sản xuất tăng trưởng, phát triển ổn định bền vững. Trong 6 năm từ 1994-1999, tổng số nguồn vốn đầu tư cho phát triển các lĩnh vực trên toàn tỉnh là 1424,3 tỷ đồng thì đầu tư cho nông, lâm nghiệp là 297,4 tỷ đồng bằng 20,88%. Đặc biệt năm 1999 đầu tư cho nông nghiệp lên tới 88,2 tỷ đồng/354,6 tỷ đồng chiếm 24,87%. + Về hoạt động thương mại- du lịch: Hà Giang có đường biên giới giáp với Trung Quốc dài trên 270 km có cửa khẩu Quốc gia Thanh Thuỷ và Phó Bảng, ngoài ra còn có các cửa khẩu tiểu ngạch rất thuận tiện cho giao lưu buôn bán với Trung Quốc. Có những địa danh độc đáo như Căng Bắc Mê, Núi Cấm, Cổng Trời, Suối Tiên, Chum vàng chum bạc, Núi Cô Tiên và một số di tích lịch sử được xây dựng từ thế kỷ 19 như Chùa Sùng Khánh, Nhà Vương... và các hang động, rừng đặc dụng phòng hộ khu bảo tồn thiên nhiên khác... Các hoạt động thương mại và du lịch tiếp tục được củng cố và phát triển. Công tác quảnlý hoạt động thương nghiệp quốc doanh được chấn chỉnh do đã hạn chế được thua lỗ trong kinh doanh. Đồng thời khuyến khích mạng lưới thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh phát triển đúng hướng đã góp phần làm đa dạng các mặt hàng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Tổng giá trị hàng xuất khẩu đạt 4,3 triệu USD. Trong đó mặt hàng chủ yếu là chì, quặng ăng ti môn. Về giá trị du lịch đạt 4,5tỷ đồng, tăng 4% so với năm 1998. Tuy nhiên hoạt động thương mại chưa làm tốt chức năng hướng dẫn sản xuất, tổ chức thu mua và tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là đối với hàng nông- lâm sản. Tóm lại, trong những năm qua thực hiện đường lối của Đảng nhất là từ Nghị quyết VII và VIII của Đảng về CNH, HĐH. Trên cơ sở các Nghị quyết cụ thể của Trung ương Đảng chỉ đạo trên từng lĩnh vực. Được sự quan tâm từ Trung ương Đảng, Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương, Đảng bộ và các dân tộc trong tỉnh đã nhận rõ trách nhiệm của mình, lãnh đạo chỉ đạo sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn và đạt được các mục tiêu cơ bản sau đây: - Về kinh tế đã phát duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, GDP bình quân tăng 9-10%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ. - Cơ sở hạ tầng được tăng cường và phát triển mạnh hơn các năm sau đều cao hơn năm trước. Triển khai thực hiện tốt một số chương trình lớn của Chính phủ và các dự án lớn của tỉnh, từ đó nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của cán bộ các cấp tỉnh, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng. - Bộ mặt xã hội có bước đổi mới, đời sống nhân dân được cải thiện thêm, các vấn đề xã hội được giải quyết, nhất là giáo dục đào tạo. - An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, toàn dân đoàn kết tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng. Riêng về nông nghiệp nông thôn Hà Giang có bước phát triển mới, cơ cấu kinh tế được xác lập và chuyển dịch hợp lý, đem lại hiệu quả nhất định, kinh tế các thành phần trong nông nghiệp đã phát triển, trong đó kinh tế hộ gia đình theo mô hình trang trại được xem là một nhân tố quan trọng có ý nghĩa thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn từ sản xuất tự túc tự cấp lên sản xuất hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá. Sức sản xuất trong nông nghiệp được khai thác, tiềm năng được phát huy một cách hợp lý hơn; sản xuất ngày một phát triển, sản phẩm nông nghiệp tăng, thu nhập đời sống nhân dân có bước nâng lên, góp phần xoá đói giảm nghèo, ổn định đời sống nhân dân. Cơ sở vật chất- kỹ thuật đầu tư cho nông, lâm nghiệp tăng cường; công tác khuyến nông, khuyến lâm được coi trọng hơn, tiến bộ khoa học kỹ thuật được tăng cường áp dụng tốt hơn, sự phân công lao động sản xuất kinh doanh đa dạng, năng động đã thúc đẩy và góp phần xây dựng cơ cấu nông thôn mới ngày một tiến bộ, hợp lý. Ii. thực trạng công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh hà giang năm 1997 - 1999. Năm 1999 là năm thứ ba thực hiện luật NSNN. Mặc dù tỉnh mới được tái lập, cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn liếng còn có nhiều khó khăn thiếu thốn. Bên cạnh đó lại chịu ảnh hưởng của thời tiết thất thường và sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ của các nước trong khu vực. Song với tinh thần đoàn kết, chủ động khắc phục khó khăn của các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân, vì vậy nền kinh tế của tỉnh vẫn tiếp tục tăng trưởng, phát triển, nguồn thu NSNN tiếp tục tăng qua các năm. Để thấy rõ thực trạng công tác này, ta có thể nghiên cứu kết quả, các chỉ tiêu về hoạt động thu, chi ngân sách của tỉnh từ năm 1997 đến 31/12/1999. 1. Về công tác quản lý thu NSNN của tỉnh Năm 1997: Tổng thu NSNN đạt 356.545,4 triệu đồng, trong đó: đầu tư về NS TW là 9.023 triệu. - NS để lại địa phương là 349.522,4 triệu. Cơ cấu nguồn thu: thu trên địa bàn 47.264,5 triệu; thu viện trợ 1.000 triệu; thu từ NSTW 295.861,2 triệu; thu hút dư năm trước 12.419,7 triệu; thu từ đi vay 2.000 triệu. Năm 1998: Tổng thu NSNN là 431.621 triệu, trong đó: - Điều tiết về NSTW là 12.254 triệu. - NS để lại địa phương là 419.367 triệu. Như vậy nếu so với kế hoạch thì 1998 thu đạt 113% và tăng so với năm 1997 là 120,3%, bao gồm: thu trên địa bàn 55.749 triệu, đạt 1264% kế hoạch hoá giao tăng so với năm 1997 là 138,7%; thu bổ sung từ NSTW 337.569 triệu đạt 112,8% kế hoạch; thu kết dư năm trước 1.148 trệi, đi vay 27.350 triệu; thu trái phiếu kho bạc 9.760 triệu. Năm 1999: thực hiện là 521.416 triệu đạt 102,1% so với kế hoạch và tăng so với năm 199._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0141.doc
Tài liệu liên quan