Mục lục
Lời mở đầu 2
Nội dung 3
1.Khái niệm về công nghiệp chế biến 3
2. Vai trò của chế biến nông sản……… 3
2.1. Đáp ứng được nhu cầu đời sống nhân dân ngày càng cao 4
2.2. Góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản 4
2.3. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp 4
2.4. Tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động 5
2.5. Một số vai trò khác 5
3. Đặc điểm của ngành chế biến nông sản 6
3.1. Ngành chế biến nông sản vừa mang tính độc lập vừa mang tính phụ thuộc vào sản xuất
30 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1462 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề lý luận & thực tiễn về phát triển chế biến nông sản ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nông nghiệp 6
3.2. Hoạt động của ngành chế biến nông sản thường không hoàn toàn diễn ra trong phạm vi doanh nghiệp 6
3.3. Ngành chế biến nông sản là một bộ phận cấu thành quan trọng của cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp 7
4. Những nhân tố ảnh hưởng đến công nghiệp chế biến 7
4.1. Nhóm nhân tố thị trường 7
4.2. Nhóm nhân tố về cơ sở vật chất- kỹ thuật và công nghệ 9
4.3. Nhóm nhân tố về chính sách vĩ mô 10
5. Các chỉ tiêu đánh giá trình độ, kết quả và hiệu quả 12
5.1. Hệ thống chỉ tiêu các nhân tố 12
5.1.1. Các chỉ tiêu khái quát 12
5.1.2. Chỉ tiêu kết quả tổng hợp 12
5.2. Hệ thống chỉ tiêu kết quả 13
5.2.1. Chỉ tiêu kết quả trực tiếp 13
5.2.2. Chỉ tiêu kết quả tổng hợp 13
5.3. Chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế của chế biến nông sản 14
5.3.1. Mức doanh lợi 14
5.3.2. Mức doanh lợi của đầu tư bổ sung 14
6. Các ngành và các hình thức công nghiệp chế biến nông sản 15
6.1. Các ngành công nghiệp chế biến nông sản 15
6.2. Các hình thức chế biến nông sản 16
7. Kinh nghiệm phát triển chế biến nông sản 19
8. Kết luận 22
Lời mở đầu
Nông nghiệp nước ta đang từ tình trạng lạc hậu, tiến lên xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá theo định hướng XHCN không qua giai đoạn phát triển TBCN, với đa phần dân cư sống bằng nghề nông. Chính vì vậy để nâng cao đời sống nhân dân cũng như góp phần phát triển đất nước cần phải coi trọng vấn đề phát triển nông nghiệp, trong đó có chế biến nông sản làm tăng giá trị nông sản và tăng thu nhập cho người dân. Trên con đường hiện đại hoá, công nghiệp hoá, nông nghiệp Việt Nam đang từng bước tiến tới một nền sản xuất hàng hoá lớn, với sản phẩm ngày càng dồi dào, giá thành ngày càng hạ. Cho đến nay, sản xuất nông nghiệp đã đáp ứng tốt nhu cầu lương thực, thực phẩm cho 80 triệu dân và một số hàng nông sản xuất khẩu của nước ta đã đứng hàng thứ 2-3 trên thế giới. Tuy nhiên, thị trường năm qua cũng cho thấy tình trạng thừa ứ một số mặt hàng nông sản đã làm cho người nông dân được mùa mà không vui, thu hoạch tăng mà vẫn nghèo túng. Để chặn đứng hậu quả đó, con đường đúng nhất là đẩy mạnh chế biến nông sản thực phẩm hàng hóa. Chỉ có chế biến nông sản mới làm hạn chế được tình trạng hao phí, thối rữa do không tiêu thụ kịp thời của mặt hàng nông sản, làm tăng giá trị hàng hoá, nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường… Mặc dù vậy, công nghiệp chế biến ở nước ta có sự phát triển không tương xứng với khả năng sản xuất nông nghiệp do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, làm hạn chế sự phát triển của ngành nông nghiệp cũng như của cả nước.
Qua bài viết này em xin nêu lên một số ý chính trong vấn đề chế biến nông sản ở nước ta hiện nay, với đề tài là: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển chế biến nông sản ở nước ta hiện nay ”.
Do hạn chế về mặt thời gian cũng như lượng kiến thức nên đề tài của em không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Nhưng với sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô trong bộ môn cũng như giáo viên hướng dẫn đã giúp đỡ em rất nhiều trong việc hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn!
1. Khái niệm về công nghiệp chế biến:
Trong các tài liệu thống kê quốc tế, công nghiệp chế biến (hay còn gọi là công nghiệp chế tạo, manufacturing ) được hiểu là toàn bộ khu vực công nghiệp loại trừ những ngành khai khoáng, xây dựng và những ngành cung cấp những tiện ích sinh hoạt xã hội (điện, nước, ga) thuộc mã ngành 3 trong ISIC (Bảng mã ngành công nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế ). Công nghiệp chế biến có đặc trưng làm thay đổi về chất của các đối tượng lao động là nguyên liệu nguyên thủy (sản phẩm của khai thác ) thành các sản phẩm trung gian và tiếp tục biến thành sản phẩm cuối cùng.
Công nghiệp chế biến còn được hiểu là quá trình làm tăng giá trị của nông sản. Sản phẩm chế biến có thể cất trữ lâu dài, vận chuyển đi xa mà không bị hư hỏng. Công nghiệp chế biến có vai trò to lớn đối với nền kinh tế - xã hội. So với nhiều ngành công nghiệp khác thì nó không đòi hỏi vốn quá lớn, chúng ta có thể xây dựng nhanh công trình và đưa cơ sở mới vào hoạt động, vốn chu chuyển nhanh, nhờ đó mà tạo được nguồn vốn tich lũy trong nước, thúc đẩy sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
Một trong những sản phẩm đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam, do đất nước giàu tiềm năng nông nghiệp là chế biến nông sản thực phẩm, và đặc biệt là hải sản.
2. Vai trò của chế biến nông sản:
Công nghiệp chế biến có vai trò quyết định trong công nghiệp hóa và phát triển kinh tế. Cồn nghiệp hòa thường được giải thích là quá trình trong đó tỷ trọng của công nghiệp nói chung và đặc biệt là tỷ trọng của công nghiệp chế biến tăng lên trong toàn bộ các hoạt động kinh tế. Công nghiệp chế biến là bộ phận năng động nhất của công nghiệp, giữ vai trò chủ đạo trong chiến lược phát triển. Năng suất lao động cao trong công nghiệp chế biến là chìa khóa dẫn đến sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng sức mua, mở rộng thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ. Một nền kinh tế trưởng thành khi nó có tỷ trọng công nghiệp( hay công nghiệp chế biến ) cao trong GDP, trong cơ cấu việc làm và cơ cấu xuất khẩu. Ta có thể thấy những vai trò cụ thể của công nghiệp chế biến như sau:
2.1. Đáp ứng được nhu cầu đời sống nhân dân ngày càng cao:
Các sản phẩm nông nghiệp nói chung và nông sản chế biến nói riêng giữ vai trò tối quan trọng đối với đời sống con người. Nhu cầu xã hội về nông sản ngày càng tăng một mặt do dân số không ngừng tăng, mặt khác thu nhập đầu người cũng tăng nên yêu cầu về số lượng và chất lượng ngày càng cao. Những năm trước đây người dân chỉ quen dùng các sản phẩm tươi sống, chế biến thô thì nay đã có sự chuyển biến rõ rệt. Các sản phẩm chế biến ngày càng giữ vị trí quan trọng trong đời sống của nhân dân như các loại bánh, mì ăn liền, rau quả hộp, thịt hộp, xúc xích… Rõ ràng sự đa dạng phong phú của sản phẩm cũng như giá trị dinh dưỡng, sự tiện ích của sản phẩm đã thuyết phục người dân tiêu dùng ngày một nhiều. Nhưng phải phát triển công nghiệp chế biến mạnh hơn nữa mới đáp ứng được nhu cầu đang tăng nhanh của người tiêu dùng, đặc biệt là người tiêu dùng có thu nhập cao ở thành phố, khu công nghiệp.
2.2. Góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản:
Nông sản nếu không qua chế biến thì không thể vận chuyển đi xa, thời gian tiêu thụ ngắn, không đáp ứng được nhu cầu đa dạng của dân cư ở những vùng khác nhau. Nhờ công nghiệp chế biến mà nông sản được vận chuyển dễ dàng hơn cũng như được cất trữ để bán trên thị trường lúc trái vụ, điều này khắc phục được điểm yếu của hàng hóa nông nghiệp là mang tính thời vụ cao.
Đồng thời công nghiệp chế biến cũng góp phần làm tăng xuẩt khẩu nông sản. Nếu chỉ xuất khẩu dưới dạng thô, sơ chế thì không thể cạnh tranh được với các nước khác, nhất là các nước trong khu vực. Chính vì vậy phát triển công nghiệp chế biến đẻ phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, mở rộng thị trường là rất cần thiết và cấp bách.
2.3. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, phát triển sản xuất nông sản hàng hóa và hình thành vùng chuyên canh quy mô lớn:
Nguyên liệu cho công nghiệp chế biến phải tập trung, đồng nhất thì chế biến mới đạt hiệu quả cao. Việc phát triển chế biến sản phẩm nào là do nắm bắt thị trường cho nên sản xuất nông nghiệp sẽ thay đổi để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu của công nghiệp chế biến. Khi xây dựng nhà máy chế biến thì vấn đề thì vấn đề đầu tiên là phải xây dựng được vùng nguyên liệu chon chế biến để có quy mô, công nghệ hợp lý. Quy mô, tốc độ phát triển của chế biến nông sản phụ thuộc vào trình độ, tính chất phát triển của sản xuất nông nghiệp mặt khác nhờ sự phát triển chế biến nông sản mà xuất khẩu nông nghiệp sẽ phát triển theo hướng chuyên canh có năng suất cao, tỷ suất hàng hóa lớn, hiệu quả kinh tế cao.
Công nghiệp chế biến còn có vai trò to lớn trong việc chuyển dich cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng phát triển mạnh, vững chắc có hiệu quả, công nghiệp-dịch vụ ở nông thôn tăng nhanh ngành này trong cơ cấu nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cũng bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi gắn với công nghiệp chế biến theo hướng tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, giảm tỷ trọng ngành trồng trọt và trong nội bộ ngành trồng trọt thì giảm tỷ trọng cây lương thực, tăng tỷ trọng cây công nghiệp, cây ăn quả…
2.4. Tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động:
Công nghiệp chế biến tại chỗ trong nông nghiệp nông thôn góp phần giải quyết nhu cầu việc làm cho lao động nhàn rỗi ở khu vực này. Chính công nghiệp chế biến đã giải quyết tốt nạn di dân ồ ạt từ nông thôn ra thành phố, đã tạo việc làm cho hàng ngàn lao đông thất nghiệp và bán thất nghiệp ở nông thôn. Chế biến nông sản vừa làm tăng giá trị vừa tăng giá trị sử dụng và cũng làm tăng thu nhập của người lao động. Ngành công nghiệp chế biến nếu phát triển tương xứng với tiếm năng, lợi thế của ngành sản xuất nông nghiệp thì sẽ thu hút được rất nhiều lao động nông thôn vốn rất dồi dào, giá lại rẻ mạt…Chủ trương chính sách của nhà nước là phải tận dụng được ưu thế này bằng cách tạo ra những ngành nghề mới ở nông thôn, giải quyết việc làm cho người lao động với yêu cầu không cao, đào tạo cơ bản ít tốn kém như các ngành chế biến nông sản, chế biến hải sản đông lạnh…
2.5. Một số vai trò khác:
Bên cạnh những vai trò đã đề cập ở trên, chế biến nông sản còn có nhiều vai trò quan trọng khác. Nó tác động mạnh đến sự phát triển của nhiều ngành nghề kinh tế nhất là dịch vụ, nó ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế- xã hội của người nông dân. Khi công nghiệp chế biến được chú trọng ở nông thôn thì cơ sở hạ tầng sẽ được nâng cấp, trình độ dân trí sẽ được cải thiện một cách rõ nét…
3. Đặc điểm của ngành chế biến nông sản:
3.1. Ngành chế biến nông sản vừa mang tính độc lập vừa mang tính phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp:
Hoạt động chế biến nông sản là hoạt động thuộc lĩnh vực công nghiệp, được tiến hành theo quy trình công nghệ và dây chuyền sản xuất riêng với những tiêu chuẩn kinh tế- kĩ thuật nghiêm ngặt của công nghiệp. Đặc điểm đó chứng tỏ nó độc lập so với sản xuất nông nghiệp, cần phát huy lợi thế của ngành độc lập để phát triển công nghiệp chế biến một cách vững chắc.
Tuy nhiên, nguyên liệu đầu vào cho ngành lại là các sản phẩm của ngành nông nghiệp. Vì thế công nghiệp chế biến phải phù hợp với đặc điểm của sản phẩm nông nghiệp, bị quy định bởi tính mùa vụ và quy mô của ngành nông nghiệp, quy cách chất lượng nguyên liệu nông sản phẩm. Đây là mỗi quan hệ hữu cơ lẫn nhau, sản xuất nông nghiệp phát triển, sản lượng lớn, chất lượng cao, đồng đều sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho chế biến đạt hiệu quả tốt, ngược lại chế biến phát triển sẽ là nơi tiêu nthụ sản phẩn đầu ra tốt nhất cho người nông dân, giúp nông dân yên tâm sản xuất. Chế biến nông sản phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp nên ta cần giải quyết tốt mối quan hệ này để cả hai cùng phát triển.
3.2. Hoạt động của ngành chế biến nông sản thường không hoàn toàn diễn ra trong phạm vi doanh nghiệp:
Đây là đặc điểm nổi bật của công nghiệp chế biến nông sản. Đối tượng phục vụ cho chế biến là các nông sản hàng hóa vì thế trong phạm vi doanh nghiệp thường không thể đáp ứng được nhu cầu của nhà máy mà phải thu gom từ nhiều doanh nghiệp khác, các hộ nông dân trên dịa bàn. Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức các ngành chế biến nông sản phải gắn với hoạt động của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác và của các hộ nông dân, hộ dân cư trên địa bàn.
Bên cạnh đó vấn đề thu gom, vận chuyển cũng đóng vai trò hết sức quan trọng, và cũng không ít khó khăn. Có khi là do nguyên liệu thô thu gom ở các hộ nông dân thường nhỏ lẻ, khó kiểm soát, có khi là sản phẩm cồng kềnh, tươi sống, khó bảo quản chuyên chở xa…Chính vì vậy doanh nghiệp chế biến nông sản cần phải chú trọng, không được xem nhẹ vấn đề này.
3.3. Ngành chế biến nông sản là một bộ phận cấu thành quan trọng của cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp:
Chế biến là hoạt động tiếp tục quá trình sản xuất hàng hóa có sự đan xen giữa các thành phần kinh tế và các tổ chức sản xuất kinh doanh. Phải lựa chọn các sản phẩm có lợi thế so sánh để có chủ trương đầu tư đúng đắn cho chế biến. Chế biến là một khâu trong chuỗi sản xuất- chế biến- tiêu thụ. Rõ ràng nếu chế biến tốt sẽ tạo điều kiện tiêu thụ nhanh và sản xuất được nâng lên. Chính vì vậy cần phải có sự phát triển công nghiệp chế biến sao cho tương xứng với sự phát triển của nền nông nghiệp, có như thế mới đưa nền nông nghiệp phát triển lên một tầm cao mới.
4. Những nhân tố ảnh hưởng đến công nghiệp chế biến:
4.1. Nhóm nhân tố thị trường:
Thị trường là nhân tố quan trọng tác động lớn đến hầu hết các lĩnh vực của chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay các cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tùy theo quy mô, trình độ chuyên môn hóa, trình độ công nghệ… của từng loại cơ sở sản xuất kinh doanh mà ảnh hưởng của thị trường có khác nhau. Mặc dù vậy, nhân tố thị trường có ảnh hưởng rất lứn chi phối quá trình sản xuất kinh doanh của các cơ sở chế biến nông sản nói riêng và kinh doanh nông nghiệp nói riêng. Có thể xét trên 3 yếu tố sau đây của thị trường:
- Nhu cầu thị trường: Nhu cầu thị trường là yếu tố hang đầu cần tính đến trong cư sở kinh doanh chế biến nông sản, nhu cầu thị trường chính là động lực cho các cơ sở kinh doanh ra đời và phát triển. Cầu về nông sản chế biến phụ thuộc vào thu nhập, cơ cấu dân cư ở các vùng, các khu vực. Về nguyên lý, thu nhập của dân cư tăng lên thì cầu cũng tăng lên, song đối với sản phẩm nông nghiệp, khi thu nhập của dân cư tăng lên thì cầu về hàng nông sản có thể diễn ra theo chiều hướng tăng lên đối với các sản phẩm có nhu cầu thiết yếu hàng ngày của dân cư và các sản phẩm cao cấp, đồng thời giảm đối với các sản phẩm kém phẩm chất và cấp thấp. Trong giai đoạn hiện nay, khi dân số ngay một gia tăng về số lượng cũng như sự tăng thêm thu nhập của mỗi người dân đòi hỏi một lượng lớn hơn số lượng hàng hóa nông sản đã qua chế biến. Cơ cấu dân cư ở các vùng cũng có ảnh hưởng lớn đến cầu. Đối với vùng nông thôn mà cư dân nông thôn là chủ yếu, phần lớn nhu cầu lương thực là tịa chỗ, tự cung ứng, chính vì vậy các sản phẩm nông sản chế biến không được tiêu dùng phổ biến. Còn đối với các vùng thành thị, nhu cầu về nông sản chế biến ngày càng đòi hỏi số lượng lớn và chất lượng cao…
- Nguyên liệu chế biến: cũng là một vấn đề quan trọng cần quan tâm. Khi xây dựng nhà máy chế biến một loại nông sản nào đó thì trước hết phải xác định được vùng nguyên liệu cho nhà máy, khả năng cung cấp nguyên liệu cho nhà máy. Những năm qua có những doanh nghiệp vì xem nhẹ yếu tố này nên khi đi vào hoạt động thiếu nguyên liệu hoặc nguyên liệu không đảm bảo yêu cầu dẫn đến tình trạng công suất nhà máy đạt rất thấp, hiệu quả kém, một số nhà máy phải đóng cửa vì thiếu nguyên liệu. Việc xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung cho chế biến công nghiệp vẫn tiến hành chậm. Hiệu quả của một số ngành công nghiệp chế biến nông sản còn thấp (mía đường, rau quả). Nhiều nhà máy chưa chủ động xây dựng vùng nguyên liệu đảm bảo đủ cho chế biến. Việc xây dựng nhà máy chế biến và phát triển vùng nguyên liệu còn chưa đồng bộ. Việc đầu tư cơ sở hạ tầng (đường xá, thủy lợi...) chưa theo kịp với việc xây dựng nhà máy chế biến. Sản xuất nông nghiệp lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên nguyên liệu không phải bao giờ cũng như ý muốn mà phải dự kiến đến những rủi ro do yếu tố khách quan mang lại. Trong một số trường hợp còn xảy ra hiện tượng phát triển ngành chế biến nông-lâm-thuỷ sản theo phong trào (đường, tôm, cà phê, tinh bột sắn...), nên hiệu quả không những thấp, mà đôi khi còn gây nên những thiệt hại lớn đối với bà con nông dân và Nhà nước. Tính mùa vụ của sản xuất nông nghiệp dẫn đến tính mùa vụ trong chế biến nông sản. Để khắc phục những nhược điểm đó ta cần xây dựng nhà máy chế biến một số loại nông sản xen kẽ nhau hoặc sử dụng máy móc đa chức năng, chẳng hạn nhà máy đường lúc trái vụ có thể chế biến xen kẽ một số sản rau quả khác.
Chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm chế biến, nguyên liệu tốt sẽ có điều kiện tạo ra sản phẩm tốt, còn nguyên liệu kém thì không thể tạo ra được sản phẩm chất lượng cao. Để có nguyên liệu tốt cần có giống, vật tư kỹ thuật tốt, nhà máy chế biến cần cung cấp cho người sản xuất nông nghiệp những yếu tố đó để họ yên tâm sản xuất vì đã có nơi tiêu thụ đầu ra ổn định.
- Giá cả là một yếu tố quan trọng, là thước đo sự cân bằng cung- cầu trong nền kinh tế thị trường. Giá cả tăng cho thấy sản phẩm đó đang khan hiếm, cầu lớn hơn cung và ngược lại. Đối với nông sản chế biến thì khi thu nhập tăng sẽ có mức cầu càng tăng, đồng thời nông sản qua chế biến thường tăng về giá trị, chính vì vậy phải có mức giá hợp lý để có thị trường tiêu thụ rộng hơn, với số lượng ngày càng tăng.
- Ngoài ra khi xem xét yêu cầu sản phẩm cũng phải tính đến những thị hiếu, tập quán và thói quen tiêu dùng của cư dân.
4.2. Nhóm nhân tố về cơ sở vật chất- kỹ thuật và công nghệ:
- Các nhân tố về cơ sở vật chất- kỹ thuật bao gồm hệ thống cơ sở hạ tầng như đường sá giao thông, phương tiện vận tải, hệ thống bến cảng kho bãi, hệ thống thông tin liên lạc… Hệ thống này đóng vai trò quan trọng trong việc lưu thông nhanh chóng kịp thời, đảm bảo an toàn cho việc tiêu thụ sản phẩm, cũng như việc vận chuyển nguyên liệu kịp thời cho dây chuyền chế biến.
- Các nhân tố về kĩ thuật và công nghệ và thiết bị chế biến: Tuỳ từng loại đối tượng chế biến mà lựa chọn công nghệ và thiết bị cho phù hợp. Công nghệ và thiết bị tốt sẽ cho ra sản phẩm có chất lượng cao, phế phẩm ít, mẫu mã đẹp đáp ứng được nhu cầu đa dạng và ngày càng cao của người tiêu dùng. Nếu không sẽ dẫn đến tình trạng chất lượng sản phẩm không đảm bảo, năng suất thấp, hiệu quả kinh tế không cao. Cần dựa vào yêu cầu, sự đòi hỏi của người tiêu dùng về sản phẩm để trang bị những công nghệ phù hợp, những sản phẩm xuất khẩu thì cần đầu tư công nghệ thiết bị hiện đại hơn. Khi lắp đặt công nghệ phải đánh giá được công nghệ của nó, tránh tình trạng vừa đưa vào sử dụng đã hỏng hóc hoặc lạc hậu gây tổn thất lớn. Công nghệ, thiết bị chế biến không chỉ ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm mà nó còn ảnh hưởng đến giá thành sản xuất do đó cần có kế hoạch khấu hao hợp lý, giảm hao mòn vô hình. Công nghệ thiết bị được xem là tối ưu khi nó có tuổi thọ cao, công suất lớn, cho ra sản phẩm có chất lượng tốt, ít hư hao và giá thành vừa phải. Để có được những điều đó cần chú ý những điểm sau:
+ Thiết bị phải đồng bộ, đủ phụ tùng thay thế. Yêu cầu người đi mua phải có hiểu biết về máy móc thiết bị.
+ Thuê chuyên gia để hướng dẫn cách sử dụng, sửa chữa đồng thời đào tạo công nhân kỹ thuật để vận hành, bảo dưỡng và quản lý thiết bị để kéo dài tuổi thọ, phát huy công suất tối đa với hiệu quả kinh tế cao nhất.
+ Có sự liên doanh liên kết hợp tác với nước ngoài để thu hút vốn đầu tư, thiết bị công nghệ, phương pháp sản xuất tiên tiến vào việc phát triển mạnh công nghệ chế biến nông sản ở nước ta.
+ Phải đánh giá, xem xét một cách toàn diện, sâu sắc để lựa chọn công nghệ, thiết bị thích hợp nhất.
4.3. Nhóm nhân tố về chính sách vĩ mô:
Một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp chế biến đó là nhân tố chính sách. Nếu chính sách đúng đắn, hợp lý sẽ khuyến khích sản xuất phát triển, ngược lại chính sách sai lệch sẽ kìm hãm sản xuất dẫn đến trì trệ. Chính sách ở đây bao gồm nhiều chính sách ảnh hưởng trực tiếp đến công nghiệp chế biến và những chính sách ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, đến thị trường… Có nhiều loại chính sách, thời gian ban hành khác nhau nên dễ gây ra sự mâu thuẫn, chồng chéo và không đồng bộ. Cho nên khi ban hành chính sách nhà nước phải xem xét, cân nhắc kỹ để tránh gây ra hậu quả không mong muốn.
Những chính sách quan trọng ảnh hưởng tới công nghiệp chế biến:
- Chính sách đầu tư và tín dụng: Chính sách này sẽ định hướng, khuyến khích phát triển ngành nào. Cần căn cứ vào chế biến loại nông sản gì để quy định thời gian hoàn vốn, lãi xuất vay hợp lý. Chính sách này tạo điều kiện cho người nông dân có điều kiên mở rộng vùng nguyên liệu, áp dụng những giống cây con có năng suất cao, phẩm chất tốt vào sản xuất. Còn nhà máy chế biến thì còn có điều kiện để tiếp cận công nghệ hiên đại, nâng cao năng suất chế biến.
- Chính sách khoa học công nghệ: Việc thất thoát các sản phẩm nông-lâm-nghiệp sau khi thu hoạch ở nước ta hiện chiếm tỉ lệ khá lớn, khoảng 10% tống sản lượng thu hoạch, và thường do các khâu: Thu hoạch, vận chuyển và công nghệ bảo quản. Chính vì vậy, chính sách khoa học công nghệ ưu tiên nghiên cứu công nghệ chế biến và quy mô thích hợp đối với cả hai sản phẩm thô và tinh có giá trị sử dụng trong nước và xuất khấu. Đồng thời nghiên cứu vấn đề vệ sinh công nghiệp và mẫu mã bao bì. Nhanh chóng đưa các công nghệ chế biến mới, thiết bị tiên tiến để đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng đầu ra cho sản xuất nông nghiệp như: chiên chân không, sấy tầng sôi, sấy thăng hoa, đóng gói chân không, nạp khí trơ, thực phẩm chế biến sẵn, thực phẩm ăn liền… Thiết kế bổ sung một số khâu trong dây chuyền chế biến đường, đánh bóng gạo, tách tấm, hoàn thiện công nghệ xay xát đã lạc hậu,nhập thiết bị phân loại màu nhằm nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu; dây chuyền chế biến thức ăn gia súc, dây chuyền chế biến chè, cà phê…Hiện đại hoá hệ thống kiểm tra chất lượng nông sản, thực phẩm chế biến theo công nghệ tương hợp với tiêu chuẩn quốc tế và khu vực nhằm đáp ứng nhu cầu chất lượng hàng xuất khẩu và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nước.
- Chính sách giá cả và vấn đề trợ giá: Giữa giá mua nguyên liệu và giá sản phẩm chế biến có mối quan hệ với nhau. Nếu giá nguyên liệu rẻ thì giá bán sản phẩm cơ bản sẽ không cao và ngược lại, thế nhưng nếu giá nguyên liệu quá thấp người sản xuất nông nghiệp sẽ bị thua thiệt dẫn đến tình trạng nhà máy thiếu nguyên liệu mà người nông dân không muốn thu hoạch vì không dủ bù đắp chi phí. Nhà nước cần có chính sách để vừa khuyến khích người sản xuất nông nghiệp vừa tạo điều kiện cho công nghiệp chế biến phát triển.
- Chính sách thuế, chính sách xuất khẩu: Xuất khẩu là con đường mang lại ngoại tệ để phục vụ sự nghiệp CNH – HĐH đất nước, nếu như chỉ xuất thô thì hiệu quả không cao. Nhà nước cần đánh thuế cao vào những sản phẩm xuất thô và quy định mức thuế thấp đối với sản phẩm tinh chế. Đó là điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất phải đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản, vừa giải quyết tốt cho lao động trong nước vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao.
5. Các chỉ tiêu đánh giá trình độ, kết quả và hiệu quả chế biến nông sản:
5.1. Hệ thống chỉ tiêu các nhân tố:
5.1.1. Các chỉ tiêu khái quát:
- Tổng số vốn sản xuất (bao gồm vốn cố định và vốn lưu động). Chỉ tiêu này phản ánh đầy đủ nhất tư liệu sản xuất và lao động ứng trước. Ưu việt của vốn sản xuất biểu hiện chủ yếu ở sự tập trung hoá đầy đủ nhất các nhân tố và điều kiện vào quá trình sản xuất. Khuynh hướng chunh trong việc thay đổi các nhân tố của vốn sản xuất thông thường là sự tăng lên của vốn lưu động trên với việc hạ thấp chi phí lao động sống và thù lao lao động. Nhưng do các yếu tố khác nhau cấu thành vốn sản xuất có chức năng khác nhau trong quá trình sản xuất và tham gia không giống nhau trong việc tạo thành giá trị sản phẩm, nên khi sử dụng chỉ tiêu này cần kèm theo chỉ tiêu khác để đảm bảo tính chất toàn diện của quá trình chế biến nông sản.
- Tổng chi phí sản xuất (bao gồm chi phí thực tế về tư liệu sản xuất và lao động). Chỉ tiêu này phản ánh đầy đủ nhất chi phí thực tế và nó có ý nghĩa trực tiếp để tăng khối lượng sản phẩm. Thông qua chỉ tiêu này có thể so sánh chính xác hơn kết quả thu được với chi phí đã tiêu hao, từ đó xác định được lượng tuyệt đối của kết quả sản xuất và hiệu quả kinh tế trong quá trình sản xuất chế biến nông sản. Tuy nhiên chỉ tiêu này không phản ánh được toàn bộ lượng vốn sản xuất ứng trước mà thiếu khoản này không thể nhận được kết quả sản xuất. Vì thế khi sử dụng chỉ tiêu này phải đồng thới sử dụng chỉ tiêu vốn sản xuất trên đơn vị diện tích.
5.1.2. Các chỉ tiêu bộ phận bao gồm:
- Tổng số vốn cố định: Nó biểu hiện dưới hình thức máy móc, công cụ, các phương tiện giao thông… có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc tăng sản phẩm trên đơn vị diẹn tích và hạ thấp chi phí sản xuất. Chỉ tiêu này có ý nghĩa trực tiếp đến việc nâng cao vốn trang bị lao động, năng suất sống và hiệu quả sản xuất.
- Giá trị công cụ máy móc: Là bộ phận cấu thành trong vốn cố định, máy móc có tác động trực tiếp đến việc hạ thấp chi phí lao động, đồng thời có ảnh hưởng gián tiếp đến việc tăng khối lượng sản phẩm, thông qua việc tạo điều kiện để thực hiện các biện pháp kỹ thuật hợp lý trong thời hạn thuận lợi nhất cho sự phát triển của công nghệ chế biến.
- Trình độ phát triển của ngành nông nghiệp: phản ánh mối quan hệ và sự phối hợp giữa ngành sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt với công nghệ chế biến. Phản ánh chỉ tiêu chất lượng thông qua số lượng và chất lượng nguyên liệu của chế biến nông sản.
5.2. Hệ thống chỉ tiêu kết quả:
5.2.1. Chỉ tiêu kết quả trực tiếp:
- Giá trị sản xuất: phản ánh mục tiêu sản xuất cũng như giá trị sản xuất đạt được của công nghệ chế biến, nhắm đưa lại giá trị sản xuất cao hơn. Do giá trị sản xuất trên đơn vị sản xuất chứa đựng đồng thời giá trị chuyển vào và giá trị mới sáng tạo ra với tỷ lệ khác nhau, vì thế khi sử dụng chỉ tiêu này đòi hiurtphải kết hợp với các chỉ tiêu khác để xác định trình độ sản xuất chế biến.
- Năng suất sản xuất chế biến: là chỉ tiêu trực tiếp phản ánh trình độ sản xuất chế biến, phản ánh hiệu quả trên một đơn vị lao động. Chỉ tiêu là cơ sở chính xác hơn và đánh giá sự hợp lý về kết quả đầu tư đã thực hiện và trình độ sử dụng tư liệu sản xuất để phát triển sản xuất.
5.2.2. Chỉ tiêu kết quả tổng hợp:
Nhằm đánh giá tính chất hợp lý và lợi ích kinh tế của quy mô và cơ cấu đầu tư về tư liệu sản xuất và lao động trong những điều kiện nhất định của sản xuất. Các chỉ tiêu kết quả tổng hợp bao gồm:
- Giá trị mới tạo ra trên đơn vị diện tích: Đây là chỉ tiêu đặc biệt quan trọng đặc trưng cho sự phát triển kinh tế nói chung cung như của sản xuất chế biến nói riêng. Sự tăng lên của giá trị mới sáng tạo ra trên đơn vị diện tích với nhịp độ lớn hơn so với giá trị sản lượng khi các điều kiện khác khi các điều kiện khác không thay đổi thể hiện sử dụng tốt hơn tư liệu vật chất.
- Lợi nhuận: Là chỉ tiêu kết quả kinh tế cuối cùng của sản xuất. Lợi nhuận biểu hiện đầy đủ nhất những khả năng tái sản xuất mở rộng trong nông nghiệp là tham gia vào tích luỹ xã hội. Lợi nhuận là chỉ tiêu cơ sở để thu hút các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp bước đầu quan tâm đến lĩnh vực kinh doanh này.
5.3. Chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế của chế biến nông sản:
Hiệu quả sản xuất đem lại là kết quả tác động tổng hợp của tư liệu sản xuất sẵn có và tư liệu sản xuất đầu tư bổ sung, thông thường tư liệu sản xuất bổ sung được hoàn thiện hơn cho phép nâng cao hiệu quả của những tư liệu sản xuất đã đầu tư và sử dụng trước đó. Sự tác động này có thể tác động trực tiếp thông qua việc nâng cao chất lượng những tư liệu sản xuất tương tự được sử dụng, có thể gián tiếp thông qua cơ cấu số lượng hợp lý hơn giữa đầu tư công nghệ mới và cũ nhằm đảm bảo ảnh hưởng tổng hợp để tăng hiệu suất của ruộng đất, cây trồng và gia súc. Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của chế biến nông sản bao gồm:
5.3.1. Mức doanh lợi: Là chỉ tiêu khái quát nhất về hiệu quả sản xuất. Mức doanh lợi có thể biểu hiện bằng mối quan hệ so sánh về lượng của thu nhập và chi phí sản xuất, hoặc của thu nhập với tổng số vốn sản xuất (vốn cố định và vốn lưu động, trừ phần khấu hao). Thu nhập tính bằng cách lấy tổng giá trị sản xuất trừ đi tổng chi phí sản xuất. (Thu nhập và giá trị mới sáng tạo ra là hai cách gọi khác nhau của cùng một chỉ tiêu).
Mặc dù mức doanh lợi là chỉ tiêu quan trọng nhất để đo lường hiệu quả kinh tế của chế biến nông sản nhưng không phải bao giờ mức doanh lợi cao cũng đảm bảo thu nhập nhiều hơn trên đơn vị lao động và tư liệu sản xuất.
Doanh thu của công nghiệp chế biến được tính theo phương pháp công xưởng bao gồm:
+ Doanh thu của công nghiệp chế biến ( Doanh thu sản phẩm, dịch vụ công nghiệp, bán phế liệu, phế phẩm và doanh thu cho thuê máy móc, thiết bị có kèm theo người điều khiển).
+ Chênh lệch cuối kỳ, đầu kỳ, thành phẩm tồn kho, hàng gửi bán, sản phẩm dở dang.
5.3.2. Mức doanh lợi của đầu tư bổ sung:
Là quan hệ so sánh giữa phần tăng lên của thu nhập với đầu tư bổ sung. Chỉ tiêu này có thể biểu hiện bằng mối quan hệ so sánh về lượng giữa phần tăng lên của thu nhập với phần chi phí sản xuất bổ sung, hoặc giữa phần tăng lên của thu nhập với phần vốn sản xuất bổ sung.
Ngoài 2 chỉ tiêu trên có sử dụng thêm: giá trị sản phẩm hàng hoá sản xuất ra trên đơn vị diện tích và trên một lao động; năng suất lao động; dung lượng vốn cố định và chi phí vật chất trên 100 đồng giá trị sản xuất.
6. Các ngành và các hình thức công nghiệp chế biến nông sản:
6.1. Các ngành công nghiệp chế biến nông sản:
Ngành công nghiệp thời gian qua tập trung đầu tư phát triển các ngành nghề khai thác nhằm khai thác nguồn nguyên liệu phong phú tại chỗ, tay nghề lao động, thị trường trong và ngoài nước. Cụ thể là:
Ngành Công nghiệp chế biến lương thực- thực phẩm
Ngành Công nghiệp cơ khí chế tạo và sửa chữa
Ngành Công nghiệp khai khoáng và sản xuất vật liệu xây dựng
Ngành Công nghiệp dệt- may- giầy
Ngành Công nghiệp sản xuất và phân phối điện nước
Một số ngành công nghiệp khác
Công nghiệp nông thôn( tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống)
Trong đó công nghiệp chế biến lương thực- thực phẩm được xem là một trong các ngành chủ lực của nước ta hiện nay. Điều đó tạo động lực to lớn thúc đẩy công nghiệp chế biến lương thực- thực phẩm phát triển đồng thời với những chính sách thích hợp thu hút đầu tư nước ngoài cũng như trong nước vào lĩnh vực này.
Với một đất nước có trên 74% dân số sống ở nông thôn và 59% lực lượng lao động làm nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp hiện còn chiếm tỷ trọng cao trong GDP như Việt Nam, thì phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản cần phải được ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn hiện nay. Theo phân loại của Tổng cục Thống kê, ngành công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản được chia thành 4 phân ngành, gồm:
Chế biến lương thực- thực._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0672.doc